Thiết chế hội gì? Quan niệm về thiết chế
hội?
1. Thiết chế hội gì?
Thiết chế hội, thể chế hội hay ngắn gọn thể chế, một tập hợp
các vị thế vai trò chủ định nhằm thỏa mãn nhu cầu hội quan trọng.
đây khái niệm quan trọng được dùng rộng rãi trong hội học. Cũng
giống như nhiều khái niệm khác của hội học, nội hàm của thiết chế hội
cũng chưa được xác định một cách ràng. Sự nhầm lẫn phổ biến nhất
việc đồng nhất thiết chế hội với một nhóm thực, tổ chức thực nào đó. Lý
do của sự nhầm lẫn này mặc khái niệm thiết chế hội rất trừu tượng,
nhưng bản thân thiết chế lại hữu hình (tương tự như nhóm hội, tổ chức
hội).
Thực chất nhóm hội, tổ chức hội một tập hợp người được liên kết với
nhau bởi c dạng quan hệ hội. Các quan hệ hội này được hình thành
từ những tương tác thường xuyên, ổn định, lâu dài, định hướng. Trong
quá trình tương tác y các khuôn mẫu hành vi, vai trò được thiết kế a, tức
biến thành c thiết chế. Như vậy các nhóm, các tổ chức hay bản thân
từng nhân chỉ như những tập hợp người thực hiện các thiết chế thôi,
chứ không phải chính thiết chế.
Nhà hội học người M J. Fichter cho rằng, thiết chế hội chính một
đoạn của văn hóa đã được khuôn mẫu hóa. Những khuôn mẫu tác phong của
nền văn hóa đó được hội đồng tình, khuyến khích sẽ xu hướng trở
thành các hình hành vi được mong đợi - các vai trò. Do đó, thiết chế
hội một tập hợp các khuôn mẫu tác phong được đa số chấp nhận (các vai
trò) nhằm thỏa mãn một nhu cầu bản của nhóm hội.
2. Quan niệm về thiết chế xã hội
Theo G.V. Oxipov, thiết chế hội tổ chức nhất định của hoạt động hội
các quan h hội, được thực thi bằng hệ thống phối hợp của những quy
chuẩn về nh vi, chuẩn mực giá trị, được định hướng một cách hợp lý.
Theo quan niệm của V.A. Cruglicov, thiết chế hội sự biểu hiện vật chất
của các chuẩn mực hội quan điều hoà việc tuân theo c chuẩn
mực đó. Thiết chế hội sự tổ chức c hoạt động hội các quan hệ
hội nhất định, m cho các quan hệ hội thể được tính ổn định
kế thừa. Thiết chế hội biểu hiện ra dưới hình thức c quan khác nhau
thực hiện các chức năng điều hoà những lĩnh vực nào đó của các quan hệ
hội.
W.G. Sumner đã định nghĩa thiết chế một khái niệm hay một cấu trúc hàm
chứa một mục đích hay một chức năng do một tổ chức h thống gồm
nhiều người tiến hành.
Thiết chế hội là một tập hợp bền vững c giá trị chuẩn mực, vị thế, vai trò
nhóm vận động xung quanh nhu cầu bản của hội. Nó một tổ chức
nhất định của sự hoạt động hội các quan hệ hội được thực hiện
bằng một hệ thống của các hành vi con người với các chuẩn mực quy
phạm hội. Tất cả các thiết chế đều các quy tắc chuẩn mực, điều luật
cả chế vật chất của các nhóm hội phải tôn trọng, chất kết
dính giữa c nhân, các nhóm hội sự điều tiết hoạt động của chúng.
Thiết chế hội thể được xem xét theo cấu bên ngoài (hình thức vật
chất của thiết chế), ng như cấu bên trong (nội dung hành động của thiết
chế). Về cấu bên ngoài của thiết chế hội biểu hiện như một tổng thể
những người, những quan được trang bị những phương tiện vật chất nhất
định thực hiện những chức năng hội nhất định. Về cấu bên trong
của thiết chế hội bao gồm tập hợp nhất định những tiêu chuẩn được định
hướng theo mục tiêu về hành vi của những người nhất định, trong hoàn cảnh
nhất định.
Từ những định nghĩa phân tích đã nêu trên, thể rút ra một số vấn đ
sau :
Thiết chế hội sự tổ chức của các hoạt động hội các quan hệ
hội, hình hành vi chung cho mọi thành viên trong những lĩnh vực khác
nhau của một hội nhất định.
