







Preview text:
Thương nhân là gì? Các đặc điểm của thương
nhân theo luật thương mại
Đặc biệt, pháp luật hiện hành Việt Nam đã xác định cụ thể khái niệm doanh
nghiệp và khái niệm thương nhân:
“Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích kinh doanh” (khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm
2014 trước kia - Hiện nay đang áp dụng luật doanh nghiệp năm 2020).
“Thươmg nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp
pháp, cá nhân hoạt động thưomg mại một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng ký kinh doanh” (khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005).
Cả hai khái niệm trên đều phản ánh một nhóm người trong xã hội, với thuộc
tính cơ bản nhất của doanh nghiệp cũng như thương nhân đó là tổ chức, cá
nhân được thành lập (đăng ký) để thực hiện hoạt động thương mại (hoạt
động kinh doanh). Tuy nhiên, hai khái niệm này không hoàn toàn giống nhau
mà giữa chúng có một số điểm khác nhau không nhiều về nội hàm cũng như
ngoại diên của khái niệm.
Để đảm bảo tính nhất quán của Giáo trình, dưới đây đi sâu nghiên cứu khái niệm thương nhân.
1. Khái niệm thương nhân
Vốn dĩ Luật Thương mại được coi là luật của các thương gia. Vì vậy, khái
niệm thương nhân (thương gia) luôn được xác định trong pháp luật thương
mại của các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng.
Theo Điều 1 Bộ luật Thương mại của Cộng hoà Pháp năm 1807 thì:
“Thương nhân là người thực hiện các hành vi thương mại và lấy
đó làm nghề nghiệp thường xuyên của mình”.
Để trở thành thương nhân, một người nào đó phải có hai điều kiện:
+ Thực hiện những hành vi thương mại;
+Thực hiện những hành vi thương mại mang tính nghề nghiệp thường xuyên.
Ngoài ra, trong quá trình thi hành Bộ luật Thương mại, các thẩm phán và các
học giả pháp lý đều thừa nhận thêm hai điều kiện nữa: Thực hiện hành vi
mang danh nghĩa của chính mình và vì lợi ích của mình, có năng lực hành vi thương mại.
Như vậy, khái niệm đầy đủ về thương nhân theo pháp luật của Cộng hoà
Pháp được xác định: Thương nhân là những người có năng lực hành vi
thương mại, thực hiện hành vi thương mại một cách độc lập, mang danh
nghĩa chính mình và vì lợi ích của mình và lấy đó làm nghề nghiệp thường xuyên.
Với quan niệm, hành vi thương mại là hành vi của các thương gia, pháp luật
thương mại Cộng hoà Liên bang Đức quy định về thương nhân (thương gia)
có phần phức tạp hơn. Theo pháp luật thương mại Đức, thương gia bao gồm
các loại: Thương gia đương nhiên, thương gia do đăng ký, thượng gia do
hình thức pháp lý, thương gia nhỏ và thương gia giả tạo. Còn theo Điều 1 Bộ
luật Thương mại Việt Nam cộng hoà năm 1972:
“Thương gia là những người làm hành vi thương mại cho chính
mình và lấy hành vi ấy làm nghề nghiệp thường xuyên của mình”.
Như vậy, pháp luật thương mại của các nước trên thế giới đều xác định chính
xác cả về nội hàm (các thuộc tính của thương nhân), cả về ngoại diên (các
loại thương nhân) của khái niệm thương nhân.
Khái niệm thương nhân được pháp luật thương mại Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ghi nhận trong Luật Thương mại năm 1997. Theo quy định
của khoản 6 Điều 5 Luật Thương mại năm 1997:
“Thương nhân gồm cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình
có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc lập và thường xuyên”.
Tương tự như vậy, khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005 xác định:
“Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp
pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng ký kình doanh”.
2. Các thuộc tính cơ bản của thương nhân
Từ khái niệm thương nhân được xác định trên đây, có thể thấy thương nhân
có những thuộc tính cơ bản như:
- Thương nhân phải thực hiện các hoạt động thương mại; thương nhân phải
thực hiện các hoạt động thương mại một cách độc lập;
- Thương nhân phải thực hiện các hoạt động thương mại một cách thường xuyên;
- Thương nhân phải đăng ký kinh doanh.
Như vậy, Luật Thương mại năm 1997 và Luật Thương mại năm 2005 đã xây
dựng khái niệm thương nhân dựa trên sự kết hợp của hai tiêu chí: Chủ thể và
khách thệ. Ngoại diên của khái niệm (số lượng thương nhân) rộng hay hẹp
tuỳ thuộc vào quan niệm về hoạt động thương mại ở nghĩa nào. Nếu quan
niệm hoạt động thương mại theo Luật Thương mại năm 1997 thì số lượng
thương nhân bị hạn chế (chỉ bao gồm những cá nhân, tổ chức thực hiện một
trong 14 hành vi thương mại quy định tại Điều 45) Còn nếu hiểu hoạt động
thương mại theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 hoặc theo Luật
Thương mại năm 2005 thì số lượng thương nhân được mở rộng đáng kể.
3. Đặc điểm pháp lý của thương nhân
Thương nhân có những đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản sau:
Thứ nhất, thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại
Thương nhân và hành vi thương mại có mối quan hệ logic với nhau. Điều đó
được thể hiện ngay chính trong Luật Thương mại năm 1997. Khoản 1 Điều 5
Luật Thương mại năm 1997 quy định:
“Hành vi thương mại là hành vi của thương nhân trong hoạt
động thương mại...”
Trong khi đó, khoản 6 Điều 5 cũng trong Luật này lại quy định:
“Thương nhân gồm... có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại...”
hoặc khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005:
“Thương nhân bao gồm tổ chức... cá nhân hoạt động thương mại...”.
Như vậy, thương nhân là chủ thể thực hiện hành vi thương mại. Muốn xem
chủ thể có phải là thương nhân hay không thì phải xem chủ thể đó có thực
hiện hành vi thương mại hay không. Thực hiện hành vi thương mại là một
đặc điểm không thể tách rời tư cách thương nhân, đây là tiêu chí quan trọng
để phân biệt thương nhân với các chủ thể khác không phải là thương nhân.
Pháp luật của các nước trên thế giới đều lấy dấu hiệu “thực hiện hành vi
thương mại” làm tiêu chí để xác định khái niệm thương nhân (Luật Thương
mại Việt Nam năm 1997, 2005; Điều 121-1 Bộ luật Thương mại Cồng hoà
Pháp). Tuy nhiên, tuỳ thuộc quan niệm theo nghĩa rộng hay hẹp mà việc xác
định số lượng chủ thể được coi là thương nhân ở mỗi nước có khác nhau.
Thứ hai, thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh
nghĩa chinh mình và vì lợi ích của bản thân mình
Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định, thương nhân
phải hoạt động thương mại một cách độc lập. Điêu 121-1 Bộ luật Thương mại
Cộng hoà Pháp quy định, thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại
mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích của bản thân mình.
Như vậy, theo tinh thần của pháp luật thương mại, thực hiện hành vi thương
mại độc lập, mang danh nghĩá chính mình và vì lợi ích bản thân mình là dấu
hiệu cần thiết để xác định chủ thể tham gia vào các hoạt động thương mại có
phải là thương nhân hay không.
Trong hoạt động thương mại thường có nhiều người tham gia như người làm
công ăn lương, các nhân viên quản lý điều hành. Do đó, cần phải dựa vào
tính độc lập trong thực hiện hành vi của chủ thể để xác định chủ thể có tư
cách thương nhân. Thực hiện hành vi thướng mại độc lập, mang danh nghĩa
chính mình và vì lợi ích của bản thân mình được hiểu là thương nhân thực
hiện hành vi thương mại một cách tự thân, nhân danh mình, vì lợi ích của bản
thân và tự chịu trách nhiệm về việc thực hiện hành vi thương mại đó. Khi thực
hiện hành vi thương mại, thương nhân không bị chi phối bởi ý chí của chủ thể
khác mà được hoạch định bởi ý chí của chính thương nhân. Việc nhân danh
của thương nhân xuất phát từ quyền độc lập kinh doanh của chủ thể. Bởi vậy,
nếu thiếu điều kiện trên thì chủ thể không có tư cách thương nhân.
Ví dụ: người làm công ăn lương, người quản lý do chủ doanh nghiệp thuê,
người quản lý một chi nhánh hoặc một cửa hàng thương mại ... đều không phải là thương nhân.
Thứ ba, thương nhân phải thực hiện các hành vi thương mại mang tính nghề nghiệp thường xuyên
Hoạt động thương mại thường xuyên là một trong các dấu hiệu pháp lý không
thể thiếu để xác định tư cách thương nhân. Một chủ thể thực hiện hành vi
thương mại một cách độc lập, tự thân, nhân danh chính mình nhưng hành vi
thương mại đó không diễn ra một cách thường xuyên, liên tục thì không thể là
thương nhân. Điều đó được phản ánh khá rõ nét trong pháp luật thương mại của các nước.
Ví dụ: Theo khoản 1 Điêu 6 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy
định: “Thương nhân... hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên...hoặc khoản 1 Điều 121-1 Bộ luật Thương mại Cộng hoà Pháp quy
định, chủ thể chỉ có tư cách thương nhân nếu thực hiện hành vi thương mại
mang tính nghề nghiệp thường xuyên.
Như vậy, pháp luật thương mại thừa nhận sự cần thiết của hai yếu tố: tính
nghề nghiệp và tính thường xuyên để xác định tư cách thương nhân. Để trở
thành thương nhân thì các chủ thể phải thường xuyên thực hiện những hành
vi thương mại, điều đó có nghĩa là chủ thể thực hiện những hành vi thương
mại một cách thực tế, lặp đi, lặp lại, kế tiếp mang tính nghề nghiệp. Các chủ
thể thực hiện hành vi thương mại một cách riêng lẻ sẽ không có tư cách
thương nhân. Ví dụ, một người thỉnh thoảng mua chứng khoán, mặc dù với
mục đích là để tìm kiếm lợi nhuận nhưng không mang lại cho người đó tư
cách thương nhân. Hoặc, một hộ gia đình có nhà ở không dùng hết cho một
nhóm giáo viên thuê để luyện thi đại học trong một mùa hè thì không trở
thành thương nhân. Song nếu hộ gia đình đó xây nhà để cho các doanh
nghiệp thuê một cách liên tục thì có thể trở thành thương nhân.
Bên cạnh tính thường xuyên của hoạt động thương mại, khi xác định tư cách
thương nhân cũng cần quan tâm đến tính nghề nghiệp. Mặc dù, trong tính
thường xuyên đã hàm chứa những nội dung của tính nghề nghiệp:
“Mỗi nghề nghiệp chỉ nhằm vào một loại hoạt động nào đó, làm
một nghề nghiệp là hằng ngày thực hiện những hành vi thuộc
loại hoạt động ấy, như bác sĩ ngày nào cũng khám bệnh kê đơn,
nhà buôn lúc nào cũng tiếp xúc với khách hàng, mua bán".
Như vậy, hoạt động thương mại mang tính chất nghề nghiệp của thương
nhân phải được hiểu là những hoạt động thường xuyên, liên tục được thương
nhân thực hiện nhằm tạo ra những thu nhập chính cho thương nhân.
Trên thực tế, có một số người làm nhiều nghề khác nhau. Nếu nghề nghiệp
chính của họ là nghề thương mại thì họ có tư cách thương nhân, ngược lại
nếu nghề thương mại chỉ là nghề phụ, có nghĩa là thu nhập từ nghề thương
mại chiếm tỉ lệ không đáng kể so với thu nhập từ nghề khác thì không có tư cách thương nhân.
Thương nhân phải là người hoạt động thương mại thường xuyên, liên tục.
Tính chất nghề nghiệp không chỉ là dấu hiệu quan trọng để xác định tư cách
thương nhân mà còn là yêu cầu bắt buộc của pháp luật thuơng mại Việt Nam
đối với thuơng nhân. Nếu một thương nhân không hoạt động thương mại
thường xuyên, liên tục thì có thể bị pháp luật buộc chấm dứt thương nhân
thông qua hình thức thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giải thể.
Thứ tư, thương nhân phải có năng lực hành vi thương mại
Năng lực hành vi là khả năng của tổ chức, cá nhân bằng những hành vi của
chính bản thân mình có thể xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp
lý. Tổ chức, cá nhân có năng lực hành vi sẽ được tham gia với tư cách là chủ
thể của quan hệ pháp luật, bằng hành vi của mình có thể độc lập xác lập và
thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý cũng như độc lập chịu trách nhiệm
về những hành vi của mình.
Năng lực hành vi trong lĩnh vực thương mại là khả năng của cá nhân, pháp
nhân bằng những hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ
pháp lý thương mại. Điều 17 Luật Thương mại năm 1997 quy định:
“Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều kiện kinh
doanh thương mại theo quy định của pháp luật nếu có yêu cầu
hoạt động thương mạỉ thì được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cẩp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhăn”.
Để bảo vệ lợi ích xã hội, pháp luật thương mại Việt Nam quy định một số
người không được công nhận là thương nhân. Điều 18 Luật Thương mại năm
1997 quy định người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người mất
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không
thể là thương nhân. Người bị hạn chế năng lực hành vi cũng giống như
người chưa thành niên đều không thể trở thành thương nhân vi họ không có
khả năng nhận thức đầy đủ về hành vi của mình cũng như không có khả
năng gánh vác trách nhiệm pháp lý phát sinh từ các giao dịch của họ, vì vậy
để bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, lợi ích của Nhà nước và xã hội, cũng
như lợi ích của chính họ, pháp luật không công nhận họ là thương nhân.
Thứ năm, thương nhân phải có đăng ký kinh doanh
Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005 quy định:
“Thương nhân gồm... và có đăng ký kinh doanh”.
Như vậy, đăng ký kinh doanh vừa có thể được nhìn nhận như là một đặc
điểm của thương nhân vừa có thể coi như là một yêu cầu bắt buộc đối với cá
nhân, tổ chức muốn trở thành thương nhân.
Thực chất, đăng ký kinh doanh (đăng ký doanh nghiệp) là sự ghi nhận bằng
văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về mặt pháp lý sự ra đời của
thương nhân. Đăng ký kinh doanh có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý cũng như về mặt thông tin:
- Về mặt pháp lý, đăng ký kinh doanh là sự công nhận của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền về sự ra đời của thương nhân, kể từ thời điểm được cơ quan
có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tư cách thương
nhân được xác lập và thương nhân có quyền tiến hành các hoạt động thương mại;
- Về mặt thông tin, khi đăng ký kinh doanh, những thông tin chủ yếu về
thương nhân (tên thương mại, trụ sở, mục tiêu ngành nghề kinh doanh...)
được ghi nhận vào sổ đăng ký kinh doanh và
như vậy một người nào đó muốn có thông tin về một thương nhân cụ thể thì
chỉ cần đến cơ quan có thẩm quyền cũng có được những thông tin cần thiết.
Đăng ký kinh doanh được thực hiện theo trình tự pháp luật quy định, áp dụng
thống nhất trong cả nước. Tuy nhiên, hiện nay do thương nhân còn tồn tại
dưới nhiều hình thức doanh nghiệp khác nhau, cho nên việc đăng ký kinh
doanh được thực hiện trên cơ sở những văn bản pháp luật khác nhau.
Tổ chức, cá nhân được yêu cầu cơ quan đăng ký kinh doanh hướng dẫn về
thủ tục, nội dung đăng ký doanh nghiệp, cấp bản sao giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận thay đổi đăng ký doanh nghiệp... và phải
trả phí theo quy định của pháp luật.
Việc đăng ký doanh nghiệp tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý nhà nước
về kinh tế, xác nhận sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp, cung cấp
thông tin cần thiết về doanh nghiệp nhằm tạo thuận lợi cho các chủ thể tham
gia quan hệ với doanh nghiệp.
4. Câu hỏi thường gặp về thương nhân
4.1 Các dấu hiệu pháp lý của thương nhân bao gồm gì?
- Thương nhân là các doanh nghiệp nhà nước ;
- Thương nhân là các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã;
- Thương nhân là các Công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh.
Ngoài các đặc điểm của thương nhân nói chung, các thương nhân là pháp
nhân đều phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động
thương mại trong phạm vi số vốn, tài sản của pháp nhân. Ngoài ra, mỗi loại
thương nhân còn có những đặc điểm riêng biệt, tương ứng với hình thức tổ chức của mình.
4.2 Phải cập nhật hồ sơ thương nhân bao lâu/lần?
Tại Khoản 3 Điều 13 Nghị định 31/2018/NĐ-CP quy định về đăng ký hồ sơ thương nhân như sau:
Mọi thay đổi trong hồ sơ thương nhân phải được cập nhật tại địa
chỉ www.ecosys.gov.vn hoặc thông báo cho cơ quan, tổ chức cấp Giấy chứng
nhận xuất xứ hàng hóa, nơi đã đăng ký trước khi đề nghị cấp Giấy chứng
nhận xuất xứ hàng hóa. Trong trường hợp không có thay đổi, hồ sơ thương
nhân vẫn phải được cập nhật 2 năm một lần.
Như vậy, nếu như có thay đổi trong hồ sơ thì công ty phải cập nhật ngay tại
địa chỉ đó, nếu không có thay đổi thì công ty sẽ cập nhật 02 năm 1 lần.
Document Outline
- Thương nhân là gì? Các đặc điểm của thương nhân th
- 1. Khái niệm thương nhân
- 2. Các thuộc tính cơ bản của thương nhân
- 3. Đặc điểm pháp lý của thương nhân
- 4. Câu hỏi thường gặp về thương nhân
- 4.1 Các dấu hiệu pháp lý của thương nhân bao gồm g
- 4.2 Phải cập nhật hồ sơ thương nhân bao lâu/lần?