lOMoARcPSD| 58412604
A. MỞ ĐẦU
Tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật của giới trẻ đang trở thành một vấn đề nghiêm
trọng ở Việt Nam. Sự gia tăng của các vụ việc sử dụng ma túy, đua xe trái phép, hỗn
chiến và án mạng trong giới trẻ cho thấy sự cần thiết của việc tìm hiểu nguyên nhân và
giải pháp cho vấn đề này.
Một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật của giới trẻ là môi
trường sống. Môi trường sống có thể tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý và hành
vi của cá nhân, đặc biệt là trong lứa tuổi vị thành niên. Sự buông lỏng quản lý của gia
đình và xã hội, sự ảnh hưởng của nội dung xấu trên mạng xã hội và sự thiếu hướng dẫn
của các cơ quan chức năng có thể dẫn đến sự hình thành của các hành vi tiêu cực.
Tâm lý học hành vi là một lĩnh vực nghiên cứu khoa học về hành vi của con người. Với
việc tìm hiểu về tâm lý học hành vi, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về nguyên nhân của
hành vi vi phạm pháp luật của giới trẻ và tìm ra các giải pháp hiệu quả để ngăn chặn và
điều trị.
Chủ đề "Tâm lý học hành vi: lịch sử phát triển, những luận điểm chính, những đóng góp
và hạn chế" là một chủ đề quan trọng và thú vị. Thông qua việc nghiên cứu về tâm lý học
hành vi, chúng ta có thể phát triển khả năng tư duy, hình thành kỹ năng quan sát, phân
tích và áp dụng tâm lý hành vi với mọi người, mọi lĩnh vực cuộc sống như y học, chính
trị, giáo dục, marketing...
Tóm lại, việc tìm hiểu về tâm lý học hành vi là một bước quan trọng trong việc hiểu rõ
hơn về hành vi của con người và tìm ra các giải pháp hiệu quả để ngăn chặn và điều trị
hành vi vi phạm pháp luật của giới trẻ.
B.NỘI DUNG
I. Lịch sử phát triển của thuyết tâm lý học hành vi
*Giai đoạn 1: Nghiên cứu của Watson và Nghiên cứu của Thorndike
a) Nghiên cứu của Watson
1. Tóm tắt tiểu sử
John Broadus Watson (09/01/1878-25/09/1958) là nhà tâm lý học người Mỹ đã
thành lập trường phái tâm lý học về hành vi vào năm 1913.
2. Học thuyết tâm lý hành vi của Watson
- Khái niệm hành vi được Waston đưa ra lần đầu tiên vào năm 1913, theo ông, học tập là
một sự thay đổi trong hành vi có thê quan sát được. J. Watson cho rằng tâm lý học không
mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà chỉ nghiên cứu hành vi của cơ thể ở con người
cũng như ở đọng vật. J.Watson cũng tin rằng các phản ứng của con người đối với kích
lOMoARcPSD| 58412604
thích của môi trường chính là cái tạo nên hành vi. Nói một cách dễ hiêu hơn, hành vi
được hiểu là tổng số các cử động bên ngoài nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp lại một kích thích
nào đó theo một công thức nhất định. S - R (Stimulus - Reaction)
Kích thích - Phản ứng = Hành vi
Watson đã tiến hành thí nghiệm "Little Albert" để kiểm tra giả thuyết rằng cảm
xúc có thể học được bằng sự liên kết có điều kiện, Watson đã thí nghiệm ở một cậu bé 9
tháng tuổi tên là Albert.
Albert được đưa đến phòng thí nghiệm, nơi ông đưa ra một con chuột bạch, trước
đó cậu bé không có phản ứng sợ hãi. Khi cậu bé đến gần để chạm vào nó, Watson đã
dùng búa đập vào một thanh kim loại. Kết quả của cú đánh mạnh, cậug ta khó chịu và do
sợ hãi, nó bắt đầu khóc. Watson lặp lại quá trình này nửa tá lần và quan sát thấy rằng, sau
nhiều lần thử nghiệm khác nhau, cậu bé Albert sợ hãi chỉ đơn giản là nhìn thấy con chuột
bạch. Albert đã học được rằng mỗi khi con chuột xuất hiện, chiếc búa sẽ đập vào mặt bàn
kim loại. Tức là cậu bé đã lường trước được cú đánh mạnh.
Thí nghiệm của Waston đã đem lại một số kết luận đáng lưu ý. Kết luận đầu tiên là
cảm xúc có thể được điều kiện hóa thông qua các kỹ thuật kích thích phản ứng đơn giản
giống như hành vi được thực hiện trong thí nghiệm. Tiếp theo, ngoài nỗi sợ hãi, các cảm
xúc khác cũng có thể được học bằng cách sử dụng kỹ thuật kích thích phản ứng giống
như trong thí nghiệm. Kết luận thứ ba mà các nhà nghiên cứu rút ra là nỗi ám ảnh, sự tôn
sùng hoặc phản ứng cực đoan phát triển theo cách tương tự như nỗi sợ hãi có điều kiện,
dù chúng phức tạp hơn nhiều.
3. Đóng góp và hạn chế
Watson đã nêu lên một quan điểm tiến bộ trong tâm lý học: coi hành vi là do ngoại
cảnh quyết định, hành vi có thể quan sát được, nghiên cứu được một cách khách quan, từ
đó có thể điều khiển hành vi theo phương pháp "thử - sai".
Thuyết hành vi có nền tảng dựa trên những hành vi quan sát được, vì vậy đôi khi
chúng ta sẽ cảm tấy khá dễ dàng trong trong việc định lượng và thu thập số liệu khi tiến
hành nghiên cứu
Các kỹ thuật điều trị có hiệu quả như can thiệp sâu vào hành vi, phân tích hành
vi, phương pháp tặng thưởng có giá trị kinh tế và huấn luyện tập sự riêng biệt đều có gốc
rê từ thuyết hành vi. Phân tích hành vi vẫn thường được sử dụng như một kỹ thuật trị
liệu giúp trẻ bị tự kỷ và chậm phát triên trí tuệ học những kỹ năng mới. Và hơn cả,
thuyết hành vi của Watson được xem là tiền đề để phát triển các học thuyết hành vi sau
này. Tuy nhiên, nhiều người phê bình thuyết hành vi, cho rằng đây chỉ là cách tiếp cận
một chiều khi tìm hiểu về hành vi con người. Theo họ, các học thuyết về hành vi không
bao hàm được tự do ý chí và sự tác động mang tính nội tại như tâm trạng, suy nghĩ và
cảm nghĩ. Mặt khác, nó cũng không nói lên được những dạng học tập khác xuất hiện
không cần đến các yếu tố củng cố và trừng phạt. Hơn nữa, con người và động vật có thể
lOMoARcPSD| 58412604
thích nghi hành vi khi có thông tin mới xuất hiện dù là hành vi đó được thiết lập thông
qua các yếu tố củng cố đi chăng nữa. b) Nghiên cứu của Thorndike
1. Tiêu sử
Edward Lee Thorndike (31/08/1874-09/08/1949) sinh ra tại
Williamsburg, Massachusetts. Ong là một trong những nhà tâm lý học đâu tiên cô găng
diên giải việc học băng cách liên kết các kích thích và phản ứng, tập trung nghiên cứu về
học tập và hành vi của động vật.
2. Học thuyết tâm lí hành vi của Thorndike
- Thorndike đặt một con mèo vào hộp câu đố, rồi đặt 1 mẫu cá ở bên ngoài và quan sát n
lực trốn khỏi cái hộp để đến lấy thức ăn của con vật. Ông khuyến khích nó trốn thoát để
lấy một mầu cá đặt bên ngoài và tính thời gian nó trốn thoát. Những con mèo đã thử
nghiệm nhiều cách khác nhau để thoát khỏi hộp xếp hình và tiếp cận thức ăn. Cuối cùng,
chúng vô tình vấp phải đòn bấy mở lồng. Khi nó thoát ra, nó lại được đưa vào, và một lần
nữa thời gian nó thoát ra được ghi lại. Trong các thử nghiệm liên tiếp, những con mèo sẽ
học được rằng việc nhấn cần gạt sẽ có những hậu quả thuận lợi và chúng sẽ áp dụng hành
vi này, ngày càng trở nên nhanh hơn khi nhấn cần gạt.
Kết quả của thí nghiệm cho thấy: Những con mèo không có khả năng học hỏi bằng cách
quan sát, chúng chỉ học cách giải quyết vấn đề sau khi vô tình đạt được phần thưởng. Khi
đạt được kêt quả thuận lợi đó, những con mèo có nhiều khả năng lặp lại hành vi sau đó.
Đối với Thorndike này gọi nó là luật hiệu lực.
Quy luật hiệu ứng có nội dung như sau: Các hành vi tạo ra kết quả tốt sẽ có nhiều
khả năng được lặp lại lần sau, còn các hành vi tạo ra kết quả xấu thì ngược lại
3. Đóng góp và hạn chế
Thorndike đã đưa ra khái niệm củng cố và là người đầu tiên áp dụng các nguyên
tắc tâm lý học vào lĩnh vực học tập.
Nghiên cứu của ông đã dẫn đến nhiều lý thuyết và quy luật học tập, chẳng hạn n
điều hòa hoạt động. Phát hiện của
Thorndike đã ảnh hưởng lớn lao lên sự phát triển của thuyết hành vi B.F.Skinner
đã dựa trên định luật về hiệu quả để xây dựng nên thuyết điều kiện hóa từ kết quả của
mình.
*Giai đoạn 2: Nghiên cứu của Skinner và Nghiên cứu của Bandura
1. Nghiên cứu của B.F Skinner
Burrhus Frederic Skinner (20/3/1904-18/8/1990), sinh ra tại tiểu bang Pennsylvania, Hoa
Kỳ. Ngoài vai trò là một nhà tâm lý học, ông còn được biết đến trong vai trò là một nhà
văn, nhà phát minh và là một triết gia xã hội. 2. Học thuyết tâm lý hành vi của
Skinner
lOMoARcPSD| 58412604
Skinner trực tiếp kế thừa và phát triển tâm lý học hành vi cổ điển của J.Watson,
coi hành vi cơ thể là đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, hành vi con người và động vật
theo quan điêm của J.Watson chủ yếu dựa trên phản xạ có điều kiện của Pavlov, tức là
các phản xạ bị ức chế bởi các kích thích nhất định. Còn theo B.F.Skinner, trong nhiều
năm, ông cùng các cộng sự kiên trì thực nghiệm hình thành ở động vật và ở người các
hành vi mà ông gọi là hành vi tạo tác và kích thích củng cố là trung tâm trong toàn bộ
nghiên cứu của Skinner.
Thí nghiệm của Skinner được mô tả như sau: ông đưa chuột bạch vào lồng có gắn
đòn bẩy với thiết bị làm thức ăn bật ra mỗi khi chuột giẫm lên. Thoạt đầu, con chuột đi
lại tìm thức ăn trong chuồng và ngẫu nhiên giẫm lên đòn bẩy và lập tức thức ăn bật ra.
Lối vận hành, là hành vi xảy ra ngay sau khi có tác nhân củng cố, trong trường hợp này
tác nhân củng cố là thức ăn. Tất nhiên sau đó chuột có xu hướng nhắc lại hành vi giẫm
chân lên đòn bây và hăm hở ăn thức ăn rớt xuống. Như vậy hành vi tạo tác đã được hình
thành. Như vậy có thể kết luận rằng hành vi tạo tác là hành vi được hình thành từ
một hành vi trước đó của chủ thể, do tác động của môi trường và được củng cố, đóng vai
trò là tác nhân kích thích.
Sự củng cố bao gồm hai loại: củng cố tích cực và củng cố tiêu cực. Củng cố tích
cực xuất hiện khi hành vi tạo tác tạo ra những kích thích mới, các kích thích mong muốn
để nhằm thỏa mãn, ví dụ một nhân viên đến làm việc đúng giờ mỗi ngày có thể nhận
được một thẻ quà tặng vào cuối mỗi tháng như một cách để củng cố tính kỷ luật. Còn
củng cố tiêu cực xuất hiện khi một hành động giúp tránh được tình huống không dễ chịu
có xu hướng lặp lại trong tình huống tương tự, ví dụ khi tham gia giao thông có ý định
vượt đèn đỏ, nhưng khi nhìn thấy cảnh sát giao thông, ta có xu hướng dừng đèn đỏ để
không bị bắt.
Skinner nghĩ rằng, sự ý thức trong tưởng tượng và hoạt động của con người phụ
thuộc vào kêt quả của những hành động trước đó. Nếu đó là một kết quả xấu, thì có cơ
hội cao nó sẽ không lặp lại một lần nào nữa, và ngược lại nếu kết quả là tốt thì những
hành động ấy có thể được lặp lại và phát triển một cách mạnh mẽ hơn nữa và Skinner gọi
đó là nguyên tắc của sự củng cố, cuối cùng học thuyết hành vi chính là kết quả của công
trình nghiên cứu.
3. Những đóng góp và hạn chế
Tâm lý học hành vi của Skinner đã mang lại những đóng góp hết sức to lớn. Đặc
biệt là những ứng dụng trong giáo dục, y tê,... đã góp phân cung câp công cụ đê con
người có thế năm bắt đa dạng các khía cạnh của cuộc sống và tâm lý con người, xây
dựng nên diện mạo mới của tâm lý học khách quan
Ví dụ, con người đã áp dụng lý thuyết tâm lý học hành vi của Skinner trong mô
hình giảng dạy "lấy nội dung học, tự học và sự tương tác làm trung tâm". Theo học
thuyết phản xạ có điều kiện chủ động của B.F.Skinner: bài học là vì lợi ích của chính
người học, mục đích học, nội dung học là do chính nhu cầu của người học. Trò là người
lOMoARcPSD| 58412604
tự mình làm ra sản phẩm ban đầu (tri thức tự mình làm ra) dưới sự hướng dẫn của thầy,
tích cực chủ động tham gia vào việc học bằng hệ thống tương tác có hiệu quả, tự giác tìm
kiếm kiến thức bằng hành động thử và sai của mình. Còn thầy là người hướng dẫn, kích
thích hoạt động của người học, là người cố vấn, khuyến khích, có trách nhiệm tạo ra các
điều kiện cần thiết để cho người học có thể tự mình làm ra sản phẩm (sự củng cố).
Bên cạnh đó cũng có những điêm còn hạn chê trong lý thuyết hành vi của Skinner.
Thứ nhất, ông có một luận điêm khá sai lệch là việc dựa trên thuyết hành vi cổ điển khi
coi con người và động vật không có một sự khác biệt nào cả.
Thứ hai, con người có thể chối bỏ trách nhiệm về hành vi của mình khi ông cho
rằng hành vi tốt, xấu, đúng, sai không phải do tính cách hay do những tri thức về cái
đúng và sai mà là dọ các điều kiện hoàn cảnh bao gồm một số lớn các củng cố bằng lời
nói ngôn ngữ khái quát tốt, xấu, đúng, sai.
