













Preview text:
CHƯƠNG 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÂM LÝ HỌC TỘI PHẠM
I. KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC TỘI PHẠM
1. Khái niệm Tâm lý học tội phạm
a. Tâm lý người phạm tội
Tâm lý người phạm tội là tất cả hiện tượng tinh thần nảy sinh trong đầu óc
của người phạm tội, bao gồm hiện tượng tâm lý tích cực và tiêu cực điều khiển
hành vi, hoạt động của họ.
- Tâm lý người phạm tội là tất cả hiện tượng tinh thần của người phạm tội, là
kết quả của quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của người
phạm tội. Sự phong phú về đời sống tinh thần của người phạm tội do hiện thực khách quan quy định.
- Tâm lý người phạm tội bao gồm cả hiện tượng tâm lý tích cực và tâm lý tiêu
cực (trong đó có những hiện tượng tâm lý tiêu cực thúc đẩy, định hướng, điều
khiển, điều chỉnh hành vi phạm tội của người phạm tội).
- Quá trình hình thành và phát triển tâm lý người phạm tội vừa tuân theo quy
luật của sự hình thành và phát triển tâm lý người nói chung, vừa tuân theo quy luật
hình thành và phát triển tâm lý tội phạm nói riêng như: Quy luật sự phát triển tâm
lý hành vi tiêu cực theo hướng dao động dần; quy luật sự phát triển tâm lý hành vi tiêu cực theo tuyến. b. Tâm lý tội phạm
Tâm lý tội phạm là những nét tâm lý lệch chuẩn phản ánh sự tác động của
những yếu tố tiêu cực trong môi trường, nó định hướng, điều khiển, điều chỉnh
hành vi phạm tội của người phạm tội.
- Tâm lý tội phạm là một bộ phận của tâm lý người phạm tội. Tâm lý người
phạm tội bao gồm hiện tượng tâm lý tích cực và hiện tượng tâm lý tiêu cực (trong
đó có tâm lý tội phạm).
- Hành vi phạm tội và tâm lý tội phạm gắn bó chặt chẽ với nhau. Sự gắn bó
giữa hành vi phạm tội và tâm lý tội phạm thể hiện ở nội dung sau:
+ Tâm lý tội phạm là tâm lý lệch chuẩn nhưng không phải tâm lý lệch chuẩn
nào cũng là tâm lý tội phạm. Chỉ khi tâm lý lệch chuẩn đó thúc đẩy, định hướng,
điều khiển, điều chỉnh hành vi phạm tội thì lúc đó nó mới có sự biến đổi về chất trở thành tâm lý tội phạm.
+ Khi hành vi thực tế của cá nhân là hành vi phạm tội thì tâm lý tội phạm
không chỉ gắn với hành vi phạm tội đó mà có thể sau đó còn tham gia chi phối
hành vi khác của cá nhân, thậm chí trở thành nguyên nhân của những hành vi phạm tội khác của cá nhân.
c. Tâm lý học tội phạm
Tâm lý học tội phạm là khoa học nghiên cứu về tâm lý trong hoạt động phạm
tội của tội phạm; là ngành khoa học tâm lý ứng dụng trong lĩnh vực hoạt động đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
- Tâm lý học tội phạm là khoa học nghiên cứu về tâm lý trong hoạt động
phạm tội của tội phạm. Tâm lý học tội phạm có đối tượng nghiên cứu, nhiệm vụ
nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu mang tính đặc thù của nó, không đồng
nhất với ngành khoa học khác. Việc nghiên cứu những vấn đề của Tâm lý học tội
phạm luôn gắn liền và dựa trên các quan điểm, tri thức căn bản của Tâm lý học đại
cương và Tâm lý học xã hội.
- Tâm lý học tội phạm là phân ngành của Tâm lý học, được ứng dụng trong
lĩnh vực hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm. Việc nghiên cứu tâm lý tội
phạm có ý nghĩa thực tiễn quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả của công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
2. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học tội phạm
a. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học tội phạm
Tâm lý học tội phạm nghiên cứu các hiện tượng tâm lý của cá nhân và nhóm
người phạm tội được hình thành, phát triển, biểu hiện trong hoạt động phạm tội. Cụ thể:
- Nghiên cứu những hiện tượng tâm lý của cá nhân và nhóm tội phạm nảy
sinh trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội như: Động cơ phạm tội,
mục đích phạm tội, ý đồ phạm tội…
- Nghiên cứu thuộc tính tâm lý trong nhân cách người phạm tội như: xu
hướng, tính cách, năng lực, khí chất.
- Nghiên cứu những nguyên nhân tâm lý – xã hội của tình trạng phạm tội.
- Nghiên cứu những nguyên nhân tâm lý – xã hội của hành vi phạm tội.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học tội phạm
Tâm lý học tội phạm có nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống lý luận như: Các khái niệm, phạm trù khoa
học tương ứng để phản ánh và chuyển tải những tri thức của Tâm lý học tội phạm.
- Nghiên cứu tìm ra đặc điểm tâm lý trong nhân cách người phạm tội, nhóm
tội phạm; các đặc điểm tâm lý của các loại tội phạm; các nguyên nhân tâm lý - xã
hội của tình trạng phạm tội, của hành vi phạm tội… phục vụ cho hoạt động phòng
ngừa tội phạm trên từng lĩnh vực cụ thể cũng như trong xã hội nói chung.
- Nghiên cứu tìm ra đặc điểm, diễn biến tâm lý ở người phạm tội trước, trong
và sau khi thực hiện hành vi phạm tội nhằm giúp cho các cơ quan thi hành pháp
luật trong hoạt động điều tra làm rõ tội phạm đạt hiệu quả cao.
- Nghiên cứu tìm ra cách thức tác động tâm lý không chỉ nhằm đấu tranh mà
còn để cảm hóa giáo dục người phạm tội, giúp họ nhận ra tội lỗi để phấn đấu sửa
chữa, rèn luyện trở thành người công dân sống có ích cho xã hội.
II. CẤU TRÚC TÂM LÝ CỦA HÀNH VI PHẠM TỘI 1. Động cơ phạm tội a. Khái niệm
Động cơ phạm tội là các yếu tố tâm lý bên trong thúc đẩy người phạm tội
thực hiện hành vi phạm tội nhằm đạt được mục đích của tội phạm.
- Hành vi phạm tội thường do các yếu tố tâm lý như: Nhu cầu, hứng thú, quan
điểm, niềm tin… đóng vai trò là động lực thúc đẩy. Trong đó, nhu cầu được xem là
cơ sở của động cơ, khi nhu cầu không được thỏa mãn và gặp sự tác động tương
thích của điều kiện bên ngoài thì nó trở thành động cơ. Ở người phạm tội, có sự
nhận thức lệch lạc về nhu cầu cá nhân và lựa chọn phương thức thỏa mãn nhu cầu
phi đạo đức, trái pháp luật.
- Trong những trường hợp phạm tội cố ý thì bao giờ hành vi của người phạm
tội cũng do động cơ phạm tội thúc đẩy. Chỉ những trường hợp phạm tội với lỗi vô
ý thì mới không có động cơ phạm tội thúc đẩy. b. Đặc điểm
- Động cơ phạm tội thường gắn liền với những ham muốn vật chất, thỏa mãn
những nhu cầu ăn chơi sa đọa, nghiện ngập, làm giàu bất chính…
+ Trong các yếu tố tâm lý thúc đẩy hành vi phạm tội ở người phạm tội, nhiều
trường hợp xuất phát từ những ham muốn vật chất. Các loại tội phạm xâm phạm sở
hữu, tội phạm về ma túy, tội phạm kinh tế… chủ yếu thúc đẩy bởi loại động cơ này.
+ Ngoài ra, cũng có những trường hợp hành vi phạm tội không gắn liền với
ham muốn vật chất mà do những yếu tố tâm lý khác thúc đẩy như: Tình cảm, thù
hằn cá nhân, quan điểm lệch lạc, niềm tin mù quáng…
- Động cơ phạm tội thể hiện sự nhận thức lệch lạc về chuẩn mực đạo đức, xã
hội và pháp luật của người phạm tội.
Sự thúc đẩy hành vi phạm tội ở người phạm tội là sự tác động qua lại giữa các
yếu tố tâm lý kích thích và yếu tố tâm lý điều chỉnh. Các yếu tố tâm lý này ở người
phạm tội đều hình thành và biểu hiện lệch lạc, mâu thuẫn, đối nghịch với các chuẩn
mực đạo đức, chuẩn mực xã hội và pháp luật.
+ Các loại tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, phần lớn bắt nguồn từ thế
giới quan lệch lạc, quan điểm, tư tưởng chính trị phản động, niềm tin mù quáng.
+ Các loại tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội, phần lớn bị thúc đẩy bởi
những ham muốn vật chất tầm thường, sự ích kỷ, hẹp hòi, những nét tính cách tiêu
cực trái với chuẩn mực đạo đức, pháp luật.
- Động cơ phạm tội mang tính hiếu chiến có ý nghĩa thúc đẩy hành vi phạm tội rất mạnh mẽ.
+ Người phạm tội trước khi thực hiện hành vi phạm tội, hầu hết đều ý thức
được mục đích phạm tội là xấu xa, tội lỗi, trái đạo đức, trái pháp luật nhưng bản
thân họ không kìm hãm được và cũng không thắng nổi sự thúc đẩy của động cơ
phạm tội để từ bỏ hành vi phạm tội.
+ Động cơ thúc đẩy càng mạnh, người phạm tội càng quyết tâm tìm phương
thức thủ đoạn để thực hiện hành vi nhằm đạt được mục đích của tội phạm.
2. Mục đích phạm tội a. Khái niệm
Mục đích phạm tội là kết quả mà người phạm tội đặt ra từ trước và mong
muốn đạt được bằng hành vi phạm tội.
- Mục đích phạm tội là kết quả được người phạm tội “vẽ” lên trong đầu họ
trước khi thực hiện hành vi phạm tội. Hay nói cách khác, mục đích là kết quả chủ
quan mà người phạm tội đặt ra trong đầu, nó chưa được biểu hiện ra trên thực tế.
- Chỉ những hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp mới có mục đích phạm tội .
Vì trong trường hợp này, người phạm tội đã cân nhắc xác định rõ mục đích trước
khi thực hiện hành vi, nó thể hiện khuynh hướng ý chí của người phạm tội. b. Đặc điểm
- Mục đích phạm tội biểu hiện tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
+ Những hành vi phạm tội giống nhau về mặt khách quan nhưng khác nhau về
mục đích phạm tội thì tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng khác nhau.
Trong nhiều trường hợp, xác định mục đích phạm tội là yếu tố bắt buộc trong cấu
thành tội phạm, là cơ sở quan trọng để xác định tội danh.
+ Mục đích phạm tội là một trong những cơ sở tâm lý để lựa chọn công cụ,
phương tiện và phương thức thực hiện hành vi phạm tội.
- Mục đích phạm tội và động cơ phạm tội có mối quan hệ với nhau, trong đó
mục đích phạm tội có chức năng định hướng, điều khiển hành vi phạm tội.
+ Động cơ phạm tội và mục đích phạm tội là hai hiện tượng tâm lý khác nhau
nhưng có mối quan hệ chặt chẽ. Chức năng chủ yếu của động cơ là thúc đẩy hành
vi, chức năng của mục đích là định hướng, điều khiển hành vi. Từ một động cơ có
thể đặt ra nhiều mục đích và ngược lại, một mục đích có thể được xác định trên cơ
sở những động cơ khác nhau.
+ Mục đích phạm tội thể hiện khuynh hướng ý chí của người phạm tội, được
xác định trên cơ sở của động cơ phạm tội. Từ động cơ phạm tội mà người phạm tội
đề ra cho mình những mục đích phạm tội cụ thể và việc đạt được mục đích phạm
tội sẽ giúp người phạm tội thỏa mãn động cơ phạm tội. 3. Ý đồ phạm tội a. Khái niệm
Ý đồ phạm tội là một ý nghĩ vững chắc về khả năng hay tính tất yếu phải thực
hiện hành vi phạm tội, có chức năng thúc đẩy, hoạch định hành vi phạm tội của người phạm tội.
- Sự xuất hiện động cơ và mục đích phạm tội có thể chưa dẫn đến hành vi
phạm tội. Hành vi phạm tội có diễn ra hay không còn phụ thuộc vào điều kiện,
hoàn cảnh và tình huống phạm tội cụ thể.
- Tình huống đó không có ý nghĩa quyết định độc lập mà nó chỉ củng cố động
cơ và mục đích phạm tội đã được hình thành trước đó và làm xuất hiện ý đồ phạm
tội. Ý đồ phạm tội xuất hiện trên cơ sở động cơ phạm tội cùng sự phân tích, đánh
giá hoàn cảnh cụ thể và việc xác định mục đích phạm tội cụ thể. b. Đặc điểm
- Ý đồ phạm tội hoàn toàn mang tính chủ quan, xuất hiện trước khi thực hiện hành vi phạm tội.
+ Ý đồ phạm tội là những suy nghĩ, tính toán, cân nhắc trong đầu người phạm
tội về động cơ phạm tội, mục đích phạm tội và điều kiện thực hiện tội phạm, nó
chưa được bộc lộ ra bên ngoài bằng hành vi nguy hiểm cụ thể.
+ Ý đồ phạm tội là cơ sở tâm lý dẫn đến hành vi phạm tội cho nên việc xác
định ý đồ phạm tội của người phạm tội có nhiều ý nghĩa trong công tác phòng ngừa tội phạm.
- Ý đồ phạm tội và điều kiện thực hiện tội phạm có quan hệ chặt chẽ với nhau.
+ Mỗi hành vi phạm tội được thực hiện trong một tình huống nhất định với
những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể về không gian, thời gian và những sự kiện liên
quan xảy ra trong tình huống đó. Chính sự tác động qua lại giữa điều kiện, hoàn
cảnh của tình huống bên ngoài với đặc điểm nhân cách bên trong đã đưa đến phản
ứng trả lời của con người, đó là những hành vi, kể cả hành vi phạm tội.
+ Điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài là những yếu tố kích thích hoặc cản trở
người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Sự thay đổi của điều kiện, hoàn cảnh
có thể làm thay đổi ý đồ của người phạm tội, làm xuất hiện ý đồ mới hoặc hủy bỏ ý đồ phạm tội.
4. Quyết định thực hiện hành vi phạm tội a. Khái niệm
Quyết định thực hiện hành vi phạm tội là sự lựa chọn cuối cùng của người
phạm tội về mục đích, phương án, phương tiện phạm tội, thể hiện ý chí và lý trí
của người phạm tội, thái độ của họ đối với hành vi phạm tội cũng như hậu quả của nó.
- Quyết định thực hiện hay không thực hiện hành vi phạm tội là kết quả của
quá trình đấu tranh động cơ: Tính toán, cân nhắc, lựa chọn có nên hay không nên
thực hiện hành vi phạm tội. Thực chất đây là quá trình tác động qua lại giữa hai
loại yếu tố tâm lý: Kích thích (nhu cầu, hứng thú, tình cảm, tính cách…) và điều
chỉnh (nhận thức, thế giới quan, lý tưởng sống…) ở người phạm tội.
- Quá trình này diễn ra dài hay ngắn, gay gắt hay không gay gắt tùy thuộc vào
nhiều nhân tố khác nhau, trước hết tùy thuộc vào sự tương quan giữa hai loại yếu
tố tâm lý kích thích và điều chỉnh.
+ Nếu hai loại yếu tố tâm lý kích thích và điều chỉnh hình thành ở cá nhân đều
mạnh mẽ, mâu thuẫn lẫn nhau thì quá trình đấu tranh đi đến quyết định thực hiện
hành vi phạm tội sẽ mất nhiều thời gian.
+ Ngược lại, nếu loại yếu tố tâm lý này mạnh hơn hẳn yếu tố tâm lý kia thì
quá trình đấu tranh động cơ diễn ra ít gay gắt, ít kéo dài và thông thường loại yếu
tố nào mạnh hơn thì loại yếu tố đó sẽ “chiến thắng”, cá nhân sẽ hoạt động dưới sự
thúc đẩy và điều chỉnh chủ yếu của loại yếu tố đó. b. Đặc điểm
- Quyết định thực hiện hành vi phạm tội là sự khẳng định ý đồ và phương án
đã lựa chọn, là điểm xuất phát để thực hiện hành vi, đồng thời cũng là điểm kết
thúc giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Việc đưa ra quyết định thực hiện hành vi phạm tội là điểm mốc dẫn đến hành
vi phạm tội. Đây là thời điểm nhân cách đã chuyển hóa, mục đích phạm tội đã chi
phối toàn bộ suy nghĩ, tình cảm của người phạm tội.
- Quyết định thực hiện hành vi phạm tội phụ thuộc vào nhận thức và các đặc
điểm tâm lý khác của người phạm tội.
