Tiểu luận "Ảnh hưởng của Nho giáo đối với đời sống tinh thần"
Tiểu luận "Ảnh hưởng của Nho giáo đối với đời sống tinh thần"
Preview text:
LỜI MỞ ĐẦU
Từ thiên niên kỷ thứ VIII trước Công nguyên, Ấn độ và Trung hoa cổ đại đã trở
thành trung tâm văn minh lớn của xã hội loài người lúc bấy giờ và từ đó các hệ thống
lý luận xuất hiện, triết học đã ra đời và tồn tại cho đến tận ngày nay…Trung Quốc là
nơi hình thành và phát triển của nhiều trường phái triết học lớn của Châu Á cũng như
toàn thế giới, trong đó gồm có các học thuyết như: Nho giáo, Đạo lão, Âm dương
gia, Pháp gia,…Trong đó Nho giáo do Không Tử sáng lập, từ khi xuất hiện đến cuối
thời phong kiến, Nho Giáo luôn là một trong những trường phái triết học đóng vai
trò quan trọng và có ảnh hưởng không chỉ ở Trung Quốc mà còn ở nhiều nước Châu
Á trong đó có Việt Nam. (Tiểu luận: Ảnh hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng một cách sâu sắc tới đời sống tinh thần của người Việt
Nam qua các thời kỳ lịch sử. Triết học Nho giáo chủ yếu bàn về các vấn đề chính trị,
đạo đức luân lý. Người Việt đã rất thông minh nắm lấy cơ hội kế thừa và tiếp biến
quá trình truyền bá Nho giáo của người Trung Hoa vào Việt Nam theo tinh thần thực
tiễn của dân tộc. Trong quá trình du nhập, tồn tại và phát triển ở Việt Nam, Nho giáo
đã góp phần to lớn trong việc kiến tạo bộ mặt văn hoá, xây dựng đời sống tinh thần
Việt Nam. Đặc biệt, chúng ta lại không thể không nói tới con người Việt với phương
châm sống có phép tắc, khuôn mẫu đạo đức nhất định theo tinh thần “Nho giáo”,
đồng thời còn là biểu tượng tự hào về truyền thống văn hoá dân tộc, là nguyên khí
tinh thần độc lập, tự cường của một dân tộc, đó chính là bản sắc riêng của con người
Việt Nam. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với
đời sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho tiểu luận của mình.
Chương I: TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO VÀ MỘT SỐ QUAN
ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO (Tiểu luận: Ảnh hưởng của nho giáo đối với
đời sống tinh thần)
1. Vài nét về tiến trình phát triển của Nho giáo (Khổng tử và Nho giáo):
Hệ tư tưởng của Nho giáo trải qua hơn 2000 năm phát triển và biến đổi. Cơ sở của
Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công
Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Nho giáo được
Khổng Tử, tên thật là Khâu, hay còn gọi là Trọng Ni, người nước Lỗ (551 – 479
trước Công nguyên, thời Xuân Thu – Chiến quốc) phát triển tư tưởng của Chu Công,
hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau
coi ông là người sáng lập ra Nho giáo. Khổng Tử là người mở đường vĩ đại của lịch
sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại. Ông là nhà triết học, nhà chính trị và là nhà giáo dục
nổi tiếng ở Trung quốc cổ đại. Ông đã hệ thống những tri thức tư tưởng đời trước và
quan điểm của ông thành học thuyết đạo đức chính trị riêng, gọi là Nho giáo. Học
thuyết của ông được hai nhà tư tưởng là Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát
triển. Mạnh Tử theo hướng duy tâm, Tuân Tử theo hướng duy vật. Trong lịch sử sau
này dòng Khổng Mạnh có ảnh hưởng lâu dài nhất. Từ nhà Hán trở đi, Nho giáo được
nhiều nhà tư tưởng phát triển và sử dụng theo môi trường xã hội của nó. (Tiểu luận:
Ảnh hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Từ đời Hán đến đời Thanh, Khổng học chủ yếu dùng hình thức kinh truyện để lưu
truyền. Đường Thái Tông sau khi hoàn thành toàn diện thống nhất quốc gia, liền cho
kinh học gia Khổng Dĩnh Đạt chú giải, hiệu đính lại năm kinh Nho gia là Dịch, Thi,
Thư, Tà tuyên, Lễ ký thành bộ Ngũ kinh chính nghĩa gần như tổng kết toàn diện kinh
học từ đời Hán đến đó. Ngũ kinh chính nghĩa trở thành sách giáo khoa dùng cho thi
cử đời Đường. Khổng học càng được giai cấp thống trị tín nhiệm, Đường Thái Tông
nói rất rõ “Nay trẫm yêu thích nhất là đạo của Nghiêu Thuấn và đạo của Chu Không
coi như chim thêm cánh, như cá gặp nước, không thể không có được”. Từ đó, Khổng
Tử với đế vương, với chính phủ các triều đại đều có quan hệ như Đường Thái Tông hình dung.
Khi lịch sử phức tạp của Trung Quốc tiến vào thời kỳ phát đạt – thời kỳ nhà Tống, vị
hoàng đế khai quốc là Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn lập tức chủ trì nghi lễ long
trọng tế tự Khổng Tử để biểu dương lòng thiếu đễ, vua còn thân chủ trì khoa thi tiến
sĩ mà nội dung hoàn toàn theo Nho học. Đối với Nho học mới bột hưng ở thời Tống,
chúng ta thường gọi đó là Lý học. (Tiểu luận: Ảnh hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Nội dung và kết cấu của Lý học hết sức rộng lớn, bắt đầu từ Hàn Dũ đời nhà Đường,
trải qua nỗ lực của Tôn Phục, Thạch Giới, Hồ Viên, Chu Đôn Di, Thiệu Ung,
Thương Tái, Trình Di, Trình Hạo đời Bắc Tống cho đến Chu Hi đời Nam Tống là
người tập đại thành hoàn chỉnh hệ thống tư tưởng Lý học. Lý học trình Chu nhấn
mạnh Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín như lễ trời (thiên lý) dùng học thuyết Khổng Mạnh
làm nguồn gốc, hấp thu thêm các học thuyết tư tưởng của Phật giáo, Đại giáo cung
cấp sự nhu yếu cho xã hội quân chủ chuyên chế. Chu Hi tập chú giải thích các kinh
điển Nho gia như Luận ngữ, Mạnh Tử trở thành những sách giáo khoa bắt buộc của
sĩ tử trong xã hội phong kiến và là tiêu chuẩn pháp định trong khoa cử của chính phủ. .
Ngoài Lý học của Trình Chu có địa vị chi phối, phái Công học của Trần Lượng, Diệp
Thích, phái Tâm học của Vương Dương Minh cũng đều tôn sùng Khổng Tử, hấp thu
một phần tư tưởng cơ bản của ông. Những học thuyết này đều được lưu truyền rộng
rãi và tạo ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội văn hoá Trung Quốc. (Tiểu luận: Ảnh
hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Vì Nho học được các sĩ đại phu tôn sùng, được các vương triều đua nhau đề xướng
nên Nho học thuận lợi thẩm thấu trong mọi lĩnh vực trong mọi giai tầng xã hội, từ rất
sớm nó đã vượt qua biên giới dân tộc Hán, trở thành tâm lý của cộng đồng dân tộc
Trung Quốc, là cơ sở văn hoá của tín ngưỡng và tập tính.
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã
hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được
người cai trị kiểu mẫu – người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân
tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với “tiểu nhân”, những người thấp
kém về điạ vị xã hội; sau “quân tử” còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao
thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với “tiểu nhân” là những người thiếu đạo đức
hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho
giáo hướng đến trước tiên là những người cầm quyền). (Tiểu luận: Ảnh hưởng của
nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải “tự đào tạo”, phải “tu
thân”. Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải “hành đạo” (Đạo
không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các
nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ,
vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xướng (hoặc như
họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ
nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ
khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh.
Nhìn chung hệ tư tưởng Nho giáo khi hình thành và phát triển đã là hình thái ý thức
của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến ở Trung Quốc. Đối với nó thì ngũ
luân, ngũ thường, hay tam cương ngũ thường là những cái tuyệt đối. Đối với nó xã
hội phong kiến không phải chỉ là một giai đoạn trong lịch sử loài người, luân lý
phong kiến không chỉ là một hình thái ý thức của giai đoạn ấy, như họ nói: “Quân
thần chi nghĩa vô sở đào ư thiên địa chi gian”
Hay là: “Thiên bất biến, đạo diệc bất biến” (Đổng Trọng Thư) Đạo ở đây tức là tam cương, ngũ thường.
2. Một số quan điểm cơ bản của Nho giáo: (Tiểu luận: Ảnh hưởng của nho giáo
đối với đời sống tinh thần)
Tựu trung lại tư tưởng trung tâm của Nho giáo là những giá trị tinh thần về chính trị,
đạo đức của con người và xã hội.
2.1 Quan điểm về bản chất con người:
Nho giáo đặt vấn đề đi tìm một bản tính có sẵn và bất biến của con người. Đức
Khổng Tử và Mạnh Tử đều quan niệm bản tính con người ta sinh ra vốn thiện. Bản
tính “Thiện” ở đây là tập hợp các giá trị chính trị, đạo đức của con người. Xuất phát
từ quan niệm cho rằng bản tính của con người là thiện, Khổng Tử đã xây dựng phạm
trù “Nhân” với tư cách là phạm trù trung tâm trong triết học của ông. Theo ông, một
triều đại muốn thái bình thịnh trị thì người cầm quyền phải có đức Nhân, một xã hội
muốn hoà mục thì phải có nhiều người theo về điều Nhân. Chữ Nhân được coi là
nguyên lý đạo đức cơ bản quy định bản tính con người và những quan hệ giữa người
với người từ trong gia tộc đến ngoài xã hội. (Tiểu luận: Ảnh hưởng của nho giáo đối
với đời sống tinh thần)
Nếu Khổng Tử cho rằng chữ Nhân là cái gốc đạo đức của con người, thì theo ông, để
trở thành một con người hoàn thiện, một điều kiện tất yếu khác là phải “hiểu biết
mệnh trời” để sống “thuận mệnh” . Ông viết: “Không biết mệnh trời thì không lấy gì
làm quân tử”, nhưng ông kêu gọi mọi người trước hết phải tìm sức mạnh vươn lên ở
trong chính bản thân mỗi người, đừng trông chờ vào trời đất quỷ thần: “Đạo người
chưa biết thì làm sao biết được đạo quỷ thần”. Con người phải chú trọng vào sự nỗ
lực học tập, làm việc tận tâm, tận lực, còn việc thành bại như thế nào, lúc đó mới tại ý trời.
Trong triết học Nho giáo, nếu Khổng Tử và Mạnh Tử cho rằng con người vốn có bản
tính thiện thì Tuân Tử đưa ra lý luận bản tính con người là ác: “Tính người là ác,
thiện là do người làm ra”; nhưng trong quan điểm sai lầm đó cũng có nhân tố hợp lý
như: hành vi đạo đức của con người là do thói quen mà thành, phẩm chất con người
là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội và kết quả của sự học tập, giáo dục lâu ngày mà
nên, từ đó ông cho rằng có thể giáo dục, cải hoá con người từ ác thành thiện được.
Nếu ra sức tu dưỡng đạo đức thì bất cứ người nào cũng đều có thể đạt được địa vị
“người quân tử”. Tuân Tử đề cao khả năng và vai trò của con người. Ông khẳng định
trời không thể quyết định được vận mệnh của con người. Ông cho rằng con người
không thể chờ đợi tự nhiên ban phát một cách bị động mà phải vận dụng tài trí, khả
năng của mình, dựa vào quy luật của tự nhiên mà sáng tạo ra những của cải, sản vật
để phục vụ cho đời sống con người. (Tiểu luận: Ảnh hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Như vậy, Nho giáo thể hiện là một học thuyết có tính nhân văn rất cao, nhìn thấy nét
đẹp của con người và rất tin tưởng vào con người, tin tưởng vào khả năng giáo dục con người.
Tuy nhiên quan niệm về Nhân của Khổng Tử có nội dung giai cấp rõ ràng, ông cho
rằng chỉ có người quân tử, tức kẻ cai trị mới có được đức nhân, còn người tiểu nhân,
tức nhân dân lao động, không thể có được đức nhân. Đạo nhân chỉ là đạo của người
quân tử, tức giai cấp thống trị. Đây chính là điểm hạn chế bởi lập trường giai cấp
trong quan điểm của Khổng Tử khi ông cho rằng Tiểu nhân và Quân tử là hai loại
người đối lập nhau không phải chủ yếu về địa vị xã hội mà chủ yếu là về phẩm chất đạo đức.
2.2 – Quan điểm về xã hội học: (Tiểu luận: Ảnh hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Nho giáo đứng trên quan điểm duy tâm để giải quyết những vấn đề xã hội bởi vì khi
giải quyết những vấn đề xã hội. Nho giáo là hình thái ý thức của giai cấp thống trị
trong xã hội phong kiến ở Trung Quốc. Đối với nó thì “ngũ luân, ngũ thường, hay
tam cương ngũ thường” là những cái tuyệt đối, bao gồm: Quan hệ vua – tôi. Quan hệ cha –
Quan hệ chồng – vợ.
Quan hệ thứ nhất thuộc quan hệ quốc gia, còn hai quan hệ sau thuộc quan hệ gia
đình. Điều này nói lên rằng trong quan niệm về xã hội, Nho giáo đặc biệt quan tâm
tới những quan hệ nền tảng của xã hội là quan hệ gia đình. Quan hệ gia đình ở đây
mang tính chất tông tộc, dòng họ. Xã hội trị hay loạn trước hết thể hiện ở chỗ có giữ
vững được ba quan hệ ấy hay không:
“Xã hội là tam cương – tam cương là quốc gia.
Mỗi cương thay đổi xã hội loạn”. (Tiểu luận: Ảnh hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Vì vậy , muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện xã hội đại đồng thì phải chấn chỉnh
lại ba quan hệ đó. Để chấn chỉnh lại ba quan hệ đó, Nho gia nguyên thủy lấy giáo
dục đạo đức làm cứu cánh.
2.3 – Quan điểm về giáo dục:
Trước hết, Nho giáo có nêu quan điểm về một xã hội lý tưởng. Lý tưởng cao nhất
của đức Khổng Tử cũng như các tác giả sau này của Nho giáo là xây dựng một xã
hội “Đại đồng”. Khái niệm xã hội đại đồng của Nho giáo không phải là một xã hội
đặt trên nền tảng của một nền sản xuất phát triển cao mà là một xã hội “an hoà”,
trong đó sự an hoà được đặt trên nền tảng của sự công bằng xã hội. (Tiểu luận: Ảnh
hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Để thực hiện xã hội lý tưởng, xã hội đại đồng, xã hội an hoà trên, Nