lOMoARcPSD| 61531195
NHIỆM VỤ THẢO LUẬN 3 : NGÂM KHÚC
STT
Họ và tên
Mã sinh viên
1
Trần Hà Anh (nhóm trưởng)
725611014
2
Trần Mai Anh
715611004
3
Hoàng Thùy Diệu
725611027
4
Thị Thúy Hải
725611034
5
Nguyễn Dương Thảo Nguyên
715601297
6
Nguyễn Thị Thái Thanh
725611090
7
Lưu Thị Quỳnh Trang
695802012
8
Giáp Thị Diệu Quỳnh
I. Mối liên hệ giữa Ngâm khúc với các thể thơ trữ tình trung đại Việt Nam
- Ngâm khúc (còn được gọi ngâm, khúc ngâm song thất lục bát) một thể loại
trữ tình dài hơi, phản ánh tâm trạng buồn đau triền miên, dai dẳng của con người đã
ý thức về quyền sống quyền hạnh phúc nhân, được viết bằng thể thơ song thất lục
bát và ngôn ngữ dân tộc (chữ Nôm, chữ quốc ngữ).
- Lưu ý:
+ Ngâm khúc có nhiều điểm gặp gỡ về nội dung với các thể thức trữ tình đã có mặt
trước đó trong văn học VN như: ngâm, khúc, ca, hành, thán, vãn, từ,... Nhan đề tác
phẩm ngâm khúc thường chứa các từ ngâm khúc, ngâm, khúc, ca, thán,...
+) Không đồng nhất các tác phẩm có nhan đề là ngâm khúc, ngâm, khúc,...
+ Tiêu chí nhận diện thể loại:
· Ngâm khúc một tác phẩm có quy lớn (thông thường các tác phẩm trữ tình
thì quy nhỏ khác với tự sự thì phải tả khái quát. Đọc những bài thơ giãi
bày tâm trạng rất dài, rất đồ sộ).
· Phạm vi hiện thực mà ngâm khúc được phản ánh: đó là tâm trạng buồn thương
ai oán, nỗi sầu dai dẳng.
· Phương diện ngôn ngữ: gắn liền với VH dân tộc (đó là chữ Nôm chữ Quốc
ngữ).
Ví dụ: Truyện Kiều là thể thơ tự sự chứ không phải ngâm khúc.
lOMoARcPSD| 61531195
+) Các thể thơ trường thiên được viết theo thể thơ song thất lục bát nhưng viết theo
cảm hứng tụng ca (đó ca ngợi chứ không phải ai oán của con người nên không
phải ngâm khúc)
+ Phân biệt ngâm khúc với các tác phẩm song thất lục bát mang cảm hứng tụng ca,
hoặc chủ thể trữ tình không trực tiếp nói về bản thân nh như Tứ thời khúc vịnh,
Thiên Nam minh giám, Văn tế thập loại chúng sinh,...
+) Ngâm khúc tiếng nói của nhân, đó là cảm c của chính mình vì vậy “Văn
tế thập loại chúng sinh” của Nguyễn Du không phải ngâm khúc vì nó hướng ra bên
ngoài về nỗi đau của nhiều người nhiều tầng lớp trong xã hội.
II. Đặc điểm hình thức thể thơ
Thể ngâm khúc thuộc thể loại trữ tình trường thiên thuần túy Việt Nam viết bằng thể
thơ song thất lục bát, thường quy tương đối lớn, từ hàng trăm đến vài trăm
câu thơ.
1. Thể thơ song thất lục bát
- Cấu trúc thơ ổn định theo từng khổ bốn u, xếp theo hình 7 7 6 8.
Khúc ngâm STLB skết nối nhiều khổ thơ, mỗi khổ nhiều vần. Một khổ
thơ STLB gồm 28 âm tiết, chia thành 4 câu nhưng có tới 6 vần (gồm nhiều loại:
vần lưng, vần chân, vần bằng, vần trắc).
- Sự xuất hiện nhiều vần nhiều loại vần tạo nên nét đặc biệt cho âm hưởng
mang tính chu kỳ của khổ thơ: vừa tăng thêm tính nhạc, vừa tạo sự luyến láy cho
tốc độ câu thơ chậm lại. Hiện tượng này lặp lại trong toàn bộ khúc ngâm tạo
thành sự cộng hưởng âm vận, cộng hưởng ấn tượng cảm nhận về sự triền miên,
quẩn quanh của dòng tâm trạng.
- Các khổ thơ chung cấu trúc hình tượng biểu hiện nội dung suy tư, cảm xúc.
Luôn tồn tại sự đối lập giữa hy vọng – thất vọng, quá khứ - hiện tại, tưởng tượng
– thực tế trong khổ thơ.
- Sự lặp lại từ, ngữ không chỉ tạo ra các điệp từ, điệp ngữ mà còn tạo ra sự liên
hoàn giữa các câu, khổ thơ. Sự trùng lặp của các yếu tố trên sinh ra hiệu quả đặc
biệt khắc họa tâm trạng quẩn quanh, bế tắc của con người.
2. Ngôn ngữ thơ
lOMoARcPSD| 61531195
- Ngôn ngữ thơ của ngâm khúc mang giọng điệu trữ tình bi thương, biểu hiện
thái độ trước nỗi khổ đau của con người, gắn với cảm hứng nhân đạo.
- Sử dụng nhiều tláy tác dụng biểu cảm, công cụ tạo hình, tăng tính nhạc
cho thơ ca => lớp từ láy ưu thế đặc biệt, góp phần diễn tả dòng nội tâm con
người đau buồn. Cần đặc biệt quan tâm hệ thống từ láy trực tiếp biểu hiện
trạng thái tình cảm, tâm lý.
- Xây dựng nhiều hình tượng bằng ngôn từ có sức sống lâu bền.
=> Mọi yếu tố xuất hiện trùng điệp, tạo khả năng, hiệu quả cho sự biểu hiện của
tác phẩm.
III. Kiểu loại nhân vật
1. Nhân vật người phụ nữ bất hạnh
- Các nhà nho chung nguồn cảm hứng sáng tác nên nhân vật phụ nữ trong
thể loại Ngâm khúc thường những kiểu nhân vật phụ nhồng nhan bạc mệnh,
trong đó nổi bật lên ba kiểu nhân vật: chinh phụ/góa phụ, cung nữ và kĩ nữ.
- VD:
+) Một thiếu phụ đang sống hạnh phúc thì chiến tranh nổ ra, chồng phải ra
trận, mãi không về (Chinh phụ ngâm khúc)
+) Một cung nữ trẻ đẹp được vua sủng ái nhưng sau này bị ruồng bỏ (Cung
oán ngâm khúc)
+) Một hoàng hậu trẻ đẹp, chồng là đấng anh quân nhưng không may chồng
lại qua đời mất sớm (Ai tư vãn)
+) Một người phụ nữ với thân phận bình thường nhưng lại lâm vào cảnh chồng
chết đầy ai oán, bi thương với giấc mơ hạnh phúc không bao giờ có thể thực
hiện được (Quả phụ ngâm)
- Những kiểu nhân vật này dần đi lệch chuẩn mực Nho giáo và văn chương nhà
nho về khát vọng tình yêu mạnh mẽ, tình yêu gắn với tình dục, về thứ ngôn ngữ
táo bạo, đầy nhục cảm. Nếu như nhân vật đào kỹ nữ bước đột phá cao nhất của
văn học nữ quyền giai đoạn này, thì chinh phụ cung nữ những bước chuyển
biến, vừa dựa trên truyền thống vừa có nhiều yếu tố đột phá.
- Ta thấy rằng, tuy có hoàn cảnh cụ thể khác nhau nhưng những con người này
đều có chung nỗi niềm đau thương, mất mát. Vì vậy, tác phẩm ngâm khúc nào cũng
tâm trạng bi thương, bi kịch của con người hạt nhân niềm tiếc thương
lOMoARcPSD| 61531195
hạnh phúc một đi không trở lại. Trong Ngâm khúc, khát vọng hạnh phúc tiếng nói
chung của tất cả phụ nữ, không phân biệt sang - hèn, quý tộc - bình dân. Đó là tiếng
nói về quyền con người, vừa mang tính nhân bản, nhân văn, vừa mang tính hiện thực
sâu sắc.
2. Nhân vật con người tha phương lữ thứ hàm oan
Con người đau khổ trong các tác phẩm ngâm khúc cũng xuất hiện nhân vật nam
giới.
