Thuyết minh về chùa Thiên Mụ Huế chọn lọc
hay nhất
Thuyết minh về chùa Thiên Mụ Huế chọn lọc hay nhất - Mẫu
số 1
Nét tinh thần văn hóa tâm linh một phần không thể thiếu của đời sống
của người Việt Nam. Việc thắp hương, cầu may, cúng bái tại các ngôi
chùa, đền miếu, những nơi linh thiêng đã trở thành một phần tượng trưng
của tập quán văn hóa của chúng ta. Trong số c ngôi chùa đền miếu nổi
tiếng, chùa Thiên Mụ một biểu tượng đặc biệt không thể không kể đến.
Chùa Thiên Mụ nằm trên đồi Khê, bên bờ sông Hương, cách trung tâm
thành phố khoảng 5 km về phía tây. đã được khởi công vào năm Tân Sửu
(1601), thời chúa Nguyễn Hoàng, người làm nên tiền đề cho triều đại Nguyễn
Đàng Trong. Tên gọi "Thiên Mụ" xuất phát từ câu chuyện khi chúa Nguyễn
Hoàng, khi tìm địa điểm để xây dựng ngôi chùa, đã nhận thấy một ngọn đồi
nhỏ giữa dòng ớc xanh biếc, hình ng đất đai giống như một con rồng
đang quay đầu. Người dân kể lại rằng vào ban đêm, họ thấy một già mặc
áo đỏ quần xanh ngồi trên đỉnh đồi. này đã tiên đoán sẽ một vị chân
chúa đến xây dựng ngôi chùa đ tụ linh khí thắng lợi cho đất nước. Vậy
chúa Nguyễn đã cho xây dựng ngôi chùa Thiên Mụ đặt tên cho ngọn đồi
này Thiên Mụ.
Chùa Thiên M là một tượng điển của kiến trúc qua nhiều triều đại đã thu
hút sự quan tâm của các vị vua chúa. Dưới thời chúa Quốc, khi Phật giáo
phát triển mạnh mẽ Đàng Trong, chùa đã được xây dựng lại với quy lớn
hơn. Vào năm 1710, chúa Quốc đã đúc một chiếc chuông lớn n Đại
Hồng Chung, nặng hơn hai tấn, với một bài t minh trên đó. Sau đó, vào
năm 1714, chúa Quốc đã tiến hành trùng tu chùa với nhiều công trình kiến
trúc quy như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu
Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền, nhiều công trình khác, mặc một số
trong số đó đã không còn nguyên vẹn ngày nay. Chúa Quốc còn viết bài văn
khắc trên một bia đá lớn để tường trình về việc xây dựng các công trình
kiến trúc tại chùa, việc nhập khẩu hơn 1000 bộ kinh Phật từ Trung Quốc
đặt chúng tại lầu Tàng Kinh, cùng với việc tôn vinh đóng góp của Hòa thượng
Thạch Liêm trong việc phát triển Phật giáo Đàng Trong. Bia đá này đặt trên
lưng một con rùa đá lớn, đơn giản nhưng đẹp đẽ.
Chùa Thiên Mụ đã trải qua nhiều biến động trong lịch sử, từng được sử dụng
làm đàn Tế Đất dưới triều đại Tây Sơn (khoảng năm 1788), sau đó trùng
tu tái xây nhiều lần dưới triều đại của các vị vua n Nguyễn. Vào năm
1844, vua Thiệu Trị đã mở rộng chùa bằng cách xây dựng thêm một tháp bát
giác tên Từ Nhân (sau đổi Phước Duyên), đình Hương Nguyện đặt
hai tấm bia đá để ghi chép về việc xây dựng tháp đình cùng với các bài
thơ của nh. Tháp Phước Duyên, biểu tượng nổi tiếng của chùa Thiên Mụ,
được xây dựng vào năm 1844, cao 21 mét, gồm 7 tầng trang bị thờ tượng
Phật trên mỗi tầng. Bên trong tháp cầu thang xoắn ốc dẫn lên tầng trên
cùng, nơi trước đây thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp đình
Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân. Tuy nhiên, sau cơn o vào năm
1904, tháp bị hủy hoại nặng nề, nhiều công trình khác như đình Hương
Nguyện hoàn toàn sụp đổ. Mặc được y dựng lại o năm 1907, chùa
không còn đẹp như xưa.
Khuôn viên của chùa còn một vườn hoa cỏ được chăm sóc hàng ngày.
đó, hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng Việt Nam, Đào Tấn, được đặt gần
chiếc xe ô của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức, người đã tự thiêu để
phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm vào năm
1963. Cuối khu vườn khu mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, một
vị trụ trì nổi tiếng của chùa Thiên Mụ, người đã cống hiến cả cuộc đời mình
cho hoạt động ích đạo giúp đời.
Ngoài những giá trị về kiến trúc, chùa Thiên Mụ còn mang g trị lịch sử đặc
biệt. là một bảo tàng sống về sự thay đổi của lịch sử từ triều đại của chúa
Nguyễn, qua nội chiến Đàng Trong Đàng Ngoài, đến triều đại của nhà
Nguyễn với những biến động sự thay đổi đáng chú ý. Chùa còn đại diện
cho giá trị văn hóa tâm linh kéo dài suốt hơn 300 năm qua những đình tháp
lịch sử. Mỗi năm, chùa Thiên Mụ thu hút nhiều du khách đến tham quan, cúng
bái, thắp hương để tìm kiếm may mắn, góp phần vào ngành du lịch phát
triển của vùng. Chùa Thiên Mụ được xem như một trong 20 danh lam thắng
cảnh của vùng Thần Kinh, với bài thơ Thiên Mụ chung thanh do vua Thiệu Trị
sáng tác được ghi vào bia đá gần cổng chùa.
Với những giá trị lịch sử văn hóa này, chùa Thiên Mụ đại diện cho niềm tự
hào của người dân Huế toàn bộ người Việt Nam. giới thiệu văn hóa
tâm linh lịch sử của chúng ta cho bạn quốc tế cần được bảo tồn để
truyền cho thế hệ hiện tại tương lai.
Thuyết minh về chùa Thiên Mụ Huế chọn lọc hay nhất - Mẫu
số 2
Khi nhắc đến Huế, người ta thường liên tưởng đến những danh lam thắng
cảnh nổi tiếng như cung đình Huế, núi Ngự Bình nhiều điểm đến khác. Tuy
nhiên, không thể không nhắc đến chùa Thiên Mụ, một ngôi chùa được coi
ngọc của xứ Đàng Trong.
Chùa Thiên Mụ đọng lại dấu ấn của thời gian, tĩnh lặng trên đỉnh đồi Khê,
ven sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 km về phía tây.
được xây dựng vào năm Tân Sửu (1601) trong thời của chúa Tiên Nguyễn
Hoàng, người đầu tiên của triều đại Nguyễn Đàng Trong. một câu
chuyện dân gian kể rằng chúa Nguyễn Hoàng, khi làm Trấn th xứ Thuận
Hóa trấn thủ Quảng Nam, đã đi khảo sát vùng đất này để xây dựng
phát triển đất nước. Trong cuộc hành trình, ông phát hiện một đồng cỏ
Khê, huyện Hương T (nay ngoại ô của thành phố Huế) với một đồi
cao trông giống như đầu rồng nghiêng đầu nhìn xuống sông Hương, với một
con sông lớn bên trước (chính sông Hương) một hồ rộng phía sau, tạo
thành một cảnh quan tuyệt đẹp. Dân địa phương kể lại rằng vào ban đêm, họ
thường thấy một già mặc áo đỏ quần xanh ngồi trên đồi này, nói rằng
sẽ một vị chân chúa đến y dựng một ngôi chùa để bảo tồn tinh thần linh
thiêng truyền thống của đất nước. Từ câu chuyện này, đồi được đặt tên
Thiên Mụ, chính từ này, người ta xây dựng ngôi chùa Thiên Mụ vào
năm 1601.
Chùa Thiên Mụ không ch nổi bật với kiến trúc cổ kính mà còn lưu trữ nhiều
sự kiện quan trọng trong lịch sử. Dưới thời chúa Quốc, Phật giáo phát triển
mạnh mẽ tại Đàng Trong, chùa được mở rộng. Năm 1710, chúa Quốc đã
tặng chùa một chiếc chuông lớn tên Đại Hồng Chung, nặng hơn hai tấn,
được khắc chữ câu thơ trên đó. Năm 1714, chúa Quốc tiếp tục tái trùng tu
chùa xây dựng nhiều công trình như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng,
nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền... Mặc dù nhiều
công trình đã không còn tồn tại ngày nay, chúa Quốc đã viết i văn khắc
trên một bia lớn để ghi chép về việc xây dựng các công trình kiến trúc, việc
mua hơn 1000 bộ kinh Phật từ Trung Quốc để đặt tại lầu Tàng Kinh, sự
đóng góp của Hòa thượng Thạch Liêm trong việc thúc đẩy Phật giáo Đàng
Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá lớn, đơn giản nhưng tuyệt đẹp.
Chùa Thiên M đã trải qua nhiều biến cố trong lịch sử. đã được sử dụng
làm đàn Tế Đất dưới triều đại Tây Sơn (khoảng năm 1788) trùng tu nhiều
lần dưới triều đại của các vị vua Nguyễn. Vào năm 1844, vua Thiệu Trị đã xây
dựng một tháp bát giác gọi Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình
Hương Nguyện đặt hai tấm bia ghi chép về việc xây tháp, đình c bài
thơ văn của mình. Tháp Phước Duyên, biểu tượng nổi tiếng của chùa Thiên
Mụ, cao 21 mét gồm 7 tầng, với từng tầng thờ tượng Phật. Mỗi tầng
được kết nối bằng cầu thang xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây
thờ tượng Phật bằng vàng. Trước tháp đình Hương Nguyện, trên nóc
đặt một tượng Pháp luân. Tuy nhiên, tháp đã bị tàn phá nặng nề sau trận bão
năm 1904, nhiều công trình khác cũng đã không còn nguyên vẹn n đình
Hương Nguyện, đã b sụp đổ hoàn toàn. Mặc đã được xây lại vào năm
1907, chùa không còn được to lớn n trước.
Khuôn viên chùa một vườn hoa cỏ được chăm sóc hàng ngày. Tại đây,
hòn non bộ của nghệ nhân hát tuồng Việt Nam Đào Tấn được đặt gần
chiếc xe ô tô của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức, một biểu ợng của sự
hy sinh phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm
vào năm 1963. Cuối khu vườn nghĩa trang tháp của cố Hòa thượng Thích
Đôn Hậu, một trụ trì nổi tiếng của chùa Thiên Mụ, người đã hiến dâng cả
cuộc đời mình cho các hoạt động thiện nguyện.
Ngoài những giá trị về lịch sử, chùa Thiên Mụ còn một biểu tượng của văn
hóa tâm linh của người Việt Nam xưa, điểm đến hấp dẫn cho du khách
trong ngoài nước. Chùa Thiên Mụ không chỉ là một di sản đại của Việt
Nam còn niềm tự hào của người dân Đàng Trong toàn dân Việt Nam.
Những bài viết về chùa Thiên Mụ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về một công
trình lịch sử những giá trị tinh thần đã được kế thừa phát triển qua
nhiều thế hệ. Chùa Thiên Mụ không chỉ một ngôi chùa, mà còn một biểu
tượng sống động của sự bền vững sự kết nối giữa con người lịch sử.

Preview text:

Thuyết minh về chùa Thiên Mụ ở Huế chọn lọc hay nhất
Thuyết minh về chùa Thiên Mụ ở Huế chọn lọc hay nhất - Mẫu
số 1
Nét tinh thần văn hóa và tâm linh là một phần không thể thiếu của đời sống
của người Việt Nam. Việc thắp hương, cầu may, và cúng bái tại các ngôi
chùa, đền miếu, và những nơi linh thiêng đã trở thành một phần tượng trưng
của tập quán văn hóa của chúng ta. Trong số các ngôi chùa và đền miếu nổi
tiếng, chùa Thiên Mụ là một biểu tượng đặc biệt không thể không kể đến.
Chùa Thiên Mụ nằm trên đồi Hà Khê, bên bờ sông Hương, cách trung tâm
thành phố khoảng 5 km về phía tây. Nó đã được khởi công vào năm Tân Sửu
(1601), thời chúa Nguyễn Hoàng, người làm nên tiền đề cho triều đại Nguyễn
ở Đàng Trong. Tên gọi "Thiên Mụ" xuất phát từ câu chuyện khi chúa Nguyễn
Hoàng, khi tìm địa điểm để xây dựng ngôi chùa, đã nhận thấy một ngọn đồi
nhỏ giữa dòng nước xanh biếc, hình dáng đất đai giống như một con rồng
đang quay đầu. Người dân kể lại rằng vào ban đêm, họ thấy một bà già mặc
áo đỏ và quần xanh ngồi trên đỉnh đồi. Bà này đã tiên đoán sẽ có một vị chân
chúa đến xây dựng ngôi chùa để tụ linh khí và thắng lợi cho đất nước. Vậy là
chúa Nguyễn đã cho xây dựng ngôi chùa Thiên Mụ và đặt tên cho ngọn đồi này là Thiên Mụ.
Chùa Thiên Mụ là một tượng điển của kiến trúc qua nhiều triều đại và đã thu
hút sự quan tâm của các vị vua chúa. Dưới thời chúa Quốc, khi Phật giáo
phát triển mạnh mẽ ở Đàng Trong, chùa đã được xây dựng lại với quy mô lớn
hơn. Vào năm 1710, chúa Quốc đã đúc một chiếc chuông lớn có tên Đại
Hồng Chung, nặng hơn hai tấn, với một bài thơ minh trên đó. Sau đó, vào
năm 1714, chúa Quốc đã tiến hành trùng tu chùa với nhiều công trình kiến
trúc quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu
Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền, và nhiều công trình khác, mặc dù một số
trong số đó đã không còn nguyên vẹn ngày nay. Chúa Quốc còn viết bài văn
và khắc trên một bia đá lớn để tường trình về việc xây dựng các công trình
kiến trúc tại chùa, việc nhập khẩu hơn 1000 bộ kinh Phật từ Trung Quốc và
đặt chúng tại lầu Tàng Kinh, cùng với việc tôn vinh đóng góp của Hòa thượng
Thạch Liêm trong việc phát triển Phật giáo ở Đàng Trong. Bia đá này đặt trên
lưng một con rùa đá lớn, đơn giản nhưng đẹp đẽ.
Chùa Thiên Mụ đã trải qua nhiều biến động trong lịch sử, từng được sử dụng
làm đàn Tế Đất dưới triều đại Tây Sơn (khoảng năm 1788), và sau đó trùng
tu và tái xây nhiều lần dưới triều đại của các vị vua nhà Nguyễn. Vào năm
1844, vua Thiệu Trị đã mở rộng chùa bằng cách xây dựng thêm một tháp bát
giác có tên là Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyện và đặt
hai tấm bia đá để ghi chép về việc xây dựng tháp và đình cùng với các bài
thơ của mình. Tháp Phước Duyên, biểu tượng nổi tiếng của chùa Thiên Mụ,
được xây dựng vào năm 1844, cao 21 mét, gồm 7 tầng và trang bị thờ tượng
Phật trên mỗi tầng. Bên trong tháp có cầu thang xoắn ốc dẫn lên tầng trên
cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình
Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân. Tuy nhiên, sau cơn bão vào năm
1904, tháp bị hủy hoại nặng nề, nhiều công trình khác như đình Hương
Nguyện hoàn toàn sụp đổ. Mặc dù được xây dựng lại vào năm 1907, chùa không còn đẹp như xưa.
Khuôn viên của chùa còn có một vườn hoa cỏ được chăm sóc hàng ngày. Ở
đó, hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng Việt Nam, Đào Tấn, được đặt gần
chiếc xe ô tô của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức, người đã tự thiêu để
phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm vào năm
1963. Cuối khu vườn là khu mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, một
vị trụ trì nổi tiếng của chùa Thiên Mụ, người đã cống hiến cả cuộc đời mình
cho hoạt động ích đạo giúp đời.
Ngoài những giá trị về kiến trúc, chùa Thiên Mụ còn mang giá trị lịch sử đặc
biệt. Nó là một bảo tàng sống về sự thay đổi của lịch sử từ triều đại của chúa
Nguyễn, qua nội chiến Đàng Trong và Đàng Ngoài, đến triều đại của nhà
Nguyễn với những biến động và sự thay đổi đáng chú ý. Chùa còn đại diện
cho giá trị văn hóa tâm linh kéo dài suốt hơn 300 năm qua những đình tháp
lịch sử. Mỗi năm, chùa Thiên Mụ thu hút nhiều du khách đến tham quan, cúng
bái, và thắp hương để tìm kiếm may mắn, góp phần vào ngành du lịch phát
triển của vùng. Chùa Thiên Mụ được xem như một trong 20 danh lam thắng
cảnh của vùng Thần Kinh, với bài thơ Thiên Mụ chung thanh do vua Thiệu Trị
sáng tác và được ghi vào bia đá gần cổng chùa.
Với những giá trị lịch sử và văn hóa này, chùa Thiên Mụ đại diện cho niềm tự
hào của người dân Huế và toàn bộ người Việt Nam. Nó giới thiệu văn hóa
tâm linh và lịch sử của chúng ta cho bạn bè quốc tế và cần được bảo tồn để
truyền cho thế hệ hiện tại và tương lai.
Thuyết minh về chùa Thiên Mụ ở Huế chọn lọc hay nhất - Mẫu số 2
Khi nhắc đến Huế, người ta thường liên tưởng đến những danh lam thắng
cảnh nổi tiếng như cung đình Huế, núi Ngự Bình và nhiều điểm đến khác. Tuy
nhiên, không thể không nhắc đến chùa Thiên Mụ, một ngôi chùa được coi là
ngọc của xứ Đàng Trong.
Chùa Thiên Mụ đọng lại dấu ấn của thời gian, tĩnh lặng trên đỉnh đồi Hà Khê,
ven sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 km về phía tây. Nó
được xây dựng vào năm Tân Sửu (1601) trong thời của chúa Tiên Nguyễn
Hoàng, người đầu tiên của triều đại Nguyễn ở Đàng Trong. Có một câu
chuyện dân gian kể rằng chúa Nguyễn Hoàng, khi làm Trấn thủ xứ Thuận
Hóa và trấn thủ Quảng Nam, đã đi khảo sát vùng đất này để xây dựng và
phát triển đất nước. Trong cuộc hành trình, ông phát hiện một đồng cỏ ở xã
Hà Khê, huyện Hương Trà (nay là ngoại ô của thành phố Huế) với một đồi
cao trông giống như đầu rồng nghiêng đầu nhìn xuống sông Hương, với một
con sông lớn bên trước (chính là sông Hương) và một hồ rộng phía sau, tạo
thành một cảnh quan tuyệt đẹp. Dân địa phương kể lại rằng vào ban đêm, họ
thường thấy một bà già mặc áo đỏ và quần xanh ngồi trên đồi này, nói rằng
sẽ có một vị chân chúa đến xây dựng một ngôi chùa để bảo tồn tinh thần linh
thiêng và truyền thống của đất nước. Từ câu chuyện này, đồi được đặt tên là
gò Thiên Mụ, và chính từ gò này, người ta xây dựng ngôi chùa Thiên Mụ vào năm 1601.
Chùa Thiên Mụ không chỉ nổi bật với kiến trúc cổ kính mà còn lưu trữ nhiều
sự kiện quan trọng trong lịch sử. Dưới thời chúa Quốc, Phật giáo phát triển
mạnh mẽ tại Đàng Trong, và chùa được mở rộng. Năm 1710, chúa Quốc đã
tặng chùa một chiếc chuông lớn có tên Đại Hồng Chung, nặng hơn hai tấn,
được khắc chữ và câu thơ trên đó. Năm 1714, chúa Quốc tiếp tục tái trùng tu
chùa và xây dựng nhiều công trình như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng,
nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền... Mặc dù nhiều
công trình đã không còn tồn tại ngày nay, chúa Quốc đã viết bài văn và khắc
trên một bia lớn để ghi chép về việc xây dựng các công trình kiến trúc, việc
mua hơn 1000 bộ kinh Phật từ Trung Quốc để đặt tại lầu Tàng Kinh, và sự
đóng góp của Hòa thượng Thạch Liêm trong việc thúc đẩy Phật giáo ở Đàng
Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá lớn, đơn giản nhưng tuyệt đẹp.
Chùa Thiên Mụ đã trải qua nhiều biến cố trong lịch sử. Nó đã được sử dụng
làm đàn Tế Đất dưới triều đại Tây Sơn (khoảng năm 1788) và trùng tu nhiều
lần dưới triều đại của các vị vua Nguyễn. Vào năm 1844, vua Thiệu Trị đã xây
dựng một tháp bát giác gọi là Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình
Hương Nguyện và đặt hai tấm bia ghi chép về việc xây tháp, đình và các bài
thơ văn của mình. Tháp Phước Duyên, biểu tượng nổi tiếng của chùa Thiên
Mụ, cao 21 mét và gồm 7 tầng, với từng tầng có thờ tượng Phật. Mỗi tầng
được kết nối bằng cầu thang xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây
có thờ tượng Phật bằng vàng. Trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc
đặt một tượng Pháp luân. Tuy nhiên, tháp đã bị tàn phá nặng nề sau trận bão
năm 1904, và nhiều công trình khác cũng đã không còn nguyên vẹn như đình
Hương Nguyện, đã bị sụp đổ hoàn toàn. Mặc dù đã được xây lại vào năm
1907, chùa không còn được to lớn như trước.
Khuôn viên chùa là một vườn hoa cỏ được chăm sóc hàng ngày. Tại đây,
hòn non bộ của nghệ nhân hát tuồng Việt Nam là Đào Tấn được đặt gần
chiếc xe ô tô của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức, một biểu tượng của sự
hy sinh và phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm
vào năm 1963. Cuối khu vườn là nghĩa trang tháp của cố Hòa thượng Thích
Đôn Hậu, một trụ trì nổi tiếng của chùa Thiên Mụ, người đã hiến dâng cả
cuộc đời mình cho các hoạt động thiện nguyện.
Ngoài những giá trị về lịch sử, chùa Thiên Mụ còn là một biểu tượng của văn
hóa tâm linh của người Việt Nam xưa, và là điểm đến hấp dẫn cho du khách
trong và ngoài nước. Chùa Thiên Mụ không chỉ là một di sản vĩ đại của Việt
Nam mà còn là niềm tự hào của người dân Đàng Trong và toàn dân Việt Nam.
Những bài viết về chùa Thiên Mụ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về một công
trình lịch sử và những giá trị tinh thần đã được kế thừa và phát triển qua
nhiều thế hệ. Chùa Thiên Mụ không chỉ là một ngôi chùa, mà còn là một biểu
tượng sống động của sự bền vững và sự kết nối giữa con người và lịch sử.
Document Outline

  • Thuyết minh về chùa Thiên Mụ ở Huế chọn lọc hay nh
    • Thuyết minh về chùa Thiên Mụ ở Huế chọn lọc hay nh
    • Thuyết minh về chùa Thiên Mụ ở Huế chọn lọc hay nh