



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58728417
VẤN ĐỀ 1. TÂM LÝ HỌC LÀ MỘT NGÀNH KHOA HỌC
1. BẢN CHẤT CỦA HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ
1.1. Định nghĩa hiện tượng tâm lý
Tâm lý học nghiên cứu các hiện tượng tâm lý người, vậy thực chất hiện tượng tâm lý người là gì?
Tâm lý bao gồm tất cả các hiện tượng tinh thần nảy ra trong đầu óc con người, chúng
gắn liền với quá trình điều hành, điểu khiển mọi hoạt động của con người.
Hiện tượng tâm lý là hiện tượng có cơ sở tự nhiên, là hoạt động thần kinh và hoạt
động nội tiết, được nảy sinh bằng hoạt động sống của từng người và gắn bó mật thiết với các quan hệ xã hội.
1.2. Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan của não mang tính chủ thể
và có bản chất xã hội lịch sử.
1.2.1. Tâm lý người là sự phản ảnh hiện thực khách quan của não
Tâm lý không có sẵn hay nói cách khác con người vừa mới sinh ra chưa có tâm lý,
tâm lý không phải do thượng đế sinh ra, cũng không phải do não tiết ra giống như gan tiết
ra mật, khi hiện thực khách quan tác động vào bộ não người, não tiếp nhận sự tác động đó
và đưa ra phản ứng hay hiện thực khách quan tác động tới các giác quan, tác động vào não
để lại dấu vết trên vỏ não, những dấu vết đó là hình ảnh về hiện thực khách quan đó với
các mức độ phức tạp khác nhau, hay còn gọi là các hiện tượng tinh thần hay các hiện tượng
tâm lý. Các hiện tượng tâm lý từ đơn giản đến phức tạp đó chính là sản phẩm sau khi hiện
thực khách quan tác động vào bộ não con người.
Một âm thanh, một bản nhạc, một con người, một màu sắc... tác động vào tai, vào
mắt ta, có khi chỉ một lần cũng để lại trong đầu những hình ảnh tương ứng. Hơn nữa những
hình ảnh ấy không phải đơn giản, không phải là một vật chất chết cứng như hình ảnh ở
trong gương được tạo bởi quy luật quang học. Chúng ta có thể gợi lại, tạo dựng lại, cải biên
một loạt ấn tượng, suy tư, cảm nghĩ, thái độ.
Bất kỳ một sự vật hiện tượng nào tồn tại trong hiện thực khách quan cũng luôn tồn
tại bằng các thuộc tính không gian, thời gian và trong sự vận động, biến đổi của chúng.
Phản ánh là thuộc tính chung của mọi sự vật hiện tượng đang vận động. Nói một cách tổng
quát: Phản ánh là quá trình tác động qua lại giữa hệ thống này và hệ thống khác, kết quả là
để lại dấu vết tác động ở cả hai hệ thống tác động và bị tác động. Chẳng hạn phản ánh cơ
học, viên phấn được dùng để viết lên bảng đen để lại dấu vết trên bảng, ngược lại bảng làm
mòn viên phấn. Hay phản ánh hoá học là: 2H2 + O2 = 2H2O
Phản ánh diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hoá lẫn nhau: Từ phản
ánh cơ, vật lý, hoá học, sinh vật đến phản ánh xã hội, trong đó có phản ánh tâm lý.
* Phản ánh tâm lý là một phản ánh đặc biệt
Tâm lý người là sự phản ánh đặc biệt căn cứ vào những cơ sở sau:
+ Sự phản ánh tâm lý là sự tác động của hiện thực khách quan vào con người, vào hệ thần
kinh, vào bộ não người – cơ sở vật chất có tổ chức cao nhất. Chỉ có hệ thần kinh và bộ não
con người mới có khả năng nhận tác động từ hiện thực khách quan, tạo ra trên não hình lOMoAR cPSD| 58728417
ảnh tinh thần chứa đựng trong vết vật chất, đó là các quá trình sin lý, sinh hoá ở trong hệ thần kinh và não bộ.
+ Phản ánh tâm lý chính là bản sao chép, sao chụp về thế giới hay đó chính là kết quả quá
trình phản ánh thế giới khách quan vào não. Hình ảnh tâm lý khác xa so với hình ảnh cơ,
vật lý hay sinh vật ở chỗ:
* Thứ nhất: Hình ảnh tâm lý mang tính sinh động, sáng tạo.
Chẳng hạn: hình ảnh tâm lý về một con người trong đầu của một người biết nhận thức khác
xa về chất với hình ảnh vật lý có tính chất chết cứng của con người đó ở trong gương, hay
tấm ảnh được chụp qua phương tiện là chiếc máy ảnh.
* Thứ hai: Hình ảnh tâm lý mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân, hay nói cách
khác tâm lý là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
2.2.2. Tâm lý người mang tính chủ thể
Tính chủ thể thể hiện ở chỗ: mỗi chủ thể trong khi tạo ra hình ảnh tâm lý về thế giới đã đưa
vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, khả năng, khí chất... của mình vào trong hình ảnh đó làm
cho nó mang đậm những nét riêng của cá nhân đó hay mang đậm màu sắc chủ quan. Hay
nói khác đi, tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan thông qua “Lăng kính chủ quan”.
* Biểu hiện của tính chủ thể là:
+ Cùng xuất phát từ một hiện thực khách quan tác động vào não của mỗi chủ thể khác nhau
sẽ tạo ra những hình ảnh tâm lý với những mức độ, sắc thái khác nhau.
Chẳng hạn: một bài toán đưa ra cho một nhóm học sinh, học sinh này cho là khó,
học sinh khác thì cho là dễ hay ở mức độ trung bình. Điều này phụ thuộc vào vốn kiến thức
toán học của các em, khả năng nhận thức của các em hay năng khiếu, sở thích...
+ Xuất phát từ một hiện thực khách quan tác động vào một chủ thể nhưng lại ở nhiều
thời điểm khác nhau, ở những điều kiện hoàn cảnh khác nhau, với trạng thái cơ thể, tinh
thần không giống nhau sẽ tạo ra mức độ biểu hiện và các sắc thái tâm lý khác nhau ở bản thân chủ thể ấy.
Chẳng hạn: Ở lứa tuổi thanh niên, khi xem một bộ phim, ta sẽ đưa ra một nhận xét
khác với bộ phim ấy được phát lại sau 10 năm, lúc đó ta đang ở lứa tuổi người trung niên
với bao thay đổi của thời cuộc. Hay khi ăn một bát phở ta sẽ cảm thấy ngon miệng và sảng
khoái hơn khi ta có sở thích về nó và lúc sức khoẻ tốt, vẫn là bát phở do một người nấu
nhưng lúc ta mệt mỏi hay gặp một sự trắc trở, vướng mắc nào đó trong cuộc sống ta sẽ cảm
thấy bát phở kém đi phần ngon nguyên vẹn của nó.
+ Chủ thể mang hình ảnh tâm lý là người cảm nhận và trải nghiệm nó rõ nhất. Chính
xuất phát từ mức độ hay sắc thái tâm lý khác nhau mà mỗi chủ thể có những cách phản
ứng, hành vi ứng xử, hành động khác nhau trong cuộc sống, trong các mối quan hệ xã hội hay với người khác.
+ Thông qua các mức độ và sắc thái tâm lý khác nhau mà mỗi chủ thể tỏ thái độ và
hành vi khác nhau đối với hiện thực. lOMoAR cPSD| 58728417
Ví dụ: Thực hiện chiến dịch bảo vệ môi trường hiện nay có nhiều ứng xử khác nhau
ở các thế hệ, các lứa tuổi, các cá nhân. Người trồng cây xanh, người vệ sinh nhà cửa, khu
phố sạch sẽ, người tham gia cuộc hành trình đi xe đạp,… Tuy nhiên, vẫn có có ít người vẫn
vứt rác bừa bãi, chặt phá cây xanh,… * Nguyên nhân tạo ra tính chủ thể trong tâm lý con người
Mỗi một cá nhân sinh ra có những đặc điểm riêng về cơ thể hay khác nhau về cơ cấu di
truyền, cấu tạo của hệ thần kinh, bộ não. Hơn nữa, “mỗi cây mỗi hoa” - sống trong hoàn
cảnh, điều kiện khác nhau, môi trường giáo dục khác nhau và cơ bản là mỗi cá nhân thể
hiện mức độ tích cực trong tính chủ thể thông qua hoạt động, giao lưu khác nhau. Vì thế,
tâm lý mỗi người sẽ không hoàn toàn giống người khác mà có những sắc thái rất riêng,
điển hình cho cá nhân đó.
Tóm lại: Tâm lý người là hiện tượng tinh thần có nguồn gốc vật chất từ bên ngoài
đó chính là hiện thực khách quan. Hiện thực khách quan là yếu tố quy định nội dung tâm
lý, còn bộ não là bộ máy phản ánh tạo nên tâm lý con người. Hay hiện thực khách quan là
điều kiện cần và não là điều kiện đủ làm nảy sinh tâm lý con người. Tâm lý người là hình
ảnh chủ quan về thể giới khách quan khi tác động vào não con người.
2.2.3. Tâm lý người mang bản chất xã hội lịch sử
Tâm lý người khác xa về chất so với tâm lý động vật. Bởi tâm lý con người được
nảy sinh, hình thành và biến đổi trong các mối quan hệ xã hội và chịu sự chi phối của các
mối quan hệ xã hội đó. Thực chất tâm lý người đó chính là quá trình biến những kinh
nghiệm của lịch sử xã hội thành cái riêng, điển hình cho mỗi cá nhân.
Bản chất xã hội tính lịch sử của tâm lý người thể hiện như sau:
+ Tâm lý người có nguồn gốc là hiện thực khách quan, mà hiện thực khách quan
bao gồm thế giới tự nhiên, xã hội trong đó nguồn gốc xã hội là cái quyết định.
Tâm lý người được hình thành từ các mối quan hệ xã hội từ mối quan hệ kinh tế, đạo đức,
pháp quyền, các mối quan hệ người - người từ quan hệ gia đình, bạn bè, làng xóm, nhóm,
tập thể hay cộng đồng... các quan hệ trên quyết định bản chất tâm lý người. Thực tế cho
thấy con người thoát ly khỏi các mối quan hệ xã hội, quan hệ người - người đều làm cho
tâm lý người mất bản tính người.
+ Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao lưu của con người trong các mối quan hệ xã hội.
Khi mỗi cá nhân tham gia vào bất kỳ một hoạt động nào đều phải là chủ thể biết nhận thức,
chủ thể tích cực, chủ động, sáng tạo trong hoạt động, giao lưu đó thì tâm lý sẽ nảy sinh và
hình thành cũng như ngày một hoàn thiện ở mức độ cao làm cho hoạt động mang lại hiệu
quả tối ưu, cá nhân đó sẽ có một đời sống tâm lý phong phú và đa dạng. Hay tâm lý con
người được nảy sinh và phát triển là sản phẩm của cá nhân khi tham gia vào hoạt động với
tư cách là một chủ thể xã hội.
+ Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh nghiệm
xã hội, nền văn hoá xã hội thông qua hoạt động, giao lưu. lOMoAR cPSD| 58728417
+ Tâm lý của mỗi cá nhân hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự biến đổi
của lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc, cộng đồng, xã hội. Tâm lý người chịu sự chế ước bởi
lịch sử cá nhân, cộng đồng và của xã hội.
Mối quan hệ xã hội của con người không tĩnh tại, không bất biến mà nó luôn vận động,
biến đổi cùng quá trình lịch sử cá nhân, cộng đồng và xã hội. Do đó, tâm lý người phải biến
đổi theo sao cho phù hợp với điều kiện đang sống.
2. PHÂN LOẠI HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ
2.1. Căn cứ vào diễn biến của các hiện tượng tâm lý
Theo căn cứ này thì tâm lý người bao gồm ba loại sau: các quá trình tâm lý, các
trạng thái tâm lý và các thuộc tính tâm lý.
Các quá trình tâm lý là các hiện tượng tâm lý diễn ra có mở đầu, diễn biến và kết
thúc một cách rõ ràng, diễn ra trong thời gian ngắn. Các quá trình tâm lý bao gồm các quá
trình nhận thức (cảm giác, tri giác, tư duy...), các quá trình cảm xúc (biểu thị sự vui mừng
hay tức giận, dễ chịu, khó chịu, nhiệt tình, thờ ơ...) và quá trình hành động ý chí.
Các trạng thái tâm lý là những hiện tượng tâm lý diễn ra với mở đầu, diễn biến và
kết thúc một cách không rõ ràng, không cụ thể và diễn ra trong thời gian tương đối dài (chú ý, tâm trạng...)
Các thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý khó hình thành, khó mất đi và nó
được hình thành trong thời gian lâu dài và phức tạp, chúng tạo thành những nét riêng của
nhân cách (xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực).
Các hiện tượng tâm lý thuộc cùng một thể loại hay ở một thể loại khác đều có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng không tồn tại một cách biệt lập và tách rời nhau mà hiện
tượng tâm lý này là cơ sở để nảy sinh hiện tượng tâm lý khác và ngược lại.
2.2. Căn cứ vào sự tham gia của ý thức
Tâm lý cá được nảy sinh trong hoạt động, trong giao lưu và trong hoạt động, giao
lưu muốn đạt hiệu quả phải có sự tham gia của ý thức con người. Do đó, ý thức tham gia
vào việc nảy sinh các hiện tượng tâm lý, nhưng đôi khi có những hiện tượng tâm lý nảy
sinh mà không có sự tham gia của ý thức. Theo căn cứ này thì tâm lý bao gồm các loại sau:
Hiện tượng tâm lý có ý thức (tình cảm, nhận thức, ý chí, thế giới quan, nhu cầu...) là các
hiện tượng tâm lý chủ đạo, các hiện tượng tâm lý vô thức mang tính chất bệnh lý (ảo giác,
hoang tưởng, những hiện tượng tâm lý xảy ra trong trạng thái ức chế, thôi miên, ngủ mê,
hiện tượng trực giác - “vụt sáng”.
Như vậy, thế giới nội tâm hay đời sống tâm lý của con người vô cùng phong phú,
phức tạp và đa dạng. Tâm lý người có nhiều cấp độ, mức độ khác nhau, có quan hệ đan xen
vào nhau và chuyển hoá cho nhau.
3. NHỮNG PHƯƠNG PHÁP CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC lOMoAR cPSD| 58728417
3.1. Phương pháp quan sát
Một trong những phương pháp sử dụng phổ biến trong nghiên cứu tâm lý người là phương
pháp quan sát. Phương pháp quan sát là quá trình tri giác các hiện tượng tâm lý có tổ chức,
có chủ định và có mục đích rõ rệt.
Đối tượng quan sát: Quan sát biểu hiện bên ngoài, thông qua đó để đoán biết những đặc
điểm tâm lý bên trong. Có thể quan sát nét mặt, cử động tay, chân, di chuyển cơ bản, tốc
độ, phương hướng, chuyển động, sự va chạm của cá nhân với các vật thể và người khác,
nội dung của lời nói, thể hiện ở nguôn từ, ngữ điệu, âm điệu, cường độ của lời nói, sử dụng
định hướng, tần số của cử chỉ... kết hợp lại để xác định hành vi chung của con người.
