Thơ xuân CHẾ LAN VIÊN
Văn chương xưa nay được như bình rượu q nhưng muốn làm say đắm
lòng người thì đó phải “rượu tân hôn” (chữ của Nguyễn Tuân). Tức văn
chương phải luôn đặt ra những góc nhìn mới, mỗi trang văn một trang hoa với
sắc huơng độc đáo, tân kì. Để tạo được dấu ấn sâu sắc đó, văn chương cần những
“gương mặt” đẹp lạ. Chế Lan Viên với những vần thơ “Xuân” trong thế giới
“Điêu tàn” đã xứng đáng trở thành một trong những nhà thơ “kì dị” nhất thế gian.
Bài thơ “Xuân” một bông hoa lạ nở trên phiến đá văn chương với những giá trị
đặc sắc cả về nội dung nghệ thuật khi làm mới góc nhìn vốn xưa v mùa
xuân.
vào mỗi cánh cửa thơ ta bắt gặp một con người- con người lặng thầm
nhưng mạnh mẽ đang nương theo mệnh lệnh của trái tim. Mỗi trang thơ của
Chế Lan Viên cũng họa nên một con người như thế. Trước Cách mạng tháng
Tám, thơ Chế Lan Viên một thế giới đúng nghĩa "trường t loạn": "kinh dị,
thần bí, bế tắc của thời". Thơ ông sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh
hướng suy tưởng - triết lý. Chất suy tưởng triết mang vẻ đẹp trí tuệ sự đa
dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài
hoa. Bài t “Xuân”: xuất xứ, thể thơ, nhân vật đối tượng trữ tình.
“Bài thơ anh, anh làm một nửa thôi.
Còn một nửa cho mùa thu làm lấy”.
Đối với Chế Lan Viên, bản thân hiện thực đã “một nửa” của bài thơ, mùa
xuân với vòng quay rạo rực của đã đ bóng o cảm xúc của thi nhân. Xưa
nay, xuân khởi đầu của đất trời, sức trẻ của lòng người. Viết về chủ đề cảm
xúc trước mùa xuân, mỗi thi nhân cái nhìn độc đáo, riêng biệt. Men theo con
đường ngát hương sắc của văn chương ta bắt gặp một mùa xuân xanh ngát xanh
trong thơ Nguyễn Bính, một mùa xuân “chín” thật “chín” trong t Hàn Mặc Tử
một mùa xuân cuống quýt thật nhanh trong thơ Xuân Diệu. Nhưng riêng với Chế
Lan Viên, cái nhìn về mùa xuân đầy đau thương, nặng nề, thâm chí là “thù ghét”,
chối bỏ “Tôi chờ đâu, đợi đâu….. Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!”.
Trong Thơ mới chưa một thi nào thái độ dứt khoát từ chối, xua đuổi a
xuân như thế.
Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ những cảm nhận về một mùa xuân bị chối
bỏ, thờ ơ, lãnh đạm, một mùa xuân cả đất trời lòng người trĩu nặng, ưu tư,
buồn (khổ 1) đến ước muốn đắm chìm vào thu xưa đ ngăn bước chân xuân
(khổ 2, 3) xuất phát từ những suy ngẫm, chiêm nghiệm về nghịch cuộc đời (khổ
4). khép lại trang t sự bất lực đến nao lòng khi không thể cản được bước
chân đáp xuống xứ sở của xuân. Viết về mùa xuân, Chế Lan Viên lại cảm nhận vạn
vật úa tàn, đau thương, khác thường hoa tươi, muôn cánh ”, tiếng khóc cười
ẩn của trẻ thơ, hay một người nghèo không biết tết”, Hệ thống hình ảnh
trong bài t thế mang một trường nghĩa lạ, tượng trưng độc đáo.
“Nhà thơ, đối với trụ nhân sinh, nên bước vào bên trong, lại nên
đi ra bên ngoài. Bước vào bên trong mới thể viết được. Đi ra bên ngoài mới
thể quan sát được. Bước vào bên trong mới sinh khí. Đi ra bên ngoài
mới đạt cao siêu”. Điểm nhìn của nhân vật trữ tình trong bài thơ chính “mật
thơ” giải thế giới nghệ thuật trong toàn bài. bài t “Xuân”, nhân vật trữ tình
soi chiếu từ góc nhìn bên trong ra bên ngoài. Xuất phát từ nội tâm nhân vật trữ
tình, trước vị thế của một nhân đang sống trong một giai đoạn khủng hoảng lịch
sử văn hóa của dân tộc Việt Nam trước sự xâm lược của Pháp Nhật, tâm sự
với người đọc về thời gian cũng v s tuyệt vọng của lòng người. Điểm nhìn ấy
giúp cho tiếng thơ được cất lên chân thành, vì đó tiếng lòng của người trực tiếp
trải nghiệm, ngẫm suy.
Xưa nay, mỗi nghệ thuật đều kể u chuyện của mình theo một cách
riêng. Với thơ, câu chuyện cảm xúc luôn hiện hình nét qua sự vận động của
hình tượng chính. Nhân vật trữ tình mang trong mình một khối sầu hình nên
mở cánh cửa t đã chối bỏ, khước từ mùa xuân:
Tôi chờ đâu, đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?
- Với tôi, tất cả n nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
Không phải cái “ta » chung, nhân vật trữ tình hiện diện trực tiếp bày tỏ ý
niệm một cách thẳng thắn quyết liệt. Khổ thơ ngắn bao gồm cả giọng điệu
phủ định, giọng ghi vấn lẫn cảm thán đủ thấy sự ngổn ngang, bề bộn trong thế giới
tâm trạng. Chưa kể, khổ thơ chằng chịt những sợi buồn với những “sầu”, “vô
nghĩa”, “khổ đau” làm ý thơ trùng xuống đầy băn khoăn, khó hiểu. Điều khiến
một tâm hồn chó thể sẵn sàng từ khước sức xuân đang phới phới, gọi mời? Điều
khiến một tâm hồn sẵn sàng muốn chặn đứng bước chân kiêu hãnh của xuân sang?
Khi xưa, mỗi lần lặn sâu vào thế giới của những vách chữ, Hans Sachs
đã luôn tâm niệm một thần chú rằng: “Tất cả cảm hứng thi ca đều chỉ giải
những giấc mơ”. chăng, những khổ thơ tiếp sẽ “giải mã” những trăn trở
được Chế Lan Viên gieo nên những nốt t đầu:
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những ng?
Với của hoa tươi, muôn cánh
Về đây, đem chắn nẻo xuân sang!
Ai biết hồn tôi say mộng ảo
Ý thu góp lại cản tình xuân?
một người nghèo không biết Tết
Mang chiếc áo độ thu tàn!
Hai khổ t đối thoại với những hồ nghi khổ đầu bằng một loạt câu hỏi “Ai đâu”,
“Ai biết”. Khổ 2 mở mong ước rất lạ, muốn đắm chìm vào thu xưa để ngăn
bước chân của xuân “nhặt lấy vàng đem chắn nẻo xuân sang”. Ý muốn
ngông cuồng, ngộ nghĩnh, ẩn chứa một sức mạnh phi thường. Chắn nẻo xuân sang
chặn đứng bước đi của thời gian, là quay lưng lại với mùa xuân. Để rồi, phát
triển mạch duy đầy khác lạ ấy, nhà t cố níu giữ lấy mùa thu. Những câu thơ
lãng mạn ông viết luôn nhắc đến mùa thu, cái mùa thu của buồn thảm chia ly
ông lấy ra để làm đồng minh đối chọi với mùa xuân ông căm ghét. khép lại
khổ 3 một hình ảnh đột ngột nhưng đủ sức ám ảnh “Có một người nghèo không
biết Tết”. lẽ nào, thi chối từ xuân bởi xuân năm nay không đủ đầy ý nghĩa
sum vầy, xuân năm nay chia cắt lưu lạc, xuân năm nay nước mất nhà tan?
Sinh thời, nhà phê bình tài hoa Chu Văn Sơn đã từng nói: “Câu thơ hay
câu thơ có khả năng đánh thức bao n tượng vốn ngủ quên trong ức của
con người”. Đọc “Xuân” của Chế Lan Viên, người đọc như “thức” dần những
ức một thời đau thương của dân tộc:
đứa trẻ thơ không biết khóc
tình bỗng nổi tiếng cười ran!
Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ!
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn
Xuân buồn phản chiếu cuộc sống khổ cực, bất hạnh “trẻ thơ không biết khóc”
nhưng “bỗng cười ran” đến xót xa, khó hiểu khi không dám đón Tết, không
thấy Tết. một nỗi niềm tủi hờn len lỏi trong nỗi mong nhớ đầy bất lực, nỗi
cùng cực đến mức chỉ trơ trong chiếc áo mùa thu. Tất cả chỉ còn lại là một nỗi
long mang tên “mong nhớ” rất xa xôi.
Thơ chữ nghĩa cũng không phải chữ nghĩa. Ngôn từ chính
tấm áo, vỏ bọc làm nên “nhan sắc” của bài thơ. Chế Lan Viên sử dụng các hình
ảnh giàu tính biểu tượng: chắn nẻo xuân; cánh rã, chiếc áo độ thu tàn; ngôn ngữ
thơ đầy suy tưởng, cấu trúc điệp, giọng điệu thơ da diết, gì đay nghiến đau
đớn… Bên cạnh đó, thi đã sử dụng ngôn từ cùng độc đáo, sáng tạo. Từ
“chắn được sử dụng trong câu một động từ, là ngăn cản, không cho vượt qua,
không tiếp tục di chuyển. chúng ta thường thấy chắn một luồng gió, chắn một
dòng sông, chắn những đợt sóng hung hăng ngoài biển cả nhưng chắn nẻo xuân
sang thì quả lạ một điều lạ thường, chắc chỉ Chế Lan Viên. Một ý muốn ngông
cuồng, ngộ nghĩnh thậm c ẩn chứa một sức mạnh phi thường. Hai câu cuối bài
thơ để lại trong lòng người đọc những ngậm ngùi. Với cách nhắt nhịp 2/2/3, với
những lời cảm thán cùng biện pháp điệp từ cứ như xoáy sâu vào nỗi nhớ. Từ “lạc”
trong câu thơ cuối“một cánh chim thu lạc cuối ngàn” gợi lên một cảm giác xa
vắng, đơn, nhỏ giữa cái rộng lớn của không gian. Đây lẽ cũng chính
tâm trạng đau đớn, xót thương của nhà t giữa thời đại Thơ mới.
Cái quan trọng của tài năng văn học là tiếng nói của chính mình, cái
giọng riêng của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất một
người o khác . Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vậy đòi hỏi
người viết sự sáng tạo, phong cách mới lạ. Bài thơ hấp dẫn người đọc bởi cái
“lạ” trong ước muốn đến “ngông cuồng” của Chế Lan Viên. Bởi việc muốn chế
ngự, níu kéo thời gian; gọi quá khứ về làm hiện tại, chúng ta đã bắt gặp trong thơ
Xuân Diệu. Trong “Vội vàng” Xuân Diệu biểu lộ niềm mong ước tận hưởng hương
sắc mùa xuân, tuổi trẻ, tận hưởng hạnh phúc tình yêu:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạtn mất
Tôi muốn buộc g lại
Cho hương đừng bay đi” (Vội vàng Xuân Diệu)
Không giống với những bài thơ viết về mùa Xuân như “Mùa xuân cả một mùa
xanh” hay “Sột soạt gió trêu áo biếc” thường rộn ràng vui tươi, bài thơ xuân này
đã phủ một màu đen buồn t thảm lên một mùa xuân t thảm buồn. Cả bài t
như cả một cuộc chiến không thành chống lại a xuân, cuộc chiến lạ đời của một
nhà thơ chống lại một kẻ thù cũng lạ đời hơn nữa. Dường như chúng ta thấy mười
sáu câu thơ 7 chữ (thất ngôn) này như mười sáu kẻ thất trận thảm bại đang lầm lũi
rút đi trong lúc mùa xuân phơi phới đang tiến đến không một thế lực nào thể
cản được.
3. Kết i: những tác phẩm ra đời n bươm bướm nở ngày mùa, như chuồn
chuồn vỡ tổ, khiến người ta đọc xong quên ngay, đến khi cầm lại mới ngỡ như
mình đọc rồi. Nhưng cũng những tác phẩm như dòng phù sa chảy qua tâm hồn,
để lại những ấn tượng khắc chạm trong tâm khảm. độc giả muôn đời vẫn tin bài
thơ Xuân…của Chế Lan Viên với những đặc sắc nội, nghệ thuật một tác phẩm
tuyệt vời như thế. Đúng như lời Bằng Việt đã từng viết:
“Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ
Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu”

Preview text:

Thơ “ xuân “ CHẾ LAN VIÊN
Văn chương xưa nay được ví như bình rượu quý nhưng muốn làm say đắm
lòng người thì đó phải là “rượu tân hôn” (chữ của Nguyễn Tuân). Tức là văn
chương phải luôn đặt ra những góc nhìn mới, mỗi trang văn là một trang hoa với
sắc huơng độc đáo, tân kì. Để tạo được dấu ấn sâu sắc đó, văn chương cần những
“gương mặt” đẹp mà lạ. Chế Lan Viên với những vần thơ “Xuân” trong thế giới
“Điêu tàn” đã xứng đáng trở thành một trong những nhà thơ “kì dị” nhất thế gian.
Bài thơ “Xuân” là một bông hoa lạ nở trên phiến đá văn chương với những giá trị
đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật khi làm mới góc nhìn vốn xưa cũ về mùa
xuân. Gõ vào mỗi cánh cửa thơ ta bắt gặp một con người- con người lặng thầm
nhưng mạnh mẽ đang nương theo mệnh lệnh của trái tim. Mỗi trang thơ của
Chế Lan Viên cũng họa nên một con người như thế. Trước Cách mạng tháng
Tám, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa "trường thơ loạn": "kinh dị,
thần bí, bế tắc của thời". Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh
hướng suy tưởng - triết lý. Chất suy tưởng triết lý mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa
dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài
hoa. Bài thơ “Xuân”: xuất xứ, thể thơ, nhân vật và đối tượng trữ tình.
“Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi.
Còn một nửa cho mùa thu làm lấy”.
Đối với Chế Lan Viên, bản thân hiện thực đã là “một nửa” của bài thơ, mùa
xuân với vòng quay rạo rực của nó đã đổ bóng vào cảm xúc của thi nhân. Xưa
nay, xuân là khởi đầu của đất trời, là sức trẻ của lòng người. Viết về chủ đề cảm
xúc trước mùa xuân, mỗi thi nhân có cái nhìn độc đáo, riêng biệt. Men theo con
đường ngát hương sắc của văn chương ta bắt gặp một mùa xuân xanh ngát xanh
trong thơ Nguyễn Bính, một mùa xuân “chín” thật “chín” trong thơ Hàn Mặc Tử và
một mùa xuân cuống quýt thật nhanh trong thơ Xuân Diệu. Nhưng riêng với Chế
Lan Viên, cái nhìn về mùa xuân đầy đau thương, nặng nề, thâm chí là “thù ghét”,
chối bỏ “Tôi có chờ đâu, có đợi đâu…. Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!”.
Trong Thơ mới chưa có một thi sĩ nào có thái độ dứt khoát từ chối, xua đuổi mùa xuân như thế.
Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ những cảm nhận về một mùa xuân bị chối
bỏ, thờ ơ, lãnh đạm, một mùa xuân mà cả đất trời và lòng người trĩu nặng, ưu tư,
buồn bã (khổ 1) đến ước muốn đắm chìm vào thu xưa để ngăn bước chân xuân
(khổ 2, 3) xuất phát từ những suy ngẫm, chiêm nghiệm về nghịch lí cuộc đời (khổ
4). Và khép lại trang thơ là sự bất lực đến nao lòng khi không thể cản được bước
chân đáp xuống xứ sở của xuân. Viết về mùa xuân, Chế Lan Viên lại cảm nhận vạn
vật úa tàn, đau thương, khác thường “hoa tươi, muôn cánh rã”, tiếng khóc – cười
bí ẩn của trẻ thơ, hay là “một người nghèo không biết tết”, … Hệ thống hình ảnh
trong bài thơ vì thế mang một trường nghĩa lạ, tượng trưng và độc đáo.
“Nhà thơ, đối với vũ trụ nhân sinh, nên bước vào bên trong, mà lại nên
đi ra bên ngoài. Bước vào bên trong mới có thể viết được. Đi ra bên ngoài mới
có thể quan sát được. Bước vào bên trong mới có sinh khí. Đi ra bên ngoài
mới đạt cao siêu”. Điểm nhìn của nhân vật trữ tình trong bài thơ chính là “mật mã
thơ” lí giải thế giới nghệ thuật trong toàn bài. Ở bài thơ “Xuân”, nhân vật trữ tình
soi chiếu từ góc nhìn bên trong ra bên ngoài. Xuất phát từ nội tâm nhân vật trữ
tình, trước vị thế của một cá nhân đang sống trong một giai đoạn khủng hoảng lịch
sử và văn hóa của dân tộc Việt Nam trước sự xâm lược của Pháp và Nhật, tâm sự
với người đọc về thời gian cũng là về sự tuyệt vọng của lòng người. Điểm nhìn ấy
giúp cho tiếng thơ được cất lên chân thành, vì đó là tiếng lòng của người trực tiếp trải nghiệm, ngẫm suy.
Xưa nay, mỗi nghệ thuật đều kể câu chuyện của mình theo một cách
riêng. Với thơ, câu chuyện cảm xúc luôn hiện hình rõ nét qua sự vận động của
hình tượng chính. Nhân vật trữ tình mang trong mình một khối sầu vô hình nên
mở cánh cửa thơ đã chối bỏ, khước từ mùa xuân:
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?
- Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
Không phải là cái “ta » chung, nhân vật trữ tình hiện diện trực tiếp và bày tỏ ý
niệm một cách thẳng thắn và quyết liệt. Khổ thơ ngắn mà bao gồm cả giọng điệu
phủ định, giọng ghi vấn lẫn cảm thán đủ thấy sự ngổn ngang, bề bộn trong thế giới
tâm trạng. Chưa kể, khổ thơ chằng chịt những sợi tơ buồn với những “sầu”, “vô
nghĩa”, “khổ đau” làm ý thơ trùng xuống đầy băn khoăn, khó hiểu. Điều gì khiến
một tâm hồn chó thể sẵn sàng từ khước sức xuân đang phới phới, gọi mời? Điều gì
khiến một tâm hồn sẵn sàng muốn chặn đứng bước chân kiêu hãnh của xuân sang?
Khi xưa, mỗi lần lặn sâu vào thế giới của những vách chữ, Hans Sachs
đã luôn tâm niệm một thần chú rằng: “Tất cả cảm hứng thi ca đều chỉ là giải
mã những giấc mơ”. Có chăng, những khổ thơ tiếp sẽ “giải mã” những trăn trở
được Chế Lan Viên gieo nên ở những nốt thơ đầu:
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi, muôn cánh rã
Về đây, đem chắn nẻo xuân sang!
Ai biết hồn tôi say mộng ảo
Ý thu góp lại cản tình xuân?
Có một người nghèo không biết Tết
Mang lì chiếc áo độ thu tàn!
Hai khổ thơ đối thoại với những hồ nghi ở khổ đầu bằng một loạt câu hỏi “Ai đâu”,
“Ai biết”. Khổ 2 hé mở mong ước rất kì lạ, muốn đắm chìm vào thu xưa để ngăn
bước chân của xuân “nhặt lấy … lá vàng … đem chắn nẻo xuân sang”. Ý muốn
ngông cuồng, ngộ nghĩnh, ẩn chứa một sức mạnh phi thường. Chắn nẻo xuân sang
là chặn đứng bước đi của thời gian, là quay lưng lại với mùa xuân. Để rồi, phát
triển mạch tư duy đầy khác lạ ấy, nhà thơ cố níu giữ lấy mùa thu. Những câu thơ
lãng mạn ông viết luôn nhắc đến mùa thu, cái mùa thu của buồn thảm chia ly mà
ông lấy ra để làm đồng minh đối chọi với mùa xuân mà ông căm ghét. Và khép lại
khổ 3 là một hình ảnh đột ngột nhưng đủ sức ám ảnh “Có một người nghèo không
biết Tết”. Có lẽ nào, thi sĩ chối từ xuân bởi xuân năm nay không đủ đầy ý nghĩa
sum vầy, xuân năm nay có chia cắt và lưu lạc, xuân năm nay nước mất nhà tan?
Sinh thời, nhà phê bình tài hoa Chu Văn Sơn đã từng nói: “Câu thơ hay
là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của
con người”. Đọc “Xuân” của Chế Lan Viên, người đọc như “thức” dần những kí
ức một thời đau thương của dân tộc:
Có đứa trẻ thơ không biết khóc
Vô tình bỗng nổi tiếng cười ran!
Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ!