Các thiết chế là những thành t đặc thù bảo đảm tính kế thừa tính ổn
định nhất định của những mối liên hệ những mối quan hệ trong khuôn
khổ của các giá trị chuẩn mực hội của mọi thành viên.
Thiết chế một cấu trúc một chức năng.
Thiết chế hội có hai chức ng chính: thứ nhất khuyến khích, điều chỉnh,
điều hoà, hành vi của con người phù hợp với quy phạm chuẩn mực của
thiết chế tuân thủ thiết chế. Thứ hai ngăn chặn, kiểm soát, giám sát
những hành vi lệch lạc do thiết chế quy định.
Trong một hội, thường tồn tại 5 loại thiết chế bản làm nền móng cho
toàn hội đó là: gia đình, giáo dục, tôn giáo, kinh tế nhà nước ( chính trị).
Mỗi một thiết chế đều chức năng nhiệm vụ ràng của nó. Các thiết
chế này tồn tại trong mọi hội, nhưng hình thức của các thiết chế này khác
nhau trong các hội khác nhau. Đó những hiện tượng văn hóa, đã phản
ánh được những đặc trưng riêng của mỗi hội.
Sự nảy sinh thiết chế hội, do điều kiện khách quan nhất định, biểu hiện
tính thống nhất với sở kinh tế hội.
Bản thân thiết chế hội, sự độc lập tương đối sự tác động trở lại
đối với sở kinh tế, hội. Tồn tại trong hội, các thiết chế tuy những
đặc trưng riêng về chức năng nhiệm vụ, nhưng lại liên quan rất chặt chẽ
với nhau, tạo thành một hệ thống.
Thuật ngữ hệ thống, ám chỉ các mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận, ảnh
hưởng phụ thuộc lẫn nhau. vậy, chúng ta thể dễ dàng nhận thấy
rằng, cái xảy ra bộ phận này thể kéo theo sự biến đổi trong các bộ
phận khác.
Mặc tất cả các thiết chế sự phụ thuộc, tác động qua lại với nhau, nhưng
mỗi một thiết chế tự được cấu trúc mức cao được tổ chức xung
quanh hệ thống các giá trị, chuẩn mực, qui tắc các khuôn mẫu đã được
hội thừa nhận.
đây, ảnh hưởng lẫn nhau biểu hiện mức độ thống nhất trong hệ thống.
Nếu sự thay đổi thiết chế nào, t sẽ kéo theo sự biến đổi của thiết chế
khác như đã phân ch trên.
Các thiết chế được hình dung như những cấu trúc hội, các quan hệ các
hoạt động hỗ tương được cấu trúc n các truyền thống tính thiết chế.
Tính ổn định của các thiết chế phụ thuộc vào tính năng động của hội
phụ thuộc vào sự chống đối những biến đổi của hội, của các giá trị trong
nhóm. Bởi vì, hội bao hàm cả tính năng động luôn luôn sự thay đổi,
vậy các thiết chế với tính cách là những cấu trúc thoả mãn nhu cầu cũng bị
biến đổi theo thời gian.
Thiết chế luôn được mọi người trong hội công nhận tán thành. Nói như
vậy không nghĩa sẽ sự tuân thủ tuyệt đối các hình, sẽ
những ảnh hưởng không tuân thủ các mô hình thiết chế đây nền tảng
của những biến đổi hội.
3. Đặc trưng của thiết chế hội
Mỗi thiết chế đều mục đích nhằm thỏa mãn những nhu cầu hội. S nảy
sinh thiết chế hội do điều kiện khách quan nhất định, biểu hiện tính
thống nhất với sở kinh tế - hội. Bản thân của thiết chế hội sự độc
lập tương đối tác động trở lại đối với sở kinh tế - hội. nh không
hiệu quả của các thiết chế hội, sự tác động không hài hòa của chúng, việc
chúng không khả năng tổ chức các lợi ích hội, không thu xếp được một
cách đúng theo trật tự sự vận hành của các mối liên hệ hội dấu hiệu nói
lên sự khủng hoảng của hội. Để khắc phục tình trạng này, cần phải cải tiến
bản bản thân các phương thức chế hoạt động của chúng.
Thiết chế hội được tổ chức thành cấu. Các yếu tố tạo thành thiết chế
hội khuynh hướng kết hợp lại với nhau hỗ trợ lẫn nhau. Khi thiết chế
hội càng phức tạp, thì hội càng phát triển, n vậy xác định vị trí,
vai trò của nhân càng ràng. Mỗi một thiết chế hội một đối tượng
riêng để hướng tới phục vụ, nhằm đáp ứng các nhu cầu hội chuyên biệt
liên quan tới đối tượng. Để đạt được điều đó mỗi thiết chế lại một chức
năng. Mỗi một thiết chế tự nó được cấu trúc mức cao được tổ chức
xung quanh hệ thống các giá trị, chuẩn mực, quy tắc, khuôn mẫu đã được
hội thừa nhận.
4. Chức năng của thiết chế hội
4.1. Chức năng bản
- Điều hòa hội;
- Kiểm soát hội.
4.2. Các chức năng của các thiết chế hội được thực hiện thông qua các
nhiệm vụ:
- Thiết chế hội vốn những hình hành vi được đa số thừa nhận là
chuẩn thực hiện theo, do đó các nhân sẽ không mất thời gian để suy
tính, đắn đo xem cách thức nh động đó đúng hay sai đ thực hiện hay
không thực hiện. Nói cách khác, thiết chế đã đơn giản hóa tác phong hành
động, lề lối duy của nhân. Mọi thành viên hành động theo thiết chế một
cách tự động hóa.
- Thiết chế hội cũng tập hợp các vai trò đã được chuẩn hóa - Đó chính
các vai trò mọi nhân cần phải học để thực hiện thông qua quá trình
hội hóa. Nghĩa là, thiết chế cung cấp cho nhân những vai trò sẵn.
dụ, thiết chế gia đình cung cấp cho nhân những vai trò bố mẹ, con cái,...;
thiết chế giáo dục cung cấp cho nhân các vai trò thầy, học sinh,... chứ
không phải do nhân sáng tạo nên c vai trò này.
Thiết chế hội yếu tố phối hợp ổn định cho toàn thể nền văn hóa. Nhìn
chung, nhân ít khi hành động ngược lại các thiết chế; bởi lẽ, cung cách
duy phong cách hành động đã được thiết chế hóa ý nghĩa quan trọng
đối với con người. Thiết chế mang lại cảm giác yên tâm an toàn cho các
thành viên tuân thủ nó, chính cái hội cho đúng, chuẩn -
thực hiện theo nó tức thực hiện theo đám đông, ch những thành viên
không thực hiện mới cảm thấy bất an bị hội lên án. dụ, đại đa số "trai
lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng" là việc làm hết sức bình thường - đó một thiết
chế.
Thiết chế hội luôn bao gồm những mong đợi của hội. Nhờ những
mong đợi này của thiết chế nhân biết được mình sẽ phải hành động
suy nghĩ thế nào trước những người khác. Trường hợp thiết chế hội thực
hiện các chức năng điều hòa kiểm soát hội không đúng ch thức
thể dẫn đến c tác động tiêu cực đối với hội - khi sự điều hòa đặc biệt
là, sự kiểm soát của thiết chế quá mạnh sẽ triệt tiêu mọi sự ng tạo của
nhân, đồng thời thiết chế sẽ mang tính bảo thủ. Tính bảo thủ này thể hiện
chỗ cố gắng duy trì những khuôn mẫu tác phong đã lạc hậu, lỗi thời. Các
thiết chế này sẽ cản trở sự tiến bộ của hội. Nhưng, khi sự kiểm soát
điều chỉnh các quan hệ hội quá yếu của thiết chế thể dẫn tới tình trạng
các nhân, nhóm hội không thực hiện tốt vai trò, thậm chí trốn tránh
trách nhiệm của mình. Kết quả hoạt động từng phần hoặc toàn bộ hội bị
đình trệ.
Giữa c thiết chế đôi khi xảy ra sự di chuyển chức năng. Sự di chuyển đó
xảy ra khi xuất hiện một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau:
- Thiết chế không đáp ứng được nhu cầu;
- Các thiết chế đều khả năng đáp ứng được yêu cầu, nhưng một trong số
đó nổi trội hơn, khả năng đáp ứng mức cao hơn so với các thiết chế
khác.
