Tiến trình công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (1925 - 1991| Đại học Sư Phạm Hà Nội

với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.

Thông tin:
15 trang 8 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tiến trình công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (1925 - 1991| Đại học Sư Phạm Hà Nội

với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.

153 77 lượt tải Tải xuống
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CHỦ ĐỀ 3: TRÌNH BÀY TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở LIÊN XÔ TỪ NĂM 1925 ĐẾN NĂM 1991. TỪ LÍ LUẬN
VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC, ĐÁNH GIÁ MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ CỦA
CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở LIÊN XÔ
(1925 – 1991).
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Quỳnh Trang
Mã sinh viên: 705602171
Lớp: B–K70
Giảng viên: Ninh Xuân Thao
HÀ NỘI, THÁNG 12 NĂM 2023
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................4
1. Ý nghĩa của chủ đề.........................................................................................4
2. Mục tiêu tìm hiểu chủ đề................................................................................4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:....................................................................................4
NỘI DUNG BÀI TIỂU LUẬN......................................................................................5
I. Tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô từ năm 1925 đến năm 1991........5
1. Giai đoạn 1925 – 1941....................................................................................5
1.1. Giai đoạn 1926 – 1929: Công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa............5
1.2. Giai đoạn 1928 1937: Công cuộc tập thể hoá nông nghiệp hoàn thành
các kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và lần thứ hai..................................................................6
1.3. Giai đoạn 1938 1941: Kế hoạch 5 năm lần thứ ba công cuộc phòng thủ
đất nước ............................................................................................................................7
2. Giai đoạn 1945 – 1991....................................................................................8
2.1. Giai đoạn 1945 – 1950: Khắc phục hậu quả chiến tranh và khôi phục kinh tế. 8
2.2. Giai đoạn 1950 1985: Công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội thời phát
triển đỉnh cao (1951 – nửa đầu 1970).................................................................................9
2.3. Giai đoạn 1985 – 1991: Khủng hoảng, cải tổ và sụp đổ..................................10
II. Đánh giá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1925 – 1991).............11
1. Đặc trưng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1925 – 1991) 11.
1.1. Đặc trưng về kinh tế...................................................................................11
1.2. Đặc trưng về chính trị.................................................................................12
2. Điểm tích cực trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội Liên Xô (1925
– 1991) 12..........................................................................................................................
3. Mặt hạn chế của công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội Liên (1925
1991) 13..........................................................................................................................
KẾT LUẬN...................................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................15
3
MỞ ĐẦU
1.Ý nghĩa của chủ đề
Từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), V.I.Lenin đã kế thừa
hoàn thiện những thuyết về chủ nghĩa hội của Karl Marx để xây dựng nên một nhà
nước Liên bang Cộng hoà hội chủ nghĩa viết, hoàn thành mục tiêu của cách mạng
hội chủ nghĩa. Lenin đã từng nói: “Với sự giúp đỡ của giai cấp sản các nước tiên
tiến, các nước lạc hậu thể tiến tới chế độ Viết qua những giai đoạn phát triển
nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản không phải trải qua giai đoạn phát triển bản
chủ nghĩa”.
không đợi sự giúp đỡ từ bất cứ quốc gia nào, Liên đã nước đi đầu, tiên
phong trong việc xây dựng hệ thống hội chủ nghĩa, hình thành nên một trật tự thế giới
hoàn toàn mới. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội Liên đã được tiến hành trong
suốt gần một thế kỉ, gặt hái được cả những thành tựu và thất bại, mà thất bại đau đớn nhất
vẫn là sự sụp đổ của nhà nước Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết, nhưng đó là
viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho mô hình xã hội chủ nghĩa, áp dụng ở các quốc gia
hội chủ nghĩa, có giá trị tham khảo đối với các quốc gia trong quá trình xây dựng đất nước,
đặc biệt các ớc thuộc địa, phụ thuộc sau khi thoát khỏi ách độ hộ của thực dân đế
quốc.
2.Mục tiêu tìm hiểu chủ đề
Thông qua quá trìnhm hiểu nghiên cứu liệu trình bày về tiến trình xây dựng
chủ nghĩa hội Liên từ năm 1925 đến năm 1991; từluận về xây dựng chủ nghĩa
hội của chủ nghĩa hội khoa học, qua đó phân tích đánh giá được những mặt tích
cực và hạn chế của công cuộc xây dựng chủ nghĩa ở Liên Xô (1925 – 1991).
3.Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trên sở nghiên cứu các liệu, tài liệu về chủ nghĩa hội khoa học, về tiến
trình xây dựng chủ nghĩa hội Liên từ những năm 1925 đến năm 1991, thể xác
định nhiệm vụ chính của bài tiểu luận là:
Thứ nhất, trình bài tiến trình xây dựng chủ nghĩahội ở Liên Xô từ năm 1925 đến
năm 1991, bao gồm các giai đoạn chính và kết quả của từng giai đoạn.
Thứ hai, từ lí luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa xã hội khoa học, đánh
giá mặt tích cực hạn chế của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội Liên (1925
1991).
4
NỘI DUNG BÀI TIỂU LUẬN
I. Tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô từ năm 1925 đến năm 1991
Sau 7 năm chiến tranh đế quốc nội phản, nhân dân Liên bước vào thời xây
dựng kinh tế với những thuận lợi và khó khăn cả trong nước lẫn bên ngoài.
Liên Xô lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế – chính trị nghiêm trọng. Để giải quyết
vấn đề này, Lenin khởi thảo chính sách được bắt đầu đi vàoChính sách Kinh tế mới
hoạt động kể từ sau Đại hội X của Đảng Cộng sản Liên Xô. Bản chất của Chính sách Kinh
tế mới là sự chuyển đổi từ một nền kinh tế bao cấp, độc quyền của nhà nước sang một nền
kinh tế hàng hoá sự điều tiết của nhà nước, công nhận sự cùng tồn tại phát triển
trong một thời gian dài các thành phần kinh tế khác nhau, sử dụng vốn, thuật kinh
nghiệm tư bản trong và ngoài nước nhằm tạo ra xung lực kích thích sự phát triển sản xuất,
giải quyết nhanh chóng các vấn đề trước mắt là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng,…
cho hội. Nhờ đường lối đúng đắn, công cuộc khôi phục kinh tế đã thu được những
kết quả nhanh chóng.
Ngày 30/12/1922, trên sở tự nguyện của các dân tộc, Liên bang Cộng hoà hội
chủ nghĩa viết ra đời gọi tắt là Liên Xô, gồm 4 nước Cộng hoà: Nga, Ukraina,
Bielorussia và Ngoại Kavkaz. Sau khi Liên bang thành lập và có những thành tựu bước đầi
về kinh tế – xã hội, năm 1924, Hiến pháp mới được ban hành.
Tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô từ năm 1925 đến năm 1991 có thể chia
làm hai giai đoạn chính: giai đoạn 1925 – 1941 và giai đoạn 1945 – 1991.
