



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601435
_TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN_
Câu 1: Mối quan hệ biện chứng giữa VC và ý thức. (tr.69)
Câu 2: Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật (nguyên lý về mối quan hệ biện chứng và
nguyên lý về sự phát triển). (tr.91)
Câu 3: Quy luật lượng chất. (tr.106)
Câu 4: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. (tr.111)
Câu 5: Quy luật phủ định của phủ định. (tr.116)
Câu 6: Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. (tr.149)
Câu 7: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. (tr.181)
Câu 8: Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. (tr.190)
Câu 9: Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình của lịch sử - tự nhiên. (tr.193)
Câu 10: Tính tất yếu, vai trò và nội dung của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay. (tr.203)
Câu 11: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. (tr.233) Câu 12: Quan điểm
của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người và bản chất con người. (tr.241)
-------------------------------------------
Câu 1: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức (Cơ sở lý luận nguyên tắc tính khách
quan/Tại sao có nguyên tắc tính khách quan. Cơ sở lý luận phát huy tính năng động chủ quan.) Lý luận:
*Vật chất (VC): Theo V.I.Lênin: “VC là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
*Ý thức (YT): Là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ não con người,
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
*Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
a. Vai trò quyết định của VC với ý thức:
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, VC có trước YT có sau, VCquyết định YT; còn YT
là sự phản ánh VC vào trong bộ óc con người.
- Biểu hiện mối quan hệ này vào trong đời sống xã hội (XH):
+ Tồn tại XH quyết định ý thức XH, tức là lĩnh vực VC quyết định lĩnh vực tinh thần.
+ Nhân tố VC quyết định nhân tố YT.
- VC quyết định YT thể diện ở những phương diện cơ bản sau:
+ Thứ nhất, VC quyết định nguồn gốc của YT: Không có VC sẽ không có YT. VD: Ông bà ta có câu
“có thực mới vực được đạo”, khi con người ko được ăn no thì sức khỏa và não bộ sẽ khó có thể
hoạt động và đủ tỉnh táo để hoạt động.
+ Thứ hai, VC quyết định nội dung của YT: Nội dung của YT mang tính khách quan, do thế giới
khách quan quy định. Sở dĩ YT có nội dung vì YT phản ánh hiện thực khách quan.
+ Thứ ba, VC quyết định bản chất của YT: Bản chất sáng tạo và bản chất xã hội của YT cũng phải
dựa trên những tiền đề VC nhất định. lOMoAR cPSD| 61601435
Ví dụ: Dựa trên những nguyên liệu có sẵn, con người sáng tạo ra những công cụ lao động để hỗ
trợ trong công việc của mình.
+ Thứ tư, VC quyết định phương thức tồn tại, kết cấu của YT: Tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí
do VC quyết định. YT là sản phẩm tổng hợp của hoạt động phản ánh. Sự vận động, phát triển của
YT gắn liền với sự phát triển của quá trình VC.
b. Sự tác động trở lại của YT với VC:
- YT có sự tác động trở lại VC vì:
+ YT là YT của con người, gắn liền với tính năng động, sáng tạo của nhân tố con người, nhân tố chủ quan.
+ YT là sự phản ánh sáng tạo đối với thế giới.
VD: Cả lớp phải tham gia làm một bài kiểm tra, có bạn sẽ học bài theo hình thức thông thường,
có bạn lại chăm chỉ tìm thêm những bài tập thực hành để củng cố kiến thức nhằm chuẩn bị cho bài kiểm tra ấy.
- Nếu YT phản ánh phù hợp với VC thì nó thúc đẩy các quá trình VC pháttriển. Nếu YT phản ánh
không phù hợp với VC thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các quá trình VC.
VD: Trước tình hình công ty đang gặp khó khăn về nội dung ý tưởng cho phát hành sản phẩm, ban
lãnh đạo có người sẽ xem xét, đánh giá tình hình để tìm ra phương án nhưng cũng có người vì
thấy khó khăn mà đã bỏ cuộc.
- Tự bản thân YT không thể có sức mạnh để tác động vào VC. Muốn có sứcmạnh để tác động vào
VC thì YT phải được thâm nhập vào con người và tổ chức thực hiện trong thực tiễn.
- Chính YT quyết định thành công hay thất bại của con người trong thực tiễn.-> Sự phản ánh năng
động, sáng tạo của YT cũng phải dựa theo những tiền đề VC nhất định, dựa vào điều kiện khách
quan và năng lực thực tiễn của con người.
*Ý nghĩa phương pháp luận:
- Thứ nhất, vì VC quyết định YT nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễnđòi hỏi phải xuất phát
từ thực tế khách quan, tôn trọng nguyên tắc tính khách quan, tôn trọng và hành động theo
các quy luật khách quan. - Thứ hai, vì YT có tác động trở lại đối với VC nên cần phải phát huy
tính năng động chủ quan, nghĩ là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của YT.
- Thứ ba, cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí; cũng như bệnh bảothủ, trì trệ.
- Thứ tư, khi xem xét các hiện tượng xã hội, cần phải tính đến cả điều kiệnVC lẫn nhân tố tinh
thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. Vận dụng:
1. VẬN DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN:
Là một sinh viên năm nhất của Trường Đại học Sư phạm TPHCM, chúng tôi học theo chế độ tín
chỉ, là lớp người có khả năng tiếp thu những cái mới với nhu cầu mở rộng kiến thức, tự tìm hiểu,
tự học và phát triển theo định hướng của bản thân. Điều này được vận dụng trong việc đăng ký
học phần của sinh viên. Người học mong muốn vận dụng tri thức để chọn lọc những thông tin bổ
ích, nắm rõ các phương thức đăng ký học phần cũng như xem xét kỹ lưỡng các môn cần học và lOMoAR cPSD| 61601435
chủ động lên thời gian biểu phù hợp cho bản thân, từ đó đưa ra quyết định đúng đắn về học phần
mình đã chọn. Người học vận dụng tình cảm để bảo đảm rằng những quyết định của bản thân là
sáng suốt, chẳng hạn như người học phải có niềm đam mê, sự hứng thú với những môn học mà
mình đăng ký. Chính niềm đam mê ấy sẽ là chiếc chìa khóa vạn năng mở ra chân trời tri thức trên
hành trình theo đuổi giấc mơ. Sau khi đã xác định rõ ràng những học phần mình chọn, biết được
các tiềm năng cũng như mặt hạn chế của bản thân, người học phải có niềm tin về tính hiệu quả
cho những quyết định của mình. Từ đó, khi vấp phải những khó khăn hay bất cập trong quá trình
học tập, người học phải có ý chí, nghị lực để khắc phục và vượt qua chúng để đạt được mục đích
cuối cùng của bản thân. Nhưng ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất, nên ta phải phát huy
tinh tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức. Cụ thể là em đã vận dụng để đưa ra phương án tốt
nhất trong việc đăng ký học phần đồng thời nâng cao năng suất học tập của bản thân bằng cách
chủ động tìm kiếm kiến thức, tham khảo thêm các cuốn sách chuyên ngành ở kho kiến thức của
thư viện hoặc kho sách của khoa, các tài liệu trên mạng Internet, tìm được hứng thú cũng như
niềm vui qua mỗi môn học, cụ thể hóa bằng những kế hoạch phù hợp với thực tế và tỉnh táo vượt qua những cám dỗ.
Bên cạnh đó, sinh viên cần tự ý thức được mình cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như
bệnh bảo thủ trì trệ. Trong nhịp sống phát triển hiện đại như ngày nay, việc thường xuyên cập
nhật các kiến thức, thông tin mới mẻ là một điều hết sức cần thiết đối với mỗi người chúng ta.
Ngoài ra, việc lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp từ người khác sẽ giúp ta ngày càng phát triển
và hoàn thiện bản thân, không nên xem những ý kiến của mình là luôn đúng mà cần phải lắng
nghe từ người khác. Chẳng hạn như trong việc học tập, chúng ta nên luôn cập nhật những thông
tin, kiến thức mới cùng với phương pháp học hiện đại để việc học trở nên dễ dàng hơn.
Cuối cùng khi giải thích các hiện tượng xã hội cần tính đến các điều kiện vật chất lẫn yếu tố tinh
thần, điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. Hiện nay, sinh viên có xu hướng học vượt nhưng
chưa xem xét kỹ về các nhân tố chủ quan như khả năng, thời gian của bản thân lẫn điều kiện
khách quan như điều kiện tài chính gia đình dẫn đến kết quả học tập chưa như mong đợi. Từ đó
cá nhân nên lượng sức mình và xác định đã học môn nào là chắc môn đó. Nên tính toán sao cho
vừa sức bởi học vượt đòi hỏi ngoài giờ học ở lớp, sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu, đọc thêm
tài liệu thì mới phát huy hiệu quả học tập.
2. VẬN DỤNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
Nhìn chung, giáo dục đại học vẫn tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới; phát triển
chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ và chưa đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
Đại hội XIII của Đảng nhận định: "Nội dung chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy ở
nhiều cơ sở giáo dục đại học còn nặng về lý thuyết, nhẹ thực hành [...] Đào tạo vẫn thiếu gắn kết
với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động."
Việc đổi mới trong giáo dục luôn là điều cấp thiết, đặc biệt là khi hệ thống giáo dục vẫn còn nhiều
lỗ hổng như hiện nay. Nhận thức về được thực trạng này sẽ là nguồn động lực để người học và
các nhà giáo dục có hoạt động thay đổi, để ý thức phát huy tính năng động sáng tạo. Cải thiện lOMoAR cPSD| 61601435
những cách dạy lý thuyết khô khan và tăng cường hoạt động thực tiễn trong giáo dục, vừa tạo sự
hứng thú, vừa có thể áp dụng vào thực tiễn. Điều này tác động đến nhu cầu học tập (người học
mong muốn vận dụng tri thức sẽ tìm tòi phương pháp áp dụng lý thuyết vào thực tiễn), nhu cầu
xã hội (các tổ chức sẽ khuyến khích những cá nhân năng động, sáng tạo qua các cuộc thi), nhu
cầu cải cách giáo dục của nhà nước (thay đổi chương trình học). Sau khi xác định rõ ràng phương
pháp cải cách giáo dục, biết được những tiềm năng cũng như các mặt hạn chế, con người sẽ đạt
được có niềm tin về tính hiệu quả của các phương pháp học tập mang tính thực tiễn cao, những
chính sách đổi mới sẽ nhận được sự ủng hộ từ xã hội. Từ đó, khi vấp phải những sai lầm trong
lúc thực hiện con người sẽ có ý chí quyết tâm khắc phục để đạt được mục đích đã đề ra ban đầu.
Đồng thời, ta cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, bảo thủ trì trệ. Bệnh chủ quan duy ý chí là
căn bệnh có khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, cường điệu tính sáng tạo
của ý thức, của ý chí, xa rời hiện thực. Các nhà giáo dục cần tôn trọng nguyên tắc khách quan.
Nếu không xem xét hiện thực mà chỉ dựa vào ý thức chủ quan thì ngành giáo dục sẽ bị tình trạng
bảo thủ trì trệ, không tiếp thu cái mới, không xét đến những đòi hỏi khách quan của xã hội
Cuối cùng, khi giải thích các hiện tượng xã hội, cần xét các điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh thần,
yếu tố khách quan, chủ quan. Một hiện tượng xã hội tồn tại trong lĩnh vực giáo dục hiện nay là
mức độ chênh lệch về giáo dục giữa học sinh thiểu số và mặt bằng chung cả nước.
Vấn đề về trình độ dân trí của học sinh thiểu số cần được xem xét ở khía cạnh về điều kiện vật
chất và các nhân tố chủ quan.
Xét về điều kiện vật chất, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học vẫn còn nhiều thiếu thốn, chưa đáp ứng
được yêu cầu về chất lượng giáo dục, chính sách đãi ngộ đối với giáo viên, nhân viên, cán bộ quản
lý giáo dục chưa đem lại được những khuyến khích vật chất và tinh thần.
Đồng thời, ta cần xem xét các yếu tố chủ quan trong thực trạng về trình độ giáo dục giữa các học
sinh đồng bào thiểu số. Ở một số địa phương, nhận thức của một bộ phận người dân về việc học
tập của con em còn hạn chế, chưa quan tâm tạo điều kiện để con em đi học dẫn đến tình trạng
bỏ học, thất học của các em học sinh thiểu số. Ngoài ra, nhiều học sinh vì mong muốn chăm lo
cho điều kiện kinh tế khó khăn của gia đình mà không tha thiết chuyện học mà trở thành nguồn
lao động chính trong nhà.
Sau khi xem xét các yếu tố khách quan, chủ quan, những nhân tố vật chất tinh thần của hiện
tượng này, ta nhận thấy ngoài quan tâm việc đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phù hợp với
tình hình thực tế của địa phương thì cần tăng cường công tác nâng cao nhận thức về phát triển
giáo dục đối với các dân tộc thiểu số, các cán bộ quản lý giáo dục địa phương cần can thiệp, giảm
thiểu tác động của các phong tục tập quán lạc hậu như tảo hôn làm ảnh hưởng đến con đường
học tập của các em học sinh dân tộc thiểu số.
3. VẬN DỤNG TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
Nhìn chung, bên cạnh những thành tựu nước ta đã đạt được trong công cuộc đổi mới đất nước:
Duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá, cơ cấu các ngành kinh tế đã có sự dịch chuyển
tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh; lOMoAR cPSD| 61601435
trong quá trình này còn tồn tại nhiều khó khăn như: Kinh tế phát triển chưa bền vững, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu lao động đã “chững lại” trong nhiều năm
nhưng chậm có sự điều chỉnh phù hợp, sức cạnh tranh nền kinh tế còn thấp, năng suất lao động
có khoảng cách lớn so với nhiều nước,... Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Đất nước đang đứng
trước nhiều thời cơ và thách thức đan xen, nhiều vấn đề chiến lược mới đặt ra cần phải giải quyết,
từ tình hình quốc tế, khu vực dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường đến các thách thức
mang tính toàn cầu về biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và cả những thành tựu ngoạn mục
của tiến bộ khoa học công nghệ đang tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống kinh tế - xã hội
của đất nước ta cũng như toàn thế giới.”
Trong quá khứ, những thay đổi của tình hình thế giới, quan hệ với các nước bạn đã tác động đến
công cuộc đổi mới và cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng ở Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa đã đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta tiến hành đổi mới. Nhận thức được sự cần thiết của những
thay đổi này, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chính sách phù hợp cho công cuộc phát triển đất nước.
Đảng ta nhận định rõ bước phát triển mới của toàn cầu hóa trong những năm tới khi cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính toán sách lược, chiến lược trong tiến trình chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế. Ngoài ra, sự phát triển lâu dài của đất nước đòi hỏi không chỉ lãnh
đạo của đất nước, mà các nhà doanh nghiệp cũng phải hết sức nhanh nhạy nắm bắt thông tin,
khơi thông mọi nguồn lực hiện có vào công cuộc đổi mới đất nước. Mục tiêu chính vẫn là tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tiếp tục đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hoà bình, ổn định. Trên hết, mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc
sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân
dân làm đích đến; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì
thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng".
Có như thế mới củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với những chính sách mà Đảng,
Nhà nước đề ra, cùng với đó là các mặt lợi của xã hội chủ nghĩa. Từ đó, những lúc khủng hoảng,
Nhà nước và dân ta lại càng giữ vững ý chí phát triển quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết
liệt, năng động, sáng tạo, tích cực của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí, tức là thổi phồng tính tích cực, sáng tạo
của ý thức; cũng như bệnh bảo thủ trì trệ, nghĩa là đang hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của ý
thức. Trong những năm vừa qua, dù đạt được những thành tựu rất quan trọng, rất đáng tự hào,
nhưng đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế. Đảng và Nhà nước
cũng đã xem xét những vấn đề này, từ đó đề ra các chính sách phù hợp, đều có mang tính sáng
tạo và tích cực, trong khi vẫn bám sát vào thực tế khách quan và thực trạng nhà nước lúc bấy giờ.
Muốn như thế thì từ khâu đầu tiên phải nghiêm khắc chỉ ra nguyên nhân chủ quan của tình hình lOMoAR cPSD| 61601435
khó khăn là do những sai lầm khuyết điểm; tự nhận ra khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình
cụ thể của đất nước, trong việc xác định mục tiêu của đất nước.
Trong khi xem xét các điều kiện xã hội còn cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh
thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19
tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng
vượt bậc, đất nước đã đạt được những kết quả, thành tích đặc biệt hơn so với các năm trước.
Kinh tế nước ta đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng
cao nhất thế giới trong thời kì này. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tính ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa; sự lãnh đạo nhạy bén, đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo, điều hành quyết
liệt, kịp thời của Chính phủ; sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị; sự đồng tình,
hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, chúng ta đã
kịp thời khống chế, cơ bản kiểm soát, ngăn chặn được sự lây lan của đại dịch Covid-19 trong cộng
đồng; hạn chế tối đa những thiệt hại, tổn thất do dịch bệnh gây ra, bảo đảm an sinh và phúc lợi
xã hội cho nhân dân; từng bước khôi phục sản xuất kinh doanh, nỗ lực hoàn thành ở mức cao
nhất các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.
→ Tất cả những nỗ lực này của Đảng, Nhà nước và toàn dân đã dẫn đến sự thay đổi tích cực của
vật chất: Năm 2020, với gần 100 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD. Đời
sống nhân dân được nâng cao rõ rệt về vật chất, văn hóa, tinh thần, về mức sống và chất lượng
cuộc sống; nhất là về ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, dịch vụ cuộc sống. Hệ thống chính trị
được xây dựng, củng cố vững mạnh, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước. Quốc phòng, an
ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển,
đảo của Tổ quốc. Đối ngoại, hội nhập quốc tế không ngừng mở rộng, kết hợp nội lực với ngoại
lực, nâng cao vị thế của Việt Nam, tạo môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển.
Câu 2: Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật. (tr.91) Lý luận:
a. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: *Quan điểm siêu hình về mối liên hệ (MLH).
- Xem xét các sự vật (SV), hiện tượng (HT) trong trạng thái tách rời nhau, côlập nhau, giữa chúng
không có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Nếu có thì chỉ là mối liên hệ giản đơn hời hợt
ở bên ngoài. Quan điểm siêu hình chỉ thấy bộ phận mà không thấy toàn thể, “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”.
*Quan điểm duy vật biện chứng về MLH. - Khái niệm MLH:
+ Khái niệm “mối liên hệ” bao gồm 2 phương diện:
• Thứ nhất, MLH là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau. Điều này quyết định
sự tồn tại của sự vật, hiện tượng.
• Thứ hai, MLH là sự tác động qua lại lẫn nhau. Điều này quyết định sự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng. lOMoAR cPSD| 61601435
+ Mối liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau,
sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố cấu thành nên SV, HT, giữa các SV, HT với
nhau, giữa SV, HT với môi trường, mà trong đó sự biến đổi của SV, HT này sẽ kéo theo sự biến đối của SV, HT khác. - Tính chất của MLH: + Tính khách quan:
• Xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới.
• MLH là cái vốn có của bản thân các sv, ht chứ ko phải do sự áp đặt từ bên ngoài,
dù muốn hay ko muốn thì bản thân các SV, HT luôn luôn chứa đựng các MLH. + Tính phổ biến:
• MLH có ở trong mọi SV, HT; mọi giai đoạn, mọi quá trình, có cả trong tự nhiên, xã
hội và tư duy con người.
VD: Con người từ khi sinh ra đã chứa đựng mối liên hệ giữa tiêu hóa và bài tiết, chính chúng ta
cũng không thể thay đổi được điều này.
+ Tính đa dạng, phong phú:
• Xuất phát từ tính đa dạng muôn hình, muôn vẻ của thế giới vật chất.
• Trong thế giới có rất nhiều kiểu mối liên hệ, mỗi kiểu mối liên hệ có một đặc điểm
riêng, vị trí, vai trò riêng đối với sự vận động, phát triển.
MLH bên trong – mlh bên ngoài
MLH cơ bản – Mlh ko cơ bản
MLH chủ yếu – mlh thứ yếu
MLH tất nhiên – MLH ngẫu nhiên
MLH bản chất – mlh hiện tượng
Mlh trực tiếp – mlh gián tiếp
Mlh diễn ra rất phức tạp trong đời sống xã hội, vì ở đó sự tham gia của con người có YT.
Hiện nay, khoa học hiện đại đã chứng minh rằng:
- Phương thức tồn tại của SV, HT do cách thức liên hệ giữa các yếu tố cấuthành quyết định.
+ Cùng từ các nguyên tử C, nhưng theo những cách thức liên hệ khác nhau sẽ tạo thành than hoặc kim cương.
+ Cùng từ công thức phân tử C2H6O, nhưng cách thức liên hệ khác nhau sẽ tạo ra rượu
(CH3 – CH2 – OH) hoặc ete (CH3 – O – CH3).
+ Mối liên hệ giữa các axit nucleic (A – T, G – X) mà bị đảo lộn sẽ gây ra hiện tượng đột biến gen.
- Sự vận động, phát triển của các SV, HT do sự tác động qua lại giữa các yếutối cấu thành quyết
định, mà trước hết là do sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
VD: Sự tác động qua lại giữa quá trình đồng hóa và dị hóa là động lực cho sự phát triển của cơ thể sinh vật.
*Ý nghĩa phương pháp luận: lOMoAR cPSD| 61601435
Trong nhận thức và thực tiễn cần quán triệt quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể.
- Quan điểm toàn diện yêu cầu:
+ Thứ nhất, cần phải tính đến tất cả các mặt, các MLH, kể cả các mắt khâu trung gian trong
những điều kiện không gian, thời gian nhất định. + Thứ hai, trong vô vàn các MLH ấy, trước
hết phải rút ra được đâu là MLH cơ bản, chủ yếu.
+ Thứ ba, chống lại cách xem xét cao bằng, dài trải, chống lại chủ nghĩa chiết trung về MLH.
+ Thứ tư, chống lại cách xem xét siêu hình, phiến diện, một chiều, chống lại thuật ngụy biện.
- Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu:
+ Khi xem xét các sv, ht cần phải đặt nó:
• Thứ nhất, trong từng điều kiện lịch sử - cụ thể.
• Thứ hai, trong từng điều kiện không gian, thời gian nhất định. Thứ ba, trong từng
mối quan hệ nhất định.
V.I.Lênin: “Xem xét cụ thể mỗi tình hình cụ thể, đó là bản chất, là linh hồn của chủ nghĩa Mác”. Vận dụng:
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY:
Nước ta đã độc lập, thống nhất kể từ năm 1975 nhưng đến năm 1986 thì mới bắt đầu xây dựng
cơ đồ của đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đúng nghĩa; đó là sau Đại hội lần thứ VI tháng
12/1986. Nhìn lại 35 năm đổi mới, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (1/2021),
Đảng nhận định rằng. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế
như ngày nay” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII)
Trong 35 năm ấy, Đảng và Nhà nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và đáng tự hào trên
nhiều lĩnh vực: Chính trị, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Các lĩnh vực
an sinh xã hội, y tế, giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển văn
hoá, xây dựng con người Việt Nam, v.v... có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật.
Công cuộc đổi mới đất nước phải diễn ra một cách toàn diện, trên mọi lĩnh vực, khía cạnh khác
nhau của đời sống, “đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực
hiện thật tốt, có hiệu quả” [1,]. Song, Văn kiện Đại hội XIII cũng đã xác định nhiệm vụ chủ yếu của
công cuộc đổi mới hiện nay là “Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then
chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.” [1,].
Xét về khía cạnh kinh tế, nước ta có nhiều sự chuyển đổi khá toàn diện và tích cực: “nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn,
các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao;
quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện.” [2,]
Giáo dục và đào tạo có sự vận dụng sáng tạo khoa học, công nghệ và có nhiều sự đổi mới, phát
triển. Nhưng, “đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động
lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội” [2,]. Vấn đề chung ở đây là công tác giáo dục
vẫn còn thiếu hiệu quả, chưa chú trọng vào phát triển năng lực, phẩm chất của người học. Khoa lOMoAR cPSD| 61601435
học – công nghệ có nhiều tiến bộ vượt bậc và là động lực lớn của quá trình phát triển kinh tế - xã
hội và nhiều lĩnh vực khác nhau trong đất nước như nông công nghiệp, văn hóa, chính trị, y tế,
quốc phòng, giáo dục,... Nhà nước có nhiều chính sách để quản lý, đầu tư và phát triển tiềm lực của lĩnh vực này.
Về văn hóa – xã hội, có sự chú trọng và nhận thức, tiếp thu, phát triển, kế thừa và gìn giữ những
giá trị truyền thống một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn nhằm đáp ứng được nhu cầu văn hóa
ngày càng đa dạng của đất nước. Có nhiều chính sách hỗ trợ, phúc lợi và an sinh xã hội cho người
dân. “Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm còn dưới 3%”. [1,].
Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn có sự chú tâm đến những lĩnh vực khác: - Quản lý tài nguyên,
bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu được chú trọng, bước đầu đạt kết quả tích cực.
- Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăngcường; quan hệ đối ngoại,
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chứcbộ máy nhà nước
tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính
trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt.
Tóm lại, nhờ vận dụng triệt để quan điểm toàn diện vào quá trình đổi mới đẩt nước, Đảng và Nhà
nước đã có những động thái đúng đắn và phù hợp, không chỉ tập trung xây dựng bộ máy chính
trị mà còn xây dựng, có nhiều bước hoàn thiện, cải tiến cho nhiều lĩnh vực khác trong xã hội. Đó
là sự nỗ lực, cố gắng và vận dụng, kế thừa, phát huy sáng tạo, hiệu quả những bài học mà triết
học Mác – Lênin đã để lại qua một quá trình đấu tranh lâu dài, như trong văn kiện đã nhận định
rằng “Đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta qua nhiều nhiệm kỳ đại hội, góp phần tạo nên những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của nước ta qua 35 năm đổi mới”. b. Nguyên lý về sự phát triển: Lý luận
*Quan điểm siêu hình về sự phát triển (PT). - Phủ nhận sự PT.
- Nếu có PT thì đó chỉ là sự thay đổi về lượng chứ không có sự thay đổi vềchất.
- Sự PT diễn ra theo đường thẳng hoặc theo đường tròn khép kín.
- Sự PT chẳng qua chỉ là sự vận động đi tới “cõi chết” mà thôi.
*Quan điểm duy vật biện chứng về sự PT:
- Khái niệm PT: Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vậnđộng theo khuynh
hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn. - Tính chất của sự PT: + Tính khách quan
• PT là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng chứ không phải do sự áp đặt từ lOMoAR cPSD| 61601435
bên ngoài, dù muốn hay không muốn thì sự vật, hiện tượng luôn nằm trong quá trình phát triển. + Tính phổ biến
• Sự PT có cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người. + Tính đa dạng, phong phú.
• Sự PT biểu hiện khác nhau ở các lĩnh vực khác nhau:
Trong giới tự nhiên, sự PT thể hiện ở: Mức độ hoàn thiện của tổ chức vật chất;
khả năng thích nghi của cơ thể sống với môi trường; sự xuất hiện của những giống loài mới ngày càng phức tạp hơn…
Trong xã hội, sự PT thể hiện ở: Trình độ của nền sản xuất xã hội; khả năng
chinh phục giới tự nhiên của con người; quá trình nhân đạo hóa đời sống xã hội loài người và
hoàn thiện bản chất con người…
Trong tư duy, sự PT thể hiện ở: Trình độ nhận thức của con người; trình độ tư
duy logic; khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa, hệ thống hóa…
• Quan điểm biện chứng về sự PT chỉ ra:
Cách thức của sự PT là những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại.
Nguồn gốc, động lực của sự PT là mâu thuẫn nội tại của bản thân các sự vật,
hiện tượng, là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Khuynh hướng của sự PT triển là phủ định của phủ định, sau mỗi chu kỳ
phủ định của phủ định, cái mới được ra đời dường như lặp lại cái củ nhưng trên cơ sở cao hơn.
*Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần quán triệt quan điểm PT và quan điểm lịch sử - cụ thể. - Quan điểm PT yêu cầu:
+ Thứ nhất, khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần phải đặt chúng trong trạng thái vận động,
biến đổi không ngừng, cần vạch ra tương lai trong cái hiện tại, phát triển những nhân tố mới, tiến
bộ đang tiềm ẩn trong cái cũ. + Thứ hai, chống lại bệnh tả khuynh, chủ quan, nóng vội, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn.
+ Thứ ba, chống lại bệnh hữu khuynh, bảo thủ, trì trệ.
+ Thứ tư, cần phân chia quá trình PT thành các giai đoạn, từ đó có những biện pháp, giải pháp phù hợp.
- Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu:
+ Thứ nhất, trong từng điều kiện lịch sử - cụ thể.
+ Thứ hai, trong từng điều kiện không gian, thời gian nhất định.
+ Thứ ba, trong từng mối quan hệ nhất định.
V.I.Lênin: “Xem xét cụ thể mỗi tình hình cụ thể, đó là bản chất, là linh hồn của chủ nghĩa Mác”. Vận dụng:
Đặt mục tiêu tương lai ở hiện tại, xác định mục tiêu tương lai, chia thành nhiều giai đoạn để có
thể thực hiện mục tiêu đó. Biện pháp thực hiện trong từng giai đoạn. lOMoAR cPSD| 61601435
Đối với học sinh, sinh viên:
Trong giai đoạn cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hay thế kỉ XXI, học là việc vô cùng quan trọng
đối với học sinh, sinh viên để phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Với sự vận động đi lên của
toàn xã hội thì sinh viên cần phải biết nắm chắc cơ sở lý luận của quan điểm phát triển, để từ đó
có thể vận dụng một cách tối ưu, sáng tạo và hợp lý.
Sinh viên phải nhìn tương lai như một chuỗi các gián đoạn phải biết phân chia quá trình phát
triển của sự vật thành từng giai đoạn, từ đó phải học cách vượt qua các gián đoạn và có cách tác
động phù hợp thúc đẩy sự vật phát triển đó trong hiện tại và tương lai. Khuynh hướng chung là
phát triển đi lên, tức phải thấy được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá
trình phát triển của nó. Có lúc sinh viên sẽ cảm thấy quá trình học tập không có chút tiến triển,
dậm chân tại chỗ thì chúng ta tránh bi quan, tránh những suy nghĩ tiêu cực. Mỗi sinh viên có sự
phát triển về trí tuệ và thể chất khác nhau, sẽ có các phương pháp học tập rèn luyện khác nhau
để nâng cao trí tuệ, cảm xúc. Mỗi người có một thước đo cuộc sống khác nhau không thể từ đó
mà áp vào bản thân mình rồi cảm thấy tự ti, áp lực cùng trang lứa. Quá trình rèn luyện và học tập
là quá trình tích lũy kiến thức lâu dài. Sinh viên không nên chỉ dựa vào điểm số tức thời mà đưa
ra kết luận quy chụp, cần xem xét cả quá trình phấn đấu, nỗ lực. Chẳng hạn, sinh viên có thành
tích không tốt trong một bài kiểm tra đánh giá, nhưng trong quá trình học tập rèn luyện đã nỗ lực hết mình.
Câu 3: Quy luật lượng chất (tr.106) Lý luận:
*Vị trí, vai trò của quy luật:
- Quy luật lượng – chất là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứngduy vật (BCDV).
- Quy luật lượng – chất vạch ra cách thức của sự phát triển.
*Khái niệm chất, lượng:
- Chất là một phạm trù dùng để chỉ tính quy định khách quan, vốn có của sựvật (SV), là sự thống
nhất hữu cơ các thuộc tính (TT) cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác. Vì vậy, để xác định chất
của SV thì cần phải xác định các thuộc tính của nó. Muốn xác định các TT của SV thì cần phải đặt
SV ấy trong mối liên hệ với các SV khác.
Ví dụ: Chất của nhôm là có ánh kim, dễ dát mỏng…
- Mỗi SV đều có những TT cơ bản và những TT không cơ bản.
+ TT cơ bản là những TT quyết định chất của SV; nghĩa là khi TT cơ bản thay đổi thì chất của SV cũng sẽ thay đổi.
+ TT không cơ bản là những TT không quyết định chất của SV, nghĩa là khi TT không cơ bản
thay đổi thì chất của SV cũng chưa thay đổi.
- Nhưng sự phân biệt giữa tính cơ bản và không cơ bản cũng chỉ mang tínhtương đối.
- Mặc khác, mỗi TT lại được hình thành từ các đặc trưng về chất của nó. Vìvậy, mỗi TT lại đóng
vai trò là một chất của SV. Rút cuộc, sự phân biệt giữa chất và TT cũng chỉ mang tính tương đối.
Nhưng vì sự vật có vô vàn TT, nên SV không chỉ có một chất mà còn có vô vàng chất.
- Đặc điểm của chất: lOMoAR cPSD| 61601435
+ Chất mang tính khách quan.
+ Chất gắn liền với SV, chất là chất của SV.
+ Mỗi SV không chỉ có một chất, mà còn có vô vàn chất.
+ Chất biểu hiện tính toàn vẹn, chỉnh thể thống của SV.
+ Dùng chất để phân biệt các SV với nhau. *Khái niệm lượng:
- Lượng là một phạm trù dùng để chỉ tính quy định khách quan, vốn có củaSV về các phương diện
số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu, vận động, phát triển của SV.
Ví dụ: Có những lượng ta có thể đo được chính xác như trọng lượng cơ thể hay chiều cao một
người… - Đặc điểm của lượng:
+ Lượng cũng như chất mang tính khách quan.
+ SV không chỉ có một lượng mà còn vô vàn lượng.
+ Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng chỉ mang tính tương đối.
*Mối quan hiện giữa lượng và chất.
- Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
+ Khái niệm độ, điểm nút, bước nhảy:
• Độ là một phạm trù dùng để chỉ khoảng giới hạn mà trong đó lượng và chất thống
nhất với nhau, lượng đổi nhưng chất vẫn chưa đổi, SV vẫn đang còn là nó chưa trở thành cái khác.
• Khi lượng biến đổi đến một điểm giới hạn vượt quá độ sẽ dẫn đến sự thay đổi căn
bản về chất của SV. Điểm giới hạn ấy gọi là điểm nút.
Ví dụ: 0 độ C và 100 độ C là điểm nút để nước chuyển sang trạng thái rắn hoặc trạng thái khí.
• Sự thay đổi căn bản về chất gọi là bước nhảy.
• Bước nhảy là một phạm trù dùng để chỉ sự thay đổi căn bản về chất của SV do sự
thay đổi dần dần về lượng trước đó gây nên.
• Bước nhảy đánh dấu sự kết thúc một chu kỳ vận động, phát triển của SV, nhưng
đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu lỳ vận động, phát triển mới tiếp theo.
• Có nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, như bước nhảy nhanh và chậm, cục bộ và toàn bộ,…
- Sự tác động trở lại của chất đối với lượng:
+ Chất mới tác động tới lượng của SV trên nhiều phương diện như: kết cấu, quy mô, nhịp
điệu vận động, phát triển của SV, hiện tượng. Tóm lại:
- Bất kỳ SV nào cũng đều bao gồm hai mặt lượng và chất.
- Lượng biến đổi đến một giới hạn vượt quá độ (đến điểm nút) sẽ thực hiệnbước nhảy, chất mới
ra đời thay thế chất cũ, SV mới ra đời thay thế SV cũ. - Ở SV mới này, lượng lại tiếp tục biến đổi
đến một giới hạn mới sẽ xảy ra bước nhảy mới. lOMoAR cPSD| 61601435
- Cứ như vậy, sự phát triển diễn ra theo cách thức lúc thì thay đổi về lượng,lúc thì nhảy vọt về chất một cách vô tận.
Sự thống nhất giữa tính liên tục và gián đoạn của sự phát triển. *Ý nghĩa phương pháp luận:
- Thứ nhất, cần coi trọng cả hai mặt lượng và chất.
- Thứ hai, cần chú ý khâu tích lũy về lượng để đến khi có đầy đủ điều kiệnchín muồi sẽ thay đổi chất.
- Thứ ba, cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, cũng như bệnh bảo thr trìtrệ.
- Thứ tư, cần phải xác định được bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy vàtạo mọi điều kiện
cho bước nhảy được thực hiện.
- Thứ năm, trong đời sống xã hội, cần nhận thức đúng và vận dụng một cáchphù hợp khi giải
quyết mối quan hệ giữa chất tự nhiên và chất xã hội của SV, hiện tượng.
- Thứ sáu, cần có những biện pháp cụ thể để thay đổi chất của SV, hiệntượng. Vận dụng: [TUI TRÌNH BÀY]
Vấn đề về xác định phương pháp học tập mới, khoa học (tích lũy về lượng) • Trong quá trình rèn
luyện ở trường học, tích luỹ kiến thức là dạng tích lũy về lượng, khi đạt đến một lượng kiến thức
nhất định, học sinh sẽ chuyển sang mức độ mới cao hơn. Như vậy, thời gian giữa các mức độ học
tập gọi là độ; bài kiểm tra, bài thi là điểm nút; và sự chuyển từ cấp độ cũ sang cấp độ mới là bước nhảy. •
Bước nhảy đánh dấu sự ra đời của chất mới: Đầu tiên là sự thay đổi từ họcsinh (chất cũ)
thành sinh viên (chất mới), chất mới tác động trở lại lượng. Chất mới có sự khác nhau với chất
cũ ở chỗ quá trình tích lũy kiến thức thông qua quá trình tự học, tìm tòi nghiên cứu, tự định
hướng ở bậc Đại học thay vì là được thầy cô cung cấp như bậc Trung học. Giờ đây, lượng là sự
tích luỹ kiến thức mới lẫn kỹ năng mềm, bên cạnh đó cũng là sự phát triển về suy nghĩ, nhận thức, hành động, cách tư duy. •
Đồng nghĩa với việc sinh viên phải ý thức được sự thay đổi đó, để có thểchủ động xác định
được thái độ và phương pháp học tập, phương pháp tư duy phù hợp, tiến bộ hơn thời THPT.
Trong đó, quan trọng là cố gắng tham gia đầy đủ các tiết học; tránh bệnh chủ quan, lười biếng khi
không còn thầy cô, phụ huynh giám sát chặt chẽ như hồi các cấp học thấp hơn; tìm tòi thêm nhiều
nguồn tài liệu học tập; tham gia các hoạt động ngoại khóa;... •
Tránh trường hợp không tập trung học, bị xao nhãng bởi những chuyệnngoài lề, làm ảnh
hưởng đến tốc độ học. Tránh để xảy ra tình trạng khi đến gần giai đoạn thi mới bắt đầu học lại từ đầu,…. •
Cùng một chương trình học, cùng một khối lượng kiến thức và kỹ năng cầnthu nạp và rèn
luyện, một sinh viên có tinh thần say mê học tập và có đầu óc biết lên kế hoạch rõ ràng, khoa học
và một sinh viên lười biếng, chủ quan, giữ nguyên cách tiếp cận bài học, cách tương tác với thầy
cô như thời THPT chắc chắn sẽ cho ra hai kết quả cực kì khác biệt. lOMoAR cPSD| 61601435
Vấn đề về việc tham gia các kỳ thi (ủng hộ bước nhảy; thực hiện bước nhảy) • Lượng ở Đại học
khác ở THPT và nó lại tác động trở lại chất. Đòi hỏi sinh viên cần trau dồi bản thân để còn tạo ra
sự khác biệt về chất (một sinh viên ưu tú hơn, nổi bật hơn bạn bè đồng trang lứa chẳng hạn). •
Cụ thể là sau khi chủ động, tích cực tích lũy kiến thức; rèn luyện thêm cáckỹ năng; học hỏi
tư duy học tập tiến bộ mà thầy cô định hướng hay bạn bè gợi ý;...bản thân lúc này đã được tôi
luyện và tiến bộ hơn rất nhiều so với trước kia. Vì vậy cần phải tự tin tham gia các kỳ thi như
Nghiên cứu khoa học, Pháp luật, Chứng chỉ ngoại ngữ, Chứng chỉ tin học,....(thực hiện bước nhảy)
để đánh dấu sự thay đổi mới, xây dựng được thương hiệu bản thân (chất mới ra đời). Chí ít cũng
phải ý thức được việc cần cố gắng hết mình trong việc xung phong trả lời, giải các câu hỏi, bài tập
trên lớp; tích cực, tự tin khi thực hiện các bài thi giữa kỳ, kết thúc học phần,.... •
Bên cạnh đó, nếu cảm thấy bạn bè xung quanh mình rơi vào trường hợpmặc dù kiến thức,
kỹ năng đã chín muồi mà còn e dè, tự ti chưa dám bung xõa, đăng ký tham gia các kỳ thi thì chính
chúng ta cũng nên có thái độ ủng hộ bạn, động viên bạn, đề nghị hỗ trợ bạn trong khả năng để
tạo điều kiện cho bạn; từ đó bạn có thể đạt được một danh hiệu, một sự công nhận cao hơn (chất mới). •
Tóm lại, trau dồi bản thân là một chuyện, còn xây dựng tâm thế tự tin, chủđộng tham gia
các hoạt động thể hiện mình, khẳng định mình là một chuyện khác và đòi hỏi sinh viên cần có
thái độ tích cực, tự tạo cơ hội cho chính mình và cho người khác nếu có thể. Cuộc sống luôn vận
động và phát triển không ngừng theo thời gian, cùng với đó, con người cũng phải vận động chạy
theo nó để không bị bỏ lại phía sau. Là một sinh viên thời đại mới phát triển và tiên tiến hơn rất
nhiều, chúng ta không thể không ngừng phấn đấu trau dồi bản thân mình và giúp đỡ người khác.
Vấn đề về nóng vội đốt cháy giai đoạn •
Trong quá trình học tập và rèn luyện, sinh viên cần tranh tư tưởng nhảycấp. Sau khi học
những kiến thức cơ bản, tức là khi có sự biến đổi về chất thì sinh viên mới có thể tiếp tục nghiên
cứu những kiến thức khó hơn. •
Ngoài ra, có nhiều sinh viên có sức học trung bình nhưng lại muốn đăng kínhiều môn học
trong cùng một năm hay một học kỳ để được ra trường sớm hơn những người khác, dẫn đến
không có môn học nào được hoàn thiện, mất thêm thời gian và tiền bạc để học lại, thi lại. Tóm
lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến thức và có kết quả cao trong các kì thi, sinh viên phải học dần
mỗi ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự biến đổi về lượng sẽ dẫn đến sự biến đổi
về chất theo hướng tích cực.
[ANH CHỊ TUI TRÌNH BÀY]
VẬN DỤNG TRONG CUỘC SỐNG, HỌC TẬP SINH VIÊN.
Sau khi tích lũy đủ lượng kthuc (lượng thay đổi), một học sinh THPT thành công thay đổi thành
chất sinh viên. Trong đó, độ HS THPT là từ lớp 10 đến lớp 12; độ của SV là từ năm thứ nhất ĐH
đến năm thứ tư; điểm nút là thi tốt nghiệp THPT đỗ, đủ điểm đỗ vào ĐH; bước nhảy là kết thúc
giai đoạn HS THPT (sau tốt nghiệp), khởi đầu SV ĐH năm nhất. lOMoAR cPSD| 61601435
Hiểu rằng trong nhận thức thực tiễn, SV cần phải xem xét toàn diện về sự vật, hiện tượng; không
nên phiến diện chỉ coi trọng lượng, không thực hiện bước nhảy hay chỉ coi trọng chất. Đặt trong
mối QH với nhà trường và thầy cô, thì chất của SV phải là chất SV. Khi đã là “chất SV” thì đòi hỏi
lượng kiến thức SV tiếp thu mỗi tiết học sẽ nhiều hơn, môn học sẽ nhiều hơn…Do đó SV phải
nhanh chóng có kế hoạch cụ thể để học tập.
Chất chỉ thay đổi khi tích lũy đủ về lượng. Hằng kỳ, hằng năm, số lượng tín chỉ tích lũy của SV sẽ
ngày càng nhiều hơn, lượng kiến thức, kỹ năng nhiều hơn…
Tuy nhiên, chất SV vẫn chưa biến đổi vì lượng chưa đạt đến điểm nút. SV nhận thức rằng, chỉ khi
lượng (tín chỉ, kỹ năng, kiến thức, thái độ, tinh thần trách nhiệm,…) đạt tới điểm nút (ví dụ như
đạt đủ 135 tín chỉ đối với SV khoa Anh) thì chất CV mới biến đổi thành chất cử nhân. Trong qtrinh
tích lũy về lượng, cần nhận thức tránh khuynh hướng tả khuynh, nóng vội, duy ý chí, chủ quan;
tránh hiện tượng nôn nóng tốt nghiệp mà đăng kí quá nhiều học phần, quá sức học tập của bản
thân, dẫn đến sự quá tải, kết quả không như mong đợi. Do đó, cần phải đăng ký số lượng tín chỉ
(lượng) phù hợp với năng lực của bản thân.