5. Nguyên nhân tạo ra thiết chế hội
Các n hội học đều cho rằng thiết chế hội nảy sinh, tồn tại phát
triển do đáp ứng nhu cầu hội. Các nhu cầu hội bản như sau:
Giao tiếp giữa các thành viên;
Sản xuất sản phẩm dịch vụ;
Phân phối c sản phẩm dịch vụ hàng hóa;
Bảo vệ các thành viên khỏi tác động của thiên nhiên, bệnh tật nguy hiểm
khác;
Thay thế các thành viên thay thế văn hóa thông qua quá trình hội hóa;
Kiểm soát hành vi của các thành viên.
6. Câu hỏi thường gặp về thiết chế xã hội
6.1 Phân loại thiết chế hội?
Căn cứ để phân loại: tính phổ quát của thiết chế; sự cần thiết của thiết chế;
tầm quan trọng của thiết chế.
Căn cứ vào ba đặc điểm trên, các nhà hội học chia các thiết chế hội
thành hai loại: thiết chế chủ yếu thiết chế ph thuộc.
a. Thiết chế chủ yếu: những thiết chế cần thiết nhất cho hội được
coi quan trọng nhất cho lợi ích nhân hội, bao gồm các thiết chế:
Các loại thiết chế hội bản:
- Thiết chế gia đình: điều a hành vi, tình cảm, tình dục nuôi dạy con cái.
- Thiết chế giáo dục: truyền thụ những tri thức khoa học nói chung.
- Thiết chế kinh tế: đảm bảo quá trình sản xuất, phân phối lợi ích các dịch
vụ.
- Thiết chế chính trị: bảo đảm việc thiết lập giữ vững quyền lực chính trị.
- Thiết chế pháp luật: đảm bảo trật tự, công bằng hội kiểm soát hội.
- Thiết chế tôn giáo: thoả mãn nhu cầu tâm
b. Thiết chế phụ thuộc những thiết chế nhỏ khác biệt nhau, nằm
trong thiết chế chủ yếu, bao gồm:
- Thiết chế văn hóa, nghệ thuật;
- Thiết chế khoa học;
- Thiết chế đạo đức;
- Thiết chế phong tục tập quán truyền thống;…
Các loại thiết chế hội tuy khác nhau nhưng đều mối quan hệ chặt chẽ
với nhau.
6.2 Khái niệm thiết chế được hiểu như thế nào?
Theo nhà hội học người Mỹ Robertsons thiết chế một tập hợp bền vững
các giá trị, chuẩn mực, vị thế, vai t nhóm vận động xung quanh một nhu
cầu căn bản của hội. Ông cho rằng một hội muốn tồn tại phát triển
bình thường phải tổ chức một cách trật tự hệ thống. Có nghĩa là,
phải được hình thành nên những hình hành vi, những khuôn mẫu, khuôn
phép chung để từ đó hành động cho phù hợp. Không thể nói đến sự tồn tại
phát triển của hội mà lại không thiết chế, tức một hội không kỷ
cương quy tắc.
6.3 cấu của thiết chế hội?
Thiết chế hội hai thành t chủ yếu:
- Cơ cấu bên trong: nội dung hoạt động của thiết chế, bao gồm tổng thể
các chuẩn mực, c khuôn khổ, các giá trị được xác định theo nhu cầu, lợi
ích mục tiêu của tập hợp hội.
- cấu biểu hiện: những thực thể chủ thể hội, những điều kiện vật
chất tương ứng với cấu bên trong để hiện thực hóa nội dung, chức ng
của thiết chế hội.

Preview text:

Thiết chế xã hội là gì? Quan niệm về thiết chế xã hội?
1. Thiết chế xã hội là gì?
Thiết chế xã hội
, thể chế xã hội hay ngắn gọn là thể chế, là một tập hợp
các vị thế và vai trò có chủ định nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội quan trọng.
đây là khái niệm quan trọng và được dùng rộng rãi trong xã hội học. Cũng
giống như nhiều khái niệm khác của xã hội học, nội hàm của thiết chế xã hội
cũng chưa được xác định một cách rõ ràng. Sự nhầm lẫn phổ biến nhất là
việc đồng nhất thiết chế xã hội với một nhóm thực, tổ chức thực nào đó. Lý
do của sự nhầm lẫn này là mặc dù khái niệm thiết chế xã hội rất trừu tượng,
nhưng bản thân thiết chế lại hữu hình (tương tự như nhóm xã hội, tổ chức xã hội).
