Thể chế chính trị Đàng ngoài được gọi là?
1. Thể chế chính tr Đàng ngoài được gọi là?
A. Vua
B. Chúa Trịnh
C. Chúa Nguyễn
D. Vua - Chúa Trịnh
D
Thể chế chính trị Đàng Ngoài được gọi Vua - Chúa Trịnh, Đàng
Ngoài Họ Trịnh nắm toàn bộ quyền thống trị nhưng phải dựa vào danh nghĩa
của vua Lê, nhân dân gọi "vua - chúa Trịnh"
2. Phủ chúa Trịnh dưới thời vua Lê hoạt động như thế nào?
Phủ chúa Trịnh hay phủ liêu, còn được gọi chính phủ để phân biệt với nội
điện của vua Lê.
- Thế tử: Theo lệ, các con của chúa khi lên 7 tuổi thì được nhà riêng, đọc
sách. Đến 13 tuổi, con trưởng của chúa được mở phủ, phong Thế tử. Riêng
Đoan Nam vương do bị cha ghẻ lạnh nên 9 tuổi mới đi học.
Sau khi được nhận kim sách sách phong từ vua Lê, vương Thế tử được gọi
Tiết chế phủ. Cũng n "tiểu triều đình" Đông Cung, Tiết chế phủ một
"tiểu chính phủ". Theo tả vương quốc Đàng Ngoài (Samuel Baron), ông
người hầu cận quan lại làm việc cho mình với các phẩm hàm tương
đương như chủa chúa. Vị Tiết chế phủ này hoàn toàn đại diện chúa vào
cung chúc tụng vua trong các dịp lễ tết.
- Nội viện của chúa: M chúa sẽ được vua ch phong Thái phi, nội
chúa được sách phong Thái tôn Thái phi. Trường hợp vương phi tiền nhiệm
không phải mẹ chúa mới, c sẽ được tôn "Chính phi". Chuyện này
phát sinh khi chính phi của Hoằng Tổ Dương vương Tạc Trịnh Thị Ngọc
Lung trường thọ, sống qua đời chúa sau Chiêu Tổ Khang vương Căn, do
chính phi không phải mẹ ruột nên chúa Trịnh không ý tôn làm thái phi,
thế vẫn giữ mỹ xưng "Quốc thái mẫu chính phi" từ thời kỳ trước, cũng
chính phi Ngọc Lung, tôn xưng dạng "quốc mẫu" rất thịnh hành đối với các
thái phi phủ chúa.
Hậu viện của chúa học theo nội cung: Tam phi, cửu tần, lục chức. Trong đó
cửu tần cao nhất. Như bà thị - mẹ của Ân vương Doanh danh vị
Chiêu viên, chúa chè Đặng thị trước Tu dung; sau khi Thịnh vương Sâm
hoăng thì đã được sách phong Tuyên phi. chính thất của Thịnh
vương, ca dao tục biên đều c nhận điều này. Trong Loại chí nghi lễ
sách phong Chiêu nghi viên đó cung tần phủ chúa.
- Xưng hô: Theo tác giả Samuel Baron, c vương tử được gọi là "ducang",
tức Đức ông. Các quận cháu được gọi "batua", tức chúa.
- Đối với anh em họ: Họ tước hiệu nhưng theo ông Baron thì tập ấm không
đến con cháu của họ. Cũng theo ông: "Chúa chu cấp cho con mình đầy đủ
còn anh ch em Chúa đành phải chấp nhận với nguồn thu từ qu công
Chúa ấn định vốn phụ thuộc vào thứ bậc cũng n họ gần hay họ xa, theo
đó bậc thứu hoặc thứ năm chẳng còn được ban phát nữa".
- Chị em chúa được sách phong Quận thượng chúa, con gái chúa tước vị
Quận chúa.
- Vào chầu: Theo triều chiếu lệnh thiện chính, vào năm 1631 thời Thần
Tông, triều đình quy định ngày các quan đến phủ chúa nghị sự như sau:
Theo quy định, các ngày 2 - 5 - 8 - 11 - 14 - 20 - 23 - 26 - 29 âm lịch đều phải
tham gia họp bàn chính sự phủ chúa. Ai vắng mặt, xử phạt. Đến ngày hầu,
sáng sớm các quan văn mặc phẩm phục theo quy định trong triều chiếu
lệnh thiện chính vào phủ đường. Các quan đi ngựa, kiệu đến chờ trước cửa
Diệu Đức. Khi cửa phủ mở, các quan vào theo lối tả hữu Cáp môn. Các quan
theo thứ tự vào phủ đường, chia ban văn - đứng hầu sập của chúa. Còn
từ Đô Đốc, Cai Cơ, Cai Đội trở xuống thì vào phủ chúa làm việc hàng ngày.
