Thuyết minh về nhà văn Nam Cao chọn lọc hay
nhất
1. Thuyết minh về nhà văn Nam Cao chọn lọc hay nhất - Mẫu số
1
Nhà văn Nam Cao, tên khai sinh Trần Hữu Tri, ra đời o năm 1915 tại
làng Đại Hoàng, một xóm nhỏ thuộc Hoà Hậu, huyện Nhân, tỉnh
Nam. Tuổi thơ của ông trải qua những ngõ hẹp của Nam Định thành phố
Nam Định, nơi ông đã tiếp c với cuộc sống dân những biến động
của thời đại.
Từ năm 1936, với việc bắt đầu viết văn trên các báo như "Tiểu thuyết thứ
bảy" "Ích hữu", Nam Cao bắt đầu lập nghiệp văn chương của mình. Qua
những câu chuyện, những tác phẩm của ông, chúng ta được chiêm ngưỡng
một phần của trí tưởng tượng sức sáng tạo không ngừng của ông.
Năm 1938, Nam Cao dành một thời gian dạy học Nội, trước khi tiếp
tục hành trình của mình tại Thái Bình vào năm 1941. Tuy nhiên, định mệnh đã
đưa ông trở về quê nhà vào năm 1942, nơi ông tiếp tục sự nghiệp văn
chương bắt đầu gia nhập Hội Văn hoá cứu quốc từ năm 1943.
Cuộc cách mạng Tháng Tám 1945 một bước ngoặt quan trọng trong cuộc
đời sự nghiệp của Nam Cao. Ông không ch một nhà văn, còn một
người chủ đạo trong việc cướp chính quyền tại phủ Nhân được bầu làm
chủ tịch xã. Từ đó, ông chuyển đến Nội tham gia vào Hội Văn hoá cứu
quốc, trở thành t toà soạn của tạp chí Tiền Phong.
Năm 1947, Nam Cao bước chân vào miền Bắc, trở thành phóng viên cho báo
Cứu quốc thư toà soạn của báo Cứu quốc Việt Bắc. Điều này chứng tỏ
sự cam kết của ông đối với cách mạng cuộc chiến tranh giành độc lập của
dân tộc.
Sau đó, vào năm 1950, ông nhận công tác tại tạp chí Văn nghệ, trở thành một
trong những người nổi tiếng ảnh hưởng trong lĩnh vực n hóa của đất
nước. Tính cách mạng của Nam Cao không chỉ xuất phát từ việc viết văn
còn sự tham gia tích cực trong các hoạt động chính tr hội.
Những tác phẩm của Nam Cao trước cách mạng tập trung vào hai đề tài
chính: Cuộc sống của những người tiểu sản trí thức nghèo cuộc sống
của người nông dân. Ông không chỉ đơn thuần mô tả, n châm biếm,
phê phán tình hình hội bày tỏ niềm tin vào một tương lai tươi sáng.
Trong các tác phẩm như "Trăng sáng", "Đời thừa", "Mua nhà", "Truyện tình",
"Quên điều độ”, "Nước mắt", "Những truyện không muốn viết", tiểu thuyết
"Sống mòn" (1944), Nam Cao đã châm biếm thấu hiểu về tình cảnh khốn khổ,
cảm xúc suy của những người trí thức nghèo.
Với đ tài về người nông dân, Nam Cao đã đ lại những tác phẩm đại như
"Lão Hạc”, "Chí phèo”, "Trẻ con không được ăn thịt chó", "Mua danh", "Tư
cách mõ", "Một bữa no", "Một đám cưới", "Dì Hảo", "Điếu văn”, “Lang Rận”,
“Nửa đêm", ... Từ những câu chuyện này, chúng ta cảm nhận được sâu sắc
về cuộc sống, lòng nhân ái khát vọng tự do của những người nông dân
Việt Nam.
Sau cách mạng Tháng Tám, Nam Cao tiếp tục công cuộc kháng chiến, tham
gia vào các hoạt động của Đảng hội. Việc của ông không chỉ viết văn,
còn là sự hy sinh cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Những đóng góp về văn hóa, về tưởng Nam Cao để lại không thể
phủ nhận. Ngôn ngữ sống động, tinh tế uyển chuyển của ông đã chạm đến
lòng người, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả. Qua những công trình
văn học, Nam Cao đã trở thành biểu tượng của sự chiến đấu hy sinh cho
tự do của dân tộc Việt Nam.
2. Thuyết minh về nhà văn Nam Cao chọn lọc hay nhất - Mẫu số
2
Tác phẩm của Nam Cao không chỉ những câu chuyện, còn những
tác phẩm đồng hành với cả hai giai đoạn lịch sử quan trọng của Việt Nam
trước sau năm 1945. Công lao của ông không chỉ nằm việc tạo ra những
tác phẩm văn học đại, còn việc kết nối chặt chẽ giữa đời sống văn
hóa. Trong văn của Nam Cao, ta không chỉ nhìn thấy cái đời ông đã trải
qua, còn thấy được những giá trị đậm chất nhân văn tinh thần.
Sinh ra trong một gia đình nông dân tại làng Đại Hoàng, Nam, Nam Cao
đã phải vật lộn từ những năm đầu đời. Mặc chỉ người con duy nhất
được đi học, nhưng ông không ngừng cố gắng ơn lên. Sau khi hoàn thành
học vấn bản, ông bắt đầu cuộc hành trình đi làm kiếm sống. Tuy nhiên,
định mệnh đã đẩy ông trở về quê nhà sớm hơn dự kiến do bệnh tật. Nhưng
đó cũng thời điểm ông bắt đầu dấn thân vào sự nghiệp n chương giáo
dục.
Năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc, từ đó, ông dành trọn
cuộc đời để phục vụ cách mạng kháng chiến. Từ việc tham gia kháng
chiến quê nhà đến mặt trận Nam Trung Bộ, rồi lại lên Việt Bắc tham gia
chiến dịch Biên giới năm 1950, ông luôn dành trái tim tinh thần cho sự độc
lập tự do của dân tộc. Điều đáng tiếc ngày 30-11-1951, trên đường vào
vùng địch Liên khu III, ông đã hy sinh trong một cuộc tấn công bất ngờ của
kẻ thù.
Nam Cao không chỉ một nhà văn, còn một nhà nhân đạo, một con
người sống gần gũi với những nỗi đau, khó khăn của dân chúng. Tình cảm ấy
được thể hiện qua từng dòng văn của ông, qua những nhân vật đời thường
nhưng n chứa niềm đau tâm hồn sâu lắng. Bản thân Nam Cao cũng là
một trí thức nghèo, hiểu biết về cả nông dân trí thức, từ đó, ông đã vẽ ra
những hình ảnh sống động, chân thực về cuộc sống con người.
Phong cách sáng tác của Nam Cao không chỉ sự phản ánh của hiện thực
còn sự đấu tranh, hy vọng niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn
cho dân tộc. Tác phẩm của ông, từ những câu chuyện về người nông dân, trí
thức nghèo đến những bức tranh chiến tranh đầy bi thương, đều những lời
kêu gọi, là những hình nh sống động về một thời kỳ đầy biến động hy
vọng.
Nhìn lại sự nghiệp tác phẩm của Nam Cao, ta thấy một nhà văn không chỉ
viết về đời sống, mà còn viết về những giá trị vĩnh cửu của con người. Ông
đã để lại một di sản văn học giá, nguồn cảm hứng bất tận cho các thế
hệ sau này, một minh chứng ràng cho tầm quan trọng của văn học
trong việc giáo dục phát triển nhân loại.
3. Thuyết minh về nhà văn Nam Cao chọn lọc hay nhất - Mẫu số
3
Nhà n Nam Cao, tên khai sinh Trần Hữu Tri, một tên tuổi vang danh của
văn học Việt Nam, sinh vào năm 1915 tại ng Đại Hoàng, nay thuộc Hòa
Hậu, huyện Nhân, tỉnh Nam. Tuổi thơ của ông gắn liền với cảnh quê
hương mộc mạc cuộc sống i động của thành phố Nam Định. Từ những
năm đầu đời, ông đã bộc lộ niềm đam với văn chương.
Từ năm 1936, Nam Cao bắt đầu th hiện tài năng của mình thông qua việc
viết văn trên các báo như "Tiểu thuyết thứ bảy", "Ích hữu" nhanh chóng
được công chúng chấp nhận. Sau đó, ông dành thời gian dạy học nhiều
nơi khác nhau như Nội Thái Bình. Năm 1942, ông quyết định trở về
quê nhà để tập trung hoàn thiện sự nghiệp văn chương.
Năm 1943, với niềm tin lòng yêu nước cháy bỏng, Nam Cao gia nhập Hội
Văn hoá cứu quốc, trở thành một trong những chiến văn hóa đầu tiên của
dân tộc. Sự kiện Cách mạng Tháng Tám 1945 một bước ngoặt quan trọng
trong cuộc đời sự nghiệp của ông khi ông tham gia cướp chính quyền
phủ Nhân được bổ nhiệm m chủ tịch xã.
Những năm tiếp theo, Nam Cao tiếp tục khẳng định bản thân trong các hoạt
động của Hội Văn hoá cứu quốc, làm thư toà soạn tạp chí Tiên Phong
tham gia đoàn quân Nam tiến. Đồng thời, ông cũng góp mặt nhiều tạp chí
văn nghệ làm việc tích cực trong lĩnh vực văn nghệ.
Mùa thu năm 1947, ông lên Việt Bắc, trở thành một phóng viên nổi tiếng của
báo Cứu quốc đồng thời làm thư toà soạn. Năm 1950, ông nhận công
tác tạp chí Văn nghệ trở thành một trong những thành viên quan trọng
của Tiểu ban Văn nghệ Trung ương.
Năm 1951, ông tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp khu III, nhưng
định mệnh đã định đoạt khi ông bị địch phục kích hy sinh. Sự ra đi của
Nam Cao để lại một khoảnh khắc buồn trong ng người hâm mộ bạn bè.
Những sáng tác của Nam Cao không chỉ những câu chuyện, còn
những tấm gương sáng cho thế h sau. Trước cách mạng, ông tập trung vào
hai đề tài chính: cuộc sống của những người tiểu sản trí thức nghèo
cuộc sống của người nông dân. Ông luôn quan tâm đặc biệt đến tình trạng
của người lao động, những người bị bóc lột tha hóa trong hội.
Trong đề tài tiểu sản trí thức nghèo, các tác phẩm như "Trăng ng", "Đời
thừa", "Mua nhà", "Truyện tình", "Quên điều độ", "Nước mắt", "Những truyện
không muốn viết",... đã thể hiện sâu sắc tình hình khốn khó, đau khổ của
những người t thức nghèo. Nam Cao đã p phán sự tha hóa của họ trong
hội niềm khao khát cuộc sống xứng đáng.
Với đề tài người nông dân, Nam Cao đã vẽ lên những bức tranh chân thực về
cuộc sống của họ thông qua các tác phẩm n "Lão Hạc", "Chí phèo", "Trẻ
con không được ăn thịt chó", "Mua danh",... Ông đã đặt ra những câu hỏi lớn
về bản chất của con người hội.
Sau cách mạng Tháng Tám, Nam Cao tiếp tục một trong những người ứng
cử viên sáng giá của văn học cách mạng. Việc ông tham gia vào các hoạt
động cách mạng, kháng chiến chứng tỏ lòng yêu nước tinh thần đồng lòng
của ông. Công lao của Nam Cao đã được nhà nước công nhận thông qua
việc trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật.

Preview text:

Thuyết minh về nhà văn Nam Cao chọn lọc hay nhất
1. Thuyết minh về nhà văn Nam Cao chọn lọc hay nhất - Mẫu số
1
Nhà văn Nam Cao, tên khai sinh là Trần Hữu Tri, ra đời vào năm 1915 tại
làng Đại Hoàng, một xóm nhỏ thuộc xã Hoà Hậu, huyện Lí Nhân, tỉnh Hà
Nam. Tuổi thơ của ông trải qua những ngõ hẹp của Nam Định và thành phố
Nam Định, nơi mà ông đã tiếp xúc với cuộc sống dân dã và những biến động của thời đại.
Từ năm 1936, với việc bắt đầu viết văn trên các báo như "Tiểu thuyết thứ
bảy" và "Ích hữu", Nam Cao bắt đầu lập nghiệp văn chương của mình. Qua
những câu chuyện, những tác phẩm của ông, chúng ta được chiêm ngưỡng
một phần của trí tưởng tượng và sức sáng tạo không ngừng của ông.
Năm 1938, Nam Cao dành một thời gian dạy học tư ở Hà Nội, trước khi tiếp
tục hành trình của mình tại Thái Bình vào năm 1941. Tuy nhiên, định mệnh đã
đưa ông trở về quê nhà vào năm 1942, nơi ông tiếp tục sự nghiệp văn
chương và bắt đầu gia nhập Hội Văn hoá cứu quốc từ năm 1943.
Cuộc cách mạng Tháng Tám 1945 là một bước ngoặt quan trọng trong cuộc
đời và sự nghiệp của Nam Cao. Ông không chỉ là một nhà văn, mà còn là một
người chủ đạo trong việc cướp chính quyền tại phủ Lí Nhân và được bầu làm
chủ tịch xã. Từ đó, ông chuyển đến Hà Nội và tham gia vào Hội Văn hoá cứu
quốc, trở thành thư ký toà soạn của tạp chí Tiền Phong.
Năm 1947, Nam Cao bước chân vào miền Bắc, trở thành phóng viên cho báo
Cứu quốc và thư ký toà soạn của báo Cứu quốc Việt Bắc. Điều này chứng tỏ
sự cam kết của ông đối với cách mạng và cuộc chiến tranh giành độc lập của dân tộc.
Sau đó, vào năm 1950, ông nhận công tác tại tạp chí Văn nghệ, trở thành một
trong những người nổi tiếng và có ảnh hưởng trong lĩnh vực văn hóa của đất
nước. Tính cách mạng của Nam Cao không chỉ xuất phát từ việc viết văn mà
còn là sự tham gia tích cực trong các hoạt động chính trị và xã hội.
Những tác phẩm của Nam Cao trước cách mạng tập trung vào hai đề tài
chính: Cuộc sống của những người tiểu tư sản trí thức nghèo và cuộc sống
của người nông dân. Ông không chỉ đơn thuần mô tả, mà còn châm biếm,
phê phán tình hình xã hội và bày tỏ niềm tin vào một tương lai tươi sáng.
Trong các tác phẩm như "Trăng sáng", "Đời thừa", "Mua nhà", "Truyện tình",
"Quên điều độ”, "Nước mắt", "Những truyện không muốn viết", và tiểu thuyết
"Sống mòn" (1944), Nam Cao đã châm biếm thấu hiểu về tình cảnh khốn khổ,
cảm xúc và suy tư của những người trí thức nghèo.
Với đề tài về người nông dân, Nam Cao đã để lại những tác phẩm vĩ đại như
"Lão Hạc”, "Chí phèo”, "Trẻ con không được ăn thịt chó", "Mua danh", "Tư
cách mõ", "Một bữa no", "Một đám cưới", "Dì Hảo", "Điếu văn”, “Lang Rận”,
“Nửa đêm", ... Từ những câu chuyện này, chúng ta cảm nhận được sâu sắc
về cuộc sống, lòng nhân ái và khát vọng tự do của những người nông dân Việt Nam.
Sau cách mạng Tháng Tám, Nam Cao tiếp tục công cuộc kháng chiến, tham
gia vào các hoạt động của Đảng và xã hội. Việc của ông không chỉ là viết văn,
mà còn là sự hy sinh và cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Những đóng góp về văn hóa, về tư tưởng mà Nam Cao để lại là không thể
phủ nhận. Ngôn ngữ sống động, tinh tế và uyển chuyển của ông đã chạm đến
lòng người, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả. Qua những công trình
văn học, Nam Cao đã trở thành biểu tượng của sự chiến đấu và hy sinh cho
tự do của dân tộc Việt Nam.
2. Thuyết minh về nhà văn Nam Cao chọn lọc hay nhất - Mẫu số 2
Tác phẩm của Nam Cao không chỉ là những câu chuyện, mà còn là những
tác phẩm đồng hành với cả hai giai đoạn lịch sử quan trọng của Việt Nam
trước và sau năm 1945. Công lao của ông không chỉ nằm ở việc tạo ra những
tác phẩm văn học vĩ đại, mà còn là việc kết nối chặt chẽ giữa đời sống và văn
hóa. Trong văn của Nam Cao, ta không chỉ nhìn thấy cái đời mà ông đã trải
qua, mà còn thấy được những giá trị đậm chất nhân văn và tinh thần.
Sinh ra trong một gia đình nông dân tại làng Đại Hoàng, Hà Nam, Nam Cao
đã phải vật lộn từ những năm đầu đời. Mặc dù chỉ là người con duy nhất
được đi học, nhưng ông không ngừng cố gắng vươn lên. Sau khi hoàn thành
học vấn cơ bản, ông bắt đầu cuộc hành trình đi làm kiếm sống. Tuy nhiên,
định mệnh đã đẩy ông trở về quê nhà sớm hơn dự kiến do bệnh tật. Nhưng
đó cũng là thời điểm ông bắt đầu dấn thân vào sự nghiệp văn chương và giáo dục.
Năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc, từ đó, ông dành trọn
cuộc đời để phục vụ cách mạng và kháng chiến. Từ việc tham gia kháng
chiến ở quê nhà đến mặt trận Nam Trung Bộ, rồi lại lên Việt Bắc tham gia
chiến dịch Biên giới năm 1950, ông luôn dành trái tim và tinh thần cho sự độc
lập và tự do của dân tộc. Điều đáng tiếc là ngày 30-11-1951, trên đường vào
vùng địch ở Liên khu III, ông đã hy sinh trong một cuộc tấn công bất ngờ của kẻ thù.
Nam Cao không chỉ là một nhà văn, mà còn là một nhà nhân đạo, một con
người sống gần gũi với những nỗi đau, khó khăn của dân chúng. Tình cảm ấy
được thể hiện qua từng dòng văn của ông, qua những nhân vật đời thường
nhưng ẩn chứa niềm đau và tâm hồn sâu lắng. Bản thân Nam Cao cũng là
một trí thức nghèo, hiểu biết về cả nông dân và trí thức, từ đó, ông đã vẽ ra
những hình ảnh sống động, chân thực về cuộc sống và con người.
Phong cách sáng tác của Nam Cao không chỉ là sự phản ánh của hiện thực
mà còn là sự đấu tranh, hy vọng và niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn
cho dân tộc. Tác phẩm của ông, từ những câu chuyện về người nông dân, trí
thức nghèo đến những bức tranh chiến tranh đầy bi thương, đều là những lời
kêu gọi, là những hình ảnh sống động về một thời kỳ đầy biến động và hy vọng.
Nhìn lại sự nghiệp và tác phẩm của Nam Cao, ta thấy một nhà văn không chỉ
viết về đời sống, mà còn viết về những giá trị vĩnh cửu của con người. Ông
đã để lại một di sản văn học vô giá, là nguồn cảm hứng bất tận cho các thế
hệ sau này, và là một minh chứng rõ ràng cho tầm quan trọng của văn học
trong việc giáo dục và phát triển nhân loại.
3. Thuyết minh về nhà văn Nam Cao chọn lọc hay nhất - Mẫu số 3
Nhà văn Nam Cao, tên khai sinh là Trần Hữu Tri, một tên tuổi vang danh của
văn học Việt Nam, sinh vào năm 1915 tại làng Đại Hoàng, nay thuộc xã Hòa
Hậu, huyện Lí Nhân, tỉnh Hà Nam. Tuổi thơ của ông gắn liền với cảnh quê
hương mộc mạc và cuộc sống sôi động của thành phố Nam Định. Từ những
năm đầu đời, ông đã bộc lộ niềm đam mê với văn chương.
Từ năm 1936, Nam Cao bắt đầu thể hiện tài năng của mình thông qua việc
viết văn trên các báo như "Tiểu thuyết thứ bảy", "Ích hữu" và nhanh chóng
được công chúng chấp nhận. Sau đó, ông dành thời gian dạy học tư ở nhiều
nơi khác nhau như Hà Nội và Thái Bình. Năm 1942, ông quyết định trở về
quê nhà để tập trung hoàn thiện sự nghiệp văn chương.
Năm 1943, với niềm tin và lòng yêu nước cháy bỏng, Nam Cao gia nhập Hội
Văn hoá cứu quốc, trở thành một trong những chiến sĩ văn hóa đầu tiên của
dân tộc. Sự kiện Cách mạng Tháng Tám 1945 là một bước ngoặt quan trọng
trong cuộc đời và sự nghiệp của ông khi ông tham gia cướp chính quyền ở
phủ Lí Nhân và được bổ nhiệm làm chủ tịch xã.
Những năm tiếp theo, Nam Cao tiếp tục khẳng định bản thân trong các hoạt
động của Hội Văn hoá cứu quốc, làm thư ký toà soạn tạp chí Tiên Phong và
tham gia đoàn quân Nam tiến. Đồng thời, ông cũng góp mặt ở nhiều tạp chí
văn nghệ và làm việc tích cực trong lĩnh vực văn nghệ.
Mùa thu năm 1947, ông lên Việt Bắc, trở thành một phóng viên nổi tiếng của
báo Cứu quốc và đồng thời làm thư kí toà soạn. Năm 1950, ông nhận công
tác ở tạp chí Văn nghệ và trở thành một trong những thành viên quan trọng
của Tiểu ban Văn nghệ Trung ương.
Năm 1951, ông tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp ở khu III, nhưng
định mệnh đã định đoạt khi ông bị địch phục kích và hy sinh. Sự ra đi của
Nam Cao để lại một khoảnh khắc buồn trong lòng người hâm mộ và bạn bè.
Những sáng tác của Nam Cao không chỉ là những câu chuyện, mà còn là
những tấm gương sáng cho thế hệ sau. Trước cách mạng, ông tập trung vào
hai đề tài chính: cuộc sống của những người tiểu tư sản trí thức nghèo và
cuộc sống của người nông dân. Ông luôn quan tâm đặc biệt đến tình trạng
của người lao động, những người bị bóc lột và tha hóa trong xã hội.
Trong đề tài tiểu tư sản trí thức nghèo, các tác phẩm như "Trăng sáng", "Đời
thừa", "Mua nhà", "Truyện tình", "Quên điều độ", "Nước mắt", "Những truyện
không muốn viết",. . đã thể hiện sâu sắc tình hình khốn khó, đau khổ của
những người trí thức nghèo. Nam Cao đã phê phán sự tha hóa của họ trong
xã hội và niềm khao khát cuộc sống xứng đáng.
Với đề tài người nông dân, Nam Cao đã vẽ lên những bức tranh chân thực về
cuộc sống của họ thông qua các tác phẩm như "Lão Hạc", "Chí phèo", "Trẻ
con không được ăn thịt chó", "Mua danh",... Ông đã đặt ra những câu hỏi lớn
về bản chất của con người và xã hội.
Sau cách mạng Tháng Tám, Nam Cao tiếp tục là một trong những người ứng
cử viên sáng giá của văn học cách mạng. Việc ông tham gia vào các hoạt
động cách mạng, kháng chiến chứng tỏ lòng yêu nước và tinh thần đồng lòng
của ông. Công lao của Nam Cao đã được nhà nước công nhận thông qua
việc trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật.
Document Outline

  • Thuyết minh về nhà văn Nam Cao chọn lọc hay nhất
    • 1. Thuyết minh về nhà văn Nam Cao chọn lọc hay nhấ
    • 2. Thuyết minh về nhà văn Nam Cao chọn lọc hay nhấ
    • 3. Thuyết minh về nhà văn Nam Cao chọn lọc hay nhấ