1. Giai đoạn 1925 – 1941
1.1. Giai đoạn 1926 – 1929: Công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
Giai đoạn từ năm 1926 đến năm 1929 được coigiai đoạn bước đầu công nghiệp hoá
xã hội chủ nghĩa. Năm 1925, mặc kinh tế khôi phục xấp xỉ mức chiến tranh nhưng căn
bản Liên Xô vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu so với các nước tư bản phương Tây với
nông nghiệp chiếm tổng sản phẩm quốc dân đa số dựa trênthuật lạc hậu. vậy,
2
/
3
tại Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XIV họp tháng 12/2015, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ công nghiệp hoá XHCN nhằm biến Liên từ một nước
nông nghiệp thành một nước công nghiệpthể tự lực sản xuất máy móc và trang thiết bị
cần thiết cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo phương châm tự lực cánh sinh, dựa vào
sức mình chính. Đại hội lần thứ XIV đi vào lịch sử “Đại hội công nghiệp hoá đất
nước”.
5
Công cuộc công nghiệp hoá XHCN ngay trong những năm đầu đã thu về những kết
quả tốt đẹp. Cụ thể, năm 1926, việc chế tạo máy móc đã vượt qua mức sản xuất năm 1913.
Năm 1927, sản lượng công nghiệp tăng 18% so với năm 1926, chiếm tỉ trọng 42% tổng
thu nhập quốc dân. Năm 1928, tỉ trọng công nghiệp chiếm 54.5% tổng sản lượng kinh tế
quốc dân. Năm 1929 công nghiệp hoá XHCN ở Liên đã giải quyết được 3 vấn đề then
chốt: tích luỹ vốn, ngành công nghiệp nặng năng suất lao động. Số vốn đầu lên tới
3400 triệu rúp, gấp 4 lần năm 1926.
1.2. Giai đoạn 1928 1937: Công cuộc tập thể hoá nông nghiệp hoàn thành
các kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và lần thứ hai
Trên sở những thành tựu bước đầu của công nghiệp hoá XHCN, từ năm 1928 đến
năm 1937, Liên đã diễn ra công cuộc tập thể hoá nông nghiệp hoàn thành các kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất và lần thứ hai. Việc tập thể hoá nông nghiệp được tiến hành qua
hai bước: Bước thứ nhất kéo dài từ 1928 đến 1929 với mục đích hạn chế kinh tế phú nông;
từ năm 1930 trở đi chuyển sang bước thứ hai tiêu diệt giai cấp phú nông, đồng thời mở
rộng việc tập thể hoá nông nghiệp với hai hình thức nông trang tập thể nông trường
quốc doanh. Tuy nhiên, trong quá trình tập thể hoá, một số địa phương mắc phải những sai
lầm khuyết điểm, như nóng vội, vi phạm nguyên tắc tự nguyện của nông dân, khiến cho
tầng lớp nông dân bị kích động, khiến cho căn bản bị xoá bỏ trongChính sách Kinh tế mới
khi những điều kiện chưa được chín muồi phải chuyển sang dùng phương pháp mệnh
lệnh, quan liêu, độc đoán. Tuy Đảng Nhà nước viết đã những biện pháp để sửa
chữa các sai lầm này, nhưng hậu quả của nó vẫn kéo dài mãi về sau.
Cùng với tập thể hoá nông nghiệp, Đảng Cộng sản Liên đã đề ra thực hiện kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất (1928 1933) với nhiệm vụ chính tiếp tục đẩy mạnh công
nghiệp hoá XNCH, hoàn thành tập thể hoá nông nghiệp, đẩy mạnh cuộc cách mạng văn
hoá, hạn chế tiến tới tiêu diệt hoàn toàn thành phần kinh tế TBCN thành thị nông
thôn. Từ năm 1933, nhân dân Liên Xô bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1933
– 1937), nhờ vào tinh thần lao động dũng cảm, sáng tạo của nhân dân Liên Xô, kế hoạch 5
năm lần thứ hai được hoàn thành.
Tới giữa năm 1930 công cuộc tập thể hoá nông nghiệp đã thu hút được hơn 10 triệu
nông hộ tham gia (chiếm 40% nông hộ cả nước). Năm 1931, phong trào lại tiến thêm một
bước nữa, nông trang tập thể và nông trường quốc doanh đã chiếm 2/3 diện tích gieo trồng
và 53% tổng số nông hộ toàn quốc. Tới cuối năm 1932, công cuộc tập thể hoá nông nghiệp
căn bản hoàn thành.
6
Trong thời gian thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1928 1932), Liên đã
thành công trong việc xây dựng nền kinh tế kĩ thuật XHCN, một nền công nghiệp hiện đại
biến Liên trở thành một nước công nông nghiệp. Thành tựu: Sản lượng công
nghiệp chiếm 70% tổng GDP; 1500 nghiệp được xây dựng, trang bị thuật, máy móc
tiên tiến;…
Trên lĩnh vực văn hoá giáo dục, chính phủ Liên cũng đạt được những thành tựu
to lớn. Cụ thể, năm 1930, chính phủviết thực hiện chế độ giáo dục bắt buộc. Từ 1930
– 1932 có trên 30 triệu người được thanh toán mù chữ. Trong thời gian kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất, số trường cao đẳng công nghiệp tăng 10 lần, số trường cung cấp kỹ thuật tăng 4
lần, ngành giáo dục đại học cung cấp 10 vạn kỹ sư, hàng chục viện nghiên cứu khoa học
được ra đời.
Giai đoạn kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1933 1937), Liên đã triệt tiêu hoàn toàn
thành phần kinh tế TBCN trong nền kinh tế, hoàn thành cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc
dân trên sở thuật hiện đại, đẩy mạnh cách mạng về mặt văn hoá, tưởng, giáo dục
nhân dân lao động thành những người tích cực tự giác xây dựng CNXH. Sản lượng
công nghiệp chiếm tỉ lệ 77.4% trong tổng sản phẩm kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, công
cuộc tập thể hoá nông nghiệp hoàn thành;93% tổng nông hộ nông thôn gia nhập nông
trang tập thể; sở vật chất thuật được trang bị hiện đại;…. Không chỉ vậy, đời sống
vật chất và tinh thần nhân dân ngày càng được nâng cao, các giai cấp bóc lột đã bị thủ tiêu,
chỉ còn hai giai cấp lao động là công nhân, nông dân và tầng lớp tri thức XHCN. Mối quan
hệ giữa các dân tộc trở nên gắn bó, hữu nghị hơn trước.
1.3. Giai đoạn 1938 1941: Kế hoạch 5 năm lần thứ ba công cuộc phòng thủ
đất nước
Đại hội Đảng Cộng sản Liên lần thứ XVIII (1939) đã thông qua kế hoạch 5 năm
lần thứ ba (1938 – 1942) với nhiệm vụ đuổi kịp và vượt qua các nước TBCN về trình độ
thuật tốc độ phát triển. Bên cạnh đó công cuộc phòng thủ đất nước bằng việc đẩy
mạnh xây dựng công nghiệp quốc phòng và tiến hành tổ chức lại lực lượng vũ trang.
Trong vòng 3 năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1938 1940), sản phẩm công
nghiệp tăng 45%, tới giữa năm 1941 đã đạt 86% tổng sản phẩm được ấn định trong kế
hoạch. nông thôn cũng sự biến đổi to lớn, từ năm 1938 đến đầu năm 1941, Liên
đã xây dựng mới hơn 3700 trạmgiới kĩ thuật và điện khí hoá hơn 10 nghìn nông trang.
Bên cạnh đó, sản lượng công nghiệp quốc phòng 39%, biến Liên trở thành nước đứng
thứ 3 về sản xuất máy bay chiến đấu sang Đức Anh, trong đó những loại máy bay
7
mới xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới. Đời sống của nhân dân được nâng cao về mặt thu
nhập, mức lương cũng dần trở nên ổn định.
2. Giai đoạn 1945 – 1991
2.1. Giai đoạn 1945 – 1950: Khắc phục hậu quả chiến tranh và khôi phục kinh tế
Sau chiến tranh, Liêntích cực tiến hành công cuộc khôi phục kinh tế, bắt đầu bằng
việc chuyển nền kinh tế từ thời chiến sang thời bình. Liên đã cho giải trừ lực lượng
quân sự, tạo việc làm cho quân nhân sau khi giải ngũ: tháng 3/1948, quân đội Liên đã
giảm từ 11.4 triệu người xuống còn 2.9 triệu người. Bên cạnh đó, Uỷ ban Quốc phòng của
Nhà nước bị giải thể, các nhà máy quân sự chuyển sang sản xuất các mặt hàng công
nghiệp khác. Công nhân được giảm giờ làm, khôi phục chế độ ngày làm 8 giờ.
Cùng với việc khôi phục kinh tế sau chiến tranh, Đảng Cộng sản Liên còn đưa ra
kế hoạch 5 năm lần thứ 4 (1946 – 1950) với mục tiêu hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi
phục công nghiệp, nông nghiệp đạt và vượt mức chiến tranh.
Trong vòng 5 năm thực hiện kế hoạch, Liên đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Công nghiệp Liên Xô phục hồi vào năm 1947, đạt mức trước chiến tranh; năm 1950, Liên
Xô đã khôi phục và xây dựng mới được 6200 xí nghiệp, giá trị tổng sản lượng công nghiệp
tăng 70% so với năm 1940. Đối với nông nghiệp, Liên Xô áp dụng nhiều biện pháp để duy
trì các nông trang tập thể, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, tính tới năm 1950,
giá trị tổng sản lượng nông nghiệp chỉ bằng 90% so với 1950. Không thể không kể đến
công nghiệp quốc phòng với những thành tựu rực rỡ với việc xây dựng thành công lò phản
ứng hạt nhân vào năm 1946. Sau đó 3 năm, năm 1949, Liên đã cho thử thành công
bom nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền về vũ khí hạt nhân của Mĩ. Không chỉ vậy, vào năm
1954, Liên Xô còn là quốc gia đầu tiên có nhà máy điện nguyên tử.
Không chỉ vậy, Liên còn đạt được một vài “thắng lợi” trên mặt trận ngoại giao.
Đầu tiên việc giúp đỡ lực lượng Đảng Cộng sản các nước Đông Âu lên nắm quyền,
thành lập các nhà nước Dân chủ nhân dân. Sau đó, vào ngày 8/01/1949, Hội đồng Tương
trợ Kinh tế được thành lập hình thành hệ thống hội chủ nghĩa thế giới. Các quan hệ
ngoại giao giữa Liên với các nước XHCN châu Á cũng dần được thiệt lập: Liên
công nhận đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam (30/01/1950), tiếp đó kết với
Trung Quốc Hiệp ước Tương trợ Trungvào 14/02/1950 và viện trợ cho Trung Quốc
tiến hành Chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953).
8
2.2. Giai đoạn 19501985: Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hộithời phát
triển đỉnh cao (1951 – nửa đầu 1970)
Sau khi hoàn thành khôi phục kinh tế, Liên Xô bắt tay thực hiện các kế hoạch dài hạn
phát triển kinh tế, văn hoá, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội.
Trong thời này, phương hướng phát triển công nghiệp bản tiếp tục đẩy mạnh
sản xuất công nghiệp nặng nền tảng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhất những
ngành ý nghĩa quyết định sự tiến bộ thuật như chế tạo máy, điện lực, hoá dầu, hoá
chất. Trong hơn hai thập kỉ kể từ năm 1950, mặc dù còn nhiều sai lầm, thiết sót, Liên
đã thu được những thành tựu to lớn, trở thành cường quốc công nghiệp đứng thứ hai trên
thế giới (sau Mĩ), chiến hơn 20% sản lượng công nghiệp thế giới. Trong nông nghiệp, Liên
Xô tích cực thực hiện thâm canh trên sở giới hoá, điện khí hoá hoá học hoá; đẩy
mạnh tiến bộ khoa học kĩ thuật. Từ nửa sau năm 1953 đã diễn ra nhiều cải cách quan trọng
để lại nhiều mặt tích cực trong sự phát triển nông nghiệp. Đảng Chính phủ viết đã
có nhiều chủ trương để phát triển nông nghiệp như khai hoang tăng diện tích canh tác, cải
tạo xây dựng hệ thống thuỷ lợi, cải tổ các trạm máy kéo, đưa cán bộ, chuyên gia nông
nghiệp về địa phương, cải tiến chế độ giá cả, quan tâm tới kinh tế phụ gia đình, tới lợi ích
của người lao động…. Về khoa học kĩ thuật, Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu xuất sắc
trong các lĩnh vực khoa học cơ bản toán, lí, hoá, sinh, trong ngành điện tử, điều khiển học,
khoa học trụ. Tháng 10/1957, Liên đã phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên
lên quỹ đạo trái đất. Tháng 4/1961, con người đầu tiên của thế giới đã bay lên vũ trụ, thực
hiện chuyến bay vòng quanh trái đất trên con tàu Phương Đông công dân Liên Yuri
Gagarin, mở đầu kỉ nguyên chinh phục vũ trụ vì mục đích hoà bình. Liên Xô cũng là nước
dẫn đầu thế giới về những chuyến bay dài ngày trong vũ trụ. Bên cạnh đó, trên lĩnh vực
hội, Đảng và Nhà nước Xô viết tăng cường giáo dục con người mới xã hội chủ nghĩa. Liên
nước đứng đầu thế giới về trình độ học vấn của nhân dân: trên 30 triệu người làm
việc trí óc.