Thực chất nhóm xã hội, tổ chức xã hội là một tập hợp người được liên kết với
nhau bởi các dạng quan hệ xã hội. Các quan hệ xã hội này được hình thành
từ những tương tác thường xuyên, ổn định, lâu dài, có định hướng. Trong
quá trình tương tác này các khuôn mẫu hành vi, vai trò được thiết kế hóa, tức
là biến thành các thiết chế. Như vậy các nhóm, các tổ chức hay bản thân
từng cá nhân chỉ là như những tập hợp người thực hiện các thiết chế mà thôi,
chứ không phải là chính thiết chế.
Nhà xã hội học người Mỹ J. Fichter cho rằng, thiết chế xã hội chính là một
đoạn của văn hóa đã được khuôn mẫu hóa. Những khuôn mẫu tác phong của
nền văn hóa đó được xã hội đồng tình, khuyến khích sẽ có xu hướng trở
thành các mô hình hành vi được mong đợi - các vai trò. Do đó, thiết chế xã
hội là một tập hợp các khuôn mẫu tác phong được đa số chấp nhận (các vai
trò) nhằm thỏa mãn một nhu cầu cơ bản của nhóm xã hội.
2. Quan niệm về thiết chế xã hội
Theo G.V. Oxipov, thiết chế xã hội là tổ chức nhất định của hoạt động xã hội
và các quan hệ xã hội, được thực thi bằng hệ thống phối hợp của những quy
chuẩn về hành vi, chuẩn mực và giá trị, được định hướng một cách hợp lý.
Theo quan niệm của V.A. Cruglicov, thiết chế xã hội là sự biểu hiện vật chất
của các chuẩn mực xã hội và là cơ quan điều hoà việc tuân theo các chuẩn
mực đó. Thiết chế xã hội là sự tổ chức các hoạt động xã hội và các quan hệ
xã hội nhất định, làm cho các quan hệ xã hội có thể có được tính ổn định và
kế thừa. Thiết chế xã hội biểu hiện ra dưới hình thức các cơ quan khác nhau
thực hiện các chức năng điều hoà những lĩnh vực nào đó của các quan hệ xã hội.
W.G. Sumner đã định nghĩa thiết chế là một khái niệm hay một cấu trúc hàm
chứa một mục đích hay một chức năng do một tổ chức có hệ thống gồm nhiều người tiến hành.
Thiết chế xã hội là một tập hợp bền vững các giá trị chuẩn mực, vị thế, vai trò
và nhóm vận động xung quanh nhu cầu cơ bản của xã hội. Nó là một tổ chức
nhất định của sự hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội được thực hiện
bằng một hệ thống của các hành vi con người với các chuẩn mực và quy
phạm xã hội. Tất cả các thiết chế đều có các quy tắc chuẩn mực, điều luật và
cả cơ chế vật chất của nó mà các nhóm xã hội phải tôn trọng, nó là chất kết
dính giữa các cá nhân, các nhóm xã hội và sự điều tiết hoạt động của chúng.
Thiết chế xã hội có thể được xem xét theo cơ cấu bên ngoài (hình thức vật
chất của thiết chế), cũng như cơ cấu bên trong (nội dung hành động của thiết
chế). Về cơ cấu bên ngoài của thiết chế xã hội biểu hiện như một tổng thể
những người, những cơ quan được trang bị những phương tiện vật chất nhất
định và thực hiện những chức năng xã hội nhất định. Về cơ cấu bên trong
của thiết chế xã hội bao gồm tập hợp nhất định những tiêu chuẩn được định
hướng theo mục tiêu về hành vi của những người nhất định, trong hoàn cảnh nhất định.
Từ những định nghĩa và phân tích đã nêu trên, có thể rút ra một số vấn đề sau : 
Thiết chế xã hội là sự tổ chức của các hoạt động xã hội và các quan hệ xã
hội, là mô hình hành vi chung cho mọi thành viên trong những lĩnh vực khác
nhau của một xã hội nhất định. 
Các thiết chế là những thành tố đặc thù bảo đảm tính kế thừa và tính ổn
định nhất định của những mối liên hệ và những mối quan hệ trong khuôn
khổ của các giá trị và chuẩn mực xã hội của mọi thành viên. 
Thiết chế là một cấu trúc và một chức năng.
Thiết chế xã hội có hai chức năng chính: thứ nhất là khuyến khích, điều chỉnh,
điều hoà, hành vi của con người phù hợp với quy phạm và chuẩn mực của
thiết chế và tuân thủ thiết chế. Thứ hai là ngăn chặn, kiểm soát, giám sát
những hành vi lệch lạc do thiết chế quy định.
Trong một xã hội, thường tồn tại 5 loại thiết chế cơ bản làm nền móng cho
toàn xã hội đó là: gia đình, giáo dục, tôn giáo, kinh tế và nhà nước ( chính trị).
Mỗi một thiết chế đều có chức năng và nhiệm vụ rõ ràng của nó. Các thiết
chế này tồn tại trong mọi xã hội, nhưng hình thức của các thiết chế này khác
nhau trong các xã hội khác nhau. Đó là những hiện tượng văn hóa, đã phản
ánh được những đặc trưng riêng của mỗi xã hội.
Sự nảy sinh thiết chế xã hội, là do điều kiện khách quan nhất định, biểu hiện
ở tính thống nhất với cơ sở kinh tế xã hội.
Bản thân thiết chế xã hội, có sự độc lập tương đối và có sự tác động trở lại
đối với cơ sở kinh tế, xã hội. Tồn tại trong xã hội, các thiết chế tuy có những
đặc trưng riêng về chức năng và nhiệm vụ, nhưng lại liên quan rất chặt chẽ
với nhau, tạo thành một hệ thống.
Thuật ngữ hệ thống, ám chỉ các mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận, ảnh
hưởng và phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy
rằng, cái gì xảy ra ở bộ phận này có thể kéo theo sự biến đổi trong các bộ phận khác.
Mặc dù tất cả các thiết chế có sự phụ thuộc, tác động qua lại với nhau, nhưng
mỗi một thiết chế tự nó được cấu trúc ở mức cao và được tổ chức xung
quanh hệ thống các giá trị, chuẩn mực, qui tắc các khuôn mẫu đã được xã hội thừa nhận.
Ở đây, có ảnh hưởng lẫn nhau biểu hiện mức độ thống nhất trong hệ thống.
Nếu có sự thay đổi ở thiết chế nào, thì sẽ kéo theo sự biến đổi của thiết chế
khác như đã phân tích ở trên.
Các thiết chế được hình dung như những cấu trúc xã hội, các quan hệ và các
hoạt động hỗ tương được cấu trúc như các truyền thống có tính thiết chế.
Tính ổn định của các thiết chế phụ thuộc vào tính năng động của xã hội và
phụ thuộc vào sự chống đối những biến đổi của xã hội, của các giá trị trong
nhóm. Bởi vì, xã hội bao hàm cả tính năng động luôn luôn có sự thay đổi, vì
vậy các thiết chế với tính cách là những cấu trúc thoả mãn nhu cầu cũng bị
biến đổi theo thời gian.
Thiết chế luôn được mọi người trong xã hội công nhận và tán thành. Nói như
vậy không có nghĩa là sẽ có sự tuân thủ tuyệt đối ở các mô hình, và sẽ có
những ảnh hưởng không tuân thủ các mô hình thiết chế và đây là nền tảng
của những biến đổi xã hội.
3. Đặc trưng của thiết chế xã hội
Mỗi thiết chế đều có mục đích nhằm thỏa mãn những nhu cầu xã hội. Sự nảy
sinh thiết chế xã hội là do điều kiện khách quan nhất định, biểu hiện ở tính
thống nhất với cơ sở kinh tế - xã hội. Bản thân của thiết chế xã hội có sự độc
lập tương đối và có tác động trở lại đối với cơ sở kinh tế - xã hội. Tính không
hiệu quả của các thiết chế xã hội, sự tác động không hài hòa của chúng, việc
chúng không có khả năng tổ chức các lợi ích xã hội, không thu xếp được một
cách đúng theo trật tự sự vận hành của các mối liên hệ xã hội là dấu hiệu nói
lên sự khủng hoảng của xã hội. Để khắc phục tình trạng này, cần phải cải tiến
cơ bản bản thân các phương thức và cơ chế hoạt động của chúng.