Thứ ba, Skinner cho rằng hành vi chỉ được thực hành thông qua hành vi, hành động có
thể tiếp thu bằng cách hành động. Nhưng ông chỉ tính đến những gì quan sát được có liên
quan đến phản ứng vận động mà quên đi ra rằng phản ứng bên ngoài không có nghĩa là
xây dựng hành vi.
b) Nghiên cứu của Albert Bandura 1. Tóm tắt tiểu sử
- Albert Bandura (04/12/1925-2021) là một nhà tâm lý học người Canada. Ông đã
có nhiều đóng góp nền tảng trong nhiều lĩnh vực của tâm lý học, bao gồm lý thuyết về
nhận thức, trị liệu, tâm lý học nhân cách và là người có ảnh hưởng trong sự chuyển đổi từ
chủ nghĩa hành vi tới tâm lý học nhận thức.
2. Học thuyết tâm lý hành vi của Bandura
Vào năm 1961, ông đã tiến hành một nghiên cứu để xem những hành vi xã hội (ví dụ gây
hấn) có thể đạt được bằng cách quan sát và bắt chước, đó là nghiên cứu búp bê trứng
Bobo (Bobo doll). Học thuyêt của ông còn được gọi là Thuyêt học tập xã hội vì ông
nghiên cứu hành vi ở cấp độ hình thành và thay đổi trong những tình huống xã hội. Ông
đã cho quay bộ phim (do một nữ sinh viên học trò của ông) đóng vai cô ý đánh đập một
con búp bê trứng Bobo. Sinh viên nữ này trong lúc đâm đá quả trứng nhựa ây và la lên:
Sockeroo? (Ngu ngốc). Chị ta đá quả trứng, ngồi lên nó, đánh bằng búa, đồng thời la lối
với nhiều câu nói mang nội dung thù địch. Sau đó Bandura đem cuốn phim này chiếu cho
các em nhỏ học lớp mẫu giáo xem. Sau đó các em được cho ra chơi trong căn phòng có
một con búp bê trứng Bobo và mây cái búa nhựa. Một nhóm các nhà nghiên ngồi quan
sát với giấy bút để chuẩn bị ghi chép.
Như đã được ông tiên đoán và những người quan sát đã ghi nhận rằng: Một số đông các
em xúm vào đánh đập con búp bê trứng bobo kia rất hăng hái. Các em vừa đánh con búp
bê trứng vừa la hét câu : Sockeroo ? Các em đá con búp bê, ngồi lên nó, đánh nó bằng
búa y như các em đã nhìn thấy trong video. Nói khác đi, các em bắt chước cô sinh viên
trong cuốn phim, và các em bắt chước khá chính xác.
lOMoARcPSD| 58412604
Điều này diễn biến như đã dự định ban đầu, nhưng điểm đáng chú ý Bandura đưa ra là :
Những trẻ em này thay đối hành vi của mình mà chẳng cần phải được thưởng hay có
những tính toán trước đó. Ông gọi đây là hiện tượng học bằng cách quan sát hay rập
khuôn và từ đó Thuyết học tập xã hội ra đời. Nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng đối
với ảnh hưởng của bạo lực truyền thông đối với trẻ em. Có bốn quy trình tham dự vào
học tập quan sát được Bandura đề xuất:
- Thứ nhất là chú ý, việc ít trình diễn mô hình không bảo đảm thu được hành vi.
Người quan sát cân tham dự và chú ý nhận ra các đặc điểm bản chất của mô hình
phản ứng. Để một hành vi được bắt chước, nó phải thu hút sự chú ý của chúng ta
- Thứ hai là ghi nhớ, hành vi có thể được chú ý nhưng không phải lúc nào nó cũng
được nhớ rõ ràng và dẫn tới việc không bắt chước. Phần lớn học tập xã hội không
phải diễn ra ngay lập tức, ngay cả khi hành vi được sao chép ngay sau khi cá nhân
nhìn thấy nó, nhưng cần phải có một bộ nhớ để chủ thể tham khảo
- Thứ ba là quá trình tái tạo vận động, đây là khả năng thực hiện hành vi mà "người
mẫu" vừa thể hiện. Chúng ta thấy nhiều hành vi hàng ngày và muốn bắt chước,
nhưng điều này không phải lúc nào cũng có thể. Điều này ảnh hưởng đến quyết
định của chúng ta có nên thử và bắt chước nó hay không. Hãy tưởng tượng một bà
cụ 90 tuổi, cố gắng để đi bộ xem Dancing on Ice. Cụ bà có thể đánh giá cao kỹ
năng của diễn viên và xem đây một điều mong muốn làm theo, nhưng cụ bà này
sẽ không cố gắng bắt chước vì bà ta không đủ sức khỏe đề có thê làm được
- Thứ tư là động lực, đây là ý chí thực hiện hành vi. Để học tập qua quan sát được
thành công, phải có động lực để bắt chước lại hành vi đã được hình mẫu hóa.
Củng cố và trừng phạt đóng một vai trong quan trọng trong động lực. Ví dụ, nếu
bạn thấy một học sinh nào đó được thưởng vì đến lớp sớm thì bạn có thể sẽ xuất
hiện sớm hơn một vài phút mỗi ngày, nhưng nếu bạn thấy việc được thưởng là
không cần thiết cho bản thân thì bạn sẽ không bắt chước đến sớm, và thậm chí đến
muộn rồi bị phạt.
3. Những đóng góp và hạn chế
- Thuyết nhận thức xã hội đã được thừa nhận rộng rãi trong tâm lý học, với tư cách
là phương pháp có hiệu quả nghiên cứu hành vi trong điều kiện thí nghiệm và thay đổi
hành vi trong lâm sàng. Thuyết do ông sáng tạo phù hợp với tâm lý học Mĩ thế kỉ 20 cả
từ góc độ chức năng và thực tiễn. Nó có ích cho việc áp dụng trong những nghiên cứu
trong phòng thí nghiệm, phù hợp với bầu không khí trí tuệ hiện hay, trong đó vai trò to
lớn được dành cho việc nghiên cứu những quá trình nhận thức và hoàn toàn có thể áp
dụng được cho những nhiệm vụ mà cuộc sống đặt ra. Theo ý kiến của nhiều nhà tâm lý
học, các công trình của Bandura là một đỉnh cao mới thú vị và có hiệu quả trong lịch sử
lâu dài của Thuyết hành vi.
- Là một công cụ can thiệp, thuyết học tập xã hội mang lại rất nhiều tiềm năng trong
việc đào tạo, hiểu và áp dụng học tập xã hội vào đời sống cũng như phát triển lý thuyết
học tập xã hội đề xuất rằng mọi người học hỏi lẫn nhau thông qua quan sát, bắt chước
lOMoARcPSD| 58412604
mô hình hóa. Nguyên tắc này có thể được áp dụng để giúp khám phá cách thức các mô
hình vai trò tích cực có thể thúc đẩy hành vi mong muốn và tạo cơ hội cho sự thay đôi xã
hội. - Tuy nhiên lý thuyêt học tập xã hội không phải là một giải thích đầy đủ, hoàn chỉnh.
Mặc dù nó có thê giải thích một số hành vi khá phức tạp, nhưng nó không thể giải thích
thỏa đáng cho chúng ta về phát triển toàn bộ phạm vi của hành vi bao gồm cả suy nghĩ và
cảm xúc. Chúng ta có nhiều cách kiểm soát nhận thức đối với hành vi của chúng ta và chỉ
vì chúng ta đã có kinh nghiệm về hậu quả xấu của hành vi thì chúng ta không tái tạo
hành vi ây nữa. Chính vì lý do này mà Bandura đã sửa đôi lý thuyêt của mình vào năm
1986 đối tên thành Lý thuyết học tập xã hội. Lý thuyết nhận thức xã hội (Social
Cognitive Theory- SCT), như một mô tả tốt hơn về cách chúng ta học hỏi từ kinh nghiệm
xã hội. Lý thuyêt học tập xã hội không phải là một lời giải thích đây đủ cho tất cả các
hành vi. Điều này đặc biệt xảy ra khi không có mô hình về vai trò một cách rõng trong
cuộc sống của ai đó để bắt chước một hành vi nhất định.
*Giai đoạn 3: Nghiên cứu của Noda - Tanaka - Matsumi và Nghiên cứu
Universe 25
1.Nghiên cứu của Noda và Tanaka-Matsumi.
- Nghiên cứu Noda và Tanaka-Matsumi thực hiện năm 2009 đánh giá hiệu quả của
sự canthiệp hành vi trong lớp học nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh tiểu học
Nhật Bản trong các lớp học. Nghiên cứu cho thấy tư thế của người học là một trong
những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Một lớp học gồm những
thanh niên ủ rũ, đầu bù tóc rối và dường như vô tổ chức và không quan tâm được coi là
một thách thức giảng dạy rất khác so với một nhóm học sinh chăm chú. Tư thế ngồi đúng
được mô tả gồm 4 thành phần: bàn chân, mông, lưng và toàn bộ cơ thể, đó là hai bàn
chân đặt phăng lên sàn, mông tiêp xúc với mặt ghê, lưng người học thắng, thân hướng về
phía trước. Các giáo viên và trợ lí đã được đào tạo để nhận ra cả 4 thành phần của tư thế
- Nghiên cứu của Noda được thực hiện ở trẻ 7 và 8 tuổi trong hai lớp học với
khoảng 35 trẻ trong mỗi lớp. Số liệu 68 trẻ được ghi lại cho thấy chỉ 20% học sinh có tư
thế phù hợp ở cả 2 lớp trước khi can thiệp. Con số này đã tăng lên 90% nhờ can thiệp. Sự
can thiệp bao gồm mô hình hóa hành vi phù hợp của giáo viên và cách đào tạo phù hợp
trong đó mối quan hệ phù hợp giữa những gì người đó nói và những gì họ làm được củng
cố - Có thê lập luận rằng sự cải thiện về kết quả học tập không bắt nguồn từ sự thay đổi
trong tư thế mà chỉ đơn giản là kết quả của sự quan tâm của giáo viên dành cho học sinh,
khiến học sinh phản ứng nhanh hơn với tất cả các khía cạnh . Sự quan tâm của giáo viên
đóng vai trò củng cố và các em học sinh đã làm tăng hiệu suất toàn diện.
3. Nghiên cứu Universe 25.
a) Tóm tắt tiểu sử
John B. Calhoun (11 tháng 5 năm 1917 - 7 tháng 9 năm 1995)
là một chuyên gia tập tính học và nghiên cứu hành vi người Mỹ
lOMoARcPSD| 58412604
b) Học thuyết tâm lý hành vi về Universe 25
Thí nghiệm do Calhoun xây dựng sẽ cung cấp điều kiện sống lý tưởng cho 4 cặp chuột
trong một không gian giới hạn, và quan sát quá trình phát triển của quần thể chuột. Chuột
ở "Universe 25" được cung cấp đầy đủ thức ăn nước uống để chúng có thể ăn uống thỏa
thích, nguyên liệu làm tổ được cung cấp đầy đủ và sạch sẽ để chuột cái có thể nuôi chuột
con một cách thuận lợi nhất. Diện tích lồng nuôi chuột có thể nhứng cưc 3 820 ann nhố
cấp chuột giống được đhạn hà nguy cơ bệnh dịch hoặc dị tật bẩm sinh.
Kết quả nghiên cứu:
Số lượng chuột tăng gấp đôi sau mỗi 55 ngày đầu tiên.
Con số này tiếp tục tăng mạnh và đạt mốc 620 con chuột vào ngày thứ 315.
đó tốc độ tăng dân số bắt đầu chậm lại, phải mất 145 ngày để số lượng chuột tăng
gấp đôi lên mức trên 1.200 con. Điều này khá vô lý vì không gian và thức ăn đủ
để chúng sinh sản thêm gần 3.000 con chuột nữa.
Từ ngày thứ 315 trở đi, những con chuột không còn có thể giữ được cấu trúc xã
hội và trạng thái hành vi bình thường
Lần sinh nở thành công cuối cùng của quần thể này là vào ngày thứ 600, đó cũng
là khi số lượng quần thể chuột đạt mức tối đa: hơn 2000 con
Sau đó số lượng chuột giảm dần do không có chuột con sinh ra để thay thế cho s
lượng chuột bị chết
Những con chuột thuộc những lứa sau cùng đã không chịu giao phối nữa, số lượng
quần thể vì vậy không thể hồi phục cho tới khi cả quần thể bị tuyệt diệt. Con chuột
cuối cùng chết vào ngày 1.575.
- Khi số lượng đạt tới mức nhất định (ngày 315), những con chuột ngày càng trở nên
bất thường. Bạo lực nhanh chóng vượt khỏi tầm kiểm soát. Ăn thịt đồng giết hại lẫn
nhau và xuất hiện những hành vi bất thường (như là từ chối giao phối, đồng tính
luyến ái, bỏ mặc con non...). Calhoun gọi dòng xoáy này là "Tha hóa hành vi" .Do
không muốn sinh sản nên đàn chuột chết dần mà không có thế hệ nối tiếp, cuối cùng
cả quân thê diệt vong. Vào cuôi các thí nghiệm, những con chuột còn sống đã trở
nên tha hóa hoàn toàn về mặt tâm lý: không quan tâm đến sinh sản và tương tác xã
hội. Ngay cả khi được đưa trở lại các cộng đồng chuột bình thường, những con vật
"tự kỷ về mặt xã hội" này vẫn sống cô lập cho đến khi chết. Theo lời của một trong
những cộng tác viên của Calhoun,
"thành phố không tưởng" của loài chuột đã biến thành "địa ngục "
- Chi trong vòng 4 năm, tất cả chuột trong xã hội " 25" đã diệt vong. Calhoun lưu ý
rằng mặc dù đàn chuột sống thêm vài tháng nữa nhưng chúng thực sự đã chết từ
ngày 315 - ngày mà mối liên kết xã hội giữa đàn bắt đầu bị sụp đố. Ông viết: "Tinh
thân đã chêt (đó là cái chết đầu tiên). Chúng không còn có thê thực hiện những hành
vi phức tạp hơn đê tôn tại.
Những con sống trong bối cảnh đó đều sẽ chết"
lOMoARcPSD| 58412604
c) Đóng góp và hạn chế
- Calhoun coi thí nghiệm của mình là hồi chuông cảnh tỉnh cho nhân loại. Ông tin rằng
dân số quá đông sẽ dẫn tới sự sụp đổ xã hội và tuyệt chủng loài người. "Tôi nhắc rất
nhiều tới chuột, nhưng lại vô cùng lo lắng cho loài người, về khả năng chữa lành, về cuộc
sống và về sự tiến hóa của chúng ta", ông viết.
Nhiều người khác lại phủ nhận công trình của Calhoun, cho rằng kết quả này không thể
so sánh được với những gì đang xảy ra trong xã hội loài người. Dù sao thì con người
cũng phức tạp và có ý thức hơn loài chuột. Đề giúp xã hội loài người không rơi vào thảm
cảnh "tha hóa xã hội", Calhoun dành một phần của sự nghiệp còn lại để khám phá các
hình thức tiến bộ khác nhau của con người. Calhoun tin rằng thiết kế của các thành phố
cũng phần nào ảnh hưởng tới cách mà con người tương tác với nhau. Nếu tập trung vào
việc quy hoạch thành phố, nhân loại có thể tránh được sự tha hóa hành vi đáng sợ như ở
loài chuột. Tuy nhiên, chúng ta có thể phần nào yên tâm rằng con người không giống như
loài chuột. Dù sao, con người cũng có khoa học, công nghệ và dược phâm đê chữa lành
bản thân và khám phá những môi trường mới.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58412604 A. MỞ ĐẦU
Tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật của giới trẻ đang trở thành một vấn đề nghiêm
trọng ở Việt Nam. Sự gia tăng của các vụ việc sử dụng ma túy, đua xe trái phép, hỗn
chiến và án mạng trong giới trẻ cho thấy sự cần thiết của việc tìm hiểu nguyên nhân và
giải pháp cho vấn đề này.
Một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật của giới trẻ là môi
trường sống. Môi trường sống có thể tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý và hành
vi của cá nhân, đặc biệt là trong lứa tuổi vị thành niên. Sự buông lỏng quản lý của gia
đình và xã hội, sự ảnh hưởng của nội dung xấu trên mạng xã hội và sự thiếu hướng dẫn
của các cơ quan chức năng có thể dẫn đến sự hình thành của các hành vi tiêu cực.
Tâm lý học hành vi là một lĩnh vực nghiên cứu khoa học về hành vi của con người. Với
việc tìm hiểu về tâm lý học hành vi, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về nguyên nhân của
hành vi vi phạm pháp luật của giới trẻ và tìm ra các giải pháp hiệu quả để ngăn chặn và điều trị.
Chủ đề "Tâm lý học hành vi: lịch sử phát triển, những luận điểm chính, những đóng góp
và hạn chế" là một chủ đề quan trọng và thú vị. Thông qua việc nghiên cứu về tâm lý học
hành vi, chúng ta có thể phát triển khả năng tư duy, hình thành kỹ năng quan sát, phân
tích và áp dụng tâm lý hành vi với mọi người, mọi lĩnh vực cuộc sống như y học, chính
trị, giáo dục, marketing...
Tóm lại, việc tìm hiểu về tâm lý học hành vi là một bước quan trọng trong việc hiểu rõ
hơn về hành vi của con người và tìm ra các giải pháp hiệu quả để ngăn chặn và điều trị
hành vi vi phạm pháp luật của giới trẻ. B.NỘI DUNG
I. Lịch sử phát triển của thuyết tâm lý học hành vi

*Giai đoạn 1: Nghiên cứu của Watson và Nghiên cứu của Thorndike
a) Nghiên cứu của Watson 1. Tóm tắt tiểu sử
John Broadus Watson (09/01/1878-25/09/1958) là nhà tâm lý học người Mỹ đã
thành lập trường phái tâm lý học về hành vi vào năm 1913.
2. Học thuyết tâm lý hành vi của Watson
- Khái niệm hành vi được Waston đưa ra lần đầu tiên vào năm 1913, theo ông, học tập là
một sự thay đổi trong hành vi có thê quan sát được. J. Watson cho rằng tâm lý học không
mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà chỉ nghiên cứu hành vi của cơ thể ở con người
cũng như ở đọng vật. J.Watson cũng tin rằng các phản ứng của con người đối với kích lOMoAR cPSD| 58412604
thích của môi trường chính là cái tạo nên hành vi. Nói một cách dễ hiêu hơn, hành vi
được hiểu là tổng số các cử động bên ngoài nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp lại một kích thích
nào đó theo một công thức nhất định. S - R (Stimulus - Reaction)
Kích thích - Phản ứng = Hành vi ⁃
Watson đã tiến hành thí nghiệm "Little Albert" để kiểm tra giả thuyết rằng cảm
xúc có thể học được bằng sự liên kết có điều kiện, Watson đã thí nghiệm ở một cậu bé 9
tháng tuổi tên là Albert. ⁃
Albert được đưa đến phòng thí nghiệm, nơi ông đưa ra một con chuột bạch, trước
đó cậu bé không có phản ứng sợ hãi. Khi cậu bé đến gần để chạm vào nó, Watson đã
dùng búa đập vào một thanh kim loại. Kết quả của cú đánh mạnh, cậug ta khó chịu và do
sợ hãi, nó bắt đầu khóc. Watson lặp lại quá trình này nửa tá lần và quan sát thấy rằng, sau
nhiều lần thử nghiệm khác nhau, cậu bé Albert sợ hãi chỉ đơn giản là nhìn thấy con chuột
bạch. Albert đã học được rằng mỗi khi con chuột xuất hiện, chiếc búa sẽ đập vào mặt bàn
kim loại. Tức là cậu bé đã lường trước được cú đánh mạnh. ⁃
Thí nghiệm của Waston đã đem lại một số kết luận đáng lưu ý. Kết luận đầu tiên là
cảm xúc có thể được điều kiện hóa thông qua các kỹ thuật kích thích phản ứng đơn giản
giống như hành vi được thực hiện trong thí nghiệm. Tiếp theo, ngoài nỗi sợ hãi, các cảm
xúc khác cũng có thể được học bằng cách sử dụng kỹ thuật kích thích phản ứng giống
như trong thí nghiệm. Kết luận thứ ba mà các nhà nghiên cứu rút ra là nỗi ám ảnh, sự tôn
sùng hoặc phản ứng cực đoan phát triển theo cách tương tự như nỗi sợ hãi có điều kiện,
dù chúng phức tạp hơn nhiều.
3. Đóng góp và hạn chế
Watson đã nêu lên một quan điểm tiến bộ trong tâm lý học: coi hành vi là do ngoại
cảnh quyết định, hành vi có thể quan sát được, nghiên cứu được một cách khách quan, từ
đó có thể điều khiển hành vi theo phương pháp "thử - sai". ⁃
Thuyết hành vi có nền tảng dựa trên những hành vi quan sát được, vì vậy đôi khi
chúng ta sẽ cảm tấy khá dễ dàng trong trong việc định lượng và thu thập số liệu khi tiến hành nghiên cứu ⁃
Các kỹ thuật điều trị có hiệu quả như can thiệp sâu vào hành vi, phân tích hành
vi, phương pháp tặng thưởng có giá trị kinh tế và huấn luyện tập sự riêng biệt đều có gốc
rê từ thuyết hành vi. Phân tích hành vi vẫn thường được sử dụng như một kỹ thuật trị
liệu giúp trẻ bị tự kỷ và chậm phát triên trí tuệ học những kỹ năng mới. Và hơn cả,
thuyết hành vi của Watson được xem là tiền đề để phát triển các học thuyết hành vi sau
này. ⁃ Tuy nhiên, nhiều người phê bình thuyết hành vi, cho rằng đây chỉ là cách tiếp cận
một chiều khi tìm hiểu về hành vi con người. Theo họ, các học thuyết về hành vi không
bao hàm được tự do ý chí và sự tác động mang tính nội tại như tâm trạng, suy nghĩ và
cảm nghĩ. Mặt khác, nó cũng không nói lên được những dạng học tập khác xuất hiện mà
không cần đến các yếu tố củng cố và trừng phạt. Hơn nữa, con người và động vật có thể lOMoAR cPSD| 58412604
thích nghi hành vi khi có thông tin mới xuất hiện dù là hành vi đó được thiết lập thông
qua các yếu tố củng cố đi chăng nữa. b) Nghiên cứu của Thorndike 1. Tiêu sử
Edward Lee Thorndike (31/08/1874-09/08/1949) sinh ra tại
Williamsburg, Massachusetts. Ong là một trong những nhà tâm lý học đâu tiên cô găng
diên giải việc học băng cách liên kết các kích thích và phản ứng, tập trung nghiên cứu về
học tập và hành vi của động vật.
2. Học thuyết tâm lí hành vi của Thorndike
-
Thorndike đặt một con mèo vào hộp câu đố, rồi đặt 1 mẫu cá ở bên ngoài và quan sát nỗ
lực trốn khỏi cái hộp để đến lấy thức ăn của con vật. Ông khuyến khích nó trốn thoát để
lấy một mầu cá đặt bên ngoài và tính thời gian nó trốn thoát. Những con mèo đã thử
nghiệm nhiều cách khác nhau để thoát khỏi hộp xếp hình và tiếp cận thức ăn. Cuối cùng,
chúng vô tình vấp phải đòn bấy mở lồng. Khi nó thoát ra, nó lại được đưa vào, và một lần
nữa thời gian nó thoát ra được ghi lại. Trong các thử nghiệm liên tiếp, những con mèo sẽ
học được rằng việc nhấn cần gạt sẽ có những hậu quả thuận lợi và chúng sẽ áp dụng hành
vi này, ngày càng trở nên nhanh hơn khi nhấn cần gạt.
Kết quả của thí nghiệm cho thấy: Những con mèo không có khả năng học hỏi bằng cách
quan sát, chúng chỉ học cách giải quyết vấn đề sau khi vô tình đạt được phần thưởng. Khi
đạt được kêt quả thuận lợi đó, những con mèo có nhiều khả năng lặp lại hành vi sau đó.
Đối với Thorndike này gọi nó là luật hiệu lực. ⁃
Quy luật hiệu ứng có nội dung như sau: Các hành vi tạo ra kết quả tốt sẽ có nhiều
khả năng được lặp lại lần sau, còn các hành vi tạo ra kết quả xấu thì ngược lại
3. Đóng góp và hạn chế
Thorndike đã đưa ra khái niệm củng cố và là người đầu tiên áp dụng các nguyên
tắc tâm lý học vào lĩnh vực học tập. ⁃
Nghiên cứu của ông đã dẫn đến nhiều lý thuyết và quy luật học tập, chẳng hạn như
điều hòa hoạt động. Phát hiện của ⁃
Thorndike đã ảnh hưởng lớn lao lên sự phát triển của thuyết hành vi B.F.Skinner
đã dựa trên định luật về hiệu quả để xây dựng nên thuyết điều kiện hóa từ kết quả của mình.
*Giai đoạn 2: Nghiên cứu của Skinner và Nghiên cứu của Bandura
1. Nghiên cứu của B.F Skinner
Burrhus Frederic Skinner (20/3/1904-18/8/1990), sinh ra tại tiểu bang Pennsylvania, Hoa
Kỳ. Ngoài vai trò là một nhà tâm lý học, ông còn được biết đến trong vai trò là một nhà
văn, nhà phát minh và là một triết gia xã hội. 2. Học thuyết tâm lý hành vi của Skinner lOMoAR cPSD| 58412604 ⁃
Skinner trực tiếp kế thừa và phát triển tâm lý học hành vi cổ điển của J.Watson,
coi hành vi cơ thể là đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, hành vi con người và động vật
theo quan điêm của J.Watson chủ yếu dựa trên phản xạ có điều kiện của Pavlov, tức là
các phản xạ bị ức chế bởi các kích thích nhất định. Còn theo B.F.Skinner, trong nhiều
năm, ông cùng các cộng sự kiên trì thực nghiệm hình thành ở động vật và ở người các
hành vi mà ông gọi là hành vi tạo tác và kích thích củng cố là trung tâm trong toàn bộ nghiên cứu của Skinner. ⁃
Thí nghiệm của Skinner được mô tả như sau: ông đưa chuột bạch vào lồng có gắn
đòn bẩy với thiết bị làm thức ăn bật ra mỗi khi chuột giẫm lên. Thoạt đầu, con chuột đi
lại tìm thức ăn trong chuồng và ngẫu nhiên giẫm lên đòn bẩy và lập tức thức ăn bật ra.
Lối vận hành, là hành vi xảy ra ngay sau khi có tác nhân củng cố, trong trường hợp này
tác nhân củng cố là thức ăn. Tất nhiên sau đó chuột có xu hướng nhắc lại hành vi giẫm
chân lên đòn bây và hăm hở ăn thức ăn rớt xuống. Như vậy hành vi tạo tác đã được hình thành. ⁃
Như vậy có thể kết luận rằng hành vi tạo tác là hành vi được hình thành từ
một hành vi trước đó của chủ thể, do tác động của môi trường và được củng cố, đóng vai
trò là tác nhân kích thích. ⁃
Sự củng cố bao gồm hai loại: củng cố tích cực và củng cố tiêu cực. Củng cố tích
cực xuất hiện khi hành vi tạo tác tạo ra những kích thích mới, các kích thích mong muốn
để nhằm thỏa mãn, ví dụ một nhân viên đến làm việc đúng giờ mỗi ngày có thể nhận
được một thẻ quà tặng vào cuối mỗi tháng như một cách để củng cố tính kỷ luật. Còn
củng cố tiêu cực xuất hiện khi một hành động giúp tránh được tình huống không dễ chịu
có xu hướng lặp lại trong tình huống tương tự, ví dụ khi tham gia giao thông có ý định
vượt đèn đỏ, nhưng khi nhìn thấy cảnh sát giao thông, ta có xu hướng dừng đèn đỏ để không bị bắt. ⁃
Skinner nghĩ rằng, sự ý thức trong tưởng tượng và hoạt động của con người phụ
thuộc vào kêt quả của những hành động trước đó. Nếu đó là một kết quả xấu, thì có cơ
hội cao nó sẽ không lặp lại một lần nào nữa, và ngược lại nếu kết quả là tốt thì những
hành động ấy có thể được lặp lại và phát triển một cách mạnh mẽ hơn nữa và Skinner gọi
đó là nguyên tắc của sự củng cố, cuối cùng học thuyết hành vi chính là kết quả của công trình nghiên cứu.
3. Những đóng góp và hạn chế
Tâm lý học hành vi của Skinner đã mang lại những đóng góp hết sức to lớn. Đặc
biệt là những ứng dụng trong giáo dục, y tê,... đã góp phân cung câp công cụ đê con
người có thế năm bắt đa dạng các khía cạnh của cuộc sống và tâm lý con người, xây
dựng nên diện mạo mới của tâm lý học khách quan ⁃
Ví dụ, con người đã áp dụng lý thuyết tâm lý học hành vi của Skinner trong mô
hình giảng dạy "lấy nội dung học, tự học và sự tương tác làm trung tâm". Theo học
thuyết phản xạ có điều kiện chủ động của B.F.Skinner: bài học là vì lợi ích của chính
người học, mục đích học, nội dung học là do chính nhu cầu của người học. Trò là người lOMoAR cPSD| 58412604
tự mình làm ra sản phẩm ban đầu (tri thức tự mình làm ra) dưới sự hướng dẫn của thầy,
tích cực chủ động tham gia vào việc học bằng hệ thống tương tác có hiệu quả, tự giác tìm
kiếm kiến thức bằng hành động thử và sai của mình. Còn thầy là người hướng dẫn, kích
thích hoạt động của người học, là người cố vấn, khuyến khích, có trách nhiệm tạo ra các
điều kiện cần thiết để cho người học có thể tự mình làm ra sản phẩm (sự củng cố). ⁃
Bên cạnh đó cũng có những điêm còn hạn chê trong lý thuyết hành vi của Skinner.
Thứ nhất, ông có một luận điêm khá sai lệch là việc dựa trên thuyết hành vi cổ điển khi
coi con người và động vật không có một sự khác biệt nào cả. ⁃
Thứ hai, con người có thể chối bỏ trách nhiệm về hành vi của mình khi ông cho
rằng hành vi tốt, xấu, đúng, sai không phải do tính cách hay do những tri thức về cái
đúng và sai mà là dọ các điều kiện hoàn cảnh bao gồm một số lớn các củng cố bằng lời
nói ngôn ngữ khái quát tốt, xấu, đúng, sai.
Thứ ba, Skinner cho rằng hành vi chỉ được thực hành thông qua hành vi, hành động có
thể tiếp thu bằng cách hành động. Nhưng ông chỉ tính đến những gì quan sát được có liên
quan đến phản ứng vận động mà quên đi ra rằng phản ứng bên ngoài không có nghĩa là xây dựng hành vi.
b) Nghiên cứu của Albert Bandura 1. Tóm tắt tiểu sử
- Albert Bandura (04/12/1925-2021) là một nhà tâm lý học người Canada. Ông đã
có nhiều đóng góp nền tảng trong nhiều lĩnh vực của tâm lý học, bao gồm lý thuyết về
nhận thức, trị liệu, tâm lý học nhân cách và là người có ảnh hưởng trong sự chuyển đổi từ
chủ nghĩa hành vi tới tâm lý học nhận thức.
2. Học thuyết tâm lý hành vi của Bandura
Vào năm 1961, ông đã tiến hành một nghiên cứu để xem những hành vi xã hội (ví dụ gây
hấn) có thể đạt được bằng cách quan sát và bắt chước, đó là nghiên cứu búp bê trứng
Bobo (Bobo doll). Học thuyêt của ông còn được gọi là Thuyêt học tập xã hội vì ông
nghiên cứu hành vi ở cấp độ hình thành và thay đổi trong những tình huống xã hội. Ông
đã cho quay bộ phim (do một nữ sinh viên học trò của ông) đóng vai cô ý đánh đập một
con búp bê trứng Bobo. Sinh viên nữ này trong lúc đâm đá quả trứng nhựa ây và la lên:
Sockeroo? (Ngu ngốc). Chị ta đá quả trứng, ngồi lên nó, đánh bằng búa, đồng thời la lối
với nhiều câu nói mang nội dung thù địch. Sau đó Bandura đem cuốn phim này chiếu cho
các em nhỏ học lớp mẫu giáo xem. Sau đó các em được cho ra chơi trong căn phòng có
một con búp bê trứng Bobo và mây cái búa nhựa. Một nhóm các nhà nghiên ngồi quan
sát với giấy bút để chuẩn bị ghi chép.
Như đã được ông tiên đoán và những người quan sát đã ghi nhận rằng: Một số đông các
em xúm vào đánh đập con búp bê trứng bobo kia rất hăng hái. Các em vừa đánh con búp
bê trứng vừa la hét câu : Sockeroo ? Các em đá con búp bê, ngồi lên nó, đánh nó bằng
búa y như các em đã nhìn thấy trong video. Nói khác đi, các em bắt chước cô sinh viên
trong cuốn phim, và các em bắt chước khá chính xác. lOMoAR cPSD| 58412604
Điều này diễn biến như đã dự định ban đầu, nhưng điểm đáng chú ý Bandura đưa ra là :
Những trẻ em này thay đối hành vi của mình mà chẳng cần phải được thưởng hay có
những tính toán trước đó. Ông gọi đây là hiện tượng học bằng cách quan sát hay rập
khuôn và từ đó Thuyết học tập xã hội ra đời. Nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng đối
với ảnh hưởng của bạo lực truyền thông đối với trẻ em. Có bốn quy trình tham dự vào
học tập quan sát được Bandura đề xuất:
- Thứ nhất là chú ý, việc ít trình diễn mô hình không bảo đảm thu được hành vi.
Người quan sát cân tham dự và chú ý nhận ra các đặc điểm bản chất của mô hình
phản ứng. Để một hành vi được bắt chước, nó phải thu hút sự chú ý của chúng ta
- Thứ hai là ghi nhớ, hành vi có thể được chú ý nhưng không phải lúc nào nó cũng
được nhớ rõ ràng và dẫn tới việc không bắt chước. Phần lớn học tập xã hội không
phải diễn ra ngay lập tức, ngay cả khi hành vi được sao chép ngay sau khi cá nhân
nhìn thấy nó, nhưng cần phải có một bộ nhớ để chủ thể tham khảo
- Thứ ba là quá trình tái tạo vận động, đây là khả năng thực hiện hành vi mà "người
mẫu" vừa thể hiện. Chúng ta thấy nhiều hành vi hàng ngày và muốn bắt chước,
nhưng điều này không phải lúc nào cũng có thể. Điều này ảnh hưởng đến quyết
định của chúng ta có nên thử và bắt chước nó hay không. Hãy tưởng tượng một bà
cụ 90 tuổi, cố gắng để đi bộ xem Dancing on Ice. Cụ bà có thể đánh giá cao kỹ
năng của diễn viên và xem đây một điều mong muốn làm theo, nhưng cụ bà này
sẽ không cố gắng bắt chước vì bà ta không đủ sức khỏe đề có thê làm được
- Thứ tư là động lực, đây là ý chí thực hiện hành vi. Để học tập qua quan sát được
thành công, phải có động lực để bắt chước lại hành vi đã được hình mẫu hóa.
Củng cố và trừng phạt đóng một vai trong quan trọng trong động lực. Ví dụ, nếu
bạn thấy một học sinh nào đó được thưởng vì đến lớp sớm thì bạn có thể sẽ xuất
hiện sớm hơn một vài phút mỗi ngày, nhưng nếu bạn thấy việc được thưởng là
không cần thiết cho bản thân thì bạn sẽ không bắt chước đến sớm, và thậm chí đến muộn rồi bị phạt.
3. Những đóng góp và hạn chế -
Thuyết nhận thức xã hội đã được thừa nhận rộng rãi trong tâm lý học, với tư cách
là phương pháp có hiệu quả nghiên cứu hành vi trong điều kiện thí nghiệm và thay đổi
hành vi trong lâm sàng. Thuyết do ông sáng tạo phù hợp với tâm lý học Mĩ thế kỉ 20 cả
từ góc độ chức năng và thực tiễn. Nó có ích cho việc áp dụng trong những nghiên cứu
trong phòng thí nghiệm, phù hợp với bầu không khí trí tuệ hiện hay, trong đó vai trò to
lớn được dành cho việc nghiên cứu những quá trình nhận thức và hoàn toàn có thể áp
dụng được cho những nhiệm vụ mà cuộc sống đặt ra. Theo ý kiến của nhiều nhà tâm lý
học, các công trình của Bandura là một đỉnh cao mới thú vị và có hiệu quả trong lịch sử
lâu dài của Thuyết hành vi. -
Là một công cụ can thiệp, thuyết học tập xã hội mang lại rất nhiều tiềm năng trong
việc đào tạo, hiểu và áp dụng học tập xã hội vào đời sống cũng như phát triển lý thuyết
học tập xã hội đề xuất rằng mọi người học hỏi lẫn nhau thông qua quan sát, bắt chước và lOMoAR cPSD| 58412604
mô hình hóa. Nguyên tắc này có thể được áp dụng để giúp khám phá cách thức các mô
hình vai trò tích cực có thể thúc đẩy hành vi mong muốn và tạo cơ hội cho sự thay đôi xã
hội. - Tuy nhiên lý thuyêt học tập xã hội không phải là một giải thích đầy đủ, hoàn chỉnh.
Mặc dù nó có thê giải thích một số hành vi khá phức tạp, nhưng nó không thể giải thích
thỏa đáng cho chúng ta về phát triển toàn bộ phạm vi của hành vi bao gồm cả suy nghĩ và
cảm xúc. Chúng ta có nhiều cách kiểm soát nhận thức đối với hành vi của chúng ta và chỉ
vì chúng ta đã có kinh nghiệm về hậu quả xấu của hành vi thì chúng ta không tái tạo
hành vi ây nữa. Chính vì lý do này mà Bandura đã sửa đôi lý thuyêt của mình vào năm
1986 đối tên thành Lý thuyết học tập xã hội. Lý thuyết nhận thức xã hội (Social
Cognitive Theory- SCT), như một mô tả tốt hơn về cách chúng ta học hỏi từ kinh nghiệm
xã hội. Lý thuyêt học tập xã hội không phải là một lời giải thích đây đủ cho tất cả các
hành vi. Điều này đặc biệt xảy ra khi không có mô hình về vai trò một cách rõ ràng trong
cuộc sống của ai đó để bắt chước một hành vi nhất định.
*Giai đoạn 3: Nghiên cứu của Noda - Tanaka - Matsumi và Nghiên cứu Universe 25
1.Nghiên cứu của Noda và Tanaka-Matsumi. -
Nghiên cứu Noda và Tanaka-Matsumi thực hiện năm 2009 đánh giá hiệu quả của
sự canthiệp hành vi trong lớp học nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh tiểu học
Nhật Bản trong các lớp học. Nghiên cứu cho thấy tư thế của người học là một trong
những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Một lớp học gồm những
thanh niên ủ rũ, đầu bù tóc rối và dường như vô tổ chức và không quan tâm được coi là
một thách thức giảng dạy rất khác so với một nhóm học sinh chăm chú. Tư thế ngồi đúng
được mô tả gồm 4 thành phần: bàn chân, mông, lưng và toàn bộ cơ thể, đó là hai bàn
chân đặt phăng lên sàn, mông tiêp xúc với mặt ghê, lưng người học thắng, thân hướng về
phía trước. Các giáo viên và trợ lí đã được đào tạo để nhận ra cả 4 thành phần của tư thế -
Nghiên cứu của Noda được thực hiện ở trẻ 7 và 8 tuổi trong hai lớp học với
khoảng 35 trẻ trong mỗi lớp. Số liệu 68 trẻ được ghi lại cho thấy chỉ 20% học sinh có tư
thế phù hợp ở cả 2 lớp trước khi can thiệp. Con số này đã tăng lên 90% nhờ can thiệp. Sự
can thiệp bao gồm mô hình hóa hành vi phù hợp của giáo viên và cách đào tạo phù hợp
trong đó mối quan hệ phù hợp giữa những gì người đó nói và những gì họ làm được củng
cố - Có thê lập luận rằng sự cải thiện về kết quả học tập không bắt nguồn từ sự thay đổi
trong tư thế mà chỉ đơn giản là kết quả của sự quan tâm của giáo viên dành cho học sinh,
khiến học sinh phản ứng nhanh hơn với tất cả các khía cạnh . Sự quan tâm của giáo viên
đóng vai trò củng cố và các em học sinh đã làm tăng hiệu suất toàn diện.
3. Nghiên cứu Universe 25. a) Tóm tắt tiểu sử
John B. Calhoun (11 tháng 5 năm 1917 - 7 tháng 9 năm 1995)
là một chuyên gia tập tính học và nghiên cứu hành vi người Mỹ lOMoAR cPSD| 58412604
b) Học thuyết tâm lý hành vi về Universe 25
Thí nghiệm do Calhoun xây dựng sẽ cung cấp điều kiện sống lý tưởng cho 4 cặp chuột
trong một không gian giới hạn, và quan sát quá trình phát triển của quần thể chuột. Chuột
ở "Universe 25" được cung cấp đầy đủ thức ăn nước uống để chúng có thể ăn uống thỏa
thích, nguyên liệu làm tổ được cung cấp đầy đủ và sạch sẽ để chuột cái có thể nuôi chuột
con một cách thuận lợi nhất. Diện tích lồng nuôi chuột có thể nhứng cưc 3 820 ann nhố
cấp chuột giống được đhạn hà nguy cơ bệnh dịch hoặc dị tật bẩm sinh. Kết quả nghiên cứu:
• Số lượng chuột tăng gấp đôi sau mỗi 55 ngày đầu tiên.
• Con số này tiếp tục tăng mạnh và đạt mốc 620 con chuột vào ngày thứ 315.
• đó tốc độ tăng dân số bắt đầu chậm lại, phải mất 145 ngày để số lượng chuột tăng
gấp đôi lên mức trên 1.200 con. Điều này khá vô lý vì không gian và thức ăn đủ
để chúng sinh sản thêm gần 3.000 con chuột nữa.
• Từ ngày thứ 315 trở đi, những con chuột không còn có thể giữ được cấu trúc xã
hội và trạng thái hành vi bình thường
• Lần sinh nở thành công cuối cùng của quần thể này là vào ngày thứ 600, đó cũng
là khi số lượng quần thể chuột đạt mức tối đa: hơn 2000 con
• Sau đó số lượng chuột giảm dần do không có chuột con sinh ra để thay thế cho số lượng chuột bị chết
• Những con chuột thuộc những lứa sau cùng đã không chịu giao phối nữa, số lượng
quần thể vì vậy không thể hồi phục cho tới khi cả quần thể bị tuyệt diệt. Con chuột
cuối cùng chết vào ngày 1.575.
- Khi số lượng đạt tới mức nhất định (ngày 315), những con chuột ngày càng trở nên
bất thường. Bạo lực nhanh chóng vượt khỏi tầm kiểm soát. Ăn thịt đồng giết hại lẫn
nhau và xuất hiện những hành vi bất thường (như là từ chối giao phối, đồng tính
luyến ái, bỏ mặc con non...). Calhoun gọi dòng xoáy này là "Tha hóa hành vi" .Do
không muốn sinh sản nên đàn chuột chết dần mà không có thế hệ nối tiếp, cuối cùng
cả quân thê diệt vong. Vào cuôi các thí nghiệm, những con chuột còn sống đã trở
nên tha hóa hoàn toàn về mặt tâm lý: không quan tâm đến sinh sản và tương tác xã
hội. Ngay cả khi được đưa trở lại các cộng đồng chuột bình thường, những con vật
"tự kỷ về mặt xã hội" này vẫn sống cô lập cho đến khi chết. Theo lời của một trong
những cộng tác viên của Calhoun,
"thành phố không tưởng" của loài chuột đã biến thành "địa ngục "
- Chi trong vòng 4 năm, tất cả chuột trong xã hội " 25" đã diệt vong. Calhoun lưu ý
rằng mặc dù đàn chuột sống thêm vài tháng nữa nhưng chúng thực sự đã chết từ
ngày 315 - ngày mà mối liên kết xã hội giữa đàn bắt đầu bị sụp đố. Ông viết: "Tinh
thân đã chêt (đó là cái chết đầu tiên). Chúng không còn có thê thực hiện những hành
vi phức tạp hơn đê tôn tại.
Những con sống trong bối cảnh đó đều sẽ chết" lOMoAR cPSD| 58412604
c) Đóng góp và hạn chế
- Calhoun coi thí nghiệm của mình là hồi chuông cảnh tỉnh cho nhân loại. Ông tin rằng
dân số quá đông sẽ dẫn tới sự sụp đổ xã hội và tuyệt chủng loài người. "Tôi nhắc rất
nhiều tới chuột, nhưng lại vô cùng lo lắng cho loài người, về khả năng chữa lành, về cuộc
sống và về sự tiến hóa của chúng ta", ông viết.
Nhiều người khác lại phủ nhận công trình của Calhoun, cho rằng kết quả này không thể
so sánh được với những gì đang xảy ra trong xã hội loài người. Dù sao thì con người
cũng phức tạp và có ý thức hơn loài chuột. Đề giúp xã hội loài người không rơi vào thảm
cảnh "tha hóa xã hội", Calhoun dành một phần của sự nghiệp còn lại để khám phá các
hình thức tiến bộ khác nhau của con người. Calhoun tin rằng thiết kế của các thành phố
cũng phần nào ảnh hưởng tới cách mà con người tương tác với nhau. Nếu tập trung vào
việc quy hoạch thành phố, nhân loại có thể tránh được sự tha hóa hành vi đáng sợ như ở
loài chuột. Tuy nhiên, chúng ta có thể phần nào yên tâm rằng con người không giống như
loài chuột. Dù sao, con người cũng có khoa học, công nghệ và dược phâm đê chữa lành
bản thân và khám phá những môi trường mới.