Ngược lại, cần chống bệnh bảo thủ hữu khuynh, trì trệ, không nên thụ động trông chờ vào gia
đình mà phải tự nỗ lực để tích lũy về lượng: ra trường sớm hơn hoặc đúng thời hạn. Từ đó tận
dụng những cơ hội phát triển tốt nhất cho bản thân.
VẬN DỤNG VÀO ĐỔI MỚI NHÀ NƯỚC:
Ở nước ta, lịch sử đặt ra vấn đề lựa chọn con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
từ những năm 20 của thế kỷ XX, hòa nhập vào xu hướng tiến hóa chung của nhân loại quá độ lên
Chủ nghĩa Xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để có một bước nhảy cách mạng đó là đưa nước
Việt Nam sang một chế độ khác, “chất” khác là đất nước xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh đầu tiên
năm 1930 của Đảng đã khẳng định sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nước
ta sẽ tiến lên CNXH. Đó là lựa lựa chọn đúng đắn của Đảng.
Cả một quá trình tích lũy về đủ lượng để có một sự biến đổi về chất, chất mới được tạo nên
nhưng đồng thời nó cũng tạo nên lượng mới. Chúng ta cần một thời kỳ quá độ lên XHCN; trong
thời kì chúng ta sẽ có những thay đổi phát triển về mọi mặt kinh tế, xh, vh, gd. Nhận thức được
điều đó, Đảng ta đã có chủ trương xd xhcn bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tạo ra sự biến đổi về
chất của xh cho tất cả lĩnh vực.
Giữa thập niên 70 với nền kt phổ biến là sx nhỏ tại vị trí chiến tranh kéo dài, tàn phá nặng nề;
bằng việc cải tạo xhcn tổ chức lại sx và mở rộng quy mô hợp tác xã với hi vọng nhanh chóng có
nhiều CNXH hơn, Đảng đã đã bộc lộ tư tưởng chủ quan, nóng vội duy ý chí dẫn đến những mục
tiêu của đại hội IV của Đảng đề ra đều không đạt.
Trước hoàn cảnh đó, nhà nước thấy không thể duy trì những chính sách cơ chế cũ. Thực hiện
bước nhảy kịp thời: tạo ra sự sáng tạo nhận thức đúng đắn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
thực hiện công cuộc đổi mới việc đó được nêu rõ trong đại hội thứ VI năm 1986 đó là chuyển đổi
nền ktx của nước ta từ mô hình hóa tập trung quan lieu bao cấp dựa trên chế độ công hữu về tư
liễu sang nền kt thị trưởng có sự quản lí của NN theo định hướng XHCN Chính vì thế, công cuộc lOMoAR cPSD| 61601435
đổi mới đất nước đã đạt nhiều thành tựu: Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy
mô và tiềm lực được nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng
trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lí, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm trước,
…Giáo dục và đào tạo, KH và CN, VH, XH, Y tế có bước phát triển. An sinh xã hội được quan tâm
nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện.
Câu 4: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (tr.111) Lý luận:
*Vị trí, vai trò của quy luật mâu thuẫn (QLMT):
- QLMT là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
- Theo Lênin: QLMT là “hạt nhân” của phép biện chứng.
- QLMT vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển. *Khái niệm mâu thuẫn, mặt đối lập (MĐL).
- Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các MĐL,
trong cùng một sự vật (SV), hiện tượng (HT).
Như vậy, mâu thuẫn cũng là mối liên hệ (MLH) (nhưng không phải bất kỳ
MLH nào mà chỉ là MLH giữa các MDL)
- Khái niệm MDL dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng trái
ngược nhau và làm nên chỉnh thể của SV, HT.
Như vậy, hai MDL phải thỏa mãn đầy đủ hai điều kiện sau mới tạo thành mâu thuẫn:
- Thứ nhất, có xu hướng vận động trái ngược nhau.
- Thứ hai, làm nên chỉnh thể một SV, HT.
Hai MDL như vậy gọi là hai MDL biện chứng, chúng liên hệ với nhau hình thành nên mâu thuẫn biện chứng.
Phân biệt mâu thuẫn biện chứng với mâu thuẫn logic hình thức (MT LGHT):
- MT LGHT là mâu thuẫn do tư duy mức sai lầm. Vì vậy, khắc phục MT LGHT là phương
tiện để đạt đến chân lý.
- Mâu thuẫn biện chứng tồn tại phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy, mâuthuẫn biện
chứng trong tư duy là động lực phát triển của nhận thức.
*Tính chất chung của mâu thuẫn (MT): - Tính khách quan:
+ MT là cái vốn có của bản thân SV, HT chứ không phải do sự áp đặt từ bên ngoài.
+ Bất kỳ SV, HT nào cũng đều có chứng đựng MT bên trong, MT này mất đi thì MT khác
được hình thành, SV, HT vừa là nó vừa là cái khác.
Ví dụ: Trong con người bất kỳ đều chứa đựng những yếu tố của các mặt đối lập giữa lương thiện
và độc ác, dũng cảm và hèn nhát, trung thực và giả dối, … - Tính phổ biển:
+ MT có trong mọi SV, HT, mọi giai đoạn, mọi quá trình, có cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người. lOMoAR cPSD| 61601435
Ví dụ. Mâu thuẫn giữa lực và phản lực trong sự tương tác giữa các vật thể, mâu thuẫn giữa lực
đẩy và lực hút giữa các hạt, phân tử, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản trong xã hội tư bản,
mâu thuẫn giữa tầng lớp thống trị và tầng lớp bị trị trong xã hội thời phong kiến,… - Tính đa dạng, phong phú:
+ MT bên trong – MT bên ngoài.
+ MT cơ bản – MT không cơ bản.
+ MT chủ yếu – MT thứ yếu.
+ MT đối kháng – MT không đối kháng.
*Sự thống nhất của các MDL.
- Sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, đòi hỏi có nhau, nương tựa vàonhau giữa các MDL,
nếu không có MDL này sẽ không có MDL kia và ngược lại. - Sự đồng nhất của các MDL: Các MDL
cho dù có khác nhau nhưng bao giờ cũng có yếu tố giống nhau, tương tự nhau.
- Sự tác động ngang nhau giữa các MDl khi các MDL có lực lượng ngang bằngnhau.
*Sự đấu tranh của các MDL.
- Là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
- Là quá trình hình thành, phát triển, giải quyết MT.
+ Giai đoạn hình thành MT:
• Đồng nhất, đồng thời bao hàm sự phát triển. • Khác nhau bề ngoài. • Khác nhau bản chất. MT hình thành.
+ Giai đoạn phát triển của mâu thuẫn:
• Đối lập, xung đột.
• Đối lập xung đột gay gắt.
MT đã phát triển đến đỉnh điểm. + Giai
đoạn giải quyết mâu thuẫn:
• Sự chuyển hóa của các MDL, MT được giải quyết, SV mới ra đời thay thế SV cũ. Ở SV
mới ra đời lại chứa đựng mâu thuẫn mới, rồi MT lại tiếp tục được triển khai, rồi lại được giải
quyết. Cứ như vậy, SV không tồn tại vĩnh viễn và quá trình vận động, phát triển của thế giới là vô tận.
• Sự chuyển hóa của các MDL diễn ra theo hai cách: Các MDL chuyển hóa cho nhau và cả
hai đều trở thành chất mới. Ví dụ:
Trong kháng chiến chống Pháp, mâu thuẫn giữa nhân dân và thực dân Pháp được đẩy lên đến
đỉnh điểm, tạo động lực cho dân ta đấu tranh và kết quả là khai sinh ra nhà nước Việt Nam dân chủ
Sự đấu tranh giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị đã tạo nên hình thái xã hội mới. Sự hình
thành của xã hội mới lại làm phát sinh những mâu thuẫn mới trong xã hội đó.
*Mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các MDL. lOMoAR cPSD| 61601435
- Sự thống nhất và đấu tranh của các MDL gắn liền nhau.
- Nếu không có thống nhất sẽ không có đấu tranh, thống nhất là tiền đề củađấu tranh; còn đấu
tranh là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
- Sự thống nhất phản ánh trạng thái đứng im tương đối, còn sự đấu tranhphản ánh trạng thái
vận động tuyệt đối của SV.
- Nhờ có thống nhất mà SV mới tồn tại, nhờ có đấu tranh mà SV mới pháttriển.
V.I.Lenin: Thống nhất là tạm thời, còn đấu tranh là tuyệt đối. “Phát triển là một “cuộc đấu tranh” giữa các MDL”.
Ví dụ: Trong hoạt động kinh tế, mặt sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái
ngược nhau nhưng nếu không có sản xuất thì không có sản phẩm để tiêu dùng; ngược lại, nếu
không có tiêu dùng thì sản xuất mất lí do để tồn tại.
*Ý nghĩa phương pháp luận:
- Thứ nhất, cần tuân theo nguyên tắc “Phân đôi cái thống nhất và nhận thứccác MDL của nó”.
Nghĩa là xác định MT, nghiên cứu MT, phân tích các MDL tạo thành MT.
- Thứ hai, cần tìm ra những biện pháp cụ thể để giải quyết MT một cách phùhợp.
- Thứ ba, giải quyết MT gắn liền với quan điểm lịch sử - cụ thể.
- Thứ tư, nguyên tắc chung của giải quyết MT là sự đấu tranh của các MDL.- Thứ năm, trong đời
sống xã hội cần nhận thức đúng và vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết mối quan hệ giữa
sự thống nhất và sự đấu tranh của các MDL. Vận dụng:
Mâu thuẫn ở Việt Nam: (Trích tạp chí cộng sản)
- Hiện nay con đường đi lên của nước ta sự quá độ lên chủ nghĩa XH bỏ quachế độ TBCN. Vì vậy
mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và CNXH trên thế giới được biểu hiện ở Việt Nam là mâu
thuẫn giữa hai khả năng phát triển: hoặc là đi lên CNTB hoặc là đi lên CNXH. Suy ra cuộc đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay là cuộc đấu tranh giữa hai con đường
nhằm giải quyết triệt để vấn đề làm thế nào đem lại thắng lợi cho con đường đi lên CNXH.
Tại đại hội IX của Đảng, vấn đề đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn tạo động lực cho sự phát triển
tiếp tục thể hiện quy định về mâu thuẫn đồng thời cụ thể hoá thành những mâu thuẫn sau đây:
Loại mâu thuẫn giữa trạng thái KT kém phát triển với yêu cầu xây dựng một XH dân giàu nước
mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh.
Mâu thuẫn giữa hai khuynh hướng, hai con đường XHCN và TBCN. Mâu thuẫn này phát sinh từ
hai mặt, hai khuynh hướng đối lập: Một mặt từ quá trình cải tạo xây dựng CNXH trên các mặt KT,
chính trị, văn hoá tạo thành khuynh hướng XHCN. Mặt khác bắt nguồn từ nền sản xuất nhỏ, từ
nền KT hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường làm nảy sinh những nhân tố đôí lập,
khuynh hướng tự phát đi lên tư bản.
Loại mâu thuẫn giữa mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH với các thế lực cản trở con đường phát
triển của nước ta theo mục tiêu đó (thế lực thù địch trong và ngoài nước, vấn đề tội phạm, tệ
nạn tham nhũng-thế giới xét Việt Nam là một trong số các nước có nạn tham nhũng nặng nhất). lOMoAR cPSD| 61601435
Loại mâu thuẫn giữa mặt nhân tố chủ quan và khách quan trong quá trình đi lên CNXH. Loại mâu
thuẫn này xuất từ yêu cầu nhận thức những quy luật những điều kiện khả năng khách quan với
một bên là trình độ năng lực, nhận thức và hoạt động thực tiễn của đảng, của nhà nước trong
quá trình lãnh đạo… Loại mâu thuẫn này thể hiện trong tư tưởng, lí luận, tổ chức, lãnh đạo chỉ đạo của nhà nước.
Phương thức giải quyết mâu thuẫn theo Đại hội XI(Trích tạp chí cộng sản) Đi lên chủ nghĩa xã hội
là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm
tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dạn kinh nghiệm
lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có lòng
yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng
hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở
vật chất – kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành
và phát triển kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một thời cơ
để phát triển. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ đi lên CNXH (bổ sung năm 2011
tại Đại hội XI) xác định: -
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là “Xây dựng được về cơ bản
nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn
hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.
Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở
thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách
mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt
qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây: -
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. -
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. -
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. -
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. -
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. lOMoAR cPSD| 61601435 -
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. -
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. -
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải
quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực
lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;… Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí
(Trích Tạp chí cộng sản) Liên hệ bản thân: -
Bởi vì mâu thuẫn luôn tồn tại, nên nó buộc người ta không bao giờ được nghĩ mình có đầy
đủ tri thức, mà phải liên tục học thêm các tri thức mới để giải quyết các vấn đề mới. Để
làm được điều đó, con người cần phải luôn luôn đổi mới, sáng tạo ra các tri thức mới.
Đồng thời, quy luật mâu thuẫn cũng đòi hỏi chúng ta phải biết vượt qua mọi định kiến để
bài trừ những cái cũ, không còn phù hợp và tiếp thu, chọn lọc cái mới còn chưa quen
thuộc và kế thừa những giá trị tốt đẹp của dân tộc. Có thể nói quy luật mâu thuẫn chính
là nền tảng cho kho tàng tri thức vô cùng vô tận đang trở nên phong phú hơn qua mỗi
ngày của nhân loại. Quy luật này đòi hỏi sinh viên phải tìm tòi, học hỏi các kiến thức mới
chứ không được ngủ quên trên một vài kiến thức nhất định nào đó. Điều đó giúp cho sinh
viên thêm phần sáng tạo, là yếu tố rất có ích cho cả việc học lẫn sự nghiệp sau này. Cũng
bởi vì thế mà qua mỗi năm, các trường đại học, học viện phải tái bản một số cuốn sách
để đổi mới kiến thức cho các sinh viên. -
Bên cạnh đó, việc học của sinh viên là một quá trình tăng trưởng về mặt tri thức và đồng
thời ta cũng học cách áp dụng những tri thức đó vào đời sống thực tế. Vậy nên quá trình
học tập của sinh viên cũng không ngoại lệ mà nó chịu sự tác động của quy luật mâu thuẫn.
Chẳng hạn, trong dịch Covid vừa qua, sinh viên phải học tập trên hệ thống trực tiếp, điều
đặc biệt mà sinh viên ít khi trải qua. Học tập online khiến chúng ta xao lãng, dễ mất tập
trung vì mạng xã hội có nhiều thứ thu hút chúng ta và chúng ta sẽ bị phân tâm không thể
tập trung vào bài giảng online của thầy cô cũng như không thể học tập một cách hiệu quả
khi có thể bị mất mạng, cúp điện hoặc trục trặc về kĩ thuật. Áp dụng quy luật mâu thuẫn
vào đó, ta có thể tìm ra được hướng giải quyết một cách đúng đắn. Đầu tiên, chúng ta cần
phải tôn trọng mâu thuẫn, xác định mâu thuẫn và phân tích, cũng như là tìm hiểu nguồn
gốc phát sinh ra mâu thuẫn rồi từ đó xem xét, giải quyết mâu thuẫn tuân theo quan điểm
lịch sử - cụ thể. Bên cạnh đó, chúng ta cần vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết mâu