Thời hiệu ? Ý nghĩa quy định về thời hiệu
? Cách phân loại thời hiệu ?
1. Quy định chung của pháp luật về thời hiệu
Thời hiệu là một phạm trù pháp được ghi nhận thành một chế định trong
Bộ luật Dân sự. quan điểm cho rằng, thời hiệu cũng như thời hạn,
nguồn gốc sâu xa từ quy luật "‘'sinh, lão, bệnh, tử” - tức bất kỳ điều với
hành vi hay đời sống con người đều hạn định về mặt thời gian. Pháp luật
ghi nhận thời hiệu cho thấy, Nhà nước mong muốn đảm bảo sự ổn định trong
giao dịch dân sự nhất định, tức các chủ thể sẽ được phép ứng xử trong
một khoảng thời gian nhất định đ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nh.
Hơn nữa, khi hết một khoảng thời gian nhất định, nếu các chủ thể không
bất kỳ ý kiến thể hiện thông qua hành vi của mình thì cho thấy về mặt ý chí,
các chủ thể không sự phản đối.
Theo các công trình còn lưu lại, thời hiệu trong pháp luật cổ cũng sự ghi
nhận. Điển hình như thời Lý - Trần ghi nhận thời hiệu cho việc kiện tụng
chuộc lại đất như sau:
“5 hay 10 năm”, nếu ruộng bỏ hoang thì thời hiệu 1 năm”...
Sau đó, trong Luật Gia Long hay đặc biệt luật dưới thời phong kiến Pháp
thuộc đều ghi nhận những khoảng thời gian tính chất tương đương.
Tức là, khi các khoảng thời gian nhất định hết, các chủ thể thể được
hưởng quyền nhất định hoặc chấm dứt một nghĩa vụ hoặc mất quyền khởi
kiện.
Tựu chung lại, thời hiệu một khoảng thời gian cho thấy một số đặc
điểm riêng biệt:
Thứ nhất, đây một khoảng thời gian nhà làm luật ấn định ghi nhận
trong các quy phạm pháp luật. Điều đó cho thấy, không tồn tại sự thoả thuận
để thể xác định thời hiệu đây. Nói một cách khác, các chủ thể trong các
quan hệ dân sự sẽ không quyền để thoả thuận về thời hiệu. Thời hiệu
một khoảng thời gian điểm bắt đầu điểm kết thúc. Điểm bắt đầu thể
theo một mốc tính bởi đơn vị thời gian hoặc theo một mốc xảy ra sự kiện.
Điểm kết thúc ng thể theo cách thức xác định này. Nhà m luật ghi
nhận c mốc này trong các quy phạm pháp luật.
Thứ hai, khi khoảng thời gian luật định kết thúc sẽ làm xuất hiện các hậu
quả pháp nhất định. Tức là, hết khoảng thời gian này, n làm luật ghi
nhận những hậu quả pháp liên quan trực tiếp tới quyền, nghĩa vụ nhất định
của các chủ thể. Đây đặc điểm đặc trưng so sánh với các khoảng thời gian
khác mà không phải thời hiệu. Những hậu quả pháp thường thấy như
làm phát sinh quyền cho các chủ thể, chấm dứt nghĩa vụ cho các chủ thể
hoặc mất quyền khởi kiện giải quyết vụ án dân sự hoặc mất quyền yêu cầu
giải quyết vụ việc dân sự.
Thừa nhận những điểm đặc trưng mang tính bản chất của thời hiệu này nên
ngay trong Bộ luật Dân sự hiện hành ghi nhận khái niệm thời hiệu như sau:
“Thời hiệu thời hạn do luật quy định khi kết thúc thời hạn
đó t phát sinh hậu quả pháp đối với chủ thể theo điều kiện
do luật quy định” (Điều 149 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Trong khuôn khổ của khoảng thời gian đó, chủ thể được hưởng quyền dân
sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc khi kết thúc khoảng thời gian đó thì
chủ thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, được miễn chấp hành bản
án hoặc mất quyền khởi kiện. Thời hiệu được phân loại theo hiệu quả pháp
phát sinh.
Thời hiệu được chia làm 5 loại cụ thể:
1) Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự: không truy cứu trách nhiệm
hình sự nếu tính từ ngày phạm tội đã qua những thời hạn: 5 năm đối với tội
phạm ít nghiêm trọng Bộ luật hình sự quy định hình phạt từ 2 năm trở
xuống hoặc hình phạt khác nhẹ hơn; 10 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng
Bộ luật hình sự quy định hình phạt trên 2 năm; 15 năm đối với các tội
phạm nghiêm trọng;
2) Thời hiệu thi hành bản án hình sự: không buộc người bị kết án phải
chấp hành bản án, nếu tính từ ngày bản án hiệu lực pháp luật đã qua
những thời hạn: 5 năm đối với các trường hợp xử phạt từ năm năm trở
xuống; 10 năm đối với c trường hợp xử phạt từ trên năm năm đến mười
lăm năm; 15 năm đối với trường hợp xử phạt từ trên mười lăm năm đến
hai mươi năm;
3) Thời hiệu hưởng quyền n sự thời hạn khi kết thúc thời hạn đó
thì chủ thể được hưởng quyền dân sự;
4) Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự thời hạn khi kết thúc thì
người nghĩa vụ dân sự được miễn thực hiện nghĩa vụ đó;
5) Thời hiệu khởi kiện thời hạn ch thể được quyền khởi kiện, nếu thời
hiệu đó kết thúc t chủ thể mất quyền khởi kiện. Tuy nhiên, riêng đối với thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự không áp dụng đối với các tội phá hoại hòa
bình, chống loài người tội phạm chiến tranh.
2. Khái niệm ý nghĩa của thời hiệu ?
Trong giao lưu dân sự ch th tham gia quan hệ dân sự được hưởng các
quyền phải thực hiện các nghĩa vụ dân sự. S ổn định của các quan hệ
dân sự một trong những mục đích điều chỉnh của pháp luật dân sự. Mặt
khác, đổi tượng của giao lưu dân sự chủ yếu tài sản để phục vụ cho nhu
cầu tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh, cho nên tài sản luôn sự biến đổi về
hình thức tính năng, tác dụng, do vậy cùng với sự thay đổi về thời gian thì
tài sản thể không còn tồn tại. Khi hành vi vi phạm đến quyền tài sản của
mình, người khởi kiện phải chứng minh nguồn gốc tài sản, loại tài sản, hình
thức của tài sản... tuy nhiên, với thời gian ng lâu thì việc chứng minh càng
gặp khó khăn nhiều trường hợp không thể chứng minh được. Do vậy,
pháp luật quy định một thời hạn nhất định cho sự phát sinh, tồn tại hay chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự, thời hạn này được gọi là thời hiệu.
Thời hiệu thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh
hậu quả pháp đối với ch thể theo điều kiện do luật quy định (Điều 149
BLDS năm 2015). Như vậy, thời hiệu thời hạn do pháp luật quy định, các
chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự không thể thoả thuận để kéo dài hoặc
rút ngắn thời hạn này.
Thời hiệu đóng vai trò quan ttọng trong việc ổn định các quan hệ dân sự. Nếu
không quy định thời hiệu, mỗi chủ thể tham gia vào quan hệ n sụ luôn bị đe
doạ bởi tranh chấp thể xảy ra, làm ảnh hưởng đến quyền lợi đời sổng
của họ. Hơn nữa, thời gian làm cho quá trình chứng minh các căn cứ phát
sinh quan hệ dân sự trở nên phức tạp. Khi giải quyết các tranh chấp dân sự,
toà án cần phải tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ để xác định sự thật
khách quan nên nểu thời gian đã qua đi quá lâu, quá trình thu thập chứng cứ
khó bảo đảm chính xác (giải quyết các tranh chấp về thừa kể mở trước ngày
10/9/1990 - ngày Pháp lệnh thừa kể hiệu lực pháp luật những dụ thực
tế c định khó khăn này). Đối với các tổ chức, việc quy định thời hiệu buộc
các đơn vị này phải kiểm soát trách nhiệm trong mọi hoạt động, trong
sản xuất kinh doanh, bảo đảm quyền lợi ích của các ch thể, của Nhà
nước.
3. Nguyên tắc áp dụng thời hiệu
Thời hiệu thời hạn do luật định nên đương nhiên phải được áp dụng theo
đúng nguyên tắc nhà làm luật yêu cầu. Những nguyên tắc được ghi nhận
hiện nay bao gồm:
Thứ nhất, nguyên tắc chung áp dụng thời hiệu tuân thủ nghiêm túc các quy
định trong Bộ luật Dân sự hiện hành ng như các luật khác liên quan. Mỗi
lĩnh vực đặc thù riêng n thể sẽ được Nhà nước điều chỉnh bằng một
luật riêng nhất định mỗi luật này thể sẽ các quy định về thời hạn
riêng. Theo đó, nếu trong mỗi luật khác liên quan đã ghi nhận về thời hiệu
thì ưu tiên áp dụng loại thời hiệu này. Trường hợp luật khác liên quan
không quy định thì áp dụng theo thời hiệu ghi nhận trong Bộ luật Dân sự.
Nguyên tắc này được cụ thể hoá trong luật hiện hành Khoản 1 Điều 149 Bộ
luật Dân sự năm 2015.
Thứ hai, nguyên tắc mang tính ưu tiên bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể khi
áp dụng thời hiệu. Nguyên tắc này ý nghĩa rất lớn trong nhiều trường
hợp, khi hết thời hiệu thì về nguyên tắc chung sẽ làm phát sinh hậu quả pháp
nhất định. dụ trường hợp hết thời hiệu khởi kiện giải quyết vụ án dân sự,
về nguyên tắc chủ thể đã mất quyền khởi kiện nhưng nếu cả nguyên đơn
bị đơn đều không yêu cầu áp dụng thời hiệu thì Toà án sẽ không coi hết
hạn vẫn giải quyết như vụ việc vẫn còn hạn khởi kiện. Nội hàm nguyên
tắc này được thể hiện qua các nội dung:
Một là, toà án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời
hiệu của một hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước
khi Toà án cấp thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Như vậy,
nếu hết thời hạn thời kiện các bên không yêu cầu thì Toà án cấp thẩm
vẫn giải quyết n vụ án thông thường. Đặc biệt, nếu sau khi Toà án cấp
thẩm ra bản án, quyết định đối với vụ việc mà mới yêu cầu áp dụng thời hiệu
thì cũng không giải quyết theo yêu cầu vụ việc này. Ví dụ như: Thời hiệu để
các chủ nợ (người quyền yêu cầu thanh toán nợ) yêu cầu người thừa kế
thực hiện nghĩa vụ tài sản 03 năm kể từ ngày người để lại di sản chết. Khi
hết thời hiệu 03 năm này chủ nợ mới khởi kiện ra Toà án yêu cầu người
thừa kế thanh toán người thừa kế không yêu cầu áp dụng thời hiệu thì
Toà án vẫn giải quyết như bình thường.
Hoặc vẫn cùng trường hợp này, sau khi Toà án cấp thẩm ra bản án rồi
người thừa kế mới yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện thì T án sẽ từ
chối, không áp dụng quy định về thời hiệu đ giải quyết vụ án nữa.
Hai là, khi yêu cầu áp dụng thời hiệu người được hưởng lợi t chối áp
dụng thì T án cũng không áp dụng nữa vẫn xét xử giải quyết như bình
thường. dụ như, khi hết 06 tháng kể từ thời điểm người chiếm hữu hợp
pháp đối với con gia súc đi lạc, người chiếm hữu hợp pháp trở thành chủ sở
hữu mới của con gia súc đi lạc này. Tuy nhiên, người chiếm hữu hợp pháp t
chối áp dụng thời hiệu này đ không tr thành ch sở hữu của con gia súc đi
lạc. Trường hợp này pháp luật cho phép người chiếm hữu hợp pháp được
quyền này. Tuy vậy, n làm luật giới hạn nếu trốn tránh thực hiện nghĩa
vụ bản thân người chiêm hữu hợp pháp đang buộc phải thực hiện nghĩa vụ
trả nợ từ chối trở thành chủ sở hữu con gia súc muốn trốn tránh không
thực hiện nghĩa vụ này thì nhà làm luật không cho phép.
Ghi nhận hai nguyên tắc này, n làm luật cũng đã cụ thể hoá trong khoản 1
khoản 2 Điều 149 Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Phân tích cách phân loại thời hiệu hiện nay
Căn cứ vào quy định tại Điều 150 BLDS thời hiệu gồm ba loại: thời hiệu
hưởng quyền dân sự, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự thời hiệu khởi
kiện. Xét về tổng thể thì các loại thời hiệu này mối liên quan với nhau bởi
quyền của một chủ thể bao giờ cũng tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể
khác. Hơn nữa, một ttong những quyền năng của chủ thể quyền là quyền
yêu cầu chủ thể nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của họ. Do vậy, nếu một
chủ thể mất quyền khởi kiện thì nghĩa vụ chấm dứt.
* Thời hiệu hưởng quyền dân sự: Là thời hạn khi kết thúc thời hạn đó,
chủ thể được hường quyền dân sự (khoản 1 Điều 150 BLDS năm 2015).
đây, thời hiệu một sự kiện
pháp làm phát sinh quyền dân sự cho chủ thể nhưng không phải bất cứ
quyền dân sự nào cũng th được xác lập theo thời hiệu chỉ trong
những trường hợp được pháp luật quy định. Ví dụ: Điều 230 BLDS năm 2015
quy định thòi hiệu m phát sinh quyền sở hữu tài sản của người chỉếm hữu
do người khác đánh roi, b quên 1 năm.
* Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ n sự: Là thời hạn khi kết thúc thời hạn
đó thì người nghĩa vụ dân sự được miễn việc thực hiện nghĩa vụ (khoản 2
Điều 150 BLDS năm 2015).
Khác với thời hiệu hưởng quyền dân sự cho phép chủ thể hưởng quyền khi
kết thúc thời hạn luật định thì trong thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự, người
nghĩa vụ được miễn trừ nghĩa vụ tương ứng với thời điểm kết thúc thời
hạn. Khi một chủ thể tham gia quan hệ dân sự nghĩa vụ phát sinh từ
quan hệ đó (nghĩa vụ tồn tại độc lập với các trái vụ) thì họ phải thực hiện
nghĩa vụ trong thời hạn do pháp luật quy định. Nếu hết thời hiệu thực hiện
nghĩa vụ thì nghĩa vụ chấm dứt.
Xuất phát từ đặc điểm của pháp luật về thời hiệu, từ đặc điểm của các quyền
nhân thân không gắn với tài sản của nhân, tổ chức, pháp luật quy định
thời hiệu hưởng quyền dân sự không được áp dụng đối với trường hợp
chiếm hữu tài sản thuộc sở hữu toàn n không căn cứ pháp luật các
quyền nhân thân không gắn với tài sản.
* Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự:
Thời hiệu khởi kiện thời hạn chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu
toà án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện (khoản 3 Điều 150
BLDS năm 2015). Tuy nhiên, nếu các bên không yêu cầu toà án áp dụng thời
hiệu thì toà án tiếp tục công nhận quyền nghĩa vụ của các bên (khoản 2
Điều 149 BLDS năm 2015).
Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự thòi hạn chủ thể được quyền
yêu cầu toà án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của nhân, pháp nhân, lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; nếu thời
hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu (khoản 4 Điều 150 BLDS năm 2015).
Trong quan hệ dân sự, người nghĩa vụ phải t nguyện thực hiện nghĩa vụ
đối với người quyền. Người quyền thể yêu cầu toà án buộc người
nghĩa vụ thực hiện đúng nghĩa vụ của họ thông qua các biện pháp cưỡng ché
phù hợp với quy định của luật tố tụng dân sự. Quyền yêu cầu toà án, quan
nhà nước thẩm quyền khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình chỉ
được thực hiện trong thời hạn xác định khi các quyền này bị xâm phạm. Kết
thúc thời hạn đó chủ thể không thực hiện quyền khởi kiện thì bị mẩt
quyền khởi kiện (trừ khoản 2 Điều 149 BLDS năm 2015).
Bộ luật dân sự không quy định thời hiệu khởi kiện chung cho các quan hệ
dân sự chỉ xác định c nguyên tắc chung nhất về thời hiệu khởi kiện. Bộ
luật chỉ quy định thời hiệu khỏi kiện cho từng trường hợp riêng biệt.
dụ: Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận
quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác mười
năm đối với động sản ba mươi năm đối với bất động sản, kể từ thời điểm
mở thừa kế (Điều 623 BLDS năm 2015), thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên bố
giao dịch dân sự hiệu 2 năm
(khoản 1 Điều 132 BLDS năm 2015) những trường hợp thời hiệu khởi
kiện không bị hạn chế (khoản 3 Điều 132 BLDS năm 2015).
5. Cách tính thời hiệu theo luật dân sự
Cũng giống như thời hạn, thời hiệu được c định theo cách thức cụ thể sau:
Thời điểm bắt đầu của thời hiệu sẽ ngày đầu tiên của thời hiệu. Nếu thời
hiệu được tính bằng đơn vị ngày thì ngày bắt đầu thời hiệu chính ngày
được n định thời hiệu. dụ như: thời hiệu khởi kiện yêu cầu thanh toán
nghĩa vụ tài sản của người quyền tài sản với người đ lại di sản tính từ
ngày người để lại di sản chết. Như vậy, ngày bắt đầu tính thời hiệu ngày
người để lại di sản chết. Như vậy, thời hiệu tính theo đơn vị tuần, tháng
hay năm thì thời điểm bắt đầu đều được tính theo đơn vị ngày ngày đầu
tiên của thời hiệu.
Thời điểm kết thúc thời hiệu là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời
hiệu. dụ như, thời hiệu 06 (sáu) tháng t thời điểm kết thúc kết thúc
ngày thứ 30 cuối cùng của tháng thứ sáu của khoảng thời gian này. Ghi nhận
cách tính cụ thể này, Bộ luật Dân sự hiện hành đã quy định cụ thể tại Điều
151 của Bộ luật.

Preview text:

Thời hiệu là gì ? Ý nghĩa quy định về thời hiệu
là gì ? Cách phân loại thời hiệu ?
1. Quy định chung của pháp luật về thời hiệu
Thời hiệu là là một phạm trù pháp lý được ghi nhận thành một chế định trong
Bộ luật Dân sự. Có quan điểm cho rằng, thời hiệu cũng như thời hạn, có
nguồn gốc sâu xa từ quy luật "‘'sinh, lão, bệnh, tử” - tức là bất kỳ điều gì với
hành vi hay đời sống con người đều có hạn định về mặt thời gian. Pháp luật
ghi nhận thời hiệu cho thấy, Nhà nước mong muốn đảm bảo sự ổn định trong
giao dịch dân sự nhất định, tức là các chủ thể sẽ được phép ứng xử trong
một khoảng thời gian nhất định để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Hơn nữa, khi hết một khoảng thời gian nhất định, nếu các chủ thể không có
bất kỳ ý kiến thể hiện thông qua hành vi của mình thì cho thấy về mặt ý chí,
các chủ thể không có sự phản đối.
Theo các công trình còn lưu lại, thời hiệu trong pháp luật cổ cũng có sự ghi
nhận. Điển hình như thời Lý - Trần có ghi nhận thời hiệu cho việc kiện tụng
và chuộc lại đất như sau:
“5 hay 10 năm”, nếu ruộng bỏ hoang thì thời hiệu là 1 năm”...
Sau đó, trong Luật Gia Long hay đặc biệt luật dưới thời phong kiến Pháp
thuộc đều có ghi nhận những khoảng thời gian có tính chất tương đương.
Tức là, khi các khoảng thời gian nhất định mà hết, các chủ thể có thể được
hưởng quyền nhất định hoặc chấm dứt một nghĩa vụ hoặc mất quyền khởi kiện.
Tựu chung lại, thời hiệu là một khoảng thời gian mà cho thấy một số đặc điểm riêng biệt:
Thứ nhất, đây là một khoảng thời gian mà nhà làm luật ấn định và ghi nhận
trong các quy phạm pháp luật. Điều đó cho thấy, không tồn tại sự thoả thuận
để có thể xác định thời hiệu ở đây. Nói một cách khác, các chủ thể trong các
quan hệ dân sự sẽ không có quyền để thoả thuận về thời hiệu. Thời hiệu là
một khoảng thời gian có điểm bắt đầu và điểm kết thúc. Điểm bắt đầu có thể
theo một mốc tính bởi đơn vị thời gian hoặc theo một mốc xảy ra sự kiện.
Điểm kết thúc cũng có thể theo cách thức xác định này. Nhà làm luật ghi
nhận các mốc này trong các quy phạm pháp luật.
Thứ hai, khi khoảng thời gian mà luật định kết thúc sẽ làm xuất hiện các hậu
quả pháp lý nhất định. Tức là, hết khoảng thời gian này, nhà làm luật ghi
nhận những hậu quả pháp lý liên quan trực tiếp tới quyền, nghĩa vụ nhất định
của các chủ thể. Đây là đặc điểm đặc trưng so sánh với các khoảng thời gian
khác mà không phải là thời hiệu. Những hậu quả pháp lý thường thấy như
làm phát sinh quyền cho các chủ thể, chấm dứt nghĩa vụ cho các chủ thể
hoặc mất quyền khởi kiện giải quyết vụ án dân sự hoặc mất quyền yêu cầu
giải quyết vụ việc dân sự.
Thừa nhận những điểm đặc trưng mang tính bản chất của thời hiệu này nên
ngay trong Bộ luật Dân sự hiện hành ghi nhận khái niệm thời hiệu như sau:
“Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn
đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện
do luật quy định”
(Điều 149 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Trong khuôn khổ của khoảng thời gian đó, chủ thể được hưởng quyền dân
sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc khi kết thúc khoảng thời gian đó thì
chủ thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, được miễn chấp hành bản
án hoặc mất quyền khởi kiện. Thời hiệu được phân loại theo hiệu quả pháp lí phát sinh.
Thời hiệu được chia làm 5 loại cụ thể:
1) Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự: không truy cứu trách nhiệm
hình sự nếu tính từ ngày phạm tội đã qua những thời hạn: 5 năm đối với tội
phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt từ 2 năm tù trở
xuống hoặc hình phạt khác nhẹ hơn; 10 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng
mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm; 15 năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;
2) Thời hiệu thi hành bản án hình sự: không buộc người bị kết án phải
chấp hành bản án, nếu tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đã qua
những thời hạn: 5 năm đối với các trường hợp xử phạt từ năm năm tù trở
xuống; 10 năm đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên năm năm đến mười
lăm năm; 15 năm đối với trường hợp xử phạt tù từ trên mười lăm năm đến hai mươi năm;
3) Thời hiệu hưởng quyền dân sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó
thì chủ thể được hưởng quyền dân sự;
4) Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự là thời hạn mà khi kết thúc nó thì
người có nghĩa vụ dân sự được miễn thực hiện nghĩa vụ đó;
5) Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện, nếu thời
hiệu đó kết thúc thì chủ thể mất quyền khởi kiện. Tuy nhiên, riêng đối với thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự không áp dụng đối với các tội phá hoại hòa
bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh.
2. Khái niệm và ý nghĩa của thời hiệu ?
Trong giao lưu dân sự chủ thể tham gia quan hệ dân sự được hưởng các
quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ dân sự. Sự ổn định của các quan hệ
dân sự là một trong những mục đích điều chỉnh của pháp luật dân sự. Mặt
khác, đổi tượng của giao lưu dân sự chủ yếu là tài sản để phục vụ cho nhu
cầu tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh, cho nên tài sản luôn có sự biến đổi về
hình thức và tính năng, tác dụng, do vậy cùng với sự thay đổi về thời gian thì
tài sản có thể không còn tồn tại. Khi có hành vi vi phạm đến quyền tài sản của
mình, người khởi kiện phải chứng minh nguồn gốc tài sản, loại tài sản, hình
thức của tài sản... tuy nhiên, với thời gian càng lâu thì việc chứng minh càng
gặp khó khăn và nhiều trường hợp không thể chứng minh được. Do vậy,
pháp luật quy định một thời hạn nhất định cho sự phát sinh, tồn tại hay chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự, thời hạn này được gọi là thời hiệu.
Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh
hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định (Điều 149
BLDS năm 2015). Như vậy, thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định, các
chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự không thể thoả thuận để kéo dài hoặc rút ngắn thời hạn này.
Thời hiệu đóng vai trò quan ttọng trong việc ổn định các quan hệ dân sự. Nếu
không quy định thời hiệu, mỗi chủ thể tham gia vào quan hệ dân sụ luôn bị đe
doạ bởi tranh chấp có thể xảy ra, làm ảnh hưởng đến quyền lợi và đời sổng
của họ. Hơn nữa, thời gian làm cho quá trình chứng minh các căn cứ phát
sinh quan hệ dân sự trở nên phức tạp. Khi giải quyết các tranh chấp dân sự,
toà án cần phải tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ để xác định sự thật
khách quan nên nểu thời gian đã qua đi quá lâu, quá trình thu thập chứng cứ
khó bảo đảm chính xác (giải quyết các tranh chấp về thừa kể mở trước ngày
10/9/1990 - ngày Pháp lệnh thừa kể có hiệu lực pháp luật là những ví dụ thực
tế xác định khó khăn này). Đối với các tổ chức, việc quy định thời hiệu buộc
các đơn vị này phải kiểm soát và có trách nhiệm trong mọi hoạt động, trong
sản xuất kinh doanh, bảo đảm quyền và lợi ích của các chủ thể, của Nhà nước.
3. Nguyên tắc áp dụng thời hiệu
Thời hiệu là thời hạn do luật định nên đương nhiên phải được áp dụng theo
đúng nguyên tắc mà nhà làm luật yêu cầu. Những nguyên tắc được ghi nhận hiện nay bao gồm:
Thứ nhất, nguyên tắc chung áp dụng thời hiệu là tuân thủ nghiêm túc các quy
định trong Bộ luật Dân sự hiện hành cũng như các luật khác có liên quan. Mỗi
lĩnh vực có đặc thù riêng nên có thể sẽ được Nhà nước điều chỉnh bằng một
luật riêng nhất định và mỗi luật này có thể sẽ có các quy định về thời hạn
riêng. Theo đó, nếu trong mỗi luật khác có liên quan đã ghi nhận về thời hiệu
thì ưu tiên áp dụng loại thời hiệu này. Trường hợp luật khác có liên quan
không quy định thì áp dụng theo thời hiệu ghi nhận trong Bộ luật Dân sự.
Nguyên tắc này được cụ thể hoá trong luật hiện hành là Khoản 1 Điều 149 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Thứ hai, nguyên tắc mang tính ưu tiên bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể khi
áp dụng thời hiệu. Nguyên tắc này có ý nghĩa rất lớn vì trong nhiều trường
hợp, khi hết thời hiệu thì về nguyên tắc chung sẽ làm phát sinh hậu quả pháp
lý nhất định. Ví dụ trường hợp hết thời hiệu khởi kiện giải quyết vụ án dân sự,
về nguyên tắc chủ thể đã mất quyền khởi kiện nhưng nếu cả nguyên đơn và
bị đơn đều không yêu cầu áp dụng thời hiệu thì Toà án sẽ không coi là hết
hạn mà vẫn giải quyết như vụ việc vẫn còn hạn khởi kiện. Nội hàm nguyên
tắc này được thể hiện qua các nội dung:
Một là, toà án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời
hiệu của một hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước
khi Toà án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Như vậy,
nếu hết thời hạn thời kiện mà các bên không yêu cầu thì Toà án cấp sơ thẩm
vẫn giải quyết như vụ án thông thường. Đặc biệt, nếu sau khi Toà án cấp sơ
thẩm ra bản án, quyết định đối với vụ việc mà mới yêu cầu áp dụng thời hiệu
thì cũng không giải quyết theo yêu cầu vụ việc này. Ví dụ như: Thời hiệu để
các chủ nợ (người có quyền yêu cầu thanh toán nợ) yêu cầu người thừa kế
thực hiện nghĩa vụ tài sản là 03 năm kể từ ngày người để lại di sản chết. Khi
hết thời hiệu 03 năm này mà chủ nợ mới khởi kiện ra Toà án yêu cầu người
thừa kế thanh toán mà người thừa kế không yêu cầu áp dụng thời hiệu thì
Toà án vẫn giải quyết như bình thường.
Hoặc vẫn cùng trường hợp này, sau khi Toà án cấp sơ thẩm ra bản án rồi mà
người thừa kế mới có yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện thì Toà án sẽ từ
chối, không áp dụng quy định về thời hiệu để giải quyết vụ án nữa.
Hai là, khi có yêu cầu áp dụng thời hiệu mà người được hưởng lợi từ chối áp
dụng thì Toà án cũng không áp dụng nữa mà vẫn xét xử giải quyết như bình
thường. Ví dụ như, khi hết 06 tháng kể từ thời điểm người chiếm hữu hợp
pháp đối với con gia súc đi lạc, người chiếm hữu hợp pháp trở thành chủ sở
hữu mới của con gia súc đi lạc này. Tuy nhiên, người chiếm hữu hợp pháp từ
chối áp dụng thời hiệu này để không trở thành chủ sở hữu của con gia súc đi
lạc. Trường hợp này pháp luật cho phép người chiếm hữu hợp pháp có được
quyền này. Tuy vậy, nhà làm luật giới hạn là nếu vì trốn tránh thực hiện nghĩa
vụ vì bản thân người chiêm hữu hợp pháp đang buộc phải thực hiện nghĩa vụ
trả nợ và từ chối trở thành chủ sở hữu con gia súc vì muốn trốn tránh không
thực hiện nghĩa vụ này thì nhà làm luật không cho phép.
Ghi nhận hai nguyên tắc này, nhà làm luật cũng đã cụ thể hoá trong khoản 1
và khoản 2 Điều 149 Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Phân tích cách phân loại thời hiệu hiện nay
Căn cứ vào quy định tại Điều 150 BLDS thời hiệu gồm ba loại: thời hiệu
hưởng quyền dân sự, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự và thời hiệu khởi
kiện. Xét về tổng thể thì các loại thời hiệu này có mối liên quan với nhau bởi
quyền của một chủ thể bao giờ cũng tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể
khác. Hơn nữa, một ttong những quyền năng của chủ thể có quyền là quyền
yêu cầu chủ thể có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của họ. Do vậy, nếu một
chủ thể mất quyền khởi kiện thì nghĩa vụ chấm dứt.
* Thời hiệu hưởng quyền dân sự: Là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó,
chủ thể được hường quyền dân sự (khoản 1 Điều 150 BLDS năm 2015). Ở
đây, thời hiệu là một sự kiện
pháp lí làm phát sinh quyền dân sự cho chủ thể nhưng không phải bất cứ
quyền dân sự nào cũng có thể được xác lập theo thời hiệu mà chỉ trong
những trường hợp được pháp luật quy định. Ví dụ: Điều 230 BLDS năm 2015
quy định thòi hiệu làm phát sinh quyền sở hữu tài sản của người chỉếm hữu
do người khác đánh roi, bỏ quên là 1 năm.
* Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự: Là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn
đó thì người có nghĩa vụ dân sự được miễn việc thực hiện nghĩa vụ (khoản 2 Điều 150 BLDS năm 2015).
Khác với thời hiệu hưởng quyền dân sự cho phép chủ thể hưởng quyền khi
kết thúc thời hạn luật định thì trong thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự, người
có nghĩa vụ được miễn trừ nghĩa vụ tương ứng với thời điểm kết thúc thời
hạn. Khi một chủ thể tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ
quan hệ đó (nghĩa vụ tồn tại độc lập với các trái vụ) thì họ phải thực hiện
nghĩa vụ trong thời hạn do pháp luật quy định. Nếu hết thời hiệu thực hiện
nghĩa vụ thì nghĩa vụ chấm dứt.
Xuất phát từ đặc điểm của pháp luật về thời hiệu, từ đặc điểm của các quyền
nhân thân không gắn với tài sản của cá nhân, tổ chức, pháp luật quy định
thời hiệu hưởng quyền dân sự không được áp dụng đối với trường hợp
chiếm hữu tài sản thuộc sở hữu toàn dân không có căn cứ pháp luật và các
quyền nhân thân không gắn với tài sản.
* Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự:
Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu
toà án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện (khoản 3 Điều 150
BLDS năm 2015). Tuy nhiên, nếu các bên không yêu cầu toà án áp dụng thời
hiệu thì toà án tiếp tục công nhận quyền và nghĩa vụ của các bên (khoản 2 Điều 149 BLDS năm 2015).
Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là thòi hạn mà chủ thể được quyền
yêu cầu toà án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, pháp nhân, lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; nếu thời
hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu (khoản 4 Điều 150 BLDS năm 2015).
Trong quan hệ dân sự, người có nghĩa vụ phải tự nguyện thực hiện nghĩa vụ
đối với người có quyền. Người có quyền có thể yêu cầu toà án buộc người có
nghĩa vụ thực hiện đúng nghĩa vụ của họ thông qua các biện pháp cưỡng ché
phù hợp với quy định của luật tố tụng dân sự. Quyền yêu cầu toà án, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình chỉ
được thực hiện trong thời hạn xác định khi các quyền này bị xâm phạm. Kết
thúc thời hạn đó mà chủ thể không thực hiện quyền khởi kiện thì bị mẩt
quyền khởi kiện (trừ khoản 2 Điều 149 BLDS năm 2015).
Bộ luật dân sự không quy định thời hiệu khởi kiện chung cho các quan hệ
dân sự mà chỉ xác định các nguyên tắc chung nhất về thời hiệu khởi kiện. Bộ
luật chỉ quy định thời hiệu khỏi kiện cho từng trường hợp riêng biệt.
dụ:
Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận
quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười
năm đối với động sản và ba mươi năm đối với bất động sản, kể từ thời điểm
mở thừa kế (Điều 623 BLDS năm 2015), thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên bố
giao dịch dân sự vô hiệu là 2 năm
(khoản 1 Điều 132 BLDS năm 2015) và có những trường hợp thời hiệu khởi
kiện không bị hạn chế (khoản 3 Điều 132 BLDS năm 2015).
5. Cách tính thời hiệu theo luật dân sự
Cũng giống như thời hạn, thời hiệu được xác định theo cách thức cụ thể sau:
Thời điểm bắt đầu của thời hiệu sẽ là ngày đầu tiên của thời hiệu. Nếu thời
hiệu được tính bằng đơn vị ngày thì ngày bắt đầu thời hiệu chính là ngày
được ấn định thời hiệu. Ví dụ như: thời hiệu khởi kiện yêu cầu thanh toán
nghĩa vụ tài sản của người có quyền tài sản với người để lại di sản tính từ
ngày người để lại di sản chết. Như vậy, ngày bắt đầu tính thời hiệu là ngày
người để lại di sản chết. Như vậy, dù thời hiệu tính theo đơn vị tuần, tháng
hay năm thì thời điểm bắt đầu đều được tính theo đơn vị ngày và là ngày đầu tiên của thời hiệu.
Thời điểm kết thúc thời hiệu là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời
hiệu. Ví dụ như, thời hiệu là 06 (sáu) tháng thì thời điểm kết thúc là kết thúc
ngày thứ 30 cuối cùng của tháng thứ sáu của khoảng thời gian này. Ghi nhận
cách tính cụ thể này, Bộ luật Dân sự hiện hành đã quy định cụ thể tại Điều 151 của Bộ luật.
Document Outline

  • Thời hiệu là gì ? Ý nghĩa quy định về thời hiệu là
    • 1. Quy định chung của pháp luật về thời hiệu
    • 2. Khái niệm và ý nghĩa của thời hiệu ?
    • 3. Nguyên tắc áp dụng thời hiệu
    • 4. Phân tích cách phân loại thời hiệu hiện nay
    • 5. Cách tính thời hiệu theo luật dân sự