+ Quyết định thực hiện hành vi phạm tội có thể được đưa ra trong chốc lát
dưới tác động trực tiếp của tình huống hoặc xuất phát từ những khuôn mẫu hành
động đã có trong quá khứ hoặc là kết quả của một quá trình đấu tranh tư tưởng lâu dài, khó khăn.
+ Khí chất của người phạm tội ảnh hưởng nhiều đến việc ra quyết định thực
hiện hành vi phạm tội. Thông thường, những người có tính quyết đoán, có tác
phong nhanh nhẹn, dứt khoát thường đưa ra quyết định nhanh chóng. Ngược lại,
những cá nhân chần chừ, do dự, thiếu tính quyết đoán, tác phong chậm chạp, e dè
thì quá trình đấu tranh động cơ để đi đến quyết định thực hiện hành vi phạm tội thường kéo dài.
+ Quyết định thực hiện hành vi phạm tội có thể là quyết định có cơ sở, hợp lý,
tối ưu đối với người phạm tội cũng như đối với việc thực hiện tội phạm hoặc có thể
là quyết định nông nổi, manh động, thiếu cơ sở. Tuy nhiên, thông thường trong quá
trình tính toán đi đến quyết định thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội đều
không tính hết được hậu quả đem lại cho xã hội và sự trừng phạt của pháp luật đối
với hành vi phạm tội của mình. Đó là những hạn chế trong nhận thức, tính toán,
tầm nhìn của người phạm tội, vì đa số họ là những người ít hiểu biết, tính toán
nông cạn, chỉ thấy cái trước mắt mà không nhìn thấy cái tương lai lâu dài.
5. Phương thức thực hiện hành vi phạm tội a. Khái niệm
Phương thức thực hiện hành vi phạm tội là sự cụ thể hóa của ý đồ phạm tội
được thể hiện bằng hệ thống những cách thức, thao tác trong quá trình thực hiện
hành vi phạm tội mà người phạm tội lựa chọn.
Phương thức thực hiện hành vi phạm tội là dấu hiệu cơ bản để đánh giá về tội
phạm. Động cơ phạm tội, mục đích phạm tội, ý đồ phạm tội chỉ là là mặt chủ quan
bên trong của người phạm tội, hay nói cách khác đó chỉ là khía cạnh tâm lý của
hành vi chứ chưa bộc lộ ra bên ngoài bằng hành vi phạm tội cụ thể. Chỉ khi những
yếu tố tâm lý đó bộc lộ ra bên ngoài bằng cách thức, thao tác cụ thể (gọi là phương
thức) thì lúc đó mới có cơ sở để đánh giá hành vi đó có phải là hành vi phạm tội hay không.
b. Đặc điểm
- Phương thức thực hiện hành vi phạm tội xuất phát từ động cơ, mục đích phạm tội.
Phương thức thực hiện hành vi phạm tội phản ánh đặc điểm động cơ, mục
đích phạm tội. Làm rõ phương thức thực hiện hành vi phạm tội giúp xác định được
động cơ thúc đẩy người phạm tội, mục đích mà họ theo đuổi; tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Đồng thời, người phạm tội cũng
thường lựa chọn những phương thức thực hiện hành vi phạm tội có thể thỏa mãn
được động cơ bên trong của người phạm tội.
- Phương thức thực hiện hành vi phạm tội phản ánh đặc điểm tâm lý của cá nhân người phạm tội.
Trong phương thức thực hiện hành vi phạm tội còn thể hiện đặc điểm tâm lý,
trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen, khí chất… của người phạm tội. Người phạm
tội thường có xu hướng lựa chọn những phương thức, công cụ, phương tiện phạm
tội phù hợp với vốn hiểu biết, tri thức của mình.
III. HẬU QUẢ TÂM LÝ CỦA HÀNH VI PHẠM TỘI
1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý của người phạm tội sau khi thực
hiện hành vi phạm tội
a. Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
- Người thực hiện hành vi mang tính chất nguy hiểm cho xã hội càng lớn thì
hậu quả tâm lý của hành vi phạm tội càng rõ ràng. Thông thường, người gây những
tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để lại hậu quả tâm lý nặng
nề hơn người gây tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.
- Tính chất quan trọng của khách thể mà hành vi phạm tội đã xâm hại đến,
ảnh hưởng rất lớn đến trạng thái tâm lý của người phạm tội. Khách thể càng quan
trọng thì trạng thái tâm lý căng thẳng của người phạm tội càng gia tăng.
- Tính chất gay gắt của hành vi phạm tội cũng ảnh hưởng nặng nề đến diễn
biến tâm lý của người phạm tội sau khi thực hiện hành vi phạm tội. Nếu quá trình
thực hiện hành vi phạm tội diễn ra gay gắt, phức tạp, người phạm tội phải sử dụng
nhiều sức lực và trí tuệ, phải “vật lộn, đối chọi” nhiều với phía bị hại thì sau đó,
trạng thái căng thẳng của người phạm tội sẽ gia tăng hơn, bị ám ảnh nhiều hơn về
hành vi phạm tội của mình.
b. Đặc điểm tâm lý cá nhân của người phạm tội
Hậu quả tâm lý của hành vi phạm tội còn phụ thuộc vào đặc điểm tâm lý cá
nhân của người phạm tội như: Nhận thức, kinh nghiệm, vốn sống, nghề nghiệp,
bản lĩnh, tính cách, khí chất…
- Người phạm tội lần đầu sau khi thực hiện hành vi phạm tội có biểu hiện
khác với người đã có tiền án, tiền sự; kẻ lưu manh chuyên nghiệp có biểu hiện
khác với học sinh, sinh viên, cán bộ, công nhân viên chức hoặc người lao động;
người có trình độ học vấn cao có biểu hiện khác với người có trình độ học vấn thấp;
người có khí chất nóng có biểu hiện khác với người có khí chất điềm tĩnh, khí chất ưu tư…
- Mối quan hệ giữa người phạm tội với kết quả đạt được và nhận thức của
người phạm tội về sự bí mật của hành vi phạm tội có ảnh hưởng rất lớn đến diễn
biến tâm lý của người phạm tội.
+ Nếu người phạm tội thỏa mãn với kết quả đạt được và tin tưởng chắc chắn
rằng hành vi phạm tội của mình không thể bị phát hiện thì ở họ xuất hiện tâm trạng
thoải mái. Tâm lý này là cơ sở thuận lợi làm nảy sinh những mưu kế cho những
hành vi phạm tội tiếp theo mang tính chất nguy hiểm hơn, trắng trợn hơn nhưng lại thiếu sự tính toán.
+ Nếu người phạm tội không thỏa mãn với kết quả đạt được hoặc hình ảnh kết
quả đạt được của hành vi phạm tội gây nên cảm xúc nặng nề, ăn năn hối hận cùng
với sự nghi ngờ về hành vi phạm tội có thể bị phát hiện gây nên trạng thái căng
thẳng, lo lắng biểu hiện bằng những hoạt động đối phó với pháp luật và xã hội.
2. Diễn biến tâm lý ở người phạm tội sau khi thực hiện hành vi phạm tội
a. Có ấn tượng tội lỗi về hành vi phạm tội
- Ấn tượng tội lỗi về hành vi phạm tội là sự xuất hiện thường xuyên hình ảnh
về hành vi phạm tội gây dấu ấn sâu sắc trong đời sống tâm lý của người phạm tội.
Đó là những hình ảnh về diễn biến hành vi phạm tội, về hậu quả tác hại gây ra cho
xã hội, hình ảnh về tội ác mà người phạm tội đã gây ra luôn xuất hiện trước mắt người phạm tội.
- Biểu hiện của ấn tượng tội lỗi ở người phạm tội: Tư tưởng không tập trung
vào hoạt động một cách bình thường, luôn bị phân tán bởi ấn tượng tội lỗi, có cảm
xúc nặng nề, ân hận về hành vi phạm tội đã gây ra, đấu tranh nội tâm căng thẳng,
từ đó có thể thúc đẩy người phạm tội ra tự thú hoặc đầu thú trước pháp luật.
b. Xuất hiện trạng thái căng thẳng và rối loạn tâm lý
- Trước và trong khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội đã có sự
căng thẳng tâm lý do phải đấu tranh xác định động cơ, mục đích, lựa chọn công cụ
phương tiện, biện pháp hành động. Khi hoạt động phạm tội kết thúc, sự căng thẳng
tâm lý không giảm đi mà trái lại tiếp tục tăng lên.
- Trong trường hợp hành vi phạm tội chưa bị phát hiện, người phạm tội hi vọng
có thể che giấu được hành vi phạm tội của mình nên họ tìm mọi cách đối phó với
các cơ quan pháp luật. Điều này đòi hỏi người phạm tội luôn hoạt động tư duy để
phân tích, đánh giá những sai sót có thể xảy ra trong quá trình chuẩn bị và thực hiện
tội phạm, tìm cách lý giải các tình huống khi bị hỏi, nhận định hoạt động của cơ
quan điều tra… khiến cho tư duy của người phạm tội trở nên căng thẳng.
- Biểu hiện của sự căng thẳng thể hiện ở chỗ người phạm tội có tâm trạng
luôn hoang mang lo sợ, bồn chồn, ăn ngủ không yên, khi ngủ hay có ác mộng…
Họ lo sợ hành vi phạm tội của mình bị phát giác, bị người xung quanh nghi ngờ, bị
đưa ra ánh sáng, bị pháp luật trừng trị, lo cho cả thanh danh sự nghiệp, tương lai con cái, gia đình…
- Sự căng thẳng tâm lý thường dẫn đến một số rối loạn:
+ Rối loạn trong hoạt động tâm sinh lý như: Mất ăn mất ngủ, thể trạng thay
đổi theo hướng xấu đi, phản ứng tâm lý không bình thường trong quan hệ giao tiếp,
có những thay đổi khác hẳn trước đó về một số thói quen…
+ Những rối loạn trong nhận thức, nhất là trong trí nhớ và tư duy cũng thường
gặp ở người phạm tội. Nhớ quên lẫn lộn, khả năng tư duy lôgic giảm đi. Biểu hiện
ở lời khai nhiều khi không lôgic, mâu thuẫn trong nội dung khai báo, mâu thuẫn giữa các lần khai báo…
+ Hành vi của người phạm tội trở nên thụ động, dễ bị kích động, không làm
chủ được bản thân. Trước hết, do sự căng thẳng tâm lý, diễn biến phức tạp của quá
trình cảm xúc và trí tuệ nên làm giảm khả năng định hướng, điều khiển và kiểm
soát hành vi, thái độ của người phạm tội. Tâm lý căng thẳng, mất cân bằng làm
tăng tính phản ứng nên cũng làm cho người phạm tội dễ bị kích động, dễ phản ứng
hoặc phản ứng không tương xứng với tình huống.
c. Xuất hiện một số hoạt động giải tỏa sự căng thẳng tâm lý
Để giải tỏa sự căng thẳng tâm lý, người phạm tội thường tìm đến một số hoạt động sau:
- Tìm người để trò chuyện, trao đổi.
+ Đây là hoạt động khá phổ biến diễn ra ở người phạm tội sau khi thực hiện hành vi phạm tội.
+ Đối tượng mà người phạm tội tìm đến thường là người thân, bạn bè có quan
hệ thân thiết từ trước hoặc là những người quen biết có khả năng tư vấn, giúp đỡ
họ tháo gỡ khó khăn, giải tỏa sự lo lắng.
+ Trong khi trò chuyện trao đổi, họ thường hướng nội dung câu chuyện vào
các tình huống phát hiện và che giấu tội phạm để mong nhận được ý kiến của
người tiếp chuyện một cách tế nhị và kín đáo.
- Tìm hiểu theo dõi hoạt động điều tra của các cơ quan chức năng và ý kiến
đánh giá của mọi người xung quanh.
+ Người phạm tội có thể trực tiếp đến hiện trường, nơi họ gây án hoặc thông
qua bạn bè, người thân, những người có liên quan tìm hiểu tình hình và nắm bắt
các thông tin liên quan đến hành vi phạm tội của mình hoặc gián tiếp thông qua
báo chí, đài phát thanh truyền hình… để tìm hiểu thông tin.
+ Trong các hoạt động tìm hiểu thông tin liên quan đến hành vi phạm tội của
mình, người phạm tội đặc biệt chú ý theo dõi hoạt động điều tra của các cơ quan
điều tra. Họ tìm hiểu xem các cơ quan điều tra theo hướng nào, đã có những chứng
cứ gì… để định liệu cách đối phó.
- Tung tin giả, tạo ra dấu vết giả để đánh lạc hướng điều tra của các cơ quan điều tra.
+ Đây là cách giải thoát trạng thái tâm lý căng thẳng mang tính “tích cực” của
người phạm tội. Người phạm tội huy động tư duy nhiều hơn để đối phó với cơ quan điều tra.
+ Do sự căng thẳng và lo sợ đã thôi thúc người phạm tội tìm mọi cách ngụy
trang che đậy tội phạm. Một trong những cách che đậy tội phạm được sử dụng
thường là tung ra những thông tin giả liên quan đến tội phạm nhằm thu hút sự chú ý
của mọi người vào những thông tin giả, làm nhiễu thông tin, gây khó khăn cho các
cơ quan chức năng xử lý thông tin, sàng lọc đối tượng xác định hướng điều tra.
+ Những thủ đoạn tạo ra dấu vết giả để đối phó với cơ quan điều tra cũng
được các đối tượng phạm tội sử dụng khá nhiều. Chẳng hạn như đối với một vụ
giết người cướp của, người phạm tội có thể tạo ra hiện trường với dấu vết của vụ
tai nạn giao thông, hoặc hiện trường của vụ tự tử, hoặc hiện trường của vụ giết
người vì mâu thuẫn tình ái…
- Tìm đến các hoạt động giải trí thiếu lành mạnh.
+ Để giải tỏa sự căng thẳng tâm lý người phạm tội cũng thường tìm đến các
chất kích thích như: Rượu, bia, thuốc, ma túy. .; tìm đến nơi ăn chơi trác táng, trụy
lạc như: Cờ bạc, gái mại dâm…
+ Cách giải tỏa sự căng thẳng này không tạo ra cho người phạm tội trạng thái
yên tâm lâu dài, nó chỉ mang tính nhất thời. Sau trạng thái ức chế khi sử dụng các
chất kích thích, ý thức trở lại hoạt động bình thường, người phạm tội lại tiếp tục
căng thẳng, lo lắng. Bởi vậy, người phạm tội thường kết hợp với những cách giải tỏa khác.
- Thay đổi nề nếp sinh hoạt, xuất hiện những nội dung hoạt động mới.
+ Động cơ hoạt động phạm tội của tội phạm thường là vì lợi ích vật chất. Khi
đã đạt được mục đích của hành động phạm tội, các đối tượng sử dụng kết quả
phạm tội vào việc tiêu xài, mua sắm… Do đó, tác phong nề nếp sinh hoạt cũng như
nội dung hoạt động có sự thay đổi khác hẳn so với trước khi phạm tội.
+ Một số người phạm tội giải thoát trạng thái căng thẳng lo sợ bằng cách lánh
xa địa bàn gây án, lánh xa địa bàn đang có hoạt động điều tra của cơ quan bảo vệ
pháp luật. Bằng cách đó, chẳng những làm công tác điều tra gặp khó khăn mà trạng
thái tâm lý căng thẳng của người phạm tội cũng giảm xuống. Câu hỏi ôn tập
Câu 1. Nêu khái niệm tâm lý tội phạm, tâm lý người phạm tội, Tâm lý học tội
phạm? Trình bày đối tượng nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học tội phạm?
Câu 2. Phân tích cấu trúc tâm lý của hành vi phạm tội? Từ đó, rút ra ý nghĩa
trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm?
Câu 3. Phân tích diễn biến tâm lý ở người phạm tội sau khi thực hiện hành vi
phạm tội? Từ đó, rút ra ý nghĩa trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm?
Document Outline
- CHƯƠNG 1
- 1.Khái niệm Tâm lý học tội phạm- a.Tâm lý người phạm tội
- b.Tâm lý tội phạm
- c.Tâm lý học tội phạm
 
- 2.Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học tộ- a.Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học tội phạm
- b.Nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học tội phạm
 
- 1.Động cơ phạm tội- a.Khái niệm
- b.Đặc điểm
 
- 2.Mục đích phạm tội- a.Khái niệm
- b.Đặc điểm
 
- 3.Ý đồ phạm tội- a.Khái niệm
- b.Đặc điểm
 
- 4.Quyết định thực hiện hành vi phạm tội- a.Khái niệm
- b.Đặc điểm
 
- 5.Phương thức thực hiện hành vi phạm tội- a.Khái niệm
- b.Đặc điểm
 
- 1.Một số yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý của người phạm - a.Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
- b.Đặc điểm tâm lý cá nhân của người phạm tội
 
- 2.Diễn biến tâm lý ở người phạm tội sau khi thực hiệ- a.Có ấn tượng tội lỗi về hành vi phạm tội
- b.Xuất hiện trạng thái căng thẳng và rối loạn tâm lý
- c.Xuất hiện một số hoạt động giải tỏa sự căng thẳng
 
- Câu hỏi ôn tập