Quan sát trong tâm lý học cũng tuân thủ những nguyên tắc chung cho bất kỳ quan sát khoa
học nào. Đó là, phù hợp với mục đích nghiên cứu, kế hoạch hóa và tiến hành quan sát tương
tác giữa các cá nhân theo một sơ đồ nhất định, diễn tả các hiện tượng và sự kiện mà chúng
ta tri giác được bằng ngôn ngữ thích hợp sao cho người quan sát khác hiểu được, lựa chọn
các phương pháp quan sát và ghi lại tùy theo tính chất hoạt động của con người và khả
năng quan sát, kiểm tra tính khách quan và độ tin cậy của việc quan sát bằng những nhà
nghiên cứu khác và những cách nghiên cứu khác, cần phân biệt được ý nghĩa chủ quan của
người quan sát và ý nghĩa chủ quan của hành động được quan sát. E.C. Kuzơmin chỉ ra 3
yêu cầu có tính nguyên tắc để đảm bảo sử dụng thành công của phương pháp quan sát là:
- Xác định rõ ràng mục đích
- Xây dựng sơ đồ quan sát phù hợp: thiết kế bối cảnh sao cho nhận diện dễ dàng các phần
tử được quan sát (mẫu, thời gian, không gian quan sát).
- Xây dựng phương pháp ghi lại thích hợp.
Việc xây dựng sơ đồ quan sát được tiến hành theo nguyên tắc sau:
- Trước hết, người ta quan sát bối cảnh ghi lại tất cả những điều xảy ra và sắp xếp theo các phạm trù nhánh.
- Dựa vào các giả thuyết hoặc từ một lý thuyết xác định các khía cạnh quan sát quan trọng
và để xây dựng sơ đồ quan sát.
Quan sát có nhiều hình thức: trực tiếp, gián tiếp; quan sát bộ phận hay toàn diện;
quan sát trọng điểm, quan sát khách quan hay tự quan sát (theo yêu cầu khách quan),...
Phương pháp quan sát cho phép nhà nghiên cứu thu thập được các tài liệu cụ thể,
khách quan trong các điều kiện tự nhiên của con người. Tuy nhiên, phương pháp này tốn
nhiều thời gian, công sức của nhà nghiên cứu.
3.2. Phương pháp đàm thoại
Phương pháp đàm thoại là cách đặt ra câu hỏi cho đối tượng và dựa vào trả lời của
họ để trao đổi, hỏi thêm nhằm thu thập những thông tin về vấn đề cần nghiên cứu.
Mục đích của đàm thoại: Hiểu được tâm trạng, cảm xúc, tính cách, khí chất, hứng
thú, năng lực,... của con người.
Có thể đàm thoại trực tiếp hoặc gián tiếp tuỳ sự liên quan của đối tượng với điều
cần biết, cần nghiên cứu. lOMoAR cPSD| 58728417
Điều kiện để đàm thoại có kết quả: +
Xác định rõ mục đích đàm thoại;
+ Tìm hiểu đặc điểm tâm lý của đối tượng trước khi đàm thoại;
+ Chủ động trong đàm thoại;
+ Tránh lối đặt câu hỏi kiểu vấn đáp, kiểu câu hỏi có thể dẫn đối tượng đến chỗ trả
lời máy móc, có hoặc không? Ví dụ: Bạn có thích môn tâm lý học không? + Có thể biến
cuộc đàm thoại thành cuộc tranh luận khi cần thiết.
3.3. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm là phương pháp mà trong đó nhà nghiên cứu chủ động
tạo ra các hiện tượng mà mình nghiên cứu sau khi đã tạo ra điều kiện cần thiết loại trừ yếu tố ngẫu nhiên.
Có hai loại thực nghiệm cơ bản đó là: thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong phòng thí nghiệm.
Thực nghiệm tự nhiên là loại thực nghiệm dựa vào điều kiện hoạt động bình thường của
đối tượng nghiên cứu, lợi dụng hoàn cảnh sinh hoạt, học tập, công tác để thực hiện chương trình đã xác định.
Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm là loại thực nghiệm nhà nghiên cứu tạo ra những điều
kiện để làm nảy sinh hay phát triển một hiện tượng tâm lý nào đó để nghiên cứu. Chủ yếu
là dựa vào dụng cụ thí nghiệm, máy móc đặc biệt.
Ví dụ dùng máy phát hiện nói dối qua chỉ số huyết áp, độ giãn đồng tử của mắt, nhịp tim.
Tuy nhiên dù là thực nghiệm tự nhiên hay thực nghiệm trong phòng thí nghiệm đều khó có
thể khống chế hoàn toàn ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan của người bị thực nghiệm vì
thế phải tiến hành thực nghiệm qua một số lần và kết hợp sử dụng các phương pháp khác.
3.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động của con người
Qua sản phẩm hoạt động, nhà nghiên cứu có thể biết được mức độ hiểu một vấn đề,
cách suy nghĩ, xúc cảm, kỹ năng, kỹ xảo, tài nghệ, sở thích, thậm chí cả tính nết, quan điểm của người đó.
Đây là phương pháp dựa vào kết quả, sản phẩm vật chất hoặc tinh thần của hoạt
động do con người làm ra để nghiên cứu các chức năng tâm lý của con người đó. Trong
sản phẩm chứa đựng “dấu vết” tâm lý, ý thức, nhân cách của con người. Cần chú ý rằng
sản phẩm của hoạt động cần phải được xem xét trong điều kiện tiến hành hoạt động mới
đảm bảo độ khách quan trong nghiên cứu.
3.5. Phương pháp điều tra
Phương pháp điều tra bảng hỏi là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra
cho một số lớn đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan về một vấn đề nào đó.
Có thể trả lời viết hoặc trả lời miệng và có người ghi lại.
Có thể dùng điều tra để thăm dò chung hoặc điều tra chuyên đề đi sâu vào một số
khía cạnh. Câu hỏi có thể dùng điều tra dưới dạng câu hỏi đóng hoặc mở. lOMoAR cPSD| 58728417
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi có ưu điểm là nó cho phép tiến hành nghiên
cứu trên một địa bàn rộng, nhiều người tham gia như vậy có thể thu thập được ý kiến của
một số lượng lớn nghiệm viên. Bằng phương pháp này cũng cho phép thu được thông tin
về nhiều sự kiện khác nhau. Điều tra bằng bảng hỏi có thể dùng để làm chính xác thêm,
mở rộng thêm và kiểm tra những số liệu thu được bằng phương pháp khác cũng như bằng
các hình thức điều tra ý kiến khác.
3.6. Phương pháp trắc nghiệm (Test)
Trắc nghiệm là một hệ thống biện pháp được chuẩn hoá về mặt kỹ thuật, được quy
định nội dung và cách làm nhằm chẩn đoán tâm lý.
Trắc nghiệm tâm lý được sử dụng chủ yếu trong chẩn đoán tâm lý con người. Trắc
nghiệm trọn bộ gồm 4 phần: văn bản Test; hướng dẫn qui trình tiến hành; hướng dẫn đánh giá; bản chuẩn hóa.
Trắc nghiệm có khả năng làm cho hiện tượng tâm lý cần đo được trực tiếp bộc lộ
qua hành động giải bài tập test. Có khả năng tiến hành nhanh, tương đối đơn giản bằng
giấy, bút, tranh vẽ. Có khả năng lượng hóa, chuẩn hóa hiện tượng tâm lý cần đo. Tuy nhiên,
khó soạn thảo một bộ test chuẩn hóa; Test chủ yếu cho ta kết quả, ít bộc lộ quá trình suy
nghĩ của nghiệm thể đi đến kết quả.
3.7. Phương pháp nghiên cứu trường hợp (Case study)
Nghiên cứu trường hợp là tìm hiểu sâu về một một cá nhân hoặc một nhóm ít người.
Phương pháp này cho phép mô tả sâu chân dung những khách thể nghiên cứu để làm rõ
hơn vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau, phát hiện ra những khía cạnh đặc biệt trong tâm
lý người hoặc minh họa cho những kết quả thu được từ những phương pháp nghiên cứu khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO VẤN ĐỀ 1
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tâm lý học đại cương, NXB Công
an nhân dân, Hà Nội, 2019, Chương I, tr.5-32.
2. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên). Tâm lý học đại cương. NXB Đại học Sư
phạm Hà Nội, 2014, Chương I, tr.7-27.
VẤN ĐỀ 2. Ý THỨC VÀ VÔ THỨC 1. Ý THỨC lOMoAR cPSD| 58728417
1.1. Khái niệm ý thức
Theo nghĩa rộng: ý thức là tinh thần, tư tưởng (ý thức kỷ luật, ý thức tổ chức, ý thức
trách nhiệm...) theo nghĩa hẹp ý thức là một cấp độ đặc biệt trong tâm lý con người. Ý
thức là năng lực hiểu được các tri thức về thế giới khách quan mà con người tiếp thu được
và năng lực hiểu được thế giới chủ quan trong chính bản thân mình nhờ đó con người có
thể cải tạo được thế giới khách quan và hoàn thiện bản thân mình.
Nếu cảm giác, tri giác, tư duy đem lại cho ta hình ảnh tâm lý (tri thức, hiểu biết về sự
vật hiện tượng tồn tại trong hiện thực khách quan) thì ý thức là năng lực hiểu biết, đánh giá
các hình ảnh ấy, các tri thức ấy, hiểu biết ấy.
+ Ý thức là sự phản ánh của phản ánh, hiểu biết của hiểu biết; tri thức về tri thức; + Ý thức
là sự nhận thức về thế giới chủ quan: phân tích, hiểu rõ mình là người như thế nào? Hành
động đúng sai của bản thân, cần làm gì?... đó là tự ý thức.
1.2. Đặc điểm của ý thức
+ Là khả năng nhận thức cao nhất của con người về thế giới khách quan;
+ Thể hiện thái độ của con người đối với hiện thực;
+ Thể hiện chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người;
+ Có khả năng tự nhận thức, tự xác định thái độ và tự điều chỉnh hành vi, tự hoàn thiện mình.
1.3. Cấu trúc của ý thức -
Mặt nhận thức: Các quá trình nhận thức cảm tính là tầng bậc thấp nhưng nó là cơ
sở, nền tảng của ý thức, nó mang lại tài liệu đầu tiên cho ý thức. Nhận thức cảm tính giúp
con người phản ánh những thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng. Các quá trình nhận
thức lý tính là hạt nhân của ý thức, nó đem lại cho con người những hiểu biết bản chất,
khái quát về thực tại khách quan. Nhận thức lý tính giúp cho con người hình dung ra trước
kết quả của hoạt động và hoạch định kế hoạch hành vi cá nhân.
Ví dụ: Khi tham gia giao thông đường bộ, bằng nhận thức cảm tính (bằng giác quan
nhìn) quan sát tín hiệu đèn hoặc hướng dẫn của cảnh sát giao thông để định hướng hành vi
di chuyển hay dừng lại theo đúng quy định. Mặt khác, bằng khả năng nhận thức của tư duy
về vấn đề an toàn khi tham gia giao thông, dự báo những tình huống xấu có thể xảy ra giúp
cá nhân điều khiển hành vi của mình một cách an toàn, hiệu quả. -
Mặt thái độ: Nói lên thái độ lựa chọn, thái độ cảm xúc, thái độ đánh giá của chủ thể
đối với thế giới. Thái độ được thể hiện chân thực, đúng lúc, đúng chỗ là động lực, điều
kiện thuận lợi cho tiến hành công việc đạt kết quả cao hơn.
Ví dụ: Sinh viên có thái độ nghiêm túc khi thực hiện thời gian biểu đã lập để đạt được
mục tiêu học tập của học kỳ hay của năm học, không thờ ơ, dễ dãi với bản thân làm cản trở
mục tiêu đã định. Kiềm chế những ham muốn, nhu cầu nhất thời để vượt mọi khó khăn
trong học tập để lập nghiệp sau này. -
Mặt năng động của ý thức: Là khả năng điều khiển, điều chỉnh hoạt động của con
người làm cho hoạt động đạt kết quả cao. Đó là quá trình con người vận dụng những hiểu lOMoAR cPSD| 58728417
biết của mình và tỏ thái độ của mình nhằm thích nghi, cải tạo thế giới, cải tạo chính bản thân.
Ví dụ: Sinh viên xác định nguyên nhân chính dẫn đến kết quả học tập của họ kém như
lười học, phương pháp học tập chưa phù hợp,... từ đó giúp họ định hướng các biện pháp
khắc phục như cần chuyên tâm học tập, thay đổi phương pháp học,...
Ngoài ba mặt cơ bản trên cấu thành nên cấu trúc ý thức, nhu cầu, động cơ, hứng thú...
đều có vị trí nhất định trong cấu trúc của ý thức.
Nhờ có ý thức mà đã mang lại cho con người một thế giới tâm hồn phong phú, làm
cho cuộc sống của mỗi cá nhân có ý nghĩa cho chính bản thân mình và cho mọi người, cho xã hội. 2. VÔ THỨC
2.1. Định nghĩa vô thức
Trong cuộc sống ta thường gặp những hiện tượng tâm lý diễn ra mà cá nhân chưa nhận
thức được. Hiện tượng tâm lý không ý thức được, chưa nhận thức được trong tâm lý học gọi là vô thức.
Vô thức là tập hợp những hiện tượng, những hành vi mà chủ thể không có nhận thức,
không tỏ được thái độ và không thể thực hiện được sự kiểm tra có chú ý đối với chúng. Ví
dụ: Người mộng du vừa đi vừa ngủ trên mái nhà, dây điện; người bị bệnh tâm thần; người
say rượu, người bị thôi miên,... họ không nhận thức được mình đang làm gì tức là họ đang
rơi vào trạng thái vô thức.
Vô thức có đặc điểm sau:
Cá nhân không nhận thức được hiện tượng tâm lý, các hành vi, cảm nghĩ của mình,
không diễn đạt được bằng ngôn ngữ cho mình và cho người khác hiểu. Vì vậy vô thức
không kèm theo sự dự kiến trước, không có chủ đích. Sự xuất hiện hành vi vô thức thường
đột ngột, bất ngờ nảy sinh trong thời gian ngắn.
2.2. Các hiện tượng vô thức
+ Vô thức ở tầng bản năng: bản năng dinh dưỡng, tự vệ,...
+ Hiện tượng lóe sáng: hiện tượng bất chợt con người nhận ra nó; + Hiện tượng linh cảm;
+ Tiềm thức: ban đầu có ý thức, do lặp đi lặp lại, không cần sự xuất hiện của ý thức: Kỹ
năng, kỹ xảo, thói quen,... Tiềm thức chỉ đạo tư duy, hành động tới mức không cần ý thức tham gia.
+ Tiền ý thức: trước khi ý thức xuất hiện;
+ Ức chế thần kinh: mộng du, mơ, bị thôi miên,...
2.3. Mối quan hệ giữa ý thức và vô thức
Giữa ý thức và vô thức có mối quan hệ chặt chẽ và phức tạp vừa xung đột, kiềm
chế, vừa bổ sung hỗ trợ, chuyển hóa cho nhau.
+ Ý thức kiểm duyệt, kiềm chế hành vi được thúc đẩy bởi các động cơ vô thức
+ Ý thức có thể biểu hiện thông qua vô thức lOMoAR cPSD| 58728417
+ Chúng có thể chuyển hóa cho nhau
+ Tương quan giữa ý thức và vô thức biến đổi trong cuộc đời của của con người +
Chúng không tồn tại một ranh giới rõ ràng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO VẤN ĐỀ 2 1.
Giáo trình tâm lý học đại cương, Trường Đại học Luâṭ Hà Nôi,̣ Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, 2019, Chương II (tr.33-54). 2.
Giáo trình tâm lý học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Nxb. Đại học Sư
phạm, Hà Nội 2014, Chương III (tr. 56-65).
VẤN ĐỀ 3. CHÚ Ý 1. KHÁI NIỆM CHÚ Ý
Trong môi trường xung quanh luôn có vô vàn sự vật tác động vào nhưng chúng ta không
thể quan tâm hết tất cả sự vật trong cùng một lúc. Con người phải chọn lựa, biết tập trung
và quan tâm vào các đối tượng có liên quan đến những nhiệm vụ, những hoạt động cần
phải tiến hành. Hiện tượng này được gọi là chú ý.
Chú ý là sự tập trung của hoạt động tâm lý vào một hoặc một số đối tượng nào đó, nhằm
phản ánh chúng một cách đầy đủ, rõ ràng nhất.
Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một hay một nhóm sự vật, hiện tượng, để định hướng
hoạt động, đảm bảo điều kiện thần kinh - tâm lý cần thiết cho hoạt động tiến hành có hiệu quả.
2. CÁC THUỘC TÍNH CỦA CHÚ Ý
2.1. Tính khối lượng của chú ý
Khối lượng của chú ý được đo bằng số lượng đối tượng mà chú ý hướng tới trong thời gian ngắn
Khối lượng của chú ý là khối lượng của đối tượng có thể được tri giác cùng một lúc với
mức độ rõ ràng và rành mạch như nhau tại một thời điểm nhất định.
2.2. Sự phân phối chú ý
Sự phân phối chú ý là khả năng có thể chú ý đồng thời tới một số đối tượng. Sự phân
phối chú ý bộc lộ khả năng trong cùng một lúc chú ý đầy đủ đến nhiều đối tượng hay nhiều
hoạt động khác nhau một cách có chủ định. Các đối tượng chính được chú ý nhiều hơn
những đối tượng khác chứ không phải là phân chia chú ý một cách đồng đều cho mọi đối
tượng hoạt động. Sự phân phối chú ý không có mâu thuẫn với sức tập trung
chú ý vì trong phân phối chú ý cũng có sự tập trung chú ý vào hoạt động mới.
Ví dụ : Sinh viên vừa nghe nhạc vừa làm bài tập. lOMoAR cPSD| 58728417
2.3. Sức tập trung của chú ý
Ở một thời điểm, con người có khả năng tách một số đối tượng cần thiết ra khỏi vô vàn các
đối tượng khác để chú ý sâu vào đối tượng đã chọn. Chẳng hạn như học sinh có thể tập
trung vào việc viết bài mà không nhận ra tiếng chuyển động của đồng hồ quả lắc vẫn vang đều.
Tập trung chú ý là khả năng hướng và tập trung cao độ hoạt động tâm lý vào một số đối
tượng cần thiết của hành động.
Sức tập trung của chú ý là khả năng chú ý đến một phạm vi đối tượng hẹp cần thiết cho
hoạt động ở thời điểm đó nhằm phản ánh đối tượng tốt nhất. Sức tập trung của chú ý khiến
con người bị “hút” vào đối tượng, nhờ đó tập trung cao độ dẫn đến hiệu quả trong công việc tốt hơn.
Ví dụ : Sinh viên tập trung nghe giảng không bị ảnh hưởng bởi điện thoại, hay các vấn đề xung quanh.
2.4. Tính bền vững của chú ý
Tính bền vững của chú ý được thể hiện ở khả năng duy trì lâu dài chú ý tới một hoặc
một số đối tượng.
Ngược với sự bền vững chú ý là sự phân tán chú ý, sự phân tán chú ý diễn ra theo chu kỳ,
xen kẽ giữa sự bền vững và phân tán chú ý gọi là sự dao động chú ý. Tính bền vững của
chú ý không mâu thuẫn với sức tập trung chú ý và sự di chuyển của chú ý. Đặc điểm cá
nhân, điều kiện khách quan của hoạt động chi phối đến sự bền vững của chú ý.
2.5. Sự di chuyển chú ý
Sự di chuyển chú ý khả năng dịch chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác một
cách có chủ định.
Sự di chuyển chú ý không mâu thuẫn với độ bền vững của chú ý và cũng không phải
là phân tán chú ý. Nó được di chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác một cách có ý
thức và khi chuyển sang đối tượng chú ý mới thì chú ý được tập trung với cường độ cao.
Ví dụ; Sinh viên tranh thủ trao đổi về công việc của lớp trong giờ ra chơi nhưng vào ca học
mới họ phải chuyển sang chú ý bài học.
Những thuộc tính cơ bản trên của chú ý đều có vai trò nhất định đối với hoạt động
của con người. Mỗi thuộc tính đều có thể giữ vai trò tích cực hoặc không tích cực. Tuy
nhiên, giữa chúng lại có quan hệ bổ sung cho nhau, khắc phục cho nhau nếu biết sử dụng,
phối hợp các đặc điểm ấy thì hoạt động sẽ được tiến hành một cách hiệu quả. 3. PHÂN LOẠI CHÚ Ý
3.1. Căn cứ vào tính tích cực của con người trong việc tổ chức chú ý
3.1.1. Chú ý không chủ định
Là sự tập trung hoạt động tâm lý lên một đối tượng nhất định khi có sự tác động kích thích
của đối tượng đó.
Chú ý không chủ định có thể xuất hiện tùy thuộc vào một số đặc điểm của kích thích: lOMoAR cPSD| 58728417
- Độ mới lạ của kích thích: Vật kích thích càng mới, càng dễ ra chú ý không chủ định;
ngược lại, vật kích thích càng rập khuôn bao nhiêu thì càng mau mất chú ý không chủ định bấy nhiêu.
- Cường độ kích thích: Kích thích càng mạnh thì dễ tạo ra chú ý không chủ định, nhưng
kích thích quá mạnh sẽ tạo ra phản ứng ngược, chú ý sẽ bị ức chế. Tuy nhiên, chú ý phụ
thuộc vào cường độ kích thích chỉ mang tính chất tương đối. Bởi vì chú ý còn chịu ảnh
hưởng của các hiện tượng tâm lý và sinh lý khác, như hứng thú, nhu cầu, xúc cảm.
- Độ hấp dẫn của vật kích thích: Đặc điểm này tổng hợp của hai đặc điểm trên thể hiện ở
mức độ phù hợp với người bị tác động, gây ra sự tò mò, thích thú, thu hút sự chú ý của người đó.
- Sự bắt đầu hoặc kết thúc một kích thích.
3.1.2. Chú ý có chủ định
Chú ý có chủ định là sự điều chỉnh một cách có ý thức sự tập trung hoạt động tâm lý
lên một đối tượng nào đó nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động.
Chú ý có chủ định là loại chú ý có mục đích tự giác, có biện pháp để hướng chú ý vào
đối tượng, đòi hỏi một sự nỗ lực nhất định. Chú ý có chủ định không tùy thuộc vào đối
tượng mới lạ hay quen thuộc, có cường độ kích thích mạnh hay yếu, hấp dẫn hay không
hấp dẫn, ta tập trung vào đối tượng hay sự vật để tiến hành một hoạt động tương ứng theo
một động cơ nhất định, bao gồm các hành động nhằm vào một mục đích nhất định.
Chú ý có chủ định có những đặc điểm cơ bản sau: -
Có mục đích tự giác, có kế hoạch biện pháp để chú ý. -
Có liên quan chặt chẽ với hệ thống tín hiệu thứ hai, tình cảm, hứng thú của cá nhân. - Tính bền vững cao. -
Đòi hỏi sự nỗ lực ý chí nhất định của chủ thể để khắc phục những trở ngại
bên ngoài hoặc bên trong của chủ thể.
Chú ý có chủ định đóng vai trò rất quan trọng trong các quá trình nhận thức, nó là nền
tảng đề quá trình nhận thức, nó giúp cung cấp các dữ kiện một cách hợp lý và chính xác để
nhận thức có thể đạt được hiệu quả tối ưu. Mặt hạn chế của chú ý có chủ định là nếu chú ý
lâu sẽ tính ra mệt mỏi, căng thẳng thần kinh, giảm hứng thú hoạt động.
3.1.3 Chú ý sau chủ định
Là sự tập trung hoạt động tâm lý đến một đối tượng mà đối tượng đó có ý nghĩa nhất
định đối với cá nhân.
Chú ý sau chủ định thật chất là chú ý có chủ định nhưng không đòi hỏi sự căng thẳng
về ý chí, con người bị cuốn hút vào nội dung và phương thức hoạt động bởi sự hấp dẫn của
đối tượng tới mức không cần sự cố gắng, sự căng thẳng thần kinh và sự nỗ lực của ý chí.
Ba loại chú ý trên có liên quan với nhau, có thể mở đầu bằng chú ý không chủ định,
rồi tiếp theo là chú ý có chủ định và có thể kết thúc là chú ý sau chủ định. Mỗi loại đều giữ lOMoAR cPSD| 58728417
một vai trò nhất định trong hoạt động của con người, trong đó chú ý sau chủ định là loại
chú ý cần hình thành trong hoạt động nhận thức của con người.
3.2. Căn cứ vào đối tượng mà chú ý hướng tới
3.2.1. Chú ý bên ngoài
Là loại chú ý hướng vào các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Là loại chú
ý đòi hỏi phải sử dụng các giác quan (thị giác, thính giác,...)
Ví dụ người tham gia giao thông chú ý tín hiệu đèn giao thông để điều khiển phương
tiện đúng quy định. Đối tượng gây ra chú ý bên ngoài:
+ Các kích thích có cường độ mạnh như âm thanh mạnh, ánh sáng chói, mùi khó chịu...
+ Các kích thíc có sự mới lạ
+ Đặc biệt trật tự sắp xếp, cấu tạo của kích thích.
3.2.2. Chú ý bên trong
Chú ý bên trong: Là loại chú ý mà ở đó hoạt động tâm lý cá nhân hướng vào hành
động, suy nghĩ, thế giới nội tâm và ý thức bản ngã của cá nhân đó.
+ Đối tượng của chú ý bên trong: cảm xúc, hồi tưởng, suy nghĩ, tư duy, ... của cá nhân.
+ Chú ý bên trong chỉ có ở con người.
Ví dụ: Anh A suy nghĩ về cách cư xử của mình với hàng xóm trong giải quyết mâu thuẫn ngày hôm qua.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tâm lý học đại cương, NXB Công
an nhân dân, Hà Nội, 2019, Chương III, tr.55-70.
2. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên). Tâm lý học đại cương. NXB ĐH SP Hà
Nội, 2014, Chương III, tr.61-63.
VẤN ĐỀ 4. HOẠT ĐỘNG 1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1. Khái niệm hoạt động
Hoạt động là sự tác động qua lại có định hướng giữa con người và thế giới xung
quanh, hướng tới biến đổi nó nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình.
Hoạt động diễn ra 2 quá trình: *
Quá trình thứ nhất là quá trình đối tượng hoá, trong đó chủ thể chuyển những cái
của mình thành sản phẩm của hoạt động. Nói một cách khác, tâm lý (tri thức, hiểu biết, kỹ
năng, kỹ xảo,...) của cá nhân được bộc lộ, được khách quan hóa trong quá trình làm ra sản
phẩm. Quá trình đối tượng hoá còn có thể gọi là quá trình xuất tâm. *
Quá trình thứ hai là quá trình chủ thể hoá, có nghĩa là khi hoạt động con người biến
những cái từ bên ngoài HTKQ thành những cái của chủ thể. Trong hoạt động, cá nhân
khám phá ra bản chất, quy luật của đối tượng, tìm ra được các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết để lOMoAR cPSD| 58728417
tác động đến đối tượng. Tất cả những cái đó cá nhân lĩnh hội, tái tạo và biến chúng thành
cái của chủ thể. Quá trình chủ thể hoá còn có thể gọi là quá trình nhập tâm.
Như vậy, tâm lý, ý thức, nhân cách con người được bộc lộ, thể hiện và hình thành
cũng như phát triển, biến đổi thông qua hoạt động.
1.2. Khái niệm hành động
2.1. Định nghĩa hành động
Hành động là một bộ phận cấu thành hoàn chỉnh của hoạt động, hướng tới đạt được mục đích cụ thể.
+ Là đơn vị của Hoạt động
+ Một hành động có cấu tạo đầy đủ: động cơ, mục đích, thao tác và sản phẩm
+ Hành động nhằm thực hiện một nhiệm vụ, mục đích nhất định
+ Hành động thể hiện tính tích cực bên ngoài (tích cực vận động) và bên trong (tích cực
tâm lý) và giữa chúng có mối quan hệ mật thiết.
2.2. Cấu trúc của hành động 3. Hành vi
Theo thuyết hành vi (Wattson, 1913): Hành vi là tổng hợp các phản ứng của cơ thể trước
các kích thích của môi trường bên ngoài, theo công thức S – R (có kích thích thì có phản
ứng không liên quan gì đến ý thức và chuẩn mực xã hội ).
Theo TLH hiện đại, Rubinstein, Leonchiev,... Hành vi được hiểu là hành động, hoạt động
được chuyển thành hành vi khi động lực của hoạt động từ bình diện đối tượng chuyển sang
quan hệ cá nhân- xã hội.
Hành vi là xử sự của con người trong một hoàn cảnh cụ thể, biểu hiện ra bên ngoài bằng
lời nói, cử chỉ, việc làm nhất định.
+ Hành vi gắn với kỹ thuật – xử sự của cá nhân
+ Hành vi gắn với nội dung xã hội nhất định - cách xử sự (cách cư xử).
Cách xử sự là hành vi thể hiện quan điểm, thái độ của chủ thể đối với người khác,
với xã hội, với các chuẩn mực đạo đức của xã hội.
2. CẤU TRÚC CỦA HOẠT ĐỘNG
Khi bàn đến cấu trúc của hoạt động lại có nhiều quan niệm khác nhau, ở đây ta xem
xét cấu trúc khá toàn diện của nhà tâm lý học Liên Xô - A.N.Leonchiev đưa ra. Ông đã nêu
lên cấu trúc vĩ mô của hoạt động bao gồm 6 thành tố và mối quan hệ giữa 6 thành tố này.
Theo quan niệm của ông, khi tiến hành hoạt động có 3 thành tố về phía chủ thể và
mối quan hệ giữa 3 thành tố này là: hoạt động, hành động và thao tác. Ba thành tố này trực
thuộc mặt thao tác kỹ thuật của hoạt động. Còn về phía khách thể gồm 3 thành tố và mối
quan hệ giữa chúng đó là: động cơ, mục đích và phương tiện, 3 thành tố này tạo nên nội
dung đối tượng của hoạt động. Nói cụ thể hơn là hoạt động hợp bởi các hành động, các
hành động diễn ra bằng một chuỗi các thao tác. Hoạt động luôn luôn hướng vào động cơ,
đó là mục đích chung, mục đích cuối cùng của hoạt động. Mục đích chung của hoạt động lOMoAR cPSD| 58728417
được cụ thể hoá bằng những mục đích cụ thể (bộ phận) mà hành động hướng vào. Để đạt
được mục đích con người phải sử dụng các phương tiện. Tuỳ theo các phương tiện, điều
kiện mà con người tiến hành hành động đạt mục đích, hay hành động thực hiện được nhờ
các thao tác. Sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, giữa đơn vị thao tác kỹ thuật
với nội dung đối tượng của hoạt động tạo ra sản phẩm của hoạt động cả về phái chủ thể và phía khách thể. Chủ thể Khách thể Hoạt động Động cơ Hành động Mục đích Thao tácPhương tiện Sản phẩm
Sơ đồ cấu trúc tâm lý của hoạt động
Các thành tố trong cấu trúc của hoạt động có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành cấu
trúc chung, thống nhất, tạo điều kiện cho hoạt động có kết quả, là cơ sở nảy sinh và phát
triển tâm lý - ý thức con người.