Thu dạ lữ hoài ngâm nỗi niềm của Đinh Nhật Thận (1814 1866) trong
những tháng ngày bị giam lỏng Huế bị triều đình nghi ngờ liên quan đến cuộc
khởi nghĩa Mỹ Lương của Cao Quát. Trải những tháng ngày không tin tức, nhà
thơ họ Đinh không nguôi lo lắng, thương nhvợ con, bạn bè, quê hương. Kết thúc
tác phẩm, tác giả viết vkhát vọng hồi hương của mình. Mong ước về một ngày mai
được trở về sum họp thật mong manh, khiến nỗi buồn "tàn canh" thẩm lệ của Đinh
Nhật Thận thêm da diết.
Tự tình khúc lời giãi bày nỗi oan ức đau đớn của Cao Nhạ trong những
tháng ngày bị tù đày. Khúc ngâm là lời nhẫn nhục kêu thương, giãi bày cảnh ngộ bi
thảm và oan khuất. Ông cố sống để làm minh chứng cho một dòng họ trọn đạo hiếu
trung và những con người vô tội. Gánh nặng trách nhiệm và tình cảm khiến nỗi khổ
tâm, day dứt của Cao Nhạ trong mỗi trang thơ thêm lâm ly, thống thiết. Đoạn
cuối khúc ngâm, cùng với việc nhớ lại những ngày sống giữa một vùng thiên nhiên
tươi đẹp, tác giả bày tỏ niềm hy vọng được vua ân xá "tân toan rửa hết, đến kỳ cam
lai" được đoàn viên với cảnh cũ người xưa.
Mỗi khúc ngâm như một lời tự bạch, một dòng độc thoại nội tâm của nhân vật
trữ tình. Con người cô đơn, đau khổ tự chìm đắm trong những suy tư trước số phận
bất hạnh. Qua dòng tâm trạng bi kịch mang chất tự tình, tác giả từng khúc ngâm đã
đặt ra nhiều vấn đề ý nghĩa hội sâu sắc. Đặc biệt khát vọng mãnh liệt v
quyền sống, quyền hạnh phúc của con người trước thảm hoạ của chiến tranh phong
kiến, của chế độ cung tần; trước sự bất công của pháp luật, sự đen bạc của thế thái
nhân tình trong hội trọng đồng tiền hay sự nghiệt ngã của i chết. Nỗi đau của
cảnh ngộ cùng nỗi đau mất hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình, mất quyền sống
kết đọng lại thành "khối sầu vạn cổ".
lOMoARcPSD| 61531195
IV. Kết cấu tác phẩm
- Ngâm khúc 1 kết cấu tác phẩm riêng biệt, nhìn chung các tác phẩm ngâm
khúc đều có một kết cấu giống nhau.
- Tác phẩm ngâm khúc chỉ duy nhất một chủ thể trữ tình tự bạch tâm trạng
mình, tự phô diễn dòng ý thức đang vận động trong tâm tư để dẫn đến một sự
cảm nhận mới về cuộc sống. Các nhân vật trữ tình đều từ không gian thực tại
vắng vẻ và tù túng (tiêu phòng, phòng không, căn phòng nơi đất khách, quán
lữ, phòng tây,...) bộc ltâm trạng đau buồn, đơn của mình. Tâm trạng
đơn, đau buồn của nhân vật thể đã diễn ra trong nhiều thời gian nhưng
thường là từ quá khứ trở về hiện tại, rồi từ hiện tại mơ ước đến tương lai, đôi
khi theo chiều ngược lại, hoặc đồng hiện trong dòng nội tâm nhân vật. Quá
khứ thường gắn với hạnh phúc, hiện tại đi cùng khổ đau, còn tương lai chỉ
mộng ước mong manh, xa vời.
- Nội dung được trình bày trong mỗi khúc ngâm có thể khác nhau do cảnh ng
của chủ thể chữ tình (chinh phụ, góa phụ, cung nữ, bần nữ hay nhân). Nhưng
hiện tại đau khổ luôn là căn nguyên nảy sinh tâm trạng - một dòng suy tư đan
xen giữa hiện tại, quá khứ và tương lai.
- thể nói, kết cấu chủ đạo của thể loại ngâm khúc kết cấu theo ba chiều
thời gian mang tính đồng hiện.
- VD: Chinh phụ ngâm
+) Toàn bộ khúc ngâm là sự giãi bày cảm xúc của người vợ có chồng đi lính xa n
+) Mở đầu: khung cảnh của chiến tranh ác liệt nhà vua truyền hịch kêu gọi mọi
người tham gia chiến cuộc. Trong bối cảnh này, nàng chinh phụ hình dung cảnh
chồng nàng lên đường phò vua giúp nước, ra đi với quyết tâm giành hàng loạt thành
trì dâng vua, hùng dũng trong chiếc chiến bào thắm đỏ và cưỡi con ngựa sắc trắng
như tuyết. Cuộc tiễn đưa lưu luyến kết thúc, người chinh phụ trở về khuê phòng và
tưởng tượng ra cảnh sống của chồng nơi chiến địa.
+) Trong phần tiếp theo, câu chuyện diễn tả tâm trạng trăn trở, quạnh của người
chinh phụ. Chán chường tuyệt vọng, người chinh phụ đã không còn muốn làm
việc, biếng lơi trang điểm, ngày đêm khẩn cầu mong được sống hạnh phúc cùng
chồng.
+) Kết thúc khúc ngâm, người chinh phụ hình dung ngày chồng nàng chiến thắng trở
về giữa bóng cờ tiếng hát khải hoàn, được nhà vua ban thưởng cùng nàng sống
hạnh phúc trong thanh bình, yên ả. Người chinh phụ nhận ra rằng hạnh phúc không
nằm trong công danh mà là ở trong cuộc sống của chính mình.
lOMoARcPSD| 61531195
- Ai vãn, Bần nthán… cho thấy, tất cả đều chung một kiểu kết cấu giống
nhau phụ thuộc vào nhãn quan của chủ thể trữ tình. Tác phẩm nào cũng bắt
đầu bằng việc thể hiện tâm trạng của chủ thể trong thời hiện tại. Tâm trạng đó
được nảy sinh sau những biến cố nào đấy, thường bất lợi cho nhân vật
gây nên những cảm xúc buồn đau.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61531195
NHIỆM VỤ THẢO LUẬN 3 : NGÂM KHÚC
STT Họ và tên Mã sinh viên 1
Trần Hà Anh (nhóm trưởng) 725611014 2 Trần Mai Anh 715611004 3 Hoàng Thùy Diệu 725611027 4 Lý Thị Thúy Hải 725611034 5
Nguyễn Dương Thảo Nguyên 715601297 6 Nguyễn Thị Thái Thanh 725611090 7 Lưu Thị Quỳnh Trang 695802012 8 Giáp Thị Diệu Quỳnh
I. Mối liên hệ giữa Ngâm khúc với các thể thơ trữ tình trung đại Việt Nam
- Ngâm khúc (còn được gọi là ngâm, khúc ngâm song thất lục bát) là một thể loại
trữ tình dài hơi, phản ánh tâm trạng buồn đau triền miên, dai dẳng của con người đã
ý thức về quyền sống quyền hạnh phúc cá nhân, được viết bằng thể thơ song thất lục
bát và ngôn ngữ dân tộc (chữ Nôm, chữ quốc ngữ). - Lưu ý:
+ Ngâm khúc có nhiều điểm gặp gỡ về nội dung với các thể thức trữ tình đã có mặt
trước đó trong văn học VN như: ngâm, khúc, ca, hành, thán, vãn, từ,... Nhan đề tác
phẩm ngâm khúc thường chứa các từ ngâm khúc, ngâm, khúc, ca, thán,...
+) Không đồng nhất các tác phẩm có nhan đề là ngâm khúc, ngâm, khúc,...
+ Tiêu chí nhận diện thể loại:
· Ngâm khúc là một tác phẩm có quy mô lớn (thông thường các tác phẩm trữ tình
thì có quy mô nhỏ khác với tự sự thì phải mô tả khái quát. Đọc những bài thơ giãi
bày tâm trạng rất dài, rất đồ sộ).
· Phạm vi hiện thực mà ngâm khúc được phản ánh: đó là tâm trạng buồn thương
ai oán, nỗi sầu dai dẳng.
· Phương diện ngôn ngữ: gắn liền với VH dân tộc (đó là chữ Nôm và chữ Quốc ngữ).
Ví dụ: Truyện Kiều là thể thơ tự sự chứ không phải ngâm khúc. lOMoAR cPSD| 61531195
+) Các thể thơ trường thiên được viết theo thể thơ song thất lục bát nhưng viết theo
cảm hứng tụng ca (đó là ca ngợi chứ không phải ai oán của con người nên không phải ngâm khúc)
+ Phân biệt ngâm khúc với các tác phẩm song thất lục bát mang cảm hứng tụng ca,
hoặc chủ thể trữ tình không trực tiếp nói về bản thân mình như Tứ thời khúc vịnh,
Thiên Nam minh giám, Văn tế thập loại chúng sinh,...
+) Ngâm khúc là tiếng nói của cá nhân, đó là cảm xúc của chính mình vì vậy “Văn
tế thập loại chúng sinh” của Nguyễn Du không phải ngâm khúc vì nó hướng ra bên
ngoài về nỗi đau của nhiều người nhiều tầng lớp trong xã hội.
II. Đặc điểm hình thức thể thơ
Thể ngâm khúc thuộc thể loại trữ tình trường thiên thuần túy Việt Nam viết bằng thể
thơ song thất lục bát, thường có quy mô tương đối lớn, từ hàng trăm đến vài trăm câu thơ.
1. Thể thơ song thất lục bát
- Cấu trúc thơ ổn định theo từng khổ bốn câu, xếp theo mô hình 7 – 7 – 6 – 8.
Khúc ngâm STLB là sự kết nối nhiều khổ thơ, mỗi khổ có nhiều vần. Một khổ
thơ STLB gồm 28 âm tiết, chia thành 4 câu nhưng có tới 6 vần (gồm nhiều loại:
vần lưng, vần chân, vần bằng, vần trắc).
- Sự xuất hiện nhiều vần và nhiều loại vần tạo nên nét đặc biệt cho âm hưởng
mang tính chu kỳ của khổ thơ: vừa tăng thêm tính nhạc, vừa tạo sự luyến láy cho
tốc độ câu thơ chậm lại. Hiện tượng này lặp lại trong toàn bộ khúc ngâm tạo
thành sự cộng hưởng âm vận, cộng hưởng ấn tượng cảm nhận về sự triền miên,
quẩn quanh của dòng tâm trạng.
- Các khổ thơ có chung cấu trúc hình tượng biểu hiện nội dung suy tư, cảm xúc.
Luôn tồn tại sự đối lập giữa hy vọng – thất vọng, quá khứ - hiện tại, tưởng tượng
– thực tế trong khổ thơ.
- Sự lặp lại từ, ngữ không chỉ tạo ra các điệp từ, điệp ngữ mà còn tạo ra sự liên
hoàn giữa các câu, khổ thơ. Sự trùng lặp của các yếu tố trên sinh ra hiệu quả đặc
biệt khắc họa tâm trạng quẩn quanh, bế tắc của con người. 2. Ngôn ngữ thơ lOMoAR cPSD| 61531195
- Ngôn ngữ thơ của ngâm khúc mang giọng điệu trữ tình bi thương, biểu hiện
thái độ trước nỗi khổ đau của con người, gắn với cảm hứng nhân đạo.
- Sử dụng nhiều từ láy có tác dụng biểu cảm, là công cụ tạo hình, tăng tính nhạc
cho thơ ca => lớp từ láy có ưu thế đặc biệt, góp phần diễn tả dòng nội tâm con
người đau buồn. Cần đặc biệt quan tâm hệ thống từ láy trực tiếp biểu hiện
trạng thái tình cảm, tâm lý.
- Xây dựng nhiều hình tượng bằng ngôn từ có sức sống lâu bền.
=> Mọi yếu tố xuất hiện trùng điệp, tạo khả năng, hiệu quả cho sự biểu hiện của tác phẩm.
III. Kiểu loại nhân vật
1. Nhân vật người phụ nữ bất hạnh
- Các nhà nho có chung nguồn cảm hứng sáng tác nên nhân vật phụ nữ trong
thể loại Ngâm khúc thường là những kiểu nhân vật phụ nữ hồng nhan bạc mệnh,
trong đó nổi bật lên ba kiểu nhân vật: chinh phụ/góa phụ, cung nữ và kĩ nữ. - VD:
+) Một thiếu phụ đang sống hạnh phúc thì chiến tranh nổ ra, chồng phải ra
trận, mãi không về (Chinh phụ ngâm khúc)
+) Một cung nữ trẻ đẹp được vua sủng ái nhưng sau này bị ruồng bỏ (Cung oán ngâm khúc)
+) Một hoàng hậu trẻ đẹp, chồng là đấng anh quân nhưng không may chồng
lại qua đời mất sớm (Ai tư vãn)
+) Một người phụ nữ với thân phận bình thường nhưng lại lâm vào cảnh chồng
chết đầy ai oán, bi thương với giấc mơ hạnh phúc không bao giờ có thể thực
hiện được (Quả phụ ngâm)
- Những kiểu nhân vật này dần đi lệch chuẩn mực Nho giáo và văn chương nhà
nho về khát vọng tình yêu mạnh mẽ, tình yêu gắn với tình dục, về thứ ngôn ngữ
táo bạo, đầy nhục cảm. Nếu như nhân vật ả đào kỹ nữ là bước đột phá cao nhất của
văn học nữ quyền giai đoạn này, thì chinh phụ và cung nữ là những bước chuyển
biến, vừa dựa trên truyền thống vừa có nhiều yếu tố đột phá.
- Ta thấy rằng, tuy có hoàn cảnh cụ thể khác nhau nhưng những con người này
đều có chung nỗi niềm đau thương, mất mát. Vì vậy, tác phẩm ngâm khúc nào cũng
có tâm trạng là bi thương, bi kịch của con người mà hạt nhân là niềm tiếc thương lOMoAR cPSD| 61531195
hạnh phúc một đi không trở lại. Trong Ngâm khúc, khát vọng hạnh phúc là tiếng nói
chung của tất cả phụ nữ, không phân biệt sang - hèn, quý tộc - bình dân. Đó là tiếng
nói về quyền con người, vừa mang tính nhân bản, nhân văn, vừa mang tính hiện thực sâu sắc.
2. Nhân vật con người tha phương lữ thứ hàm oan
Con người đau khổ trong các tác phẩm ngâm khúc cũng xuất hiện nhân vật là nam giới.
Thu dạ lữ hoài ngâm là nỗi niềm của Đinh Nhật Thận (1814 – 1866) trong
những tháng ngày bị giam lỏng ở Huế vì bị triều đình nghi ngờ có liên quan đến cuộc
khởi nghĩa Mỹ Lương của Cao Bá Quát. Trải những tháng ngày không tin tức, nhà
thơ họ Đinh không nguôi lo lắng, thương nhớ vợ con, bạn bè, quê hương. Kết thúc
tác phẩm, tác giả viết về khát vọng hồi hương của mình. Mong ước về một ngày mai
được trở về sum họp thật mong manh, khiến nỗi buồn "tàn canh" thẩm lệ của Đinh
Nhật Thận thêm da diết.
Tự tình khúc là lời giãi bày nỗi oan ức và đau đớn của Cao Bá Nhạ trong những
tháng ngày bị tù đày. Khúc ngâm là lời nhẫn nhục kêu thương, giãi bày cảnh ngộ bi
thảm và oan khuất. Ông cố sống để làm minh chứng cho một dòng họ trọn đạo hiếu
trung và những con người vô tội. Gánh nặng trách nhiệm và tình cảm khiến nỗi khổ
tâm, day dứt của Cao Bá Nhạ trong mỗi trang thơ thêm lâm ly, thống thiết. Đoạn
cuối khúc ngâm, cùng với việc nhớ lại những ngày sống giữa một vùng thiên nhiên
tươi đẹp, tác giả bày tỏ niềm hy vọng được vua ân xá "tân toan rửa hết, đến kỳ cam
lai" được đoàn viên với cảnh cũ người xưa.
Mỗi khúc ngâm như một lời tự bạch, một dòng độc thoại nội tâm của nhân vật
trữ tình. Con người cô đơn, đau khổ tự chìm đắm trong những suy tư trước số phận
bất hạnh. Qua dòng tâm trạng bi kịch mang chất tự tình, tác giả từng khúc ngâm đã
đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đặc biệt là khát vọng mãnh liệt về
quyền sống, quyền hạnh phúc của con người trước thảm hoạ của chiến tranh phong
kiến, của chế độ cung tần; trước sự bất công của pháp luật, sự đen bạc của thế thái
nhân tình trong xã hội trọng đồng tiền hay sự nghiệt ngã của cái chết. Nỗi đau của
cảnh ngộ cùng nỗi đau mất hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình, mất quyền sống
kết đọng lại thành "khối sầu vạn cổ". lOMoAR cPSD| 61531195
IV. Kết cấu tác phẩm
- Ngâm khúc có 1 kết cấu tác phẩm riêng biệt, nhìn chung các tác phẩm ngâm
khúc đều có một kết cấu giống nhau.
- Tác phẩm ngâm khúc chỉ có duy nhất một chủ thể trữ tình tự bạch tâm trạng
mình, tự phô diễn dòng ý thức đang vận động trong tâm tư để dẫn đến một sự
cảm nhận mới về cuộc sống. Các nhân vật trữ tình đều từ không gian thực tại
vắng vẻ và tù túng (tiêu phòng, phòng không, căn phòng nơi đất khách, quán
lữ, phòng tây,...) bộc lộ tâm trạng đau buồn, cô đơn của mình. Tâm trạng cô
đơn, đau buồn của nhân vật có thể đã diễn ra trong nhiều thời gian nhưng
thường là từ quá khứ trở về hiện tại, rồi từ hiện tại mơ ước đến tương lai, đôi
khi theo chiều ngược lại, hoặc đồng hiện trong dòng nội tâm nhân vật. Quá
khứ thường gắn với hạnh phúc, hiện tại đi cùng khổ đau, còn tương lai chỉ là
mộng ước mong manh, xa vời.
- Nội dung được trình bày trong mỗi khúc ngâm có thể khác nhau do cảnh ngộ
của chủ thể chữ tình (chinh phụ, góa phụ, cung nữ, bần nữ hay tù nhân). Nhưng
hiện tại đau khổ luôn là căn nguyên nảy sinh tâm trạng - một dòng suy tư đan
xen giữa hiện tại, quá khứ và tương lai.
- Có thể nói, kết cấu chủ đạo của thể loại ngâm khúc là kết cấu theo ba chiều
thời gian mang tính đồng hiện. - VD: Chinh phụ ngâm
+) Toàn bộ khúc ngâm là sự giãi bày cảm xúc của người vợ có chồng đi lính xa nhà
+) Mở đầu: khung cảnh của chiến tranh ác liệt và nhà vua truyền hịch kêu gọi mọi
người tham gia chiến cuộc. Trong bối cảnh này, nàng chinh phụ hình dung cảnh
chồng nàng lên đường phò vua giúp nước, ra đi với quyết tâm giành hàng loạt thành
trì dâng vua, hùng dũng trong chiếc chiến bào thắm đỏ và cưỡi con ngựa sắc trắng
như tuyết. Cuộc tiễn đưa lưu luyến kết thúc, người chinh phụ trở về khuê phòng và
tưởng tượng ra cảnh sống của chồng nơi chiến địa.
+) Trong phần tiếp theo, câu chuyện diễn tả tâm trạng trăn trở, cô quạnh của người
chinh phụ. Chán chường và tuyệt vọng, người chinh phụ đã không còn muốn làm
việc, biếng lơi trang điểm, ngày đêm khẩn cầu mong được sống hạnh phúc cùng chồng.
+) Kết thúc khúc ngâm, người chinh phụ hình dung ngày chồng nàng chiến thắng trở
về giữa bóng cờ và tiếng hát khải hoàn, được nhà vua ban thưởng và cùng nàng sống
hạnh phúc trong thanh bình, yên ả. Người chinh phụ nhận ra rằng hạnh phúc không
nằm trong công danh mà là ở trong cuộc sống của chính mình. lOMoAR cPSD| 61531195
- Ai tư vãn, Bần nữ thán… cho thấy, tất cả đều có chung một kiểu kết cấu giống
nhau và phụ thuộc vào nhãn quan của chủ thể trữ tình. Tác phẩm nào cũng bắt
đầu bằng việc thể hiện tâm trạng của chủ thể trong thời hiện tại. Tâm trạng đó
được nảy sinh sau những biến cố nào đấy, thường là bất lợi cho nhân vật mà
gây nên những cảm xúc buồn đau.