Thiết chế xã hội được tổ chức thành cơ cấu. Các yếu tố tạo thành thiết chế
xã hội có khuynh hướng kết hợp lại với nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Khi thiết chế
xã hội càng phức tạp, thì xã hội càng phát triển, và như vậy nó xác định vị trí,
vai trò của cá nhân càng rõ ràng. Mỗi một thiết chế xã hội có một đối tượng
riêng để hướng tới phục vụ, nhằm đáp ứng các nhu cầu xã hội chuyên biệt
liên quan tới đối tượng. Để đạt được điều đó mỗi thiết chế lại có một chức
năng. Mỗi một thiết chế tự nó được cấu trúc ở mức cao và được tổ chức
xung quanh hệ thống các giá trị, chuẩn mực, quy tắc, khuôn mẫu đã được xã hội thừa nhận.
4. Chức năng của thiết chế xã hội 4.1. Chức năng cơ bản - Điều hòa xã hội; - Kiểm soát xã hội.
4.2. Các chức năng của các thiết chế xã hội được thực hiện thông qua các nhiệm vụ:
- Thiết chế xã hội vốn là những mô hình hành vi được đa số thừa nhận là
chuẩn và thực hiện theo, do đó các cá nhân sẽ không mất thời gian để suy
tính, đắn đo xem cách thức hành động đó là đúng hay sai để thực hiện hay
không thực hiện. Nói cách khác, thiết chế đã đơn giản hóa tác phong hành
động, lề lối tư duy của cá nhân. Mọi thành viên hành động theo thiết chế một cách tự động hóa.
- Thiết chế xã hội cũng là tập hợp các vai trò đã được chuẩn hóa - Đó chính
là các vai trò mà mọi cá nhân cần phải học để thực hiện thông qua quá trình
xã hội hóa. Nghĩa là, thiết chế cung cấp cho cá nhân những vai trò có sẵn. Ví
dụ, thiết chế gia đình cung cấp cho cá nhân những vai trò bố mẹ, con cái,...;
thiết chế giáo dục cung cấp cho cá nhân các vai trò thầy, học sinh,.. chứ
không phải do cá nhân sáng tạo nên các vai trò này.
Thiết chế xã hội là yếu tố phối hợp và ổn định cho toàn thể nền văn hóa. Nhìn
chung, cá nhân ít khi hành động ngược lại các thiết chế; bởi lẽ, cung cách tư
duy và phong cách hành động đã được thiết chế hóa có ý nghĩa quan trọng
đối với con người. Thiết chế mang lại cảm giác yên tâm và an toàn cho các
thành viên tuân thủ nó, vì nó chính là cái mà xã hội cho là đúng, là chuẩn -
thực hiện theo nó tức là thực hiện theo đám đông, chỉ những thành viên
không thực hiện mới cảm thấy bất an vì bị xã hội lên án. ví dụ, đại đa số "trai
lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng" là việc làm hết sức bình thường - đó là một thiết chế.
Thiết chế xã hội luôn bao gồm những mong đợi của xã hội. Nhờ có những
mong đợi này của thiết chế mà cá nhân biết được mình sẽ phải hành động và
suy nghĩ thế nào trước những người khác. Trường hợp thiết chế xã hội thực
hiện các chức năng điều hòa và kiểm soát xã hội không đúng cách thức có
thể dẫn đến các tác động tiêu cực đối với xã hội - khi sự điều hòa và đặc biệt
là, sự kiểm soát của thiết chế quá mạnh sẽ triệt tiêu mọi sự sáng tạo của cá
nhân, đồng thời thiết chế sẽ mang tính bảo thủ. Tính bảo thủ này thể hiện ở
chỗ nó cố gắng duy trì những khuôn mẫu tác phong đã lạc hậu, lỗi thời. Các
thiết chế này sẽ cản trở sự tiến bộ của xã hội. Nhưng, khi sự kiểm soát và
điều chỉnh các quan hệ xã hội quá yếu của thiết chế có thể dẫn tới tình trạng
các cá nhân, nhóm xã hội không thực hiện tốt vai trò, thậm chí trốn tránh
trách nhiệm của mình. Kết quả là hoạt động từng phần hoặc toàn bộ xã hội bị đình trệ.
Giữa các thiết chế đôi khi có xảy ra sự di chuyển chức năng. Sự di chuyển đó
xảy ra khi xuất hiện một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau:
- Thiết chế không đáp ứng được nhu cầu;
- Các thiết chế đều có khả năng đáp ứng được yêu cầu, nhưng một trong số
đó nổi trội hơn, có khả năng đáp ứng ở mức cao hơn so với các thiết chế khác.
5. Nguyên nhân tạo ra thiết chế xã hội
Các nhà Xã hội học đều cho rằng thiết chế xã hội nảy sinh, tồn tại và phát
triển là do nó đáp ứng nhu cầu xã hội. Các nhu cầu xã hội cơ bản như sau: 
Giao tiếp giữa các thành viên; 
Sản xuất và sản phẩm dịch vụ; 
Phân phối các sản phẩm và dịch vụ hàng hóa; 
Bảo vệ các thành viên khỏi tác động của thiên nhiên, bệnh tật và nguy hiểm khác; 
Thay thế các thành viên và thay thế văn hóa thông qua quá trình xã hội hóa; 
Kiểm soát hành vi của các thành viên.
6. Câu hỏi thường gặp về thiết chế xã hội
6.1 Phân loại thiết chế xã hội?
Căn cứ để phân loại: tính phổ quát của thiết chế; sự cần thiết của thiết chế;
tầm quan trọng của thiết chế.
Căn cứ vào ba đặc điểm trên, các nhà Xã hội học chia các thiết chế xã hội
thành hai loại: thiết chế chủ yếu và thiết chế phụ thuộc.
a. Thiết chế chủ yếu: là những thiết chế cần thiết nhất cho xã hội và được
coi là quan trọng nhất cho lợi ích cá nhân và xã hội, bao gồm các thiết chế:
Các loại thiết chế xã hội cơ bản:
- Thiết chế gia đình: điều hòa hành vi, tình cảm, tình dục và nuôi dạy con cái.
- Thiết chế giáo dục: truyền thụ những tri thức khoa học nói chung.
- Thiết chế kinh tế: đảm bảo quá trình sản xuất, phân phối lợi ích và các dịch vụ.
- Thiết chế chính trị: bảo đảm việc thiết lập và giữ vững quyền lực chính trị.
- Thiết chế pháp luật: đảm bảo trật tự, công bằng xã hội và kiểm soát xã hội.
- Thiết chế tôn giáo: thoả mãn nhu cầu tâm
b. Thiết chế phụ thuộc là những thiết chế nhỏ bé và khác biệt nhau, nằm
trong thiết chế chủ yếu, bao gồm:
- Thiết chế văn hóa, nghệ thuật; - Thiết chế khoa học; - Thiết chế đạo đức;
- Thiết chế phong tục tập quán truyền thống;…
Các loại thiết chế xã hội tuy khác nhau nhưng đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
6.2 Khái niệm thiết chế được hiểu như thế nào?
Theo nhà xã hội học người Mỹ Robertsons thiết chế là một tập hợp bền vững
các giá trị, chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm vận động xung quanh một nhu
cầu căn bản của xã hội. Ông cho rằng một xã hội muốn tồn tại và phát triển
bình thường phải tổ chức một cách có trật tự và hệ thống. Có nghĩa là, nó
phải được hình thành nên những mô hình hành vi, những khuôn mẫu, khuôn
phép chung để từ đó hành động cho phù hợp. Không thể nói đến sự tồn tại và
phát triển của xã hội mà lại không có thiết chế, tức là một xã hội không có kỷ cương quy tắc.
6.3 Cơ cấu của thiết chế xã hội?
Thiết chế xã hội có hai thành tố chủ yếu:
- Cơ cấu bên trong: là nội dung hoạt động của thiết chế, bao gồm tổng thể
các chuẩn mực, các khuôn khổ, các giá trị được xác định theo nhu cầu, lợi
ích và mục tiêu của tập hợp xã hội.
- Cơ cấu biểu hiện: là những thực thể – chủ thể xã hội, những điều kiện vật
chất tương ứng với cơ cấu bên trong để hiện thực hóa nội dung, chức năng của thiết chế xã hội.
Document Outline

  • Thiết chế xã hội là gì? Quan niệm về thiết chế xã
    • 1. Thiết chế xã hội là gì?
    • 2. Quan niệm về thiết chế xã hội
    • 3. Đặc trưng của thiết chế xã hội
    • 4. Chức năng của thiết chế xã hội
      • 4.1. Chức năng cơ bản
      • 4.2. Các chức năng của các thiết chế xã hội được t
    • 5. Nguyên nhân tạo ra thiết chế xã hội
    • 6. Câu hỏi thường gặp về thiết chế xã hội
      • 6.1 Phân loại thiết chế xã hội?
      • 6.2 Khái niệm thiết chế được hiểu như thế nào?
      • 6.3 Cơ cấu của thiết chế xã hội?