3. QUÁ TRÌNH ĐỘNG CƠ HÓA 3.1. Định nghĩa
Quá trình biến động lực thành động cơ gọi là quá trình động cơ hóa
3.2. Các yếu tố trong quá trình động cơ hóa
3.2.1. Các yếu tố bên trong • Nhu cầu:
+ Là yếu tố quan trọng nhất;
+ Là nguyên nhân bên trong của mọi hành vi cá nhân;
Ví đụ: Sinh viên có nhu cầu tài chính để giảm bớt khó khăn cho gia đình, mua thêm tài liệu
nên vừa đi học vừa đi làm thêm.
+ Nhu cầu bao gồm nhu cầu bản năng và nhu cầu xã hội;
+ Nhu cầu được tổ chức theo một hệ thống cấu trúc, tạo thành xu hướng cá nhân; +
Nhu cầu được củng cố trong quá trình thỏa mãn. • Cảm xúc
+ Cảm xúc gắn với sự thỏa mãn, hay không thỏa mãn nhu cầu cá nhân trong HĐ; lOMoAR cPSD| 58728417
+ Cảm xúc có tác dụng củng cố, thúc đẩy hoặc kìm hãm động cơ;
+ Cảm xúc tiêu cực làm tăng sự căng thẳng của động cơ dẫn tới tìm kiếm hoạt động mới
thay thế; Cảm xúc tích cực làm giảm sự căng thẳng của động cơ, có tác dụng kích thích,
thúc đẩy hoạt động của cá nhân.
Ví dụ: Sinh viên có cảm hứng trong nghiên cứu khoa học họ sẽ tích cực nghiên cứu, tìm
tòi cái mới trong đề tài của nhóm.
3.2.2. Các yếu tố bên ngoài
- Kích thích tính tích cực trong tâm lý cá nhân
- Tạo nên xu hướng của hoạt động
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 1.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tâm lý học đại cương, NXB Công an nhân
dân, Hà Nội, 2019, Chương IV, tr.71-98. 2.
Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên). Tâm lý học đại cương. NXB ĐH SP Hà Nội, 2014, Chương III, tr.42-49.
VẤN ĐỀ 5. HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC
I. HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CẢM TÍNH 1. CẢM GIÁC
1.1. Khái niệm về cảm giác
Trong cuốn sách tâm lý học của Mỹ, cảm giác là quá trình tiếp nhận thông tin
của các cơ quan nhận cảm.
Theo các tài liệu tâm lý học đại cương do các tác giả Việt Nam biên soạn đã
đưa ra định nghĩa cảm giác :
Cảm giác là một quá trình tâm lí phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính
bề ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan của chúng ta.
Trong cuốn giáo trình do giảng viên trường Đại học Luật biên soạn, cảm giác
được định nghĩa như sau :
Cảm giác là quá trình nhận thức phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ, bề ngoài của
sự vật hiện tượng và trạng thái bên trong của cơ thể khi chúng đang trực tiếp tác
động vào giác quan của chúng ta. lOMoAR cPSD| 58728417
1.2. Đặc điểm của cảm giác
Cảm giác có những đặc điểm cơ bản sau: -
Cảm giác là một quá trình tâm lý, nghĩa là nó có mở đầu, diễn biến và
kết thúc một cách cụ thể, rõ ràng. Cảm giác nảy sinh, diễn biến khi có một kích thích
trực tiếp tác động đến các giác quan (mắt, tai,...) và kích thích ngừng tác động thì
giác quan cũng ngừng hoạt động. -
Cảm giác chỉ phản ánh từng thuộc tính cụ thể của sự vật hiện tượng
thông qua hoạt động của từng giác quan riêng lẻ. Do vậy, cảm giác chưa phản ánh
trọn vẹn, đầy đủ các thuộc tính của sự vật hiện tượng. Nghĩa là, cảm giác mới chỉ
cho ta từng cảm giác cụ thể, riêng lẻ về từng thuộc tính của vật kích thích. Mỗi kích
thích tác động vào cơ thể cho ta một cảm giác tương ứng. -
Cảm giác không chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện
tượng mà còn phản ánh trạng thái bên trong cơ thể. -
Cảm giác phản ánh sự vật hiện tượng một cách trực tiếp. -
Cảm giác của con người khác xa về chất so với cảm giác của con vật,
điểm khác nhau cơ bản là cảm giác con người mang bản chất xã hội - lịch sử. Bản
chất xã hội trong cảm giác của con người được thể hiện ở chỗ:
+ Đối tượng phản ánh trong cảm giác của con người không chỉ là những thuộc
tính của sự vật hiện tượng vốn có sẵn trong tự nhiên mà còn phản ánh những thuộc
tính của sự vật hiện tượng do con người sáng tạo ra thông qua hoạt động và giao tiếp.
+ Cơ sở sinh lý của cảm giác của con người không chỉ phụ thuộc vào hệ thống
tín hiệu thứ nhất mà còn chịu sự chi phối của hệ thống tín hiệu thứ hai – hệ thống tín hiệu của ngôn ngữ.
+ Cảm giác của con người chỉ là mức độ định hướng đầu tiên sơ đẳng nhất chứ
không phải là cao nhất, duy nhất như ở một số động vật. Cảm giác của con người
chịu sự chi phối của nhiều hiện tượng tâm lý khác nhau của con người như tư duy,
tình cảm, hứng thú, nhu cầu,...
+ Cảm giác của con người được phát triển mạnh mẽ và phong phú dưới ảnh
hưởng của hoạt động và giáo dục, tức là cảm giác của con người được tạo ra theo
phương thức đặc thù của xã hội, do đó mang đặc tính xã hội.
1.3. Các quy luật cơ bản của cảm giác
1.3.1. Quy luật về tính nhạy cảm và ngưỡng cảm giác
Tính nhạy cảm của cảm giác là khả năng của các giác quan đảm nhận kích
thích trực tiếp tác động đến các giác quan đó.
Không phải mọi kích thích đều gây ra cảm giác, muốn gây ra cảm giác kích
thích phải đạt tới một giới hạn nhất định gọi là ngưỡng cảm giác. lOMoAR cPSD| 58728417
Ngưỡng cảm giác là giới hạn mà ở đó kích thích gây ra được cảm giác.
Ngưỡng cảm giác có 2 loại: Ngưỡng tuyệt đối và ngưỡng sai biệt Trong
ngưỡng tuyệt đối bao gồm:
- Ngưỡng tuyệt đối phía trên là cường độ kích thích tối đa vẫn gây cho ta cảm giác. 1.
- Ngưỡng tuyệt đối phía dưới là cường độ kích thích tối thiểu đủ
gây cho ta cảm giác, nó tỷ lệ nghịch với độ nhạy cảm của cảm giác. 2.
Giới hạn giữa ngưỡng phía dưới và ngưỡng phía trên gọi là vùng
cảm giác (vùng phản ánh). Trong vùng cảm giác có một vùng phản ánh tốt nhất.
Chẳng hạn: đối với cảm giác nhìn, ngưỡng tuyệt đối phía dưới của mắt là bước
sóng ánh sáng đạt 390 milimicron và ngưỡng tuyệt đối phía trên là 780 milimicron,
vùng ánh sáng giúp mắt phản ánh tốt nhất là 565 milimicoron. Đối với cảm giác
nghe, bước sóng âm ở ngưỡng tuyệt đối phía dưới là 16 héc, ngưỡng tuyệt đối phía
trên là 20.000 héc, vùng tối ưu là 1000 héc. 3.
Tính nhạy cảm của cảm giác có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với
ngưỡng tuyệt đối phía dưới, tức ngưỡng cảm giác phía dưới càng nhỏ thì
tính nhạy cảm càng cao và ngược lại. 4.
- Ngưỡng sai biệt: Đó là mức độ chênh lệch tối thiểu về cường
độ hoặc tính chất của hai kích thích cùng loại đủ để cho ta phân biệt hai
kích thích đó. Ngưỡng sai biệt là một hằng số. Cảm giác thị giác là 1/100,
thính giác là 1/10, cảm giác mạc giác là 1/30,... 5.
Ví dụ: Một vật nặng 1kg, phải thêm vào ít nhất là 33,3g nữa thì
mới gây cảm giác về sự biến đổi trọng lượng của nó. 6.
Tính nhạy cảm sai biệt là năng lực của giác quan có thể nhận ra
được ngưỡng sai biệt, là khả năng phân biệt được sự khác biệt tối thiểu
giữa hai cường độ kích thích thuộc cùng một loại để tạo ra một loại cảm
giác mới khác với cảm giác ban đầu. 7.
Ngưỡng sai biệt và tính sai biệt của cảm giác có mối quan hệ tỷ
lệ nghịch. Ngưỡng sai biệt càng nhỏ thì tính sai biệt càng lớn và ngược lại.
1.3.2. Quy luật về tính thích ứng của cảm giác 8.
Để đảm bảo cho sự phản ánh được tốt nhất và đảm bảo cho hệ
thần kinh khỏi bị huỷ hoại, cảm giác của con người có khả năng thích ứng
với kích thích. Đó là khả năng thay đổi độ nhạy cảm cho phù hợp với sự
thay đổi của cường độ kích thích. 9.
Có nhiều kiểu thích ứng của cảm giác:
10. + Cảm giác hoàn toàn mất đi khi quá trình kích thích kéo dài. lOMoAR cPSD| 58728417
11. Ví dụ: Ít ai có cảm giác về sức nặng của đồng hồ đeo tay, kính
đeo ở mắt, quần áo mặc trên người.
12. + Khi cường độ kích thích tăng thì giảm độ nhạy cảm.
13. Ví dụ: Từ chỗ tối bước qua chỗ sáng, phải qua một thời gian đợi
cho tính nhạy cảm của khí quan phân tích giảm xuống ta mới phân biệt
được các vật chung quanh. Người lái máy bay bị đèn chiếu dọi vào mắt ít
nhất cũng qua từ 3 đến 6 giây mới giảm được sự nhạy cảm để nhìn rõ con số trên đồng hồ.
14. + Khi cường độ kích thích giảm thì độ nhạy cảm tăng.
15. Ví dụ: Từ nơi sáng bước vào bóng tối
Hai bàn tay, một ngâm vào nước nóng, một ngâm vào nước lạnh sau đó nhúng
cả hai vào chậu nước bình thường thì bàn tay ngâm ở châu nước cảm thấy nước ở
chậu lạnh hơn so với bàn tay kia.
Mức độ thích ứng của các loại cảm giác khác nhau là không giống nhau.
Khả năng thích ứng của các cảm giác là do rèn luyện.
1.3.3. Quy luật về sự tác động lẫn nhau giữa các cảm giác
Sự tác động qua lại giữa các cảm giác là sự thay đổi tính nhạy cảm của một
cảm giác này dưới ảnh hưởng của cảm giác kia. Sự tác động qua lại đó diễn ra theo
một quy luật chung như sau: Kích thích yếu lên một cơ quan phân tích này này sẽ
làm tăng độ nhạy cảm của cơ quan phân tích kia. Kích thích mạnh lên một cơ quan
phân tích này sẽ làm giảm độ nhạy cảm của cơ quan phân tích kia.
Ví dụ: Những âm thanh nhẹ làm tăng thêm tính nhạy cảm nhìn
Một mùi thơm dễ chịu làm cho mắt ta nhìn tinh hơn
Lúc bệnh ăn gì cũng không cảm thấy ngon
Sự tác động qua lại giữa các cảm giác có thể diễn ra đồng thời hay nối tiếp giữa
các cảm giác cùng loại hay khác loại.
Ví dụ: Sau một kích thích lạnh thì một kích thích ấm sẽ có vẻ nóng hơn- Đó
là tương phản nối tiếp. Hoặc tờ giấy xám trông nổi hơn khi đặt trên nền trắng so với
nền màu đen, điều này có ý nghĩa lớn trong hội họa, kiến trúc khi phối các màu sắc với nhau. 2. TRI GIÁC
2.1. Khái niệm về tri giác
Ở quá trình cảm giác chỉ có thể phản ánh một cách riêng lẻ những thuộc tính bề
ngoài của sự vật hiện tượng những ở quá trình tri giác có thể phản ánh một cách trọn
vẹn toàn bộ các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng (với quả quýt: hình dáng,
độ lớn, độ trơn nhẵn, mùi, vị, màu sắc...). lOMoAR cPSD| 58728417
Tri giác là quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài
của sự vật hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.
Phản ánh trọn vẹn trong quá trình tri giác là phản ánh một số thuộc tính bề
ngoài đủ để tạo nên một thể thống nhất, một quan hệ nhất định, đủ để phân biệt sự
vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác.
2.2. Đặc điểm của tri giác -
Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp. -
Tri giác phản ánh hiện thực khách quan một cách trọn vẹn, cho ta hình
ảnh hoàn chỉnh về sự vật hiện tượng. Tính trọn vẹn của tri giác là tính trọn vẹn khách
quan của bản thân sự vật hiện tượng và sự tác động đồng bộ của các thuộc tính của
sự vật hiện tượng tới các giác quan nhất định.
Sự vật hiện tượng tồn tại một cách khách quan với đầy đủ các thuộc tính,
chúng cùng tác động lên các giác quan của con người nên ở mức độ tri giác cho phép
con người phản ánh một cách đầy đủ, trọn vẹn những thuộc tính đó.
Ví dụ: Quả quýt: tồn tại các thuộc tính là màu xanh pha vàng, vỏ nhẵn, hình
tròn, vị chua ngọt, mùi thơm... Nó được các giác quan tương ứng của con người cảm
nhận là thị giác, xúc giác, vị giác, khứu giác... cho một hình ảnh trọn vẹn về quả quýt. -
Tri giác phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp, nghĩa là sự
vật hiện tượng phải trực tiếp tác động vào các giác quan của ta. 1.
- Tri giác là thành phần chính của nhận thức cảm tính, tồn tại độc lập ở người trưởng thành.
Ở người trưởng thành quá trình tri giác còn chịu sự đan xen của nhiều yếu tố
khác, như kinh nghiệm, xúc cảm, tình cảm, hứng thú. 2. Ví dụ: 3.
Nhìn tập hợp các nét gạch đứt trên, con người vẫn có thể phản ánh đó là hình
tam giác và hình tròn do đã có kinh nghiệm về các hình này. Sự trọn vẹn, đầy đủ về
các thuộc tính do tri giác mang lại không phải là sự cộng gộp đơn giản những cảm
giác thành phần mà là kết quả do tri giác phản ánh sự vật hiện tượng theo những cấu trúc nhất định.
Trong công tác điều tra, trinh sát cần thiết phải tri giác trọn vẹn sự vật hiện
tượng trong một chỉnh thể thống nhất đúng với hiện thực từ đó mới có những cơ sở
và kết luận đúng đắn cho công tác nghiệp vụ, tránh tình trạng "thầy bói xem voi".