

















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61531195 THƠ 1. Định nghĩa
Thơ (hay thơ ca, thi ca) là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống với
những cảm xúc chất chứa, cô đọng, những tâm trạng dạt dào, những tưởng tượng
mạnh mẽ, trong ngôn ngữ hàm xúc, giàu hình ảnh, và nhất là có nhịp điệu.
Thơ là dạng thức ban đầu của văn học. Ngoại trừ thần thoại thời nguyên thủy tồn
tại chủ yếu dưới các hình thức cúng tế, lễ hội, các hình thức thức văn học ban đầu
như sử thi, kịch, thơ trữ tình đều là thơ ca, tức là ngôn ngữ có nhịp điệu. Với nhiều
nền văn học, trong đó có văn học Việt Nam, thơ ca ra đời rất lâu rồi văn xuôi mới
xuất hiện. Trải qua quá trình lịch sử phát triển lâu dài, thơ ca đã hình thành được
những hình thức cực kì đa dạng, từ thơ sử thi dài hàng chục vạn câu đến những bài
thơ rất ngắn, chỉ có hai, ba, bốn dòng như thơ tứ tuyệt, thơ haiku… 2. Các thể loại
Sơ lược về các thể thơ chính trong các giai đoạn văn học Việt Nam
a . Giai đoạn văn học chữ Hán :
Khi Đại Việt trở thành quốc gia độc lập, chữ Hán của người Trung Hoa là bộ
chữ được triều đình và quan lại quý tộc ưa chuộng hơn cả, bởi tính biểu ý và
biểu nghĩa của nó đều đạt mức độ đỉnh cao, ngôn từ ngắn gọn nhưng lại mang
tính tinh xảo, khéo léo. Từ năm 938, các thể thơ cũng vì theo văn học chữ Hán
mà học tập, nên các bài thơ cũng đi theo các thể thơ Đường Luật là chính.
Thể thơ thất ngôn bát cú Đường Luật
Thể thơ thất ngôn bát cú Đường Luật là thể thơ có tổng cộng 8 câu, mỗi câu 7 chữ.
Tổng cộng cả bài thơ sẽ có 56 chữ. Thể thơ này xuất hiện trong thi ca cổ của Trung
Hoa, đến thời nhà Đường thì hoàn chỉnh về mặt quy luật gieo vần, quy luật Bằng
Trắc. Vào thời kỳ hưng thịnh của văn học chữ Hán, thể thơ này được dùng rất thường
xuyên, bởi quy luật nghiêm ngặt đã giúp bài thơ thêm uyển chuyển, tựa như bản tình ca vậy
Nhìn chung, thể thơ thất ngôn bát cú Đường Luật có quy luật chặt chẽ trong cách
gieo vần, xoay quanh các quy luật Bằng Trắc lên xuống nhịp nhàng giúp câu thơ trở nên bay bổng.
Bên cạnh đó, trong 8 câu thơ, thể thơ Thất ngôn bát cú cũng chia ra làm 4 phần: mở
thực luận kết. Tức là 2 câu đầu dùng để giới thiệu bối cảnh bài thơ, hai câu kế tiếp
thì dùng để tả thực phong cảnh, con người. Tiếp đến là hai câu thơ luận bàn, và cuối lOMoAR cPSD| 61531195
cùng là kết. Trong đó, hai câu kết không cần phải đối nhau về vần và nghĩa, nhưng
3 cặp câu ở trên thì phải có sự tương xứng, tương phản thích hợp.
( Đưa vào pp : Bên cạnh đó, trong 8 câu thơ, thể thơ Thất ngôn bát cú cũng chia
ra làm 4 phần: Đề - Thực – Luận – kết )
Thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt
Là một trong các thể thơ Đường Luật, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt quy định gieo vần
ở các câu 2, 4 hoặc 1, 2, 4. Ngoài ra về Niêm Luật, cặp câu 1-4 phải đối xứng với
nhau về luật Bằng-Trắc, tương tự với cặp câu 2-3. Cũng giống như thể thơ thất ngôn
bát cú Đường Luật, 4 câu thơ cũng được chia thành 4 giai đoạn chuyển ý: khai, thừa,
chuyển, hợp. Tức là khai ý (mở đầu bài thơ bằng một ý định), rồi thừa ý (phát triển
ý từ câu khai), rồi chuyển (chuyển qua một đề tài tương tự có liên quan đến câu khai
và câu thừa), và hợp ý (hợp 3 câu ở trên lại thành một câu thơ kết có tính tổng quát).
Thể thơ Ngũ ngôn tứ tuyệt Đường Luật
Thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt là một thể thơ giản đơn, gồm bốn câu thơ và mỗi câu có
năm ch ữ. Nhìn chung, quy luật gieo vần và niêm luật đối xứng có phần tương đồng
với thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt, tuy nhiên vì lược bỏ đi 2 chữ cuối khiến cho bài thơ
có phần ngắn, như một đoạn biền ngẫu tạp văn tự nhiên khi nhà thơ bỗng tức cảnh
sinh tình, muốn đưa ý tứ của mình phổ thành thơ nhanh chóng.
b. Giai đoạn Văn học chữ Nôm:
Tuy đã bắt đầu xuất hiện chữ Nôm từ những năm của thế kỷ XII, các thể thơ chữ
Nôm không thực sự nổi bật, bởi hầu hết các tác giả đều sử dụng Đường Luật để sáng
tác nên các tác phẩm của mình. Đôi chỗ niêm luật được gỡ bỏ khiến cho thể thơ
Nôm dễ dàng phổ thơ hơn, lời thơ cũng vì thế mà mượt mà nhiều phần. Một trong
các thể thơ Nôm do chính người Việt sáng tạo nên đã trở thành một di sản văn hóa,
đại diện cho ý chí thoát ly, muốn được độc lập của người Việt. Ấy chính là thể thơ lục bát.
Thể thơ lục bát:
Thể thơ lục bát là thể thơ gồm một câu 6 chữ và một câu 8 chữ ghép thành một cặp
câu với độ dài không có cố định. Trong các thể thơ xuất hiện trong văn học Việt
Nam, thơ lục bát đã mở đầu cho sự tự do, phóng khoáng trong việc sắp xếp các câu
thơ, bằng việc không giới hạn số câu có trong bài. Một bài thơ có thể có đến hàng
nghìn câu thơ lục bát, được ghép từ nhiều cặp câu lục bát khác nhau.
Quy luật gieo vần thể thơ lục bát nhìn chung phải tuân theo 3 quy tắc: quy tắc gieo
vần 6-8, quy tắc bằng trắc và quy tắc ngắt nhịp thơ . Thơ lục bát xuất hiện trong hầu lOMoAR cPSD| 61531195
hết các tác phẩm văn học chữ Nôm trung đại đến cận hiện đại, trong đó phần nhiều
là những câu ca dao tục ngữ được phối lại vào thơ lục bát để lưu trữ, phần nào thể
hiện được nét văn hóa sinh hoạt của làng quê nông thôn Việt xưa.
Thể thơ Song thất lục bát
Như tên gọi của nó, song thất lục bát là thể thơ gồm có 1 cặp câu bảy chữ và 1 cặp
câu lục bát ghép lại với nhau thành một khổ thơ, liên tục cho đến khi hết bài. Song
thất lục bát cùng với thể thơ lục bát đã trở thành các thể thơ Nôm được ưa chuộng
từ thế kỷ XV đến tận thế kỷ XX. Các tác giả sau này như Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng
Lư, Phan Huy Thông… cũng vẫn ưa chuộng thể thơ này, và họ cũng viết một vài bài
thơ thể theo thể thơ này. Trong đó, nổi bật nhất là bản dịch Chinh Phụ Ngâm khúc
thành thơ Nôm, sử dụng thể thơ song thất lục bát của Đoàn Thị Điểm.
Quy luật gieo vần của thể thơ Song thất lục bát nhìn chung là có sự liên kết giữa
cặp câu bảy chữ và cặp lục bát: chữ thứ bảy của câu đầu phải vần với chữ thứ 5 của
câu bảy sau; chữ thứ bảy của câu bảy sau thì lại vần với chữ cuối câu lục, chữ cuối
câu lục thì vần với chữ thứ sáu của câu bát; cuối cùng là chữ cuối câu bát lại vần với
chữ thứ 5 của câu bảy tiếp theo.
c. Giai đoạn Văn học hiện đại
Khoảnh khắc thực dân Pháp chính thức đô hộ Việt Nam ta vào những năm cuối thế
kỷ XIX, Văn học Việt Nam đã chính thức bước sang giai đoạn mới. Các thể thơ
Đường Luật dần thất thế trước sự lên ngôi của các thể thơ mới, các thể loại truyện
ngắn, truyện dài, tiểu thuyết khác nhau. Các tác giả đã dần đi theo tiến trình phát
triển tất yếu của thơ ca, chuyển hướng chú ý từ những điều răn giáo dục, những tác
phẩm thơ ca đẹp đẽ về ngôn từ và giàu sức tạo hình sang những tác phẩm khai phá
sự trần trụi của nội tâm con người. Chính vì vậy, thơ Đường Luật trở nên lỗi thời,
nhiều quy luật về Niêm, Vần đã bị gỡ bỏ và những người Nho sĩ vẫn còn hoài niệm
về quá khứ đã có thể phổ thêm cảm xúc của mình vào thơ ca.
Thể thơ bốn, năm, sáu, bảy, tám chữ
Nhìn chung, cả năm thể thơ này đều là những thể thơ có số chữ tương ứng với tên
gọi, và không có sự giới hạn ở số câu. Bên cạnh sự tự do trong quy tắc gieo vần, các
câu thơ này đôi khi là những sự phối ngẫu hợp ý, từ những khổ câu năm chữ, rồi
nâng dần lên sáu, bảy, tám chữ. Mục đích của các thể thơ này vốn chỉ như một chiếc
khung, còn đối với tác giả thơ Mới, các thể thơ này đều được sử dụng để biểu đạt
bản sắc cá nhân của tác giả, truyền đạt đến người đọc những tâm tư, nguyện vọng
và ý chí khát khao mà họ đang sở hữu. lOMoAR cPSD| 61531195
Trong các thể thơ nêu trên, thể thơ năm chữ và thể thơ bảy chữ có lẽ vẫn được ưa
chuộng hơn ba thể thơ còn lại một tí. Đặc trưng trong cách gieo vần thơ của người
Việt vẫn luôn đi theo nhịp thơ 2/3, hoặc 4/3, đôi khi là 2/2/3, chính vì vậy các thể
thơ có số chữ ở dạng số lẻ sẽ thuận tiện trong việc gieo vần thơ hơn. Thơ tự do
Như tên gọi của nó, thơ tự do không hề có một quy luật nào cả về gieo vần lẫn niêm
luật đối xứng. Sở dĩ thơ tự do có tên gọi như vậy, là vì những tác giả sáng tác thơ tự
do đã từng bước phá vỡ tất cả các luật lệ của thơ ca cũ, mở đường cho một thời đại văn chương tự do mới.
Trong các thể thơ, thơ tự do là thể thơ phóng khoáng, chủ yếu dùng để bộc lộ ý chí
cá nhân của tác giả. Có thể nói rằng, thơ tự do chính là đại diện cho một tâm hồn
nghệ sĩ đã được tự do, không còn bị định kiến và sự ràng buộc của lễ giáo chi phối
nữa. Thơ ca của họ phóng khoáng đến mức, đôi khi người đọc cũng bị nguồn năng
lượng dồi dào ấy cuốn lấy, làm cho phấn chấn và xuôi theo nhịp điệu của tác giả. Kết:
Nhìn chung ở mỗi giai đoạn, các thể thơ Việt Nam vẫn luôn uyển chuyển thể hiện
được tư tưởng chung của thời đại, với các thể thơ Đường Luật, cái đẹp tinh tế trong
cách phối vần và Niêm đối khiến cho bài thơ thêm phần cung kính, cao quý bội phần.
Các thể thơ Nôm, tuy cũng lấy luật thơ Đường làm chủ đạo, nhưng vẫn có cho mình
những nét sáng tạo riêng, thể hiện ý chí tự cường của người Việt. Thơ mới, hay thơ
tự do thì lại đại diện cho tinh thần tự do, cho một tâm hồn nghệ sĩ tự do ngôn luận,
thỏa thích bày tỏ ý kiến riêng.
Mỗi giai đoạn trong các thể thơ đều có những nét đẹp riêng của mình, có lẽ đó cũng
là lý do vì sao trong văn học Việt Nam, thơ ca vẫn là mảnh đất màu mỡ, như
hàng nghìn năm văn học vẫn đang sống và chuyển động trước mắt.
3. Đặc trưng cơ bản
3.1 Tưởng tượng tự do, phóng túng
- Trong sáng tạo nghệ thuật, tưởng tượng là khả năng cấu trúc mới các yếu tố của
kinh nghiệm, giúp phá vỡ những giới hạn không gian, thời gian để tạo thành những
sáng tạo nghệ thuật mới mẻ. Có người nói, sáng tạo nghệ thuật là sự tổng hợp bất
thường những tài liệu bình thường cũng là nói ý đó. Hình tượng nghệ thuật, về bản
chất luôn mang tính tưởng tượng. Theo Gorki, “nghệ thuật dựa vào trí tưởng tượng mà tồn tại”. lOMoAR cPSD| 61531195
- Vì thế Sóng Hồng mới nới “Thơ ca là nghệ thuật kì diệu nhất của trí tưởng tượng”.
Nói như vậy không có nghĩa là trong các thể loại văn học khác không có tưởng
tượng, mà vì trong thơ ca, tưởng tượng mang tính tự do, phóng túng và linh hoạt, mạnh mẽ hơn.
- Vì sao thơ ca lại là nơi trí tưởng tượng được phát huy mạnh mẽ nhất?
+ Trong thơ ca, trí tưởng tượng sẽ giúp con người trữ tình phát huy mọi năng lực
tinh thần với những ấn tượng, kinh nghiệm, ước mơ, hoài niệm, lí tính, vô thức... để
lựa chọn những ý tứ, nhạc điệu, hình ảnh phù hợp.
Vd: Nếu không có mối tương tư đang đè nặng trong lòng, thì làm sao con người nhìn
thấy xung quanh mình, kể cả những vật vô tri cũng đang mong chờ mòn mỏi như mình:
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ...
Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ
Hình ảnh, ý tứ, nhịp điệu qua tưởng tượng đã đến bất ngờ khi xúc cảm đến mức cao độ.
+ Con người trong thơ ca trữ tình là con người tự ý thức, con người tự trình bày mọi
ý nghĩ và cảm xúc của chính mình nên trí tưởng tượng được phát huy cao độ, không
bị bất cứ ràng buộc và giới hạn nào.
Vd : Chỉ bằng hai câu thơ, Lí bạch đã mở ra một không gian kĩ vĩ và rộng lớn trước mắt người đọc:
Nước tuôn xuống thẳng ba ngàn thước Tưởng
dải ngân hà tuột khỏi mây.
+ Tưởng tượng không bị giới hạn bởi chiều sâu và sức mạnh của tình cảm và tư duy con người là vô hạn.
Vd : Nỗi niềm căm phẫn tột cùng, thề nguyền với nỗi đau chia cắt đất nước Tố Hữu
đã viết ra hai câu thơ đanh thép mà cũng thấm đẫm tình cảm của mình với Cách Mạng, Tổ Quốc:
Gươm nào chém được dòng Bến Hải lOMoAR cPSD| 61531195
Lửa nào thiêu được dải Trường Sơn
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu đầu van trả đầu
( Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Đều là những tưởng tượng mạnh mẽ và phóng khoáng, đột biến và bất ngờ.
+ Tưởng tượng góp phần giải phóng cảm xúc, hình tượng hóa cảm xúc.
Vd: Một nỗi buồn nhớ triền miên, nặng nề, tương đồng với tiếng sóng, tiếng mưa
Sóng sình sịch lưng chừng biển Bắc,
Giọt mưa tình rỉ rắc chốn hàng hiên (ca dao).
Một cảm nhận tinh vi về muôn mối ràng buộc của con người với tạo vật:
Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu (Xuân Diệu)
+ Tưởng tượng làm cho các suy tư trong thơ ca không chỉ là những lí lẽ lôgic, những
lời tuyên ngôn, khẳng định, khái quát mà trở nên có sức sống, chứa đầy tình cảm.
Vd: Khổ thơ thứ 5 trích trong phần 2 bài Tiếng hát con tàu Chế Lan Viên đã nói lên
niềm hạnh phúc to lớn được gặp lại nhân dân. Tư tưởng ấy được cụ thể hóa, hình
tượng hóa bằng năm hình ảnh ẩn dụ so sánh vừa mới lạ, vừa giàu chất thơ :
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
+ Mọi hình ảnh tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng đều là kết quả của tưởng tượng
Vd: Trái đất ba phần tư nước mắt,
Đi như giọt lệ giữa không trung (Xuân Diệu). lOMoAR cPSD| 61531195
=> Như vậy, tưởng tượng càng mạnh mẽ bao nhiêu càng chứng tỏ sức mạnh của thế
giới chủ quan, sức mạnh tinh thần của con người bấy nhiêu, chất trữ tình do đó càng sâu sắc là vì vậy.
3.2 Ngôn ngữ thơ giàu cảm xúc -
Cảm xúc trong thơ thường xuất phát từ những hoàn cảnh thực như mất mát,
xa cách, nhớ thương, tủi hờn, cô đơn, lựa chọn, khẳng định... nên thường rất mãnh
liệt, chân thực và có sức thuyết phục cao.
Vd: Cảm xúc suy tư của người lính trước giờ xung trận:
Em có thể mất anh bất cứ lúc nào,
Em có thể bơ vơ khi em còn rất trẻ,
Anh có thể chẳng bao giờ còn đánh được gốc tre,
Phơi nỏ sẵn dành sưởi đêm cho mẹ (Hữu Thỉnh). -
Nhiệt tình và tính trực tiếp trong tình cảm bộc lộ qua các từ miêu tả tâm trạng,
qua sự đánh giá, phán xét, khẳng định và phủ định với những câu hỏi lời mời, lời
cảm thán, lời gọi, lời chào, lời hẹn hò, hối hận, tiếc nuối, nhắn nhủ.
Vd: Như lời của người con khấn thầm với người mẹ đã khuất:
Lá ngô lay ở bờ sông,
Bờ sông vẫn gió người không thấy về,
Xin người hãy trở về quê,
Một lần cuối một lần về cuối thôi ( Trúc Thông) -
Tình cảm mãnh liệt còn dồn chứa trong các biện pháp tu từ, các động tác trữ
tình (tức các động tác trong ý nghĩ chứ không phải động tác trong thực tế) như ngóng,
trông, ngoái, ngẫm, suy, nghe, vọng:
Thiếp xa chàng hái dâu quên giỏ
Chàng xa thiếp cắt cỏ quên liềm lOMoAR cPSD| 61531195
Xuống sông gánh nước hũ chìm, gióng trôi
3.3 Hàm súc, giàu hình ảnh hình tượng nổi bật
3.3.1 Hàm súc -
Do sự ngắn gọn của thể loại quy định, thơ có tính hàm súc cao. Hiện thực
trong thơ được diễn tả cô đọng, chọn lọc, có giá trị kết tinh, mang tính khái quát, thể
hiện được cái thần khí của bức tranh đời sống được miêu tả. Có khi trong thơ chỉ
hiện lên những nét miêu tả chấm phá, phác hoạ nhưng đã diễn đạt được những đặc
trưng tiêu biểu của hiện thực
Vd: Hai câu thơ của Tố Hữu đã vẽ nên được cái không khí ngột ngạt, gấp gáp, căng
thẳng của cảnh thúc thuế thời thuộc Pháp, thời của những chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố:
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy đường thôn lính đầy. -
Có được tính hàm súc như vậy bởi các chi tiết đời sống được lựa chọn vừa
độc đáo, mang tầm khái quát, vừa có sức biểu cảm cao. Những ý tứ thơ, hình ảnh và
cảm xúc thơ có tính truyền thống văn hóa lâu đời, hoặc những điển tích, điển cố
cũng thường gợi tư duy liên tưởng có ý vị hàm ẩn.
Vd: Những tứ thơ đăng cao, viễn vọng, ức hữu, tha hương, tống biệt..., những hình
ảnh mây trắng, cánh chim, con thuyền, ánh trăng, chuông chùa, khói hoàng hôn...
Những đúc kết phổ quát với sự diễn đạt phi chủ thể của lời nói, như là cảm nhận của
muôn đời, cũng tạo nên sự hàm súc: Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về (Vương Hàm). -
Ngôn ngữ thơ là một loại ngôn ngữ đặc biệt, luôn được lạ hóa, chứa nhiều
quan hệ, tập trung tần số rất cao những hình ảnh so sánh, ẩn dụ, tượng trưng. Những
hình ảnh này, về bản chất là đa nghĩa, tạo nên những ý nghĩa mà người ta nói: lời hết mà ý khôn cùng.
Vd: Đọc tác phẩm “ Sóng” của Xuân Quỳnh, ta bắt gặp một thứ ngôn ngữ dạt dào
của một trái tim rạo rực, cháy bỏng với những khát khao trong tình yêu:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng dưới bờ lOMoAR cPSD| 61531195
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức -
Phẩm chất hàm súc khiến thơ có sức gợi rất mạnh, thường gọi là sức dư ba,
lan toả, vang ngân. Sức dư ba trước hết được tạo bởi những ý vị mênh mang lan toả
mà sau khi đọc còn vấn vương mãi.
Vd: Những câu thơ trong bài “ Tây Tiến” đã gợi ra một không gian của núi rừng Tây
Bắc có sức dư ba mạnh mẽ, gợi mở khả năng liên tưởng rộng:
Ai đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa (Quang Dũng)
3.3.2 Giàu hình ảnh, hình tượng nổi bật -
Nếu ở các thể loại khác, nhân vật là những hình tượng nổi bật, thì ở thơ ca,
nổi bật là những hình ảnh đời sống với những sắc màu, nhịp điệu và sự vận động của chúng
Vd: Nhớ lại cả một nền thơ chống Mỹ, đã có biết bao hình ảnh đã đi vào kí ức thơ
ca dân tộc. Người ta nhớ hơi ấm ổ rơm, cây tre của Nguyễn Duy, nhớ cảnh chia tay
trong đêm Hà Nội có cô gái với khẩu súng trường trên vai của Nguyễn Đình Thi,
nhớ cây xấu hổ của Anh Ngọc, những chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật...
như là những biểu tượng anh hùng mà bình dị của những con người Việt Nam thời kì này. -
Hình ảnh trong thơ giúp dựng lại cho con người một môi trường tồn tại, một không gian bộc lộ.
VD: Ví như cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều với những câu thơ tràn đầy sức sống:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa (Nguyễn Du). lOMoAR cPSD| 61531195 -
Nhưng mục đích chính của hình ảnh trong thơ là sự khách thể hóa những rung
cảm nội tâm, bởi thế giới chủ quan, thế giới tinh thần vốn vô hình nên nhất thiết phải
dựa vào những điểm tựa tạo hình cụ thể để hữu hình hóa. Từ các trạng thái cảm xúc
biểu hiện qua hình ảnh: yêu thương, căm giận, bâng khuâng, xao xuyến, nhớ tiếc,
xôn xao... Đến các tư tưởng quan niệm về đời sống cũng được hình tượng hóa.
Vd: Triết lý nhân sinh về lẽ sống “ cho” và “ nhận” ở đời được Tố Hữu gửi gắm qua đoạn thơ sau:
Nếu là con chim, là chiếc lá
Thì chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình. -
Hình tượng trong thơ nổi bật vì còn mang màu sắc của cảm xúc mãnh liệt và
trí tưởng tượng phong phú với những hình ảnh vô cùng rực rỡ, ấn tượng, đầy chất tạo hình
Vd: Một trong thủy mặc đi Nguyễn Du vẽ lên bằng những câu thơ đầy sức tạo hình:
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng (Nguyễn Du). -
Tính hình tượng trong thơ còn bắt nguồn từ khả năng hư hóa của chủ thể lời
nói. Điều này bắt nguồn từ chỗ trong trữ tình không phân biệt được đâu là khách
thể, đâu là chủ thể, khiến cho mọi phát ngôn dường như là của tất cả thế giới, mọi
hiện tượng và sự vật trong đời sống đang cất lên tiếng nói của mình.
Vd: Những câu thơ: Lối xưa, xe ngựa, hồn thu thảo, Nền cũ, lâu đài, bóng tịch dương
(Bà huyện Thanh Quan), Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu/ Lả lả cành hoang nắng
trở chiều (Xuân Diệu). Ở đây dường như không phải con người mà là chính cỏ cây,
đất trời tự bày tỏ trạng thái, tình cảm của chính nó. Cả thế giới chứ không phải chỉ
con người đang trữ tình. Hình tượng trong thơ càng nổi bật là vì vậy.
3.4 Ngôn ngữ thơ giàu nhịp điệu
- Một trong những cách làm cho lời thơ mang đầy cảm xúc, là nhạc điệu.
- Cảm xúc biểu lộ rất mạnh mẽ ở thanh điệu, nhịp điệu của lời nói. Trong việc truyền
đạt các trạng thái cảm xúc, nếu như nội dung của lời nói tác động nhiều vào ý thức lOMoAR cPSD| 61531195
thì thanh điệu, tiết tấu, nhịp điệu, độ mạnh nhẹ, cao thấp của âm thanh lại tác động
nhiều vào lĩnh vực cảm xúc.
- Tính nhạc do đó là đặc thù cơ bản của việc phô diễn tình cảm của thơ ca. Người ta
nói trong thơ có nhạc là vì vậy. Để thưởng thức nhạc điệu của thơ, người ta thích ngâm thơ, đọc thơ.
- Âm thanh và nhịp điệu làm tăng thêm hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều
từngữ không thể nói hết.
- Nhạc tính trong thơ thể hiện ở sự cân đối, sự trầm bổng và sự trùng điệp. 3.4.1 Sự cân đối
- Sự cân đối là sự tương xứng hài hòa giữa các dòng thơ. Sự hài hòa đó có thể là
hình ảnh, là âm thanh Vd:
Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi
( Nguyễn Bỉnh Khiêm)
- Sự cân đối có tác dụng làm ý bổ sung, nhấn mạnh và phát triển. Sự cân đối làm cho
bài thơ, đoạn thơ, khổ thơ dù có khi chỉ là một câu thơ cũng là một chỉnh thể toàn
vẹn, một ấn tượng tổng thể, làm cho câu thơ hài hòa cân xứng, nhịp nhàng. Sự đối
xứng ẩn trong từng câu chữ, đối đáp, hô ứng nhau.
Vd: Nguyễn Duy viết về mẹ qua rất nhiều hình ảnh đối xứng với những hình ảnh
vốn có trong truyền thống:
Mẹ ta không có yếm đào,
Nón mê thay nón quai thao đội đầu,
Rối ren tay bí tay bầu,
Váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa 3.4.2 Sự trầm bổng
-Sự trầm bổng của ngôn ngữ thơ thể hiện ở cách hòa âm, ở sự thay đổi độ cao ở hai nhóm thanh điệu lOMoAR cPSD| 61531195
Vd: Xuân Diệu với hai dòng thơ toàn vận dụng vần bằng đã biểu hiện được cảm
xúc lâng lâng , bay bổng theo tiếng đàn du dương, nhẹ êm: Sương nương theo
trăng ngừng lưng trời Tương tư nâng lòng lên chơi vơi.
-Sự trầm bổng của ngôn ngữ còn thể hiện ở nhịp điệu:
Sen tàn/ cúc lại nở hoa
Sầu dài/ ngày ngắn /đông đà sang xuân
Dòng thơ cắt theo nhịp 2/4 và 2/2/4 đều đặn như nhịp chuyển vần đều đặn của tháng
năm bốn mùa. Nhịp thơ ở đây là nhịp cảm xúc, cảm nhận.
Như vậy, âm thanh , nhịp điệu trong thơ không đơn thuần là hình thức mà là
những yếu tố góp phần biểu hiện những khía cạnh tinh vi của đời sống tình cảm con người. 3.4.3 Sự trùng điệp
- Sự trùng điệp của ngôn ngữ thơ thể hiện ở sự dùng vần, điệp từ, ngữ và điệp cú.
- Chúng có tác dụng như một phương tiện kết dính các dòng thơ lại với nhau thành
một đơn vị thống nhất, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho trí nhớ vừa tạo nên vẻ đẹp
trùng điệp cho ngôn ngữ thơ.
Vd: Trong khổ thơ miêu tả cơn mưa Bích khê đã dùng lối điệp từ, điệp cấu trúc ở
đây vừa diễn tả được hình ảnh cơn mưa của đất troiwfd vừa tạo nên một ấn tượng
vương vấn không dứt trong lòng người:
Lầu mưa xuống, thềm lan mưa xuống
Mưa xuống lầu, mưa xuống thềm lan
Mưa rơi ngoài nẻo dặm ngàn
Nước non rả rích giọt đàn mưa xuân ( Tiếng đàn mưa) lOMoAR cPSD| 61531195 TRUYỆN 1. Khái niệm
Truyện là một loại tác phẩm văn học, sử dụng phương thức kể chuyện, bao gồm các
yếu tố chính như: cốt truyện, bối cảnh, nhân vật,...
2. Đặc trưng chung của truyện
Truyện phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó, qua con người, hành vi, sự
kiện được miêu tả và được kể lại bởi người kể chuyện.
Ở đây, cốt truyện với một chuỗi các tình tiết, sự kiện, biến cố xảy ra liên tiếp tạo nên
sự vận động của hiện thực được phản ánh, góp phần khắc họa tính cách nhân vật, số phận từng cá nhân.
Nhân vật được miêu tả chi tiết và sinh động trong mối quan hệ với hoàn cảnh, với môi trường xung quanh.
Truyện không bị gò bó về không gian, thời gian, có thể đi sâu vào tâm trạng con
người, những cảnh đời cụ thể.
Truyện sử dụng nhiều hình thức ngôn ngữ khác nhau. Ngoài ngôn ngữ người kể
chuyện còn có ngôn ngữ nhân vật. Bên cạnh lời đối đáp còn có lời độc thoại nội tâm.
Lời kể khi thì ở bên ngoài khi thì nhập tâm vào nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện gần
với ngôn ngữ đời sống.
- Truyện phản ánh hiện thực trong tính khách quan của nó
- Truyện có cốt truyện, nhân vật, tình huống, mâu thuẫn diễn ra trong hoàn
cảnhkhông gian và thời gian
3. Đặc trưng của truyện ngắn
3.1. Truyện ngắn là thể loại có cốt truyện nhưng nhìn chung biến hóa hơn tiểu thuyết.
Dựa vào cốt truyện, có thể chia làm hai loại truyện.
+ Truyện không có cốt truyện (hoặc cốt truyện rất mờ nhạt): do chủ ý nghệ thuật của
nhà văn chỉ nhằm thể hiện diễn biến tâm trạng nhân vật trong mối liên hệ với hoàn
cảnh. Truyện chỉ có những ý tưởng, không có sự kiện gay cấn, thời gian cụ thể, thậm
chí không có đầu đuôi (truyện ngắn Thạch Lam).
+ Truyện ngắn có cốt truyện rất chú ý xây dựng những tình tiết, sự kiện bộc lộ tính
cách của nhân vật và thúc đẩy hướng phát triển, vận động của mạch truyện. Bản thân lOMoAR cPSD| 61531195
cốt truyện là hệ thống các sự kiện, được chia theo lớp lang từ đầu đến cuối truyện.
Các sự kiện càng gay cấn, nổi bật càng tạo kịch tính, sức hấp dẫn cho truyện (Chí phèo – Nam Cao). 3.2. Về dung lượng
Truyện ngắn có dung lượng nhỏ, ngắn gọn mà cô đúc nên có sức ám ảnh lớn. Nó tập
trung vào một hoặc một vài biến cố trong một không gian, thời gian nhất định, tạo
ra ấn tượng mạnh mẽ và sự liên tưởng cho người đọc.
Ví dụ : Truyện ngắn Vi hành của Nguyễn Ái Quốc dịch ra tiếng Việt chỉ hai trang
sách, được viết dưới hình thức một bức thư kể về một sự kiện là tác giả bị nhận nhầm
là Khải Định. Cốt truyện không có gì, sự kiện đơn giản, dung lượng rất ngắn nhưng
truyện lại có sức công phá lớn, tác động mạnh mẽ vào ý thức, khêu gợi trí tưởng
tượng của người đọc để đặt ra vấn đề chính trị – xã hội, vấn đề dân tộc, vấn đề đấu tranh….
3.3. Đề tài, nội dung truyện ngắn có thể lấy ở nhiều mặt của cuộc sống, nhiều vấn đề
có tính chất thời sự xã hội
+ Việc lựa chọn đề tài, phản ánh nội dung trong tác phẩm chịu sự chi phối bởi “nhãn
quan” nhà văn, trong đó xác lập “điểm nhìn” riêng cho mình là quan trọng hơn cả.
Nhà văn tiến bộ luôn đứng trên mọi quan hệ giai cấp, mọi sự ràng buộc của hệ tư
tưởng, nói lên tiếng nói lẽ phải của chân lý, cuộc đời. Cảm hứng thế sự chi phối âm
vang, độ lắng đọng của truyện ngắn trong dòng thời gian, trong lòng người đọc.
Những truyện ngắn trường tồn mãi mãi khi nó âm ỉ bên trong những tiếng nói thầm
kín của con người, những khát vọng của mọi thời đại.
+ Truyện ngắn đề cập đến mọi đề tài phong phú, đa dạng, chạm đến mọi ngóc ngách
đời sống con người. Trên cùng một đề tài, mỗi nhà văn lại có cách khai thác khác
nhau, đem lại sắc thái riêng cho tác phẩm của mình.
Vdu: Cùng viết về đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, Ngô Tất Tố
đề cập đến sự bần cùng hóa, phá sản về vật chất của họ; còn ngòi bút Nam Cao lại
xoáy vào sự tha hóa về nhân cách, phá sản về tinh thần ở những con người ấy. 3.4. Về kết cấu
Tuy dung lượng nhỏ nhưng truyện ngắn có thể có những kết cấu linh hoạt. Kết cấu
truyện ngắn không gồm không gian, thời gian nhiều tầng bậc, nhiều tuyến, mà được lOMoAR cPSD| 61531195
tổ chức theo kiểu tương phản, liên tưởng. Truyện ngắn có thể có các kiểu kết cấu sau đây:
+ Kết cấu vòng tròn (đầu cuối tương ứng): Chí phèo (Nam Cao).
+ Kết cấu theo trục thời gian: Truyện được kể theo thời gian, theo diễn biến của
dòng sự kiện: Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
+ Kết cấu tâm lý: Truyện được kể men theo dòng tâm lý nhân vật , làm sáng rõ nội
tâm NV và tạo sức hấp dẫn cho câu chuyện: Đời thừa (Nam Cao)
+ Kết cấu đồng hiện: Nhà văn miêu tả sự kiện, quan sát tình huống ở các địa điểm
khác nhau trong cùng một thời điểm. Kiểu kết cấu này đem lại khả năng mở rộng
dung lượng cho tác phẩm: Bức tranh (Nguyễn Minh Châu).
+ Kết cấu trùng phức (kết cấu truyện lồng trong truyện): Người kể chuyện đứng ra
ngoài, đóng vai trò là đạo diễn để tổ chức diễn biến câu chuyện qua lời kể, qua đó
hoàn thiện chân dung NV: Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh Châu).
+ Kết cấu mở: Truyện kết thúc nhưng cái kết còn để ngỏ, mở ra những khả năng liên
tưởng rộng lớn: Chí phèo (Nam Cao) Vợ nhặt (Kim Lân)
3.5. Nhân vật truyện ngắn
Thường ít hơn tiểu thuyết và thường bắt buộc phải được xây dựng theo nguyên tắc
điển hình hóa. Nhân vật phải được đặt trong một hoàn cảnh cụ thể, vừa mang tính
chung phổ quát vừa mang tính riêng độc đáo. Trong truyện ngắn, nhân vật là một
mảnh nhỏ của thế giới, là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội
hoặc trạng thái tồn tại của con người, phát ngôn trực tiếp hoặc gián tiếp cho tư tưởng nhà văn
3.6. Phương thức kể chuyện -
Trong truyện ngắn, người ta thường dùng nhiều cách kể chuyện. Các nhà văn
thường thay đổi cách kể và có thể có các hình thức kể hỗn hợp.
Có hai hình thức phổ biến là:
+ Tường thuật lại quá trình, diễn biến sự việc: Vợ nhặt (Kim Lân)
+ Miêu tả lại diễn biến sự kiện: Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) lOMoAR cPSD| 61531195 -
Để nhận thức phương thức kể chuyện, người ta căn cứ vào các tình huống kể chuyện:
+ Tình huống khách quan: Tác giả đứng bên ngoài kể lại điều xảy ra: Chiếc lá cuối cùng (Ohenry)
+ Tình huống chủ quan: Tác giả hoặc người kể chuyện tự đóng vai trò là nhân vật
chính của tác phẩm; kể lại những sự kiện, hành động, việc làm, ý nghĩa hoặc mối
quan hệ người – người, hoặc phân tích, bình luận chung.
4. Đặc trưng của Tiểu thuyết
4.1. Tiểu thuyết tái hiện con người và cuộc sống bằng cái nhìn giàu chất văn xuôi. -
Chất văn xuôi tạo nên sự gần gũi với người đọc dễ tiếp thu, cảm nhận. Nó mô
tả cuộc sống con người một cách chân thật, nhìn nhận cuộc sống bằng cái nhìn khách
quan. Chính chất văn xuôi này đã nói lên hết những nỗi đau, sự mất mát của con
người, niềm vui, sự hân hoan. Từ đó, nhà văn có mối liên hệ mật thiết với các nhân
vật. Qua cái nhìn văn xuôi, sự gần gũi giữa tác giả và nhân vật thể hiện rõ. Từng suy
nghĩ, cảm xúc của nhân vật được nhà văn gửi gắm.
Vdu: Chất văn xuôi thể hiện rất rõ trong tiểu thuyết của Bandắc, Stăngđan, Phlôbe,
Tônxtôi, Tsêkhốp, Nam Cao, Ngô Tất Tố -
Cái nhìn giàu chất văn xuôi trong tiểu thuyết thể hiện rõ nhất trong mối quan
hệ giữa nhà văn với nhân nhân vật, đó là mối quan hệ thân mật, bình đẳng. Các nhân
vật bất luận thuộc tầng lớp, đẳng cấp nào trong xã hội cũng đều được nhà văn hướng
tới mô tả bằng nhãn quan không thiên vị, bằng thái độ khách quan.
Vdu: các tiểu thuyết Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Bỉ vỏ của Nguyên
Hồng, Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh
4.2. Tiểu tuyết nhìn đời sống từ góc độ đời tư -
Điều này đã phác họa nên một bức tranh sông động về số phận của những con
người trong cuộc sống. Miêu tả cuộc đời từ khía cạnh đời tư của nhân vật là một
việc rất khó khăn, đòi hỏi nhà văn phải có một tài năng, suy nghĩ rất kĩ. -
Đời tư của nhân vật sẽ thể hiện rõ được tính cách, lối sống, số phận của nhân
vật nhưng ở tiểu thuyết thì con người luôn có những suy nghĩ riêng tư, có đời tư bên
trong. Chính vì vậy, nhà văn phải nhìn cuộc đời của nhân vật phải thật gần, dùng
những kinh nghiệm của nhà văn để có thể phác thảo nhân vật. lOMoAR cPSD| 61531195
Vdu: tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình của L. Tônxtôi, nhân vật Cutudốp đã được
tiếp cận vừa góc độ đời tư tiểu thuyết, vừa từ góc độ sử thi anh hùng ca. Cutudốp
hiện lên với phẩm chất ưu tú của một vị tướng yêu nước, giỏi giang, mưu lược,
nhưng đồng thời cũng được giới thiệu như một ông già đáng thương lắm lúc khốn
đốn, bị bọn đại thần và cố vấn quân sự Đức hoạnh họe.
4.3. Nhân vật trong tiểu thuyết là con người nếm trải -
Các nhân vật trong tiểu thuyết phải trải qua nhiều vấn đề trong cuộc sống. Các
nhân vật có khi bị lên án hoặc biểu dương. Thông qua nhân vật, ta thấy được cuộc
sống của họ luôn gặp nhiều biến cố xảy ra như thử thách họ. Con người trong tiểu
thuyết được xây dựng ở nhiều khía cạnh để thể hiện rõ được cuộc sống của họ như
thiện – ác, tốt – xấu, khoan dung – hẹp hòi, … các khía cạnh này làm nổi bật con
người trong tiểu thuyết. -
Trong tiểu thuyết con người luôn trải qua những mâu thuẫn với cuộc sống và
chính bản thân mình. Các nhân vật không chỉ nếm trải những hoàn cảnh cuộc sống
mà còn phải nếm trải những cảm xúc của chính mình.
Vdu: Bính (Bỉ vỏ – Nguyên Hồng), Lý (Mùa lá rụng trong vườn – Ma Văn
Kháng), Giang Minh Sài (Thời xa vắng – Lê Lựu), … đều là những con người “nếm
trải” và tư duy, gặp nhiều oan nghiệt của số phận
4.4. Tiểu thuyết luôn có xu hướng xóa khoảng cách trần thuật và nội dung trần thuật -
Đây là một đặc điểm giúp cho nhà văn gần gũi hơn nhân vật. Tác giả đã xóa
bỏ những khoảng cách đối với nội dung tiểu thuyết nói chung và nhân vật trong tiểu
thuyết nói riêng tạo một sự thân thiện như sống cùng tiểu thuyết, xem tiểu thuyết là
“đứa con tinh thần”. Bằng tình cảm chân thành gửi gắm qua tiểu thuyết, nhà văn
cũng tạo được sự dễ gần đối với bạn đọc khi tiếp xúc với tiểu thuyết. -
Với cách kể của tiểu thuyết, giọng điệu kể luôn luôn thay đổi, mỗi nhân vật
có giọng điệu riêng, nhịp điệu riêng.
Ví dụ, tiểu thuyết Mảnh đất tình yêu, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã hòa vào từng
nhân vật và thế giới riêng, kể bằng ngôn ngữ và tiết tấu của nó: “Cũng bằng lời kể
của ông tôi thì cách đây vài trăm năm, cả dải cát dài dằng dặc ven biển của khúc
giữa miền Trung này chỉ là những miếng đất để cho những con sông lang thang tìm
lối ra biển – lời ông tôi – nếu không thì chúng đã trở thành những người đàn bà “bà
cô” khó tính nết vì suốt đời không kiếm được chồng. Trên dải cát hoang vắng lơ thơ
vài khóm nhà dân chài, đi đến rũ cẳng suốt ngày không gặp một bóng người, một lOMoAR cPSD| 61531195
bóng nhà, không nghe một tiếng gà chó, chỉ thấy mọc độc một giống cây lá cứng có
khía và quả của nó không bao giờ chín, gọi là quả mật sát”