Chi tiết buổi chầu được Samuel Baron chép lại như sau:
Các quan lại trong Nội Phủ vào chầu chúa vào mỗi buổi sáng. Riêng vua Lê,
tiếp kiến quân thần vào mồng một rằm mỗi tháng. Khi vào chầu, chúa ngồi
lộ thiên nhưng khoảng cách khá xa. Binh lính cầm khí đứng trong sân
chầu, hoạn quan cũng đứng bên cạnh để chuyển lệnh chúa, đồng thời quỳ
tâu câu trả lời của các quan. Thế tử - vị theo ông Samuel Baron chỉ vào
chầu mỗi tháng một lần đều cấp dưới chầu chực bên Nội Phủ. Chúa sẽ
cho Thế tử biết về nội dung buổi chầu đ quyết sách phù hợp. Và, không
lót thì chẳng vụ kiện nào trơn tru.
Những vị quan đi chân đất vào buổi chầu. khi việc xin tha cho người
thân/quen phạm tội, các ông sẽ bỏ ra; lạy bốn lạy trước chúa. Các ông
thỉnh cầu chúa tha th cho kẻ phạm tội những phẩm chất tốt đẹp của họ.
Tất nhiên, Thiên Nam hạ tập trứ danh đã quy định về lấy tiền đền mạng.
Vào khoảng giờ thìn (7-9h), chúa bãi chầu. Chỉ hoạn quan cung nhân
phòng trong phủ. Điều khá lạ là: Chúa người thừa kế chính thức khi
các hoạn quan qua đời. Cha mẹ hoặc người thân của họ chỉ thể được một
ít tài sản theo sự chấp nhận của chúa.
3. sao Chúa Trịnh không thích làm vua?
Tại phủ Chúa Trịnh Đàng Ngoài chỉ mới nghe kể qua thôi, hẳn mọi
người đều kinh hoàng trước quyền sinh sát của ông nhưng sao Chúa Trịnh
vẫn không thích làm Vua? Thắc mắc này của người đời lâu nay được tác giả
Samuel Baron giải thích trong cuốn: t Vương quốc Đàng Ngoài (do
Omega NXB Khoa học hội ấn hành): "Không phải Chúa không ham
quyền lực hay ông ta tôn trọng pháp luật đâu, bởi ông ta đã nghĩ nát óc
về hai do sau để không n làm Vua: Thứ nhất, nếu lên ngôi ông sẽ bị coi
tiếm quyền, bị cả ớc ghét thù oán, nhất sự chống lại của họ Nguyễn -
người sẽ danh nghĩa chính đáng để tiến đánh dòng họ Chúa Trịnh. Thứ
hai, Chúa nhận thức được triều đình Trung Hoa sẽ chống lại ông ta một khi
biết tin kẻ không thuộc dòng dõi vua cướp lấy ngai vàng. Như thế
chẳng khác nào tự rước họa lớn vào thân tự hủy diệt bản thân''.
Hoàng đế thực
Chính vậy để an toàn, Chúa Trịnh đã dựng nên một hoàng tử thuộc dòng
dõi vua lên làm Vua nhưng thực tế quyền hành đều do Chúa nắm, từ việc
quyết định chiến tranh hay hòa bình, tự ra luật hủy luật, quyền lên án
hoặc ân phạm nhân, phong chứ tước hoặc bãi nhiệm quan tòa, tướng lĩnh
quân đội, thu thuế, ra lệnh phạt,...theo ý của Chúa. Bởi thế người châu Âu
gọi Chúa Vua hay Vương (King), còn Vua thì được gọi bằng một danh
xưng nghe to tát Hoàng đế nhưng thực.
Tác giả Samuel Baron kể lại: "Vua chỉ buông rèm trong cung cấm
chẳng ai bén mảng đến ngoài mấy mật thám phủ Chúa phái sang. Vua
cũng chẳng được ra ngoài cung cấm nhiều hơn một lần trong năm, thường
vào dịp lễ, tết. Toàn bộ công việc còn lại chỉ chuẩn y những Chúa muốn
thực hiện điều đó thông qua những lệnh chỉ cho đúng tính chất lễ nghi. Đối
đầu với Chúa, việc nhỏ nhất cũng dễ mang họa vào thân. vậy, mặc
dân rất kính trọng Vua nhưng họ lại sợ Chúa - người luôn được xu nịnh
ông quyền lực tối thượng trong tay".
vậy Chúa Trịnh thường luôn được ca tụng nhân vật giữ gìn ngôi báu
của hoàng gia cũng như luật pháp thể chế của vương quốc Đàng ngoài,
nhưng thực ra Chúa Trịnh đã lột sách quyền lực của vua Lê, điều này sách
đã dẫn của Samuel Baron viết: "Tôi nghĩ chuyện này chẳng xứ o khác,
cũng chẳng xảy ra trong lịch sử của bất kỳ một dân tộc nào. Chính trị gia
nước khác nghe chuyện kỳ lạ này chắc khó thể tin được.
Còn một điều khá nghịch mang nghĩa Vua của Đàng Ngoài nhưng
người kế vị chính bản thân nhà vua ng không h hay biết người con nào
sẽ kế vị mình nếu n nhà vua có nhiều con trai. Tác giả Samuel Baron tiết lộ:
"Thậm chí nếu nhà vua chỉ một con trai, chưa chắc người con đó sẽ được
kế vị, bởi Chúa mới người quyết định chọn người nào ông ưa, miễn
thuộc dòng dõi hoàng tộc. Tuy nhiên Chúa cũng hiếm khi gạt bỏ Thái tử khỏi
ngai vàng, trừ khi do trọng đại hoặc do những động cấp bách về
chính trị".
xứ Đàng Ngoài chỉ Vua Chúa mới được truyền lại tước hiệu cho con
cháu đến đời thứ ba, còn những quan lại khác phải mưu cầu quyền tước qua
chinh chiến, qua học hành hoặc mua bằng tiền nhưng chỉ giá trị trong mỗi
đời họ. Lọt qua "cửa ải" thì mới mong được dịp trung thành với Chúa Trịnh,
để nhận được sự ban phát bổng lộc của ông đặc biệt địa vị nào đó trong
hội.

Preview text:

Thể chế chính trị ở Đàng ngoài được gọi là?
1. Thể chế chính trị ở Đàng ngoài được gọi là?
A. Vua Lê B. Chúa Trịnh C. Chúa Nguyễn D. Vua Lê - Chúa Trịnh → D
Thể chế chính trị ở Đàng Ngoài được gọi là Vua Lê - Chúa Trịnh, ở Đàng
Ngoài Họ Trịnh nắm toàn bộ quyền thống trị nhưng phải dựa vào danh nghĩa
của vua Lê, nhân dân gọi là "vua Lê - chúa Trịnh"
2. Phủ chúa Trịnh dưới thời vua Lê hoạt động như thế nào?
Phủ chúa Trịnh hay phủ liêu, còn được gọi là chính phủ để phân biệt với nội điện của vua Lê.
- Thế tử: Theo lệ, các con của chúa khi lên 7 tuổi thì được ở nhà riêng, đọc
sách. Đến 13 tuổi, con trưởng của chúa được mở phủ, phong Thế tử. Riêng
Đoan Nam vương do bị cha ghẻ lạnh nên 9 tuổi mới đi học.
Sau khi được nhận kim sách sách phong từ vua Lê, vương Thế tử được gọi
là Tiết chế phủ. Cũng như "tiểu triều đình" Đông Cung, Tiết chế phủ là một
"tiểu chính phủ". Theo Mô tả vương quốc Đàng Ngoài (Samuel Baron), ông
có người hầu cận và có quan lại làm việc cho mình với các phẩm hàm tương
đương như ở chủa chúa. Vị Tiết chế phủ này hoàn toàn đại diện chúa vào
cung chúc tụng vua Lê trong các dịp lễ tết.
- Nội viện của chúa: Mẹ chúa sẽ được vua Lê sách phong Thái phi, bà nội
chúa được sách phong Thái tôn Thái phi. Trường hợp vương phi tiền nhiệm
không phải là mẹ chúa mới, các bà sẽ được tôn là "Chính phi". Chuyện này
phát sinh khi chính phi của Hoằng Tổ Dương vương Tạc là Trịnh Thị Ngọc
Lung trường thọ, sống qua đời chúa sau là Chiêu Tổ Khang vương Căn, do
chính phi không phải mẹ ruột nên chúa Trịnh không có ý tôn làm thái phi, vì
thế vẫn giữ mỹ xưng "Quốc thái mẫu chính phi" từ thời kỳ trước, và cũng
chính phi Ngọc Lung, tôn xưng dạng "quốc mẫu" rất thịnh hành đối với các bà thái phi phủ chúa.
Hậu viện của chúa học theo nội cung: Tam phi, cửu tần, lục chức. Trong đó
cửu tần là cao nhất. Như bà Vũ thị - mẹ của Ân vương Doanh có danh vị là
Chiêu viên, bà chúa chè Đặng thị trước là Tu dung; sau khi Thịnh vương Sâm
hoăng thì bà đã được sách phong Tuyên phi. Bà là chính thất của Thịnh
vương, ca dao và tục biên đều xác nhận điều này. Trong Loại chí có nghi lễ
sách phong Chiêu nghi viên đó là cung tần phủ chúa.
- Xưng hô: Theo tác giả Samuel Baron, các vương tử được gọi là "ducang",
tức Đức ông. Các quận cháu được gọi là "batua", tức Bà chúa.
- Đối với anh em họ: Họ có tước hiệu nhưng theo ông Baron thì tập ấm không
đến con cháu của họ. Cũng theo ông: "Chúa chu cấp cho con mình đầy đủ
còn anh chị em Chúa đành phải chấp nhận với nguồn thu từ quỹ công mà
Chúa ấn định vốn phụ thuộc vào thứ bậc cũng như là họ gần hay họ xa, theo
đó bậc thứu tư hoặc thứ năm chẳng còn được ban phát gì nữa".
- Chị em chúa được sách phong Quận thượng chúa, con gái chúa có tước vị Quận chúa.
- Vào chầu: Theo Lê triều chiếu lệnh thiện chính, vào năm 1631 thời Lê Thần
Tông, triều đình quy định ngày các quan đến phủ chúa nghị sự như sau:
Theo quy định, các ngày 2 - 5 - 8 - 11 - 14 - 20 - 23 - 26 - 29 âm lịch đều phải
tham gia họp bàn chính sự ở phủ chúa. Ai vắng mặt, xử phạt. Đến ngày hầu,
sáng sớm các quan văn võ mặc phẩm phục theo quy định trong Lê triều chiếu
lệnh thiện chính vào phủ đường. Các quan đi ngựa, kiệu đến chờ trước cửa
Diệu Đức. Khi cửa phủ mở, các quan vào theo lối tả hữu Cáp môn. Các quan
theo thứ tự vào phủ đường, chia ban văn - võ đứng hầu ở sập của chúa. Còn
từ Đô Đốc, Cai Cơ, Cai Đội trở xuống thì vào phủ chúa làm việc hàng ngày.
Chi tiết buổi chầu được Samuel Baron chép lại như sau:
Các quan lại trong Nội Phủ vào chầu chúa vào mỗi buổi sáng. Riêng vua Lê,
tiếp kiến quân thần vào mồng một và rằm mỗi tháng. Khi vào chầu, chúa ngồi
lộ thiên nhưng khoảng cách khá xa. Binh lính cầm vũ khí đứng trong sân
chầu, hoạn quan cũng đứng bên cạnh để chuyển lệnh chúa, đồng thời quỳ
tâu câu trả lời của các quan. Thế tử - vị mà theo ông Samuel Baron chỉ vào
chầu mỗi tháng một lần đều có cấp dưới chầu chực bên Nội Phủ. Chúa sẽ
cho Thế tử biết về nội dung buổi chầu để có quyết sách phù hợp. Và, không
lót thì chẳng có vụ kiện nào trơn tru.
Những vị quan đi chân đất vào buổi chầu. Và khi có việc xin tha cho người
thân/quen phạm tội, các ông sẽ bỏ mũ ra; lạy bốn lạy trước chúa. Các ông
thỉnh cầu chúa tha thứ cho kẻ phạm tội vì những phẩm chất tốt đẹp của họ.
Tất nhiên, Thiên Nam dư hạ tập trứ danh đã có quy định về lấy tiền đền mạng.
Vào khoảng giờ thìn (7-9h), chúa bãi chầu. Chỉ có hoạn quan và cung nhân
có phòng ở trong phủ. Điều khá lạ là: Chúa là người thừa kế chính thức khi
các hoạn quan qua đời. Cha mẹ hoặc người thân của họ chỉ có thể được một
ít tài sản theo sự chấp nhận của chúa.