Với cách một trong những nước sáng lập ra Liên Hợp Quốc (1945), Liên đã
nhiều sáng kiến quan trọng nhằm giữ vững phát huy vai trò của tổ chức này trong
quan hệ quốc tế. Liên lúc này đã trở thành thành trì của hoà bình thế giới chỗ dựa
vững chắc nhất, tin cậy nhất của phong trào cách mạng thế giới. Địa vị và ảnh hưởng quốc
tế của Liên Xô lớn mạnh hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng năng lượng thế giới năm 1973 đã tác động mạnh mẽ tới
nhiều quốc gia, trong đó cả Liên Xô. Nhưng thay nhìn nhận vấn đề một cách đúng
đắn, các nhà lãnh đạo lại cho rằng Liên sẽ không chịu ảnh hưởng tiếp tục xây
9
dựng XHCN theo hình cũ. Kết quả, nền kinh tế Liên trong những năm 70 đến
đầu những năm 80 của thế kỉ XX đã bị suy sụp và khủng hoảng nghiêm trọng. Trong vòng
15 năm (1970 – 1985), thu nhập quốc dân giảm 2.5 lần, sản xuất công nghiệp giảm 2.5 lần,
sản xuất nông nghiệp giảm 3.5 lần, thu nhập theo đầu người giảm 3 lần…, khoa học
thuật trở nên lạc hậu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày một giảm, cấu kinh tế mất cân
đối giữa công nghiệp nặng công nghiệp nhẹ, giữa công nghiệp nông nghiệp cũng
mất cân đối nghiêm trọng. Việc đẩy nhanh tiến bộ khoa học thuật ứng dụng khoa
học thuật vào sản xuất cũng bị hạn chế nhiều do chế quản mệnh lệnh hành chính,
quan liêu bao cấp, mặc khoa học thuật của Liên khá phát triển đội ngũ
đông đảo các nhà khoa học. Theo thống vào năm 1984 1985, trình độ khoa học
thuật chung của Liên lạc hậu so với các nước phát triển phương Tây khoảng 12 năm,
nhất là các lĩnh vực mới như vi điện tử, năng lượng, vật liệu mới, kĩ thuật thông tin, vi sinh
vật…. Không chỉ vậy, vị trí cường quốc của Liên cũng bị các nước khác thách thức,
trước hết là Nhật.
2.3. Giai đoạn 1985 – 1991: Khủng hoảng, cải tổ và sụp đổ
Đầu những năm 80, Liên lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đặt ra yêu cầu cải tổ,
đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Tháng 11/1982, Tổng thống Brezhnev qua đời.
Tháng 3/1985, Gorbachev lên cầm quyền. Trong cuộc họp của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tháng 4/1985, ông đã đề ra được cụ thể hoá tại Đại hộiChiến lược tăng tốc
Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XXVII (1986), sau đó được đưa vào kế hoạch 5 năm lần
thứ bảy (1986 1990) với tên gọi . Đến Đại hộiTăng tốc sự phát triển kinh tế hội
XXVIII (2/1986), thuật ngữ được đưa ra.“cải tổ”
Cải tổ được chia làm 2 giai đoạn.
Giai đoạn 1 (4/1985 – 6/1988), lấy cải tổ kinh tế làm trọng tâm, với hai mục tiêu chính:
1– loại bỏ, khắc phục trì trệ kéo dài 2 thập niên dưới thời Brezhev; 2– thay đổi quy
phát triển kinh tế bằng cách phát triển kinh tế theo chiều sâu thay cho chiều rộng. Giai
đoạn này chủ yếu dùng cải cách quy mô, cơ cấu kinh tế để tăng thu nhập quốc dân.
Giai đoạn 2 (6/1988 – 12/1991), cải cách toàn diện và sự sụp đổ của Liên Xô. Hội nghị
toàn Liên bang của Đảng Cộng sản Liên lần XIX (28/6 01/7/1988) quyết định tiến
hành cải tổ sâu rộng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại,
…. Đặc biệt về chính trị, Gorbachev tiến hành dân chủ hoá đời sống chính trị và cải cái hệ
thống chính trị, điều này khiến người dân giảm sút niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng
Nhà nước viết, làm giảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên trong đời sống
10
chính trị của nhà nước, làm thay đổi cấu mô hình chính trị, xa rời nguyên tắc lãnh đạo
của chủ nghĩa Marx – Lenin.
Do những sai lầm trong duy, cuộc cải tổ làm cho tình hình Liên khủng hoảng
thêm trầm trọng một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của hình
XHCN ở Liên Xô.
Công cuộc cải tổ ngày càng lún sâu vào khó khăn bế tắc, Liên lâm vào khủng
hoảng trên mọi mặt: sự suy sụp về kinh tế, những rối ren về chính trị nhiều tệ nạn
hội; mâu thuẫn xung đột giữa các dân tộc dẫn đến hiện tượng li khai của một số nước
cộng hòa ra khỏi liên bang Xô viết, sự chia rẽ trong nội bộ Đảng Cộng sản…
Ngày 19/8/1991, những người thuộc phái “bảo thủ” trong Đảng đã làm cuộc đảo chính
lật đổ Gorbachev nhưng bị thất bại, hậu quả hết sức nặng nề: Đảng Cộng sản bị đình chỉ
hoạt động, Chính phủ viết bị giải thể, 11 nước cộng hòa tách khỏi Liên Xô, thành lập
Cộng đồng các quốc gia độc lập vào ngày 21/12/1991 gọi tắt SNG. Một làn sóng
chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội dâng lên khắp mọi nơi.
Ngày 25/12/1991, Gorbachev từ chức Tổng thống. Cùng ngày đó, cờ đỏ búa liềm
trên nóc Điện Kremli bị hạ xuống, thay bằng cờ 3 sọc trắng xanh đỏ của phong trào
nước Nga dân chủ. Đến đây, chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị sụp đổ ở Liên Xô và Liên bang
Xô viết cũng chấm dứt sự tồn tại trong suốt hơn nửa thế kỉ.
II. Đánh giá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1925 – 1991)
1. Đặc trưng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1925 – 1991)
1.1. Đặc trưng về kinh tế
Mô hình kinh tế đặc trưng của Liên là kế hoạch hoá tập trung . Sở(kinh tế chỉ huy)
hữu kinh tế chỉ còn hai thành phần: nhà nước và tập thể; sở hữu công hữu đóng vai trò chủ
đạo dưới hai hình thức: sở hữu quốc doanhsở hữu tập thể, nhà nước quản lí toàn bộ
liệu sản xuất của hội. Tỉ trọng công nghiệp sở hữu quốc doanh 100%, kinh doanh
hàng hoá 95%. Bên cạnh đó, kế hoạch hoá sản xuất theo mệnh lệnh tập trung của nhà
nước, không thừa nhận sản xuấttrao đổi hàng hoá trên sở giá trị. Nhà nước bao cấp
toàn bộ đầu vào: giao nguyên vật liệu, trả lương cho lao động, cung cấp vốn sản xuất (cả
vốn định vốn lưu động), giao quyền sử dụng đất… Không chỉ vậy, Nhà nước còn
nắm toàn bộ đầu ra của sản phẩm: định giá bán, quản lí về khối lượng và chất lượng, phân
phối hàng hoá. Sản phẩm cũng được phan phối theo hình thức lao động, trên thực tế tồn tại
dưới dạng bao cấp bình quân theo tem phiếu (cán bộ nhân dân), theo đặc quyền, chức
vụ (cán bộ cao cấp).
11
| 1/15

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CHỦ ĐỀ 3: TRÌNH BÀY TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở LIÊN XÔ TỪ NĂM 1925 ĐẾN NĂM 1991. TỪ LÍ LUẬN
VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC, ĐÁNH GIÁ MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ CỦA
CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở LIÊN XÔ (1925 – 1991).
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Quỳnh Trang Mã sinh viên: 705602171 Lớp: B–K70 Giảng viên: Ninh Xuân Thao
HÀ NỘI, THÁNG 12 NĂM 2023 2 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................4 1.
Ý nghĩa của chủ đề.........................................................................................4 2.
Mục tiêu tìm hiểu chủ đề................................................................................4 3.
Nhiệm vụ nghiên cứu:....................................................................................4
NỘI DUNG BÀI TIỂU LUẬN......................................................................................5 I.
Tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô từ năm 1925 đến năm 1991........5 1.
Giai đoạn 1925 – 1941....................................................................................5 1.1.
Giai đoạn 1926 – 1929: Công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa............5 1.2.
Giai đoạn 1928 – 1937: Công cuộc tập thể hoá nông nghiệp và hoàn thành
các kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và lần thứ hai..................................................................6 1.3.
Giai đoạn 1938 – 1941: Kế hoạch 5 năm lần thứ ba và công cuộc phòng thủ
đất nước ............................................................................................................................7 2.
Giai đoạn 1945 – 1991....................................................................................8 2.1.
Giai đoạn 1945 – 1950: Khắc phục hậu quả chiến tranh và khôi phục kinh tế. 8 2.2.
Giai đoạn 1950 – 1985: Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và thời kì phát
triển đỉnh cao (1951 – nửa đầu 1970).................................................................................9 2.3.
Giai đoạn 1985 – 1991: Khủng hoảng, cải tổ và sụp đổ..................................10
II. Đánh giá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1925 – 1991).............11 1.
Đặc trưng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1925 – 1991). 11 1.1.
Đặc trưng về kinh tế...................................................................................11 1.2.
Đặc trưng về chính trị.................................................................................12 2.
Điểm tích cực trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1925 – 1991)
..........................................................................................................................12 3.
Mặt hạn chế của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1925 – 1991)
..........................................................................................................................13
KẾT LUẬN...................................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................15 3 MỞ ĐẦU
1.Ý nghĩa của chủ đề
Từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), V.I.Lenin đã kế thừa và
hoàn thiện những lí thuyết về chủ nghĩa xã hội của Karl Marx để xây dựng nên một nhà
nước Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết, hoàn thành mục tiêu của cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Lenin đã từng nói: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên
tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô – Viết và qua những giai đoạn phát triển
nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản mà không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Và không đợi sự giúp đỡ từ bất cứ quốc gia nào, Liên Xô đã là nước đi đầu, tiên
phong trong việc xây dựng hệ thống xã hội chủ nghĩa, hình thành nên một trật tự thế giới
hoàn toàn mới. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã được tiến hành trong
suốt gần một thế kỉ, gặt hái được cả những thành tựu và thất bại, mà thất bại đau đớn nhất
vẫn là sự sụp đổ của nhà nước Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết, nhưng đó là
viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho mô hình xã hội chủ nghĩa, áp dụng ở các quốc gia xã
hội chủ nghĩa, có giá trị tham khảo đối với các quốc gia trong quá trình xây dựng đất nước,
đặc biệt là các nước thuộc địa, phụ thuộc sau khi thoát khỏi ách độ hộ của thực dân đế quốc.
2.Mục tiêu tìm hiểu chủ đề
Thông qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu tư liệu trình bày về tiến trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô từ năm 1925 đến năm 1991; từ lí luận về xây dựng chủ nghĩa
xã hội của chủ nghĩa xã hội khoa học, qua đó phân tích và đánh giá được những mặt tích
cực và hạn chế của công cuộc xây dựng chủ nghĩa ở Liên Xô (1925 – 1991).
3.Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu các tư liệu, tài liệu về chủ nghĩa xã hội khoa học, và về tiến
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô từ những năm 1925 đến năm 1991, có thể xác
định nhiệm vụ chính của bài tiểu luận là:
Thứ nhất, trình bài tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô từ năm 1925 đến
năm 1991, bao gồm các giai đoạn chính và kết quả của từng giai đoạn.
Thứ hai, từ lí luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa xã hội khoa học, đánh
giá mặt tích cực và hạn chế của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1925 – 1991). 4
NỘI DUNG BÀI TIỂU LUẬN
I. Tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô từ năm 1925 đến năm 1991
Sau 7 năm chiến tranh đế quốc và nội phản, nhân dân Liên Xô bước vào thời kì xây
dựng kinh tế với những thuận lợi và khó khăn cả trong nước lẫn bên ngoài.
Liên Xô lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế – chính trị nghiêm trọng. Để giải quyết
vấn đề này, Lenin khởi thảo Chính sách Kinh tế mới và chính sách được bắt đầu đi vào
hoạt động kể từ sau Đại hội X của Đảng Cộng sản Liên Xô. Bản chất của Chính sách Kinh
tế mới
là sự chuyển đổi từ một nền kinh tế bao cấp, độc quyền của nhà nước sang một nền
kinh tế hàng hoá có sự điều tiết của nhà nước, công nhận sự cùng tồn tại và phát triển
trong một thời gian dài các thành phần kinh tế khác nhau, sử dụng vốn, kĩ thuật và kinh
nghiệm tư bản trong và ngoài nước nhằm tạo ra xung lực kích thích sự phát triển sản xuất,
giải quyết nhanh chóng các vấn đề trước mắt là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng,…
cho xã hội. Nhờ có đường lối đúng đắn, công cuộc khôi phục kinh tế đã thu được những kết quả nhanh chóng.
Ngày 30/12/1922, trên cơ sở tự nguyện của các dân tộc, Liên bang Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Xô viết ra đời – gọi tắt là Liên Xô, gồm 4 nước Cộng hoà: Nga, Ukraina,
Bielorussia và Ngoại Kavkaz. Sau khi Liên bang thành lập và có những thành tựu bước đầi
về kinh tế – xã hội, năm 1924, Hiến pháp mới được ban hành.
Tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô từ năm 1925 đến năm 1991 có thể chia
làm hai giai đoạn chính: giai đoạn 1925 – 1941 và giai đoạn 1945 – 1991.
1. Giai đoạn 1925 – 1941
1.1. Giai đoạn 1926 – 1929: Công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
Giai đoạn từ năm 1926 đến năm 1929 được coi là giai đoạn bước đầu công nghiệp hoá
xã hội chủ nghĩa. Năm 1925, mặc dù kinh tế khôi phục xấp xỉ mức chiến tranh nhưng căn
bản Liên Xô vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu so với các nước tư bản phương Tây với
nông nghiệp chiếm 2/3 tổng sản phẩm quốc dân và đa số dựa trên kĩ thuật lạc hậu. Vì vậy,
tại Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XIV họp tháng 12/2015, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ công nghiệp hoá XHCN nhằm biến Liên Xô từ một nước
nông nghiệp thành một nước công nghiệp có thể tự lực sản xuất máy móc và trang thiết bị
cần thiết cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo phương châm tự lực cánh sinh, dựa vào
sức mình là chính. Đại hội lần thứ XIV đi vào lịch sử là “Đại hội công nghiệp hoá đất nước”. 5
Công cuộc công nghiệp hoá XHCN ngay trong những năm đầu đã thu về những kết
quả tốt đẹp. Cụ thể, năm 1926, việc chế tạo máy móc đã vượt qua mức sản xuất năm 1913.
Năm 1927, sản lượng công nghiệp tăng 18% so với năm 1926, chiếm tỉ trọng 42% tổng
thu nhập quốc dân. Năm 1928, tỉ trọng công nghiệp chiếm 54.5% tổng sản lượng kinh tế
quốc dân. Năm 1929 công nghiệp hoá XHCN ở Liên Xô đã giải quyết được 3 vấn đề then
chốt: tích luỹ vốn, ngành công nghiệp nặng và năng suất lao động. Số vốn đầu tư lên tới
3400 triệu rúp, gấp 4 lần năm 1926.
1.2. Giai đoạn 1928 – 1937: Công cuộc tập thể hoá nông nghiệp và hoàn thành
các kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và lần thứ hai
Trên cơ sở những thành tựu bước đầu của công nghiệp hoá XHCN, từ năm 1928 đến
năm 1937, Liên Xô đã diễn ra công cuộc tập thể hoá nông nghiệp và hoàn thành các kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất và lần thứ hai. Việc tập thể hoá nông nghiệp được tiến hành qua
hai bước: Bước thứ nhất kéo dài từ 1928 đến 1929 với mục đích hạn chế kinh tế phú nông;
từ năm 1930 trở đi chuyển sang bước thứ hai là tiêu diệt giai cấp phú nông, đồng thời mở
rộng việc tập thể hoá nông nghiệp với hai hình thức là nông trang tập thể và nông trường
quốc doanh. Tuy nhiên, trong quá trình tập thể hoá, một số địa phương mắc phải những sai
lầm khuyết điểm, như nóng vội, vi phạm nguyên tắc tự nguyện của nông dân, khiến cho
tầng lớp nông dân bị kích động, khiến cho Chính sách Kinh tế mới căn bản bị xoá bỏ trong
khi những điều kiện chưa được chín muồi và phải chuyển sang dùng phương pháp mệnh
lệnh, quan liêu, độc đoán. Tuy Đảng và Nhà nước Xô viết đã có những biện pháp để sửa
chữa các sai lầm này, nhưng hậu quả của nó vẫn kéo dài mãi về sau.
Cùng với tập thể hoá nông nghiệp, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đề ra và thực hiện kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất (1928 – 1933) với nhiệm vụ chính là tiếp tục đẩy mạnh công
nghiệp hoá XNCH, hoàn thành tập thể hoá nông nghiệp, đẩy mạnh cuộc cách mạng văn
hoá, hạn chế và tiến tới tiêu diệt hoàn toàn thành phần kinh tế TBCN ở thành thị và nông
thôn. Từ năm 1933, nhân dân Liên Xô bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1933
– 1937), nhờ vào tinh thần lao động dũng cảm, sáng tạo của nhân dân Liên Xô, kế hoạch 5
năm lần thứ hai được hoàn thành.
Tới giữa năm 1930 công cuộc tập thể hoá nông nghiệp đã thu hút được hơn 10 triệu
nông hộ tham gia (chiếm 40% nông hộ cả nước). Năm 1931, phong trào lại tiến thêm một
bước nữa, nông trang tập thể và nông trường quốc doanh đã chiếm 2/3 diện tích gieo trồng
và 53% tổng số nông hộ toàn quốc. Tới cuối năm 1932, công cuộc tập thể hoá nông nghiệp căn bản hoàn thành. 6
Trong thời gian thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1928 – 1932), Liên Xô đã
thành công trong việc xây dựng nền kinh tế kĩ thuật XHCN, một nền công nghiệp hiện đại
và biến Liên Xô trở thành một nước công – nông nghiệp. Thành tựu: Sản lượng công
nghiệp chiếm 70% tổng GDP; 1500 xí nghiệp được xây dựng, trang bị kĩ thuật, máy móc tiên tiến;…
Trên lĩnh vực văn hoá – giáo dục, chính phủ Liên Xô cũng đạt được những thành tựu
to lớn. Cụ thể, năm 1930, chính phủ Xô viết thực hiện chế độ giáo dục bắt buộc. Từ 1930
– 1932 có trên 30 triệu người được thanh toán mù chữ. Trong thời gian kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất, số trường cao đẳng công nghiệp tăng 10 lần, số trường cung cấp kỹ thuật tăng 4
lần, ngành giáo dục đại học cung cấp 10 vạn kỹ sư, hàng chục viện nghiên cứu khoa học được ra đời.
Giai đoạn kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1933 – 1937), Liên Xô đã triệt tiêu hoàn toàn
thành phần kinh tế TBCN trong nền kinh tế, hoàn thành cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc
dân trên cơ sở kĩ thuật hiện đại, đẩy mạnh cách mạng về mặt văn hoá, tư tưởng, giáo dục
nhân dân lao động thành những người tích cực và tự giác xây dựng CNXH. Sản lượng
công nghiệp chiếm tỉ lệ 77.4% trong tổng sản phẩm kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, công
cuộc tập thể hoá nông nghiệp hoàn thành; có 93% tổng nông hộ nông thôn gia nhập nông
trang tập thể; cơ sở vật chất – kĩ thuật được trang bị hiện đại;…. Không chỉ vậy, đời sống
vật chất và tinh thần nhân dân ngày càng được nâng cao, các giai cấp bóc lột đã bị thủ tiêu,
chỉ còn hai giai cấp lao động là công nhân, nông dân và tầng lớp tri thức XHCN. Mối quan
hệ giữa các dân tộc trở nên gắn bó, hữu nghị hơn trước.
1.3. Giai đoạn 1938 – 1941: Kế hoạch 5 năm lần thứ ba và công cuộc phòng thủ đất nước
Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XVIII (1939) đã thông qua kế hoạch 5 năm
lần thứ ba (1938 – 1942) với nhiệm vụ đuổi kịp và vượt qua các nước TBCN về trình độ kĩ
thuật và tốc độ phát triển. Bên cạnh đó là công cuộc phòng thủ đất nước bằng việc đẩy
mạnh xây dựng công nghiệp quốc phòng và tiến hành tổ chức lại lực lượng vũ trang.
Trong vòng 3 năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1938 – 1940), sản phẩm công
nghiệp tăng 45%, và tới giữa năm 1941 đã đạt 86% tổng sản phẩm được ấn định trong kế
hoạch. Ở nông thôn cũng có sự biến đổi to lớn, từ năm 1938 đến đầu năm 1941, Liên Xô
đã xây dựng mới hơn 3700 trạm cơ giới kĩ thuật và điện khí hoá hơn 10 nghìn nông trang.
Bên cạnh đó, sản lượng công nghiệp quốc phòng 39%, biến Liên Xô trở thành nước đứng
thứ 3 về sản xuất máy bay chiến đấu sang Đức và Anh, trong đó có những loại máy bay 7
mới xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới. Đời sống của nhân dân được nâng cao về mặt thu
nhập, mức lương cũng dần trở nên ổn định.
2. Giai đoạn 1945 – 1991
2.1. Giai đoạn 1945 – 1950: Khắc phục hậu quả chiến tranh và khôi phục kinh tế
Sau chiến tranh, Liên Xô tích cực tiến hành công cuộc khôi phục kinh tế, bắt đầu bằng
việc chuyển nền kinh tế từ thời chiến sang thời bình. Liên Xô đã cho giải trừ lực lượng
quân sự, tạo việc làm cho quân nhân sau khi giải ngũ: tháng 3/1948, quân đội Liên Xô đã
giảm từ 11.4 triệu người xuống còn 2.9 triệu người. Bên cạnh đó, Uỷ ban Quốc phòng của
Nhà nước bị giải thể, các nhà máy quân sự chuyển sang sản xuất các mặt hàng công
nghiệp khác. Công nhân được giảm giờ làm, khôi phục chế độ ngày làm 8 giờ.
Cùng với việc khôi phục kinh tế sau chiến tranh, Đảng Cộng sản Liên Xô còn đưa ra
kế hoạch 5 năm lần thứ 4 (1946 – 1950) với mục tiêu hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi
phục công nghiệp, nông nghiệp đạt và vượt mức chiến tranh.
Trong vòng 5 năm thực hiện kế hoạch, Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Công nghiệp Liên Xô phục hồi vào năm 1947, đạt mức trước chiến tranh; năm 1950, Liên
Xô đã khôi phục và xây dựng mới được 6200 xí nghiệp, giá trị tổng sản lượng công nghiệp
tăng 70% so với năm 1940. Đối với nông nghiệp, Liên Xô áp dụng nhiều biện pháp để duy
trì các nông trang tập thể, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, tính tới năm 1950,
giá trị tổng sản lượng nông nghiệp chỉ bằng 90% so với 1950. Không thể không kể đến
công nghiệp quốc phòng với những thành tựu rực rỡ với việc xây dựng thành công lò phản
ứng hạt nhân vào năm 1946. Sau đó 3 năm, năm 1949, Liên Xô đã cho thử thành công
bom nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền về vũ khí hạt nhân của Mĩ. Không chỉ vậy, vào năm
1954, Liên Xô còn là quốc gia đầu tiên có nhà máy điện nguyên tử.
Không chỉ vậy, Liên Xô còn đạt được một vài “thắng lợi” trên mặt trận ngoại giao.
Đầu tiên là việc giúp đỡ lực lượng Đảng Cộng sản ở các nước Đông Âu lên nắm quyền,
thành lập các nhà nước Dân chủ nhân dân. Sau đó, vào ngày 8/01/1949, Hội đồng Tương
trợ Kinh tế được thành lập – hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Các quan hệ
ngoại giao giữa Liên Xô với các nước XHCN châu Á cũng dần được thiệt lập: Liên Xô
công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam (30/01/1950), tiếp đó là kí kết với
Trung Quốc Hiệp ước Tương trợ Trung – Xô vào 14/02/1950 và viện trợ cho Trung Quốc
tiến hành Chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953). 8
2.2. Giai đoạn 1950 – 1985: Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và thời kì phát
triển đỉnh cao (1951 – nửa đầu 1970)
Sau khi hoàn thành khôi phục kinh tế, Liên Xô bắt tay thực hiện các kế hoạch dài hạn
phát triển kinh tế, văn hoá, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kì này, phương hướng phát triển công nghiệp cơ bản là tiếp tục đẩy mạnh
sản xuất công nghiệp nặng – nền tảng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhất là những
ngành có ý nghĩa quyết định sự tiến bộ kĩ thuật như chế tạo máy, điện lực, hoá dầu, hoá
chất. Trong hơn hai thập kỉ kể từ năm 1950, mặc dù còn nhiều sai lầm, thiết sót, Liên Xô
đã thu được những thành tựu to lớn, trở thành cường quốc công nghiệp đứng thứ hai trên
thế giới (sau Mĩ), chiến hơn 20% sản lượng công nghiệp thế giới. Trong nông nghiệp, Liên
Xô tích cực thực hiện thâm canh trên cơ sở cơ giới hoá, điện khí hoá và hoá học hoá; đẩy
mạnh tiến bộ khoa học kĩ thuật. Từ nửa sau năm 1953 đã diễn ra nhiều cải cách quan trọng
để lại nhiều mặt tích cực trong sự phát triển nông nghiệp. Đảng và Chính phủ Xô viết đã
có nhiều chủ trương để phát triển nông nghiệp như khai hoang tăng diện tích canh tác, cải
tạo và xây dựng hệ thống thuỷ lợi, cải tổ các trạm máy kéo, đưa cán bộ, chuyên gia nông
nghiệp về địa phương, cải tiến chế độ giá cả, quan tâm tới kinh tế phụ gia đình, tới lợi ích
của người lao động…. Về khoa học kĩ thuật, Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu xuất sắc
trong các lĩnh vực khoa học cơ bản toán, lí, hoá, sinh, trong ngành điện tử, điều khiển học,
khoa học vũ trụ. Tháng 10/1957, Liên Xô đã phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên
lên quỹ đạo trái đất. Tháng 4/1961, con người đầu tiên của thế giới đã bay lên vũ trụ, thực
hiện chuyến bay vòng quanh trái đất trên con tàu Phương Đông – công dân Liên Xô Yuri
Gagarin, mở đầu kỉ nguyên chinh phục vũ trụ vì mục đích hoà bình. Liên Xô cũng là nước
dẫn đầu thế giới về những chuyến bay dài ngày trong vũ trụ. Bên cạnh đó, trên lĩnh vực xã
hội, Đảng và Nhà nước Xô viết tăng cường giáo dục con người mới xã hội chủ nghĩa. Liên
Xô là nước đứng đầu thế giới về trình độ học vấn của nhân dân: trên 30 triệu người làm việc trí óc.
Với tư cách là một trong những nước sáng lập ra Liên Hợp Quốc (1945), Liên Xô đã
có nhiều sáng kiến quan trọng nhằm giữ vững và phát huy vai trò của tổ chức này trong
quan hệ quốc tế. Liên Xô lúc này đã trở thành thành trì của hoà bình thế giới và chỗ dựa
vững chắc nhất, tin cậy nhất của phong trào cách mạng thế giới. Địa vị và ảnh hưởng quốc
tế của Liên Xô lớn mạnh hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng năng lượng thế giới năm 1973 đã tác động mạnh mẽ tới
nhiều quốc gia, trong đó có cả Liên Xô. Nhưng thay vì nhìn nhận vấn đề một cách đúng
đắn, các nhà lãnh đạo lại cho rằng Liên Xô sẽ không chịu ảnh hưởng gì và tiếp tục xây 9
dựng XHCN theo mô hình cũ. Kết quả, nền kinh tế Liên Xô trong những năm 70 và đến
đầu những năm 80 của thế kỉ XX đã bị suy sụp và khủng hoảng nghiêm trọng. Trong vòng
15 năm (1970 – 1985), thu nhập quốc dân giảm 2.5 lần, sản xuất công nghiệp giảm 2.5 lần,
sản xuất nông nghiệp giảm 3.5 lần, thu nhập theo đầu người giảm 3 lần…, khoa học kĩ
thuật trở nên lạc hậu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày một giảm, cơ cấu kinh tế mất cân
đối giữa công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, giữa công nghiệp và nông nghiệp cũng
mất cân đối nghiêm trọng. Việc đẩy nhanh tiến bộ khoa học – kĩ thuật và ứng dụng khoa
học kĩ thuật vào sản xuất cũng bị hạn chế nhiều do cơ chế quản lí mệnh lệnh hành chính,
quan liêu bao cấp, mặc dù khoa học kĩ thuật của Liên Xô khá phát triển và có đội ngũ
đông đảo các nhà khoa học. Theo thống kê vào năm 1984 – 1985, trình độ khoa học kĩ
thuật chung của Liên Xô lạc hậu so với các nước phát triển phương Tây khoảng 12 năm,
nhất là các lĩnh vực mới như vi điện tử, năng lượng, vật liệu mới, kĩ thuật thông tin, vi sinh
vật…. Không chỉ vậy, vị trí cường quốc của Liên Xô cũng bị các nước khác thách thức, trước hết là Nhật.
2.3. Giai đoạn 1985 – 1991: Khủng hoảng, cải tổ và sụp đổ
Đầu những năm 80, Liên Xô lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đặt ra yêu cầu cải tổ,
đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Tháng 11/1982, Tổng thống Brezhnev qua đời.
Tháng 3/1985, Gorbachev lên cầm quyền. Trong cuộc họp của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tháng 4/1985, ông đã đề ra Chiến lược tăng tốc và được cụ thể hoá tại Đại hội
Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XXVII (1986), sau đó được đưa vào kế hoạch 5 năm lần
thứ bảy (1986 – 1990) với tên gọi Tăng tốc sự phát triển kinh tế – xã hội. Đến Đại hội
XXVIII (2/1986), thuật ngữ “cải tổ” được đưa ra.
Cải tổ được chia làm 2 giai đoạn.
Giai đoạn 1 (4/1985 – 6/1988), lấy cải tổ kinh tế làm trọng tâm, với hai mục tiêu chính:
1– loại bỏ, khắc phục trì trệ kéo dài 2 thập niên dưới thời Brezhev; 2– thay đổi quy mô
phát triển kinh tế bằng cách phát triển kinh tế theo chiều sâu thay cho chiều rộng. Giai
đoạn này chủ yếu dùng cải cách quy mô, cơ cấu kinh tế để tăng thu nhập quốc dân.
Giai đoạn 2 (6/1988 – 12/1991), cải cách toàn diện và sự sụp đổ của Liên Xô. Hội nghị
toàn Liên bang của Đảng Cộng sản Liên Xô lần XIX (28/6 – 01/7/1988) quyết định tiến
hành cải tổ sâu rộng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại,
…. Đặc biệt về chính trị, Gorbachev tiến hành dân chủ hoá đời sống chính trị và cải cái hệ
thống chính trị, điều này khiến người dân giảm sút niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước Xô viết, làm giảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô trong đời sống 10
chính trị của nhà nước, làm thay đổi cơ cấu mô hình chính trị, xa rời nguyên tắc lãnh đạo
của chủ nghĩa Marx – Lenin.
Do những sai lầm trong tư duy, cuộc cải tổ làm cho tình hình Liên Xô khủng hoảng
thêm trầm trọng và là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của mô hình XHCN ở Liên Xô.
Công cuộc cải tổ ngày càng lún sâu vào khó khăn bế tắc, Liên Xô lâm vào khủng
hoảng trên mọi mặt: sự suy sụp về kinh tế, những rối ren về chính trị và nhiều tệ nạn xã
hội; mâu thuẫn và xung đột giữa các dân tộc dẫn đến hiện tượng li khai của một số nước
cộng hòa ra khỏi liên bang Xô viết, sự chia rẽ trong nội bộ Đảng Cộng sản…
Ngày 19/8/1991, những người thuộc phái “bảo thủ” trong Đảng đã làm cuộc đảo chính
lật đổ Gorbachev nhưng bị thất bại, hậu quả hết sức nặng nề: Đảng Cộng sản bị đình chỉ
hoạt động, Chính phủ Xô viết bị giải thể, 11 nước cộng hòa tách khỏi Liên Xô, thành lập
Cộng đồng các quốc gia độc lập vào ngày 21/12/1991 – gọi tắt là SNG. Một làn sóng
chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội dâng lên khắp mọi nơi.
Ngày 25/12/1991, Gorbachev từ chức Tổng thống. Cùng ngày đó, lá cờ đỏ búa liềm
trên nóc Điện Kremli bị hạ xuống, thay bằng lá cờ 3 sọc trắng xanh đỏ của phong trào
nước Nga dân chủ. Đến đây, chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị sụp đổ ở Liên Xô và Liên bang
Xô viết cũng chấm dứt sự tồn tại trong suốt hơn nửa thế kỉ. II.
Đánh giá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1925 – 1991)
1. Đặc trưng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1925 – 1991)
1.1. Đặc trưng về kinh tế
Mô hình kinh tế đặc trưng của Liên Xô là kế hoạch hoá tập trung (kinh tế chỉ huy). Sở
hữu kinh tế chỉ còn hai thành phần: nhà nước và tập thể; sở hữu công hữu đóng vai trò chủ
đạo dưới hai hình thức: sở hữu quốc doanh và sở hữu tập thể, nhà nước quản lí toàn bộ tư
liệu sản xuất của xã hội. Tỉ trọng công nghiệp sở hữu quốc doanh là 100%, kinh doanh
hàng hoá 95%. Bên cạnh đó, kế hoạch hoá sản xuất theo mệnh lệnh tập trung của nhà
nước, không thừa nhận sản xuất và trao đổi hàng hoá trên cơ sở giá trị. Nhà nước bao cấp
toàn bộ đầu vào: giao nguyên vật liệu, trả lương cho lao động, cung cấp vốn sản xuất (cả
vốn có định và vốn lưu động), giao quyền sử dụng đất… Không chỉ vậy, Nhà nước còn
nắm toàn bộ đầu ra của sản phẩm: định giá bán, quản lí về khối lượng và chất lượng, phân
phối hàng hoá. Sản phẩm cũng được phan phối theo hình thức lao động, trên thực tế tồn tại
dưới dạng bao cấp bình quân theo tem phiếu (cán bộ và nhân dân), theo đặc quyền, chức vụ (cán bộ cao cấp). 11