



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 59452058
+ Làng chài Dương Đông (còn gọi là làng chài Xóm Cồn), thuộc phường
Dương Đông, là nơi sinh sống của nhiều ngư dân có nguồn gốc từ vùng ngũ
Quảng; họ sống bằng nghề khai thác thủy hải sản xa bờ.
+ Làng chài Hàm Ninh: Đây là làng chài lớn và cổ xưa nhất ở Phú Quốc, nằm nép
mình dưới chân núi Hàm Ninh, thuộc địa bàn xã Hàm Ninh. Phần lớn ngư dân ở
Hàm Ninh là người gốc Quảng Ngãi, họ sống bằng nghề bắt
ngọc trai, hải sâm, và giăng lưới. Đây còn là nơi neo đậu yên tịnh và an toàn cho
các ghe từ đất liền đến cập bến và trao đổi hàng hóa.
+ Làng chài Cá Trích (ở bãi Sao) thuộc thị trấn An Thới, là nơi sinh sống
của ngư dân có nguồn gốc tại Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Định. Họ chuyên làm nghề lưới cá trích.
+ Làng chài Cửa Cạn, thuộc xã Cửa Cạn, là nơi sinh sống của nhiều cư dân
nguồn gốc từ Bình Thuận. Họ chủ yếu là đánh bắt hải sản, nuôi ốc hương biển
và khai thác nông nghiệp.
Đây là bốn làng chài tiêu biểu trong số những làng chài ở Phú Quốc nằm
trên địa bàn các xã Dương Đông, An Thới, Hàm Ninh và Cửa Cạn. Cư dân ở các
làng chài này phần lớn là ngư dân có nguồn gốc từ miền Trung; ngoài đánh
bắt trên biển họ còn tham gia vào các nghề có liên quan đến ngư
nghiệp như làm nước mắm, làm khô và buôn bán hải sản.
1.2. TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG CƯ DÂN ĐẢO PHÚ QUỐC
1.2.1. Địa hình và hệ sinh thái
Đảo Phú Quốc (CT-3) nằm trong vịnh Thái Lan, thuộc tỉnh Kiên Giang. mũi
Đông Bắc cách quốc gia láng giềng Campuchia khoảng 4 hải lý, cách thành phố
Rạch Giá khoảng 62 hải lý về phía Đông và cách thị xã Hà Tiên khoảng 25 hải lý.
Đảo Phú Quốc có hình tam giác, cạnh đáy nằm ở hướng Bắc, nhỏ dần lại
ở phía Nam, chiều dài lớn nhất của đảo là 49km. Nơi rộng nhất trên đảo theo
hướng Đông -Tây nằm ở khu vực Bắc đảo với chiều dài là 27km. Chu vi của đảo
Phú Quốc tổng cộng khoảng 130km. Tổng diện tích của Phú Quốc là 56.500ha.
Địa hình toàn đảo Phú Quốc được chia làm 2 vùng: vùng Bắc chủ yếu là lOMoAR cPSD| 59452058
đồi núi hình cánh cung từ Tây Bắc đến Đông Bắc, che kín phía Tây Nam; vùng
phía Nam đảo là dạng đồi núi rải rác xen kẽ các đồng bằng hẹp có độ dốc trung
bình 150 lần, thấp dần về phía Tây và Tây Nam.
Phú Quốc được biết đến với 99 ngọn núi. Có hai dãy núi quan trọng là Hàm
Ninh dài 30km ở phía Đông và Hàm Rồng dài 10km.
Diện tích rừng Phú Quốc khoảng 37.000 ha trong đó rừng tự nhiên
khoảng 33.000 ha. Rừng cấm Quốc gia được xác định là 31.422 ha. Rừng Phú
Quốc tập trung ở phía Bắc và Đông Bắc đảo. Theo thống kê rừng Phú Quốc
hiện có hơn 530 loài thực vật [22:162].
Nằm trong vùng biển Tây Nam bộ, tài nguyên biển Phú Quốc phong phú với
nguồn lợi từ thủy hải sản có giá trị kinh tế cao, với trữ lượng hơn 0.5 triệu tấn hải sản
cá loại, có khả năng khai thác hơn 2.000 tấn/năm. Bên cạnh đó, có nhiều nguồn lợi có
thể khai thác phục vụ du lịch như:
- Nguồn lợi da gai: đã phát hiện 32 loại cầu gai, hải sâm đen, hải sâm mít, đồn
đột có giá trị kinh tế cao.
- Nguồn lợi rong biển: có 98 loài rong biển vùng biển Phú Quốc. Đây cũng là
nơi cư trú và là nguồn thức ăn chính cho các loài thủy hải sản.
- Cá heo: Vùng biển Kiên Giang là nơi có nhiều cá heo, chúng tập trung quanh
các hòn đảo Thổ Chu và Phú Quốc.
Phú Quốc có nguồn nước mặt phong phú, mật độ sông suối cao (0,42km/km2), có hai con sông lớn:
- Sông Dương Đông: là sông lớn nhất trên đảo, bắt nguồn từ dãy núi Ông Thầy
từ phía Đông chảy quanh co độ 15km đổ ra phía Tây tại Cửa Dương bên cạnh dinh
Cậu. Phía cửa sông là nơi neo đậu tránh gió của tàu thuyền; trước đây sông Dương
Đông là tuyến đường giao thông quan trọng cho cư dân tiến sâu vào đảo để mưu
sinh. Nhưng ngày nay, sông Dương Đông không có chức năng chính là giao thông
bởi hiện nay cư dân trên đảo di chuyển chủ yếu bằng đường bộ.
- Sông Cửa Cạn: bắt nguồn từ dãy núi Hàm Ninh chạy quanh qua một vùng
đất bằng, khá rộng giữa đảo rồi đổ ra phía Tây. Vì trong mùa bấc, cát thường bồi
lấp làm cho sông cạn đi nên dân gọi là Cửa Cạn. Sông dài độ 25km.
Ngoài ra còn có nhiều sông rạch, phần lớn là kênh rạch nhỏ, ngắn và lOMoAR cPSD| 59452058
thông ra biển như: rạch Tràm, rạch Cửa Cạn, rạch Dương Đông, rạch Cửa Lấp.
1.2.2. Quá trình định cư của cư dân
Lịch sử hình thành cộng đồng cư dân đảo Phú Quốc trải qua nhiều giai
đoạn khác nhau, được gắn liền với quá trình thích ứng các điều kiện sinh thái
vùng ven biển, quá trình giao lưu tộc người.
Theo tương truyền phía Nam đảo, dưới chân núi Bãi Xếp có hang đá thờ
Phật xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ V do một nhà sư từ phương xa đặt chân
đến đảo khắc lên đá bản minh văn bằng chữ Hán đến nay vẫn còn. Thời xa xưa
cũng có những cuộc khai hoang, lập làng ở phía Bắc đảo. Ngày nay vẫn còn tìm
thấy một số gốm cổ nằm rải rác trên những cánh đồng ở vùng Cửa Cạn.
Đến thế kỷ XV-XVI, trên đảo Phú Quốc đã có nhóm dân cư từ miền Bắc,
miền Trung với nhiều lý do khác nhau đến đây sinh cơ, lập nghiệp. Họ tập trung
ven Cửa Cạn và Hàm Ninh, khai thác tài nguyên thiên nhiên và từng bước ổn
định cuộcc sống. Cho đến cuối thế kỷ XVII dưới thời Chúa Nguyễn, Mạc Cửu
(CT-4) đến khai khẩn vùng đất Hà Tiên (CT-5), chiêu mộ dân phiêu lưu ở Phú
Quốc và các nơi thành lập 7 thôn xã. Vùng đất Phú Quốc từ đây bắt đầu có người cai quản.
Năm 1708, Mạc Cửu sát nhập Hà Tiên vào Đàng Trong (CT-6), Phú Quốc
trở thành đơn vị hành chính của chính quyền Đàng Trong và được cai quản
trực tiếp bởi vị Tổng trấn họ Mạc.
Năm 1735 (Ất Mão), Tổng trấn Hà Tiên Mạc Cửu từ trần. Con là Mạc Thiên
Tích (Mạc Thiên Tứ) lên thay. Ông cho xây đắp lại trấn lỵ Hà Tiên thành hình
vuông, gọi là Phương Thành (CT-7)… Để phòng ngừa những cuộc tấn công bất
ngờ của giặc ngoại xâm, nên cho lập trên đỉnh núi Hòn Chảo (phía Bắc đảo Phú
Quốc) một đàn rộng lớn làm nơi đốt lửa báo hiệu cho Phương Thành khi có biến [6:15].
Khi Nguyễn Ánh lên ngôi (1802) lấy hiệu Gia Long. Ông cho mở mang Phú
Quốc, cho phép mọi người tự do khai thác, buôn bán, sinh sống nơi này mà
không phải lo sưu thuế. Người dân chỉ phải tham gia việc canh giữ an ninh,
phòng chống bọn cướp, giặc xâm lược [61:5-6]. lOMoAR cPSD| 59452058
Nhờ vậy, đảo Phú Quốc trở nên phồn thịnh, dân số tăng đông, gồm 13 thôn.
Nhiều khoảng ruộng lúa và vườn cây ăn trái bao phủ rộng khắp. Thuyền buôn các
nơi (Chân Lạp, Hải Nam, Hội An, Biên Hòa…) đến mua bán rất đông. Tại đây cũng có
một đội ngũ thương thuyền mang thổ sản đến tận miền Trung, miền Bắc.
Tuy nhiên, đến Triều Minh Mạng (1820-1840) và Thiệu Trị (18411847),
quân Xiêm thường kéo sang đánh phá Phú Quốc, nên người dân trên đảo phải
bỏ vào đất liền. Thuyền buôn các nơi cũng không dám đến vùng này buôn bán,
vì thế Phú Quốc bị hoang phế dần.
Đến năm 1868, Nguyễn Trung Trực đã chọn Phú Quốc làm căn cứ chống Pháp.
Ông đưa nghĩa quân lên đóng dọc mé rừng Hàm Ninh và tiến hành cuộc kháng
chiến chống Pháp đến khi bị bắt.
Tháng 1 năm 1869 thực dân Pháp đã cử Herssen, thanh tra các công việc
bản xứ, đến Phú Quốc và một số đảo lân cận để dò xét tình hình. Trong bản ký
chú ngày 20 tháng 1 năm 1869 có ghi: “Dân số tổng cộng của đảo Phú Quốc
và một số đảo lân cận là 2.000 người, toàn là người An Nam. Ở các đảo này
còn có 25 người khách (người Hoa) cư trú, đều là quê Hải Nam… Các khách
trú hình thành nghề buôn bán lẻ. Dân cư ở Dương Đông có một nghề chính là
đánh cá và làm nước mắm. Họ cũng làm cá khô và mắm ruốc” [6:24]. Như vậy
có thể khẳng định vào giữa cuối thế kỷ XVII, tại Phú Quốc đã có người Việt và người Hoa sinh sống.
Đến trước cách mạng tháng Tám năm 1945, dân số Phú Quốc khoảng
6.000 người; trong đó người Việt chiếm đa số, kế đến là người Hoa và chỉ có
rất ít gia đình người Khmer [6:289].
Tháng 2-1950, khi thực dân Pháp chiếm lại vùng đất Nam bộ. Chúng đã
đưa hơn 30.000 tàn quân Quốc dân Đảng của Trung Hoa đến trú ngụ ở Phú
Quốc. Sau đó, quân Quốc dân Đảng rút đi, tuy nhiên một số người có cảm tình
với vùng đất Phú Quốc nên đã ở lại và trở thành dân của đảo. Từ đó, người
dân đến cư trú trên đảo này ngày một đông.
Theo thống kê năm 2010, hiện nay dân số trên đảo Phú Quốc khoảng lOMoAR cPSD| 59452058 25
92.574 người, bao gồm người Việt khoảng 89.813 người, người Hoa là 1.851
người và người Khmer là 879 người. Họ sống tập trung ở cửa sông Dương
Đông, Cửa Cạn và các làng chài như Hàm Ninh, Cá Trích…
1.2.3. Tổ chức hành chánh
* Về cơ cấu tổ chức: Theo địa bạ triều Nguyễn được lập 1836 thì vào thời
điểm ấy, Phú Quốc có 10 thôn gồm: An Thới, Dương Đông, Mỹ Thanh, Phú
Đông, Thới Thạnh, Cẩm Sơn, Hàm Ninh, Tân Tập, Phước Lộc và Tiên Tỉnh.
Chúng ta có thể tạm hình dung: An Thới, Dương Đông và Hàm Ninh là địa danh
phù hợp với vị trí hiện nay, còn Phước Lộc, Thới Thạnh có thể là khu vực Bãi
Bổn, Bãi Thơm; Cẩm Sơn thuộc Khu Tượng, Phú Đông, Mỹ Thạnh là Dương Tơ,
Tiên Tỉnh là Giếng Tiên bao gồm Cửa Cạn…[82:19].
Khi thực dân Pháp chiếm đóng, Phú Quốc là một quận bao gồm cả quần
đảo Thổ Chu, An Thới và một số đảo lân cận được chia thành các làng là An
Thới, Dương Đông, Hàm Ninh và Phú Dự, có lúc An Thới được sát nhập vào Dương Đông.
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, chính quyền kháng chiến thành lập làng Dương Tơ bao gồm cả An Thới
lập làng Cửa Cạn, sau đó nhập Cửa Cạn và Dương Đông thành Cửa Dương. Xã
Hàm Ninh có lúc đổi tên thành Bãi Bổn. Sau năm 1954 thành lập thị trấn
Dương Đông tách ra khỏi xã Cửa Dương.
Sau khi chiến tranh biên giới kết thúc, nhân dân các nơi về sinh sống trên
đảo khá đông nên huyện Phú Quốc thành lập thêm nhiều xã mới. Trên đảo
hiện có: thị trấn Dương Đông, xã Cửa Dương, Cửa Cạn, Bãi Thơm, Gành Dầu,
Dương Tơ, Hàm Ninh và thị trấn An Thới. Quần đảo An Thới được tách ra thành
xã Hòn Thơm. Quần đảo Thổ Chu thành lập xã Thổ Chu.
1.2.4. Hoạt động kinh tế
Hoạt động kinh tế chính của người dân trên đảo Phú Quốc là ngư nghiệp
và nông nghiệp; ngoài ra, họ cũng tham gia vào hoạt động sản xuất nông
nghiệp, kinh doanh thương mại, và dịch vụ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trên đảo. lOMoAR cPSD| 59452058 26
* Ngư nghiệp
Đây là nghề xưa và nay rất phát triển ở Phú Quốc. Nhiều làng chài như
Hàm Ninh, Cửa Cạn, Dương Đông… có trên 90% số hộ làm nghề.
Phương tiện đánh bắt cá trên biển từ lâu đời nay của cư dân đảo Phú
Quốc là chiếc ghe (thuyền) đóng theo kiểu miền Trung. Ngoài ra còn có ghe
(thuyền) đóng theo kiểu Thái Lan còn gọi là ghe đích Xiêm, loại ghe này xuất
hiện từ thập niên 60 của thế kỷ XX. Đây là những loại ghe/thuyền đánh bắt xa
bờ. Bên cạnh đó còn có vô số ghe nhỏ đánh bắt gần bờ.
Sản lượng đánh bắt của ngư dân Phú Quốc phụ thuộc nhiều vào điều kiện
đánh bắt của mỗi gia đình với việc sử dụng các loại ngư cụ khác nhau. Họ
thường dùng lưới rê, lưới rút, lưới rùng, lưới thúng, câu giăng, câu mồi, thả
mành chà, đi xiệp, kéo cao. để nhử bắt, vây bắt, chặn bắt, đánh bắt cá tôm
theo từng thời điểm thích hợp. Trước đây, họ sử dụng 3 loại lưới: rùng trủ (CT-
8), rùng thưa và lưới thưa hay lưới ba.
Ngày nay, ngư dân Phú Quốc thường dùng lưới rùng (CT-9), lưới vây (CT-
10), lưới chụp (CT-11) để đánh bắt trên biển.
Một số hoạt động đánh bắt trên biển của ngư dân Phú Quốc:
- Bắt ghẹ: ngư dân làng chài Hàm Ninh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt
ghẹ, tùy theo cách đánh bắt ghẹ mà người ta phân ra ghẹ lưới, ghẹ rập, ghẹ
đáy và ghẹ cào. Ghẹ được bắt bằng đáy hoặc bằng cào sẽ không ngon, vì ghẹ
sẽ bị thương và chết. Theo ngư dân tại đảo thì ghẹ được bắt bằng rập là ghẹ ngon (CT-12) và lưới.
- Câu Kiều: câu Kiều là một loại câu lưỡi không có ngạnh, không cần mồi,
mỗi dàn câu dài từ 5 - 7 thước, cứ cách 3 tấc thì mắc một nhợ câu cũng dài 3
tấc. Câu Kiều dùng để câu những loại cá lớn và cá da trơn như cá đuối, và nhất
là cá mập để lấy vi cá.
- Thẻ mực: rất phổ biến ở Phú Quốc. Dụng cụ của nghề là vải trắng buộc
vào dây cước, một cây vợt để xúc mực, và một cây đèn măng - xông. Người
câu thẻ mực đốt đèn măng - xông bên mép thuyền, dùng sợi dây có buộc
nhiều tua vải quơ qua, quơ lại dưới nước, ánh đèn chiếu vào những tua rua lOMoAR cPSD| 59452058 27
ấy tạo thành đốm sáng. Mực nhầm tưởng mồi nên bơi lại ăn. Người cầm vợt
xúc mực từ phía sau lên. * Nông nghiệp
Ngoài đánh bắt cá thì người dân trên đảo còn trồng trọt. Họ trồng các
loại như hoa màu, tiêu, xoài, dừa… Trong những năm gần đây nhờ tiếp thu
khoa học kỹ thuật công nghệ nên diện tích cây trồng và sản lượng cũng cải
thiện đáng kể. Đặc biệt, nhắc đến cây trồng tại Phú Quốc, người ta nói đến tiêu.
Nghề trồng tiêu ở Phú Quốc xuất phát từ người Hoa di cư đến từ đảo Hải
Nam. Trong quá trình đến Phú Quốc, những người Hải Nam nghèo khổ không
có tiền trả cho các chủ tàu nên bị bắt làm công ở các vườn tiêu tại Kep
(Campuchia). Về sau, họ mang tiêu sang trồng ở Phú Quốc, và trong suốt thời
gian dài nghề trồng tiêu vẫn do người Hoa nắm giữ, đến năm 1946 khi Pháp
trở lại Phú Quốc thì người Việt tản cư vào vườn và bắt đầu biết trồng tiêu [82:48].
Diện tích trồng tiêu nằm rải rác ở Phú Quốc, nhưng tập trung nhiều ở nơi
có người Hoa sinh sống như: Cửa Dương, Cửa Cạn, và Dương Tơ. Theo quyển
địa phương Phú Quốc biên soạn năm 1965 thì diện tích trồng tiêu là 124 mẫu
91 sào. Đến đầu thế kỷ XX, Phú Quốc có hơn 200 ngàn nọc tiêu, hiện nay thì
diện tích trồng tiêu của Phú Quốc khoảng 4.000ha.
* Nghề thủ công
Bên cạnh khai thác và nuôi trồng thủy sản người dân trên đảo còn nổi
tiếng với nghề làm nước mắm (CT-13). Nổi tiếng ở Phú Quốc là nước mắm làm
từ cá cơm. Nếu nước mắm lên men ngắn ngày sẽ có mùi tanh đặc trưng của
cá. Quá trình lên men dài ngày sẽ giảm được mùi tanh và tạo ra hương vị thơm
và béo hơn. Chính từ những kỹ thuật, kinh nghiệm riêng nên ở Phú Quốc nước
mắm từ lâu đã nổi tiếng thơm ngon, được thị trường trong nước và thế giới ưa chuộng.
Được làm từ cá cơm nguyên chất, nước mắm Phú Quốc được xem như
“quốc bản”. Hiện nay, nước mắm Phú Quốc đã trở thành một thương hiệu lOMoAR cPSD| 59452058 28
quen thuộc và nổi tiếng khắp trong nước và thế giới. Phạm Côn Sơn có viết
rằng “Vào cuối thế kỷ 19, đảo Phú Quốc nằm trong hệ thống hành chính Hà
Tiên và là một trung tâm sản xuất nước mắm nổi tiếng chẳng những trong
nước mà cả khu vực Đông Nam Á” [51:57].
* Hoạt động du lịch
Phú Quốc được thiên nhiên ban tặng những nguồn tài nguyên biển quý
giá rất thuận lợi và đầy tiềm năng cho việc phát triển loại hình du lịch biển
đảo. Căn cứ Quyết định số 18/2009/QĐ-TTG ngày 03/02/2009 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng biển
và ven biển Việt Nam thuộcvịnhThái Lan đến năm 2020, tỉnh Kiên Giang đã
định hướng phát triển kinh tế biển toàn diện về du lịch biển, nuôi trồng, khai
thác chế biến thủy sản; trong đó xây dựng huyện đảo Phú Quốc trở thành
thành phố du lịch biển-đảo tầm cỡ quốc gia và khu vực…
Các bãi biển đẹp đã và đang được tận dụng phát triển du lịch ở Phú Quốc
như Bãi Dài, Rạch Vẹm (xã Gành Dầu); bãi Ông Lang (xã Cửa Dương); bãi
Trường, bãi Bà Kèo (khu vực xã Dương Tơ); bãi Vòng (xã Hàm Ninh); bãi
Sao, bãi Kem, mũi Đất đỏ (khu vực thị trấn An Thới), trong đó nổi bật là bãi
Kem, bãi Sao là những bãi rất đẹp và hoang sơ. Ngoài ra còn có, Hang Yến, Hòn
Rỏi, bãi Dương, khu thắng cảnh Đá Chồng,vịnh Đầm, Vũng Bầu, khu bảo tồn
san hô… là những danh thắng nổi tiếng ở Phú Quốc.
Trước những lợi thế mà biển đã mang lại, UBND huyện Phú Quốc, đặc biệt
là ở Kiên Giang đang đề ra phương án khai thác kinh tế biển và du lịch biển.
Loại hình du lịch được chú trọng phát triển đó là loại hình du lịch sinh thái, đặc
biệt là du lịch sinh thái tại các khu du lịch biển đảo. Và để đáp ứng những khó
khăn hiện tại về vấn đề nước ngọt và lưới điện, UBND huyện Phú Quốc đã xây
dựng hồ chứa nước Dương Đông để tích nước vào mùa mưa nhằm giải quyết
nhu cầu nước sinh hoạt cho cư dân và khách du lịch. Bên cạnh đó, ngày 8 tháng
1 năm 2010, dự án cáp ngầm 110kV xuyên biển từ Hà Tiên khởi công xây dựng
đáp ứng nhu cầu sử dụng điện cho người dân trên đảo. lOMoAR cPSD| 59452058 29
1.2.5. Sinh hoạt văn hóa *
Về tôn giáo, tín ngưỡng: Người dân trên đảo Phú Quốc phần lớn
theo đạo Phật với hơn 31.765 người, một số ít theo đạo Thiên Chúa với số tín
đồ hơn 2.870 người, Tin Lành hơn 245 người, phật giáo Hòa Hảo hơn 370
người và đạo Cao Đài hơn 1.222 người. Theo số liệu thống kê của UBND huyện
Phú Quốc năm 2011, toàn đảo có hơn 14 chùa Phật giáo, 3 thánh thất Cao Đài,
3 cơ sở phật giáo Hòa Hảo, 1 nhà thờ Thiên Chúa giáo và 2 nhà nguyện.
Ngoài cơ sở tôn giáo, trên đảo còn có nhiều cơ sở tín ngưỡng như đền,
lăng, am, miếu, với tổng số 45 cơ sở. Tiêu biểu có dinh Bà Thủy Long Thánh
mẫu, dinh Cậu, đình Bổn cảnh Thành Hoàng, dinh Kiêm Giao thần nữ, đình
thần Nguyễn Trung Trực, chùa Ông Bổn, chùa Quan Thánh Đế… Các cơ sở tín
ngưỡng, tôn giáo này quy mô nhỏ. *
Về sinh hoạt văn hóa: Ở Phú Quốc, hàng năm diễn ra nhiều lễ hội
dân gian truyền thống như lễ hội Nghinh Ông (16/10 Âm lịch), đình thần
Dương Đông (10-11/1 Âm lịch), Thủy Long Thánh Mẫu (20-21/ Âm lịch), Ông
Bổn (27/2 Âm lịch)… thu hút đông đảo sự tham gia của người dân trên đảo. *
Về phong tục tập quán:
Song hành với thờ phụng là kiêng kỵ và theo quan niệm của họ thì “có thờ
có thiêng, có kiêng có lành” nên họ có những kiêng kỵ sau:
Đối với ngư dân, ghe/tàu là phương tiện cần thiết nó không chỉ là phương
tiện đánh bắt mà còn là nơi cư trú của họ trên biển. Cho nên việc đóng mới
hay sửa chữa cũng phải được coi ngày và cúng kiếng đầy đủ các lễ như:
- Lễ phạt mộc: cúng trầu, rượu, vàng mã hành lễ tại các ụ ghe.
- Lễ tống mộc: là lễ tẩy uế gồm có 2 mâm; một đặt ở đầu ghe
cúng Bà Mộc, một đặt ở bãi biển cúng âm linh, cô bác.
- Lễ cúng sương mành: là lễ cáo với Bà Thủy mong Bà hỗ trợ cho
thuyền ra khơi vào lộng an toàn và đánh bắt nhiều cá tôm.
- Lễ nhúng nước: tổ chức vào ngày chẳn, thắp hương khấn vái
Bà Thủy, Ông Nam Hải, Âm linh cô bác. lOMoAR cPSD| 59452058 30
Tín ngưỡng có vai trò quan trọng và chi phối đến các phong tục tập quán
của họ. Khởi đầu của mỗi chuyến ra khơi, hầu hết các chủ ghe tàu thuyền viên
đều thắp hương khấn vái trước miếu Bà, dinh Cậu và bàn thờ Bà - Cậu ở trước
mũi ghe. Họ rất coi trọng việc thờ cá Voi, vì vậy nhiều người, đặc biệt là những
người làm nghề chài lưới kiêng gọi tên cá Voi, sợ xúc phạm đến thần mà gọi
là Ông, Đức Ông hay Đức Lịnh Ông… bộc lộ sự kính cẩn, linh thiêng.
Đối với những người đi biển, con thuyền và những kiêng kị liên quan đến
con thuyền thường được ngư dân quan tâm.
“Trong kiêng kị của người Việt đi biển thì kiêng kị liên quan đến
con thuyền được đặc biệt coi trọng. Nhiều nơi có phong tục vẽ mắt
thuyền. Người ta cho rằng con mắt sẽ giúp thuyền tránh quái vật
làm hại, giúp cho ngư dân tìm được luồng cá và giúp cho bạn hàng
tìm được bến bờ nhiều tài lộc” [51:106].
Những kiêng kỵ liên quan đến thuyền như mũi thuyền là vị trí trang trọng,
nơi linh thiêng, có hương án cúng thần linh, có 2 “mắt thần” dẫn đường nên
cấm phụ nữ ngồi trên mũi thuyền hoặc bước qua tay lái thuyền. Kể cả người
đàn ông, nếu đứng ở mũi thuyền tiểu tiện xuống nước, sẽ không đánh được
cá. Nếu biết người đó chiều nay đi biển thì không nên hỏi “đi biển hả”, người
bị hỏi phải về mua trái cây, nhang đèn để cúng giải xui.
Ngư dân ở đây còn có truyền thống sợ sườn thuyền bị đóng đinh (yểm
đinh) vì cho rằng sẽ hết đường làm ăn, có khi phải bỏ nghề. Người ngồi ở mũi
thuyền chỉ được hướng ra phía trước mà không được quay lại sau, việc làm
đó đồng nghĩa với sự tiếc nuối, buồn bã, vĩnh biệt đất liền.
Trong đời sống sinh hoạt kiêng dùng những từ ngữ liên quan đến tai họa
nghề như: lật, chìm, mà được thay thế bằng những từ khác. Khi đi biển chủ
tàu kỵ nhất là đánh nhau trên tàu, nếu lỡ có xảy ra xô xát, chủ phải cúng kiếng
long trọng để tẩy rửa những xui rủi.
Trên biển, khi làm cá hoặc làm nghề, họ không vứt bừa bãi đầu cá, xương
cá và ruột cá xuống biển, đặc biệt rất kỵ việc đánh rơi dao xuống biển, vì như
thế có nghĩa là sẽ cắt đứt nguồn cá, cá sẽ không tụ tập để họ đánh bắt. Khi về lOMoAR cPSD| 59452058 31
đến bến, lúc chuyển cá lên bờ chủ ghe phải luôn canh chừng kẻ xấu có thể lấy
một con cá đem chôn, như vậy, kẻ đó đã đem chôn đi tài lộc của nhà mình.
Trong ăn uống, ngư dân kiêng kỵ lật mình cá khi đã ăn hết phần bên kia
bởi họ quan niệm lật cá có nghĩa là lật thuyền cũng như việc kiêng úp. Muốn
khen cá béo họ phải nói cá siêng và cũng không được nói ăn cá ngán quá vì
cho rằng nói thế thần linh sẽ không cho cá nữa.
Dân chài Hàm Ninh cũng như những ngư dân khác trên đảo tránh danh
từ Mèo, vì họ cho là tên của Bà Thủy Long Thánh Mẫu, họ dùng từ miểu để
gọi con vật này. Họ cũng tránh tiếng Dê vì cho là tổ nghề lưới, đến đổi khi gọi
thuốc rê (mà họ phát âm thành thuốc dê), bạn lưới thường gọi là thuốc xùi.
Nếu ai nói đến hai từ Mèo và Dê sẽ bị phạt cúng gà hay chè.
Ngoài ra, ngư dân trước khi ra biển thì không được ăn đồ nướng sợ bị
cháy thuyền và không được hỏi “chuẩn bị đi biển à”, họ cho đó là điềm báo
trước không hay. Người dân trên đảo còn kiêng kỵ hớt bọt khi nấu cơm vì cho
rằng làm như thế khi đi biển sẽ gặp sóng to gió lớn.
Tóm lại, những điều kiêng kỵ nói, kiêng kỵ làm cả trên bờ lẫn dưới biển
để gìn giữ không gian thiêng; để phương tiện hành nghề không bị trục trặc và
hơn hết để không xúc phạm đến các đối tượng thiêng. Những lời nói, đến
hành động của người dân vùng đảo vừa thực tiễn cũng vừa hư ảo nhưng mục
đích không ngoài việc cầu mong có cuộc sống yên lành, và phát triển.
* Văn hóa dân gian: gồm nhiều thể loại như hát bội, chèo đưa Ông, ca
dao, tục ngữ, hò vè, giai thoại và truyền thuyết. Con người nơi đây lấy hình
ảnh thiên nhiên làm đề tài quen thuộc, được nhắc đến trong các thể loại hò
vè, câu đối.Với ca từ mộc mạc, chất phác, phóng khoáng, không cầu kỳ đã thể
hiện rõ tính cách trong đời sống của họ. Những câu ca dao, hò vè trên đảo đều
mang âm hưởng của biển, tự hào về nguồn lợi mà biển mang lại hay biển đã
gắn kết cho tình nghĩa vợ chồng thêm bền chặt, làng xóm thêm gần gũi như:
“Ngó ra Phú Quốc, ngó lại Côn Lôn Gió
rao rao sóng bủa hết hồn
Bền gan sắt đá trừ phồn tà gian” lOMoAR cPSD| 59452058 32 Hay
“Chèo ghe mái nổi mái chìm
Thương con thợ lưới mới tìm đến đây.
Nói đến Phú Quốc, người ta nghĩ ngay đến hò thẻ mực: “Thẻ mực cực
mà vui/Sáng đầy khênh mực cho vui vợ chồng”. Điệu hò thẻ mực vui nhộn,
khỏe khoắn, thể hiện tính cộng đồng cao của người dân nơi biển cả.
Ca dao, hò vè trên đảo có rất nhiều, phần lớn các sáng tác gắn với địa
danh, sản vật nơi đây, phần nào thấy được tâm lý “bám rễ’ của nhiều tầng lớp
dân cư với vùng đảo. Chẳng hạn:
“Ngon chi bằng gỏi cá Nhòng
Chi vui bằng được tin chồng vinh quy”. Hay
“Cửa Dương có bãi cát vàng
Có nơi dinh Cậu có nàng bồng con” Hoặc
“Chim chuyền Bãi Bổn, Hàm Ninh
Chuyền qua Cửa Cạn, chuyền lên Rạch Tràm”.
Phần lớn ca dao kết cấu theo dạng đối đáp, số tiếng, nhịp ngắt biến đổi
linh hoạt nhưng ngôn từ rất mộc mạt, bình dị: “Thấy anh hay chữ văn
chương/em xin hỏi thiệt chợ Dương ai trồng”; “Em không thương anh/Em hỏi
chuyện bao đồng/ Chợ Dương ông Thánh bảo dân trồng chứ ai”.
Người dân Phú Quốc còn đúc kết kinh nghiệm về biển của mình qua các
bài vè đi biển kể tên các hòn trong quần đảo Nam Du:
“Hòn Ngang sang hai hòn Đụng
Hòn Đụng cụng Bỏ Áo
Bỏ Áo tháo hòn Mấu
Hòn Mấu thấu Bà Đập
Bà Đập dập ba hòn Lò
Hòn Lò mò qua Đô Nai
Đô Nai lai rai qua hòn Dấu
Hòn Dấu thấu qua hòn Ông lOMoAR cPSD| 59452058 33
Hòn Ông thông qua hòn Tre Hòn Tre de qua hòn Mốc
Hòn Mốc thốc qua hòn Dâm
Hòn Dâm đâm qua hòn Hàng
Hòn Hàng choàng qua hòn Nhạn
Hòn Nhạn lạng qua ba hòn Nồm
Hòn Nồm chồm qua hòn Lớn.”
(Vè hải trình Nam Du)
Biển có những lúc hiền hòa, êm đềm nhưng cũng có những lúc hung tợn,
dữ dội, điều đó được ví như những khó khăn, cách trở trong cuộc sống và tình yêu đôi lứa:
“Trăng rằm mười sáu trăng lu
Em trông anh thất thểu như Bà Vọng phu trông chồng,
Ngó vô rạp hát Dương Đông,
Thấy thiên, thấy hạ mà không thấy chàng,
Hai bên màng chắn nghênh ngang,
Đèn lồng, đèn hạnh, không thấy chàng, chàng ơi!
Đôi lứa ta xứng lứa vừa đôi,
Trách ông tơ, Bà nguyệt đổi đời nợ duyên.
Cũng như các địa phương khác, Phú Quốc khá phong phú hò vè, nổi bật
nhất là bài vè “đi phu Phú Quốc” và “vè Phan Nhung”. Đời sống cực khổ của
những người phu trồng dừa ở đây khá nặng nề, trả công không sòng phẳng,
thậm chí bị bỏ đói.Vè Phan Nhung được người dân Phú Quốc viết theo điệu
bài chòi của ngư dân Bình Định, thể hiện sự cảm mến tinh thần trung can của
vị anh hùng dân tộc này. Và còn nhiều nữa hình ảnh biển trong các điệu múa,
bài ca ra đời ở vùng đất Tây Nam Tổ quốc.
Ngoài ra, tinh thần hướng biển, và cái nhìn tích cực về biển còn thể hiện
trong các hình thức diễn xướng, múa hát thiêng hầu thần Nam Hải. Trong các
dịp lễ hội, cúng đình… thì loại hình đờn ca tài tử, nghệ thuật cải lương, những
Bài ca vọng cổ mang đậm chất biển được chuyển tải những tâm tư tình cảm, lOMoAR cPSD| 59452058 34
tình yêu đối với biển như Bão biển, Biển của riêng em, Cánh chim trên biển,
Nhớ biển quê hương…
Điều đó đã cho thấy phần nào vị trí của biển trong đời sống tinh thần cũng
như những tình cảm của con người nơi đây dành cho biển.
Trong dân gian, còn lưu truyền những câu chuyện nói lên mối quan hệ
gắn bó giữa con người với biển. Câu chuyện về giếng Ngự (hay giếng Gia Long),
chuyện kể về chiếc ngai vua, về sự tích mũi Ông Đội, chuyện bầy cá bảo vệ
chúa trên hải trình lánh nạn, chuyện chúa thoát hiểm trong một cơn bão …
“Tại bãi Khem, trên khối đá sa thạch có một vũng nước ngọt,
nước từ vết nứt dưới đáy của vũng nước trào lên không dứt, nhân
dân cho rằng đó là giếng nước trời cho Nguyễn Ánh nên gọi là giếng
nước Gia Long hay giếng Ngự.
Có truyền thuyết cho rằng khi Nguyễn Ánh đến đây, quan gia
không có nước ngọt dùng, nên dùng gươm chém vào phiến đá này
và nước ngọt trào lên, vết nứt dưới đáy cũng là vết nứt dưới đáy
vũng là vết gươm của Nguyễn Ánh. Gần đây có một phiến đá gần
giống như chiếc ghế dựa mà người dân cho rằng chỗ vua ngự. Thực
tế, chúng ta thấy rằng truyền thuyết này có chỗ không họp lý lắm,
nhưng đó là tình cảm của người dân nơi đây đối với Gia Long” [33:124].
Ngoài ra trong dịp cúng lễ, người dân thường tổ chức giao lưu đờn ca tài
tử; một loại hình văn nghệ đặc trưng của khu vực Tây Nam bộ hay hát bài chòi
trong lễ hội Nghinh Ông của ngư dân Xóm Cồn. * * *
Với mục đích nghiên cứu là tìm hiểu tín ngưỡng dân gian của cộng đồng
cư dân đảo Phú Quốc, trong chương này chúng tôi tập trung tìm hiểu một số
khái niệm cơ bản có liên quan đến đề tài; đó là khái niệm tín ngưỡng-tín
ngưỡng dân gian và khái niệm vạn chài-làng chài. Qua phân tích, chúng tôi
nhận thấy những hoạt động cúng kiếng, kiêng kỵ diễn ra khi thực hiện nghi lễ lOMoAR cPSD| 59452058 35
của cư dân trên đảo nhằm thể hiện cách ứng xử của con người với môi trường
sống. Các hình thức ứng xử đó được quy định bởi các tộc người khác nhau cụ
thể là người Việt và người Hoa.
Trong phần tiếp theo, chúng tôi đã tiếp cận các nguồn tài liệu có liên quan
đến nghiên cứu của mình; đồng thời vận dụng một số quan điểm tiếp cận và lý
thuyết nghiên cứu trong chương một để làm nền tảng khi nghiên cứu đề tài
này. Qua khảo sát quá trình định cư cũng như các sinh hoạt văn hóa của cư dân
tại Phú Quốc; chúng tôi đặc biệt quan tâm đến bối cảnh văn hóa và sự giao lưu
tiếp biến văn hóa đã và đang diễn ra tại nơi đây. Bên cạnh đó, yếu tố văn hóa
cũng ảnh hưởng đến thực hành nghi lễ của người dân nơi đây, được chúng tôi
tìm hiểu qua chương 2 và chương 3. lOMoAR cPSD| 59452058 36
Chương 2 CÁC HÌNH THỨC TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN Ở CÁC
LÀNG CHÀI TẠI PHÚ QUỐC
Trong quá trình khảo sát tại các làng chài ở huyện Phú Quốc, chúng tôi
nhận thấy tại đây có các hình thức tín ngưỡng dân gian được thờ như cá Voi,
Mẫu và Nữ thần, thần Thành Hoàng, Âm linh/Cô Bác, Anh hùng dân tộc, Quan
Công, Huê Quan Đại Đế. Các hình thức tín ngưỡng này có cơ sở thờ tự và ngày
cúng định kỳ hàng năm như:
2.1. TÍN NGƯỠNG CÁ VOI (CÁ ÔNG)
Tục thờ cá Voi (CT-14) (cá Ông) là dạng tín ngưỡng truyền thống của ngư
dân từ miền Trung trở vào miền Nam. Ngư dân luôn kính trọng và biết ơn sinh
vật này vì đã giúp đỡ cho họ khi gặp sóng to, gió lớn. Vì vậy, cá Voi được xem
là thần hộ mệnh của ngư dân. cá Voi được gọi bằng những tên khác nhau như
cá Ông, Ông Nam Hải, Nam Hải Đại Tướng Quân, Ông Chuông, Ông Lộng (cá
Voi, nhỏ gần bờ), Ông Khơi (cá Voi lớn, ngoài Khơi), Ông
Cậu, Ông lớn, Ông Lược, Ông Thông, Ông Màng, Ông Mun, Ông Đăng, Ông
Kềm, Ông Hổ, Nhân ngư, Đức Ngư…Đối với ngư dân Phú Quốc gọi chung với
tên tôn kính là Ông Nam Hải, Nam Hải Đại Tướng Quân; cá lớn được gọi là “cá
Ông”, cá Voi đực được gọi “cá Cậu”, cá Voi nhỏ gọi “cá Cô”.
Cá Voi được ghi chép khá nhiều trong thư tịch cổ như Gia Định thành
thông chí của Trịnh Hoài Đức có ghi rõ:
“Đức ngư đầu tròn, nơi trán có lỗ phun nước, mũi miệng giống như
voi, mình trơn lán không có vảy, đuôi có 2 nhánh rẽ như đuôi tôm, tánh
hiền lành biết cứu giúp người. Người đánh cá thường kêu réo nhờ nó đuổi
các loài cá vào lưới. Gặp thuyền đi biển bị chìm, cá nầy thường đưa người
vào bờ, dân miền biển đều tôn kinh, nếu thấy thây cá này trôi dạt, dân
chài lưới góp tiền mua vải, sắm hòm tẩn liệm, chôn cất, cử người trùm
trưởng trong làng chài đứng làm tang chủ, cất đền thờ phụng [19:65].
Tương tự như trên, trong sách Đại Nam nhất thống chí lại ghi:
“Đức ngư (theo tên thời Tự Đức ban cho), đầu tròn, trên trán có lỗ
phun nước sắc đen, nhẵn nhụi không vảy, đuôi chẻ ra như đuôi tôm, tính lOMoAR cPSD| 59452058 37
hiền lành hay cứu người. Đầu đời Minh Mệnh cho tên là nhân ngư, đầu
đời Tự Đức cho đổi tên hiện nay. Con nào ở biển Nam thì có linh tính, ở
biển khác thì không. Tục truyền, long diên hương là do nước dãi của cá
này kết lại, chưa rõ có đúng thế không. Dị lục ký trong An Nam chí của Cao
Hùng Trưng chép rằng: Hải thu là thứ cá rất lớn trong loài cá, phun hơi
nước lên trên không, gió bay đi như mưa. Cách trí kính nguyên dẫn sách
Chính tự thông chép rằng: bạch ngư dài 20 trượng, tính hiền lành, hay cứu
người, hoặc thấy người chài bị loài cá dữ làm khốn quẫn, nó liền giải cứu.
Lại sách Bắc sử chép: nước Chân Lạp có loài cá tên là Kiến Đồng, bốn chân,
không vảy, mũi như vòi voi, hút nước phun lên cao đến 6,7 mươi thước.
Vậy chép ra đây để phòng khảo cứu. Năm Minh Mệnh thứ 17 khắc hình
tượng vào Nhân đỉnh” [44:63].
Qua ghi chép trên cho thấy, cá Ông là loài cá hiền lành và linh thiêng, được
triều đình và ngư dân tôn kính, vì không chỉ phù hộ cho người đi biển, mà còn
giúp ngư dân đánh bắt được nhiều tôm cá.
Theo tác giả Lê Quang Nghiêm, tục thờ cá Ông là sự tiếp nhận tín ngưỡng
của người Chăm (CT-15) trên chặng đường Nam tiến của ngư dân Việt.
“…Khi xưa dân Việt Nam còn sống ở miền Bắc, chưa tràn xuống biển
Nam, thì chịu ảnh hưởng của lễ giáo, văn hóa Tàu không tôn thờ cá Ông
vì người Tàu không có tục thờ này. Ngư phủ ở đảo Hải Nam và Nam Trung
Hoa chuyên nghề săn cá Ông. Đến khi dân Việt Nam di cư vào đất Chiêm
Thành thì chịu ảnh hưởng của đất Chiêm Thành, mới có tục thờ cá Voi.[52:48].
Tục thờ cá Ông ngày nay đã trở thành tín ngưỡng dân gian quan trọng
trong đời sống tâm linh của ngư dân từ Đèo Ngang (huyện Quảng Trạch,
Quảng Bình) trở vào vùng biển phía Nam (Hà Tiên).
Theo truyền thuyết, tục thờ cá Ông có từ thời Nguyễn, mà nguyên nhân
là loài cá này đã cứu Nguyễn Ánh thoát nạn trên biển:
“Gia Long, lúc đó vẫn còn là hoàng tử Nguyễn Ánh, bị quân Tây
Sơn truy đuổi sát sao phải bỏ chạy về phía cực nam. Khi ấy thuyền ông
tới Soài Rạp vài dặm, con sông định ranh giới hai phủ Gia Định và Gò lOMoAR cPSD| 59452058 38
Công, thì một cơn bão nổi lên. Thuyền sắp chìm thì vị vua tương lai ấy
bỗng nảy ra ý nghĩ cầu xin trời phù hộ. Và thế là điều kỳ diệu xảy ra:
một con cá Voi xuất hiện, bơi dưới thuyền và đưa thuyền đến một nơi
cách bãi biển Vàm Láng, làng Kiến Phước, phủ Gò Công, vài mét”[45:52].
Việc cá Ông gắn với quá trình bôn tẩu của Nguyễn Ánh phần nào khẳng
định nguồn gốc tín ngưỡng này. Đồng thời, còn nói lên sức mạnh thiên tử của
Nguyễn Ánh trong quá trình phục nghiệp.
Đến thời Tự Đức, cá Ông được gia tặng với mỹ tự “Từ tế Linh Chương Trợ
Tín Trừng Trạm Chi Thần” và lễ tang cá Ông được điển chế hóa thành đại lễ.
Đến đời Duy Tân, cá Ông được sắc phong đến bậc Thượng Đẳng Thần với
những mỹ tự “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân gia tặng Từ Tế Linh Chương Trợ Tín
Trừng Trạm Phu ứng hộ quốc tý dân Hoằng Hợp Thượng Đẳng thần” [49:134- 135].
Ở Phú Quốc hiện nay có nhiều nơi thờ cá Ông. Để phân biệt, mỗi địa
phương ghi trên bảng đề “lăng Ông Nam Hải” kèm theo địa danh tại đó như
lăng Ông Nam Hải Đường Bào, lăng Ông Nam Hải Bàng Quỳ, hay lăng Nam
Hải Ông Hàm Ninh. Người dân Phú Quốc quen gọi là “lăng Ông” hay “dinh Ông
Nam Hải”. Đó cũng là cách gọi quen thuộc của ngư dân ven biển phía Nam đối với nơi thờ tự này.
Theo những lão ngư, lăng Ông có từ lâu đời. Khi Nguyễn Ánh lưu lạc ra
đảo Phú Quốc được cá Ông giúp đỡ nên về sau triều đình nhà Nguyễn đã thừa
nhận và ban sắc phong cá Ông là Thượng Đẳng Thần và cho đặt lăng để thờ (CT-16).
Trong tâm thức của ngư dân Phú Quốc, cá Ông đã hóa thân thành vị thần
thiêng liêng nơi biển cả, luôn được tôn sùng và ngưỡng mộ. Ông là một loài
cá thần, không chỉ có vóc dáng to lớn mà còn có tình cảm, cảm nhận, và tâm
linh như con người (CT-17), luôn được xem như một linh vật nằm trong hệ
thống tín ngưỡng dân gian được tôn thờ với những câu chuyện lưu truyền
mang màu sắc thần bí (CT-18). Việc thần thánh hóa và lịch sử hóa ấy phần nào lOMoAR cPSD| 59452058 39
khẳng định, người dân trên đảo Phú Quốc rất tin tưởng và coi trọng việc thờ cúng cá Ông.
Hiện nay, tại Phú Quốc có 8 nơi thờ cá Ông như sau:
Bảng thống kê lăng Ông Nam Hải Stt Lăng Ngày cúng Địa điểm 1 Lăng Ông Nam Hải 15-16/8 Âm lịch
Khu phố 3, TT Dương Đông 2
Lăng Ông Nam Hải Đường Bào 15/5 Âm lịch Ấp Đường Bào, xã Dương Tơ 3 Lăng Ông Nam Hải 17-18/1 Âm lịch
Ấp Lê Bát, xã Cửa Cạn 4 Lăng Ông Nam Hải
22/3 Âm lịch Ấp Rạch Tràm, Xã Hàm Ninh 5 Dinh Ông Nam Hải
21/3 Âm lịch KP2, Thị trấn An Thới 6
Miếu Bà lăng Ông Thổ Chu 15-16/8 Âm lịch Xã Thổ Chu 7
Lăng Ông Nam hải Bàng Quỳ 15/5 Âm lịch Xã Dương Tơ 8 Lăng Ông Nam Hải 15-16/AL Xã Hòn Thơm
Nguồn: Nguyễn Bình Phương Thảo-tổng hợp tư liệu điền dã-2013
Theo khảo sát của chúng tôi vào năm 2013, tám nơi thờ này được xây cất
khang trang; tại tran thờ có các câu đối để ca ngợi công đức Ông như “Hiền
thần anh linh trung dân thần, Trần Vương phong tặng Đại Tướng Quân”. Ngoài
ra, còn có nhiều ngôi miếu nhỏ ven biển thờ cá Ông với bài vị là “thần Nam Hải”.
Khảo sát tại các làng chài, chúng tôi nhận thấy, cá Ông không chỉ là vị thần
bảo hộ cho những người trực tiếp đi biển, đánh bắt trên biển mà còn bảo hộ
cho những người sống phụ thuộc vào nghề này (không trực tiếp đi biển) như
làm khô, làm nước mắm. Điều này được biểu hiện qua nơi xuất hiện lăng thờ
và qui mô lễ hội dành cho cá Ông như:
- Xã Hàm Ninh là nơi sinh tụ, lập làng sớm nhất ở Phú Quốc và đời sống
kinh tế của cư dân nơi đây gắn bó mật thiết với biển. Họ đã xây dựng “cảng
Hàm Ninh” có bề ngang khoảng 1,5m và dài khoảng 2km để tiện việc trao đổi
mua bán và đi lại. Ngư dân Hàm Ninh là người Việt có nguồn gốc từ vùng Ngũ
Quảng (chủ yếu là ngư dân Quảng Ngãi) đến lập nghiệp. Người dân ở làng Hàm
Ninh sống bằng nghề đánh bắt ghẹ ven bờ. Họ có lăng thờ cá Ông cạnh dinh lOMoAR cPSD| 59452058 40
Bà Thủy Long Thánh Mẫu để tiện việc cúng Ông (22/3Âm lịch) và kiếng Bà
(23/3Âm lịch). Trước 1975, tại biển Hàm Ninh có một Ông lụy dạt vào bờ, ngư
dân nơi đây xây dựng lăng để thờ tự. Ban đầu, lăng Ông được làm bằng tre,
nứa, lợp lá và nằm sát mé biển. Nhưng do chiến tranh nên lăng Ông bị cháy và
được di chuyển đến vị trí như hiện nay.
Không ai nhớ rõ lăng được xây dựng năm nào, chỉ biết khi thực dân Pháp
chiếm đảo thì lăng đã có và ngọc cốt Ông được ngư dân gìn giữ qua nhiều thế
hệ. Lăng Ông và dinh Bà Thủy Long Thánh Mẫu nằm cạnh nhau trên khuôn viên
đất rộng 1.000m2, bao quanh bởi bờ tường rào kiên cố. Lăng được chia làm hai
phần, gian thờ cúng và nhà túc (nơi để đồ đạc, bếp nấu nướng cho ngày lễ).
Hiện nay, lăng Ông đã được trùng tu khang trang và được những ngư dân
cao tuổi trong coi, thờ phụng. Việc tôn thờ cá Ông ở đây chính là nhằm cầu
mong cho nghề đánh bắt được thuận lợi, trúng nhiều tôm, ghẹ.
- Tại thị trấn Dương Đông (làng chài Xóm Cồn), ngư dân đánh bắt xa bờ,
nên thường xuyên đối mặt với những khó khăn và bất trắc ngoài biển. Vì thế,
tín ngưỡng thờ cá Ông giữ vị trí quan trọng. Lăng Ông Nam Hải tại đây có diện
tích khoảng 200m2, mặt lăng hướng ra biển, cách biển khoảng nửa cây số. Lăng
được xây dựng tương đối đơn giản, không có cổng tam quan, vỏ ca, cũng không
được bao bọc bởi những vòng rào. Lăng hình chữ nhật có chiều dài khoảng
20m, chiều rộng khoảng 6m, mái được lợp bằng tôn và được đắp nổi hình Long,
Lân, Quy, Phụng trên vòm cửa chính. Bên trong lăng được chia làm hai phần,
phía trước là gian thờ có bài vị ghi bằng chữ Quốc ngữ “thần Nam Hải”, một
thùng kính chứa ngọc cốt của Ông và hai bên là thờ Tiền hiềnHậu hiền. Phía
sau là kho chứa đồ để dành khi tế lễ.
- Lăng Ông Đường Bào: So với lăng Ông Hàm Ninh và lăng Ông Xóm Cồn
thì lăng Ông Đường Bào, ở xã Dương Tơ được xây dựng khang trang và có phần
đẹp hơn. Lăng Ông Đường Bào nằm trên trục đường biển chính từ thị trấn
Dương Đông đến thị trấn An Thới. Khi chúng tôi điền dã vào năm 20102012,
lăng Ông Đường Bào vẫn được lợp bằng lá dừa nước, cột gỗ và bốn bên được
che chắn bằng tấm mủ để tránh gió biển tạt vào. Những đến năm 2013, lăng