3. Ví sao Chúa Trịnh không thích làm vua?
Tại phủ Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài chỉ mới nghe kể sơ qua thôi, hẳn mọi
người đều kinh hoàng trước quyền sinh sát của ông nhưng vì sao Chúa Trịnh
vẫn không thích làm Vua? Thắc mắc này của người đời lâu nay được tác giả
Samuel Baron giải thích rõ trong cuốn: Mô tả Vương quốc Đàng Ngoài (do
Omega và NXB Khoa học Xã hội ấn hành): "Không phải Chúa không ham
quyền lực hay ông ta tôn trọng pháp luật gì đâu, mà bởi ông ta đã nghĩ nát óc
về hai lý do sau để không lên làm Vua: Thứ nhất, nếu lên ngôi ông sẽ bị coi là
tiếm quyền, bị cả nước ghét và thù oán, nhất là sự chống lại của họ Nguyễn -
người sẽ có danh nghĩa chính đáng để tiến đánh dòng họ Chúa Trịnh. Thứ
hai, Chúa nhận thức được triều đình Trung Hoa sẽ chống lại ông ta một khi
biết tin có kẻ không thuộc dòng dõi vua Lê cướp lấy ngai vàng. Như thế
chẳng khác nào tự rước họa lớn vào thân và tự hủy diệt bản thân' . Hoàng đế vô thực
Chính vì vậy để an toàn, Chúa Trịnh đã dựng nên một hoàng tử thuộc dòng
dõi vua Lê lên làm Vua nhưng thực tế quyền hành đều do Chúa nắm, từ việc
quyết định chiến tranh hay hòa bình, tự ra luật và hủy luật, có quyền lên án
hoặc ân xá phạm nhân, phong chứ tước hoặc bãi nhiệm quan tòa, tướng lĩnh
quân đội, thu thuế, ra lệnh phạt,...theo ý của Chúa. Bởi thế mà người châu Âu
gọi Chúa là Vua hay Vương (King), còn Vua thì được gọi bằng một danh
xưng nghe to tát là Hoàng đế nhưng vô thực.
Tác giả Samuel Baron kể lại: "Vua Lê chỉ buông rèm trong cung cấm và
chẳng ai bén mảng đến ngoài mấy mật thám mà phủ Chúa phái sang. Vua
cũng chẳng được ra ngoài cung cấm nhiều hơn một lần trong năm, thường
vào dịp lễ, tết. Toàn bộ công việc còn lại chỉ chuẩn y những gì Chúa muốn và
thực hiện điều đó thông qua những lệnh chỉ cho đúng tính chất lễ nghi. Đối
đầu với Chúa, dù là việc nhỏ nhất cũng dễ mang họa vào thân. Vì vậy, mặc
dù dân rất kính trọng Vua nhưng họ lại sợ Chúa - người luôn được xu nịnh vì
ông có quyền lực tối thượng trong tay".
Vì vậy mà Chúa Trịnh thường luôn được ca tụng là nhân vật giữ gìn ngôi báu
của hoàng gia cũng như luật pháp và thể chế của vương quốc Đàng ngoài,
nhưng thực ra Chúa Trịnh đã lột sách quyền lực của vua Lê, điều này sách
đã dẫn của Samuel Baron viết: "Tôi nghĩ chuyện này chẳng có ở xứ nào khác,
cũng chẳng xảy ra trong lịch sử của bất kỳ một dân tộc nào. Chính trị gia ở
nước khác nghe chuyện kỳ lạ này chắc khó có thể tin được.
Còn một điều khá nghịch lý là dù mang nghĩa Vua của Đàng Ngoài nhưng
người kế vị và chính bản thân nhà vua cũng không hề hay biết người con nào
sẽ kế vị mình nếu như nhà vua có nhiều con trai. Tác giả Samuel Baron tiết lộ:
"Thậm chí nếu nhà vua chỉ có một con trai, chưa chắc người con đó sẽ được
kế vị, bởi Chúa mới là người quyết định chọn người nào ông ưa, miễn là
thuộc dòng dõi hoàng tộc. Tuy nhiên Chúa cũng hiếm khi gạt bỏ Thái tử khỏi
ngai vàng, trừ khi vì lý do trọng đại hoặc do những động cơ cấp bách về chính trị".
Ở xứ Đàng Ngoài chỉ có Vua và Chúa mới được truyền lại tước hiệu cho con
cháu đến đời thứ ba, còn những quan lại khác phải mưu cầu quyền tước qua
chinh chiến, qua học hành hoặc mua bằng tiền nhưng chỉ có giá trị trong mỗi
đời họ. Lọt qua "cửa ải" thì mới mong có được dịp trung thành với Chúa Trịnh,
để nhận được sự ban phát bổng lộc của ông và đặc biệt là địa vị nào đó trong xã hội.
Document Outline

  • Thể chế chính trị ở Đàng ngoài được gọi là?
    • 1. Thể chế chính trị ở Đàng ngoài được gọi là?
    • 2. Phủ chúa Trịnh dưới thời vua Lê hoạt động như t
    • 3. Ví sao Chúa Trịnh không thích làm vua?