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn
Xuân buồn vì phản chiếu cuộc sống khổ cực, bất hạnh “trẻ thơ không biết khóc”
nhưng “bỗng cười ran” đến xót xa, khó hiểu khi không dám đón Tết, không mơ
thấy Tết. Có một nỗi niềm tủi hờn len lỏi trong nỗi mong nhớ đầy bất lực, có nỗi
cùng cực đến mức chỉ trơ lì trong chiếc áo mùa thu. Tất cả chỉ còn lại là một nỗi
long mang tên “mong nhớ” rất xa xôi.
Thơ là chữ nghĩa mà cũng không phải là chữ nghĩa. Ngôn từ chính là
tấm áo, vỏ bọc làm nên “nhan sắc” của bài thơ. Chế Lan Viên sử dụng các hình
ảnh giàu tính biểu tượng: chắn nẻo xuân; cánh rã, chiếc áo độ thu tàn; ngôn ngữ
thơ đầy suy tưởng, cấu trúc điệp, giọng điệu thơ da diết, có gì đay nghiến mà đau
đớn… Bên cạnh đó, thi sĩ đã sử dụng ngôn từ vô cùng độc đáo, sáng tạo. Từ
“chắn” được sử dụng trong câu là một động từ, là ngăn cản, không cho vượt qua,
không tiếp tục di chuyển. Và chúng ta thường thấy chắn một luồng gió, chắn một
dòng sông, chắn những đợt sóng hung hăng ngoài biển cả nhưng “chắn nẻo xuân
sang” thì quả lạ một điều lạ thường, chắc chỉ có Chế Lan Viên. Một ý muốn ngông
cuồng, ngộ nghĩnh thậm chí ẩn chứa một sức mạnh phi thường. Hai câu cuối bài
thơ để lại trong lòng người đọc những ngậm ngùi. Với cách nhắt nhịp 2/2/3, với
những lời cảm thán cùng biện pháp điệp từ cứ như xoáy sâu vào nỗi nhớ. Từ “lạc”
trong câu thơ cuối“một cánh chim thu lạc cuối ngàn” gợi lên một cảm giác xa
vắng, cô đơn, nhỏ bé giữa cái rộng lớn của không gian. Đây có lẽ cũng chính là
tâm trạng đau đớn, xót thương của nhà thơ giữa thời đại Thơ mới.
Cái quan trọng của tài năng văn học là tiếng nói của chính mình, là cái
giọng riêng của chính mình mà không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một
người nào khác” . Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đòi hỏi
người viết sự sáng tạo, phong cách mới lạ. Bài thơ hấp dẫn người đọc bởi cái
“lạ” trong ước muốn đến “ngông cuồng” của Chế Lan Viên. Bởi việc muốn chế
ngự, níu kéo thời gian; gọi quá khứ về làm hiện tại, chúng ta đã bắt gặp trong thơ
Xuân Diệu. Trong “Vội vàng” Xuân Diệu biểu lộ niềm mong ước tận hưởng hương
sắc mùa xuân, tuổi trẻ, tận hưởng hạnh phúc tình yêu:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạtn mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi” (Vội vàng – Xuân Diệu)
Không giống với những bài thơ viết về mùa Xuân như “Mùa xuân là cả một mùa
xanh” hay “Sột soạt gió trêu tà áo biếc” thường rộn ràng vui tươi, bài thơ xuân này
đã phủ một màu đen buồn thê thảm lên một mùa xuân thê thảm buồn. Cả bài thơ là
như cả một cuộc chiến không thành chống lại mùa xuân, cuộc chiến lạ đời của một
nhà thơ chống lại một kẻ thù cũng lạ đời hơn nữa. Dường như chúng ta thấy mười
sáu câu thơ 7 chữ (thất ngôn) này như mười sáu kẻ thất trận thảm bại đang lầm lũi
rút đi trong lúc mùa xuân phơi phới đang tiến đến mà không một thế lực nào có thể cản được.
3. Kết bài: Có những tác phẩm ra đời như bươm bướm nở ngày mùa, như chuồn
chuồn vỡ tổ, khiến người ta đọc xong quên ngay, đến khi cầm lại mới ngỡ như
mình đọc rồi. Nhưng cũng có những tác phẩm như dòng phù sa chảy qua tâm hồn,
để lại những ấn tượng khắc chạm trong tâm khảm. Và độc giả muôn đời vẫn tin bài
thơ Xuân…của Chế Lan Viên với những đặc sắc nội, nghệ thuật là một tác phẩm
tuyệt vời như thế. Đúng như lời Bằng Việt đã từng viết:
“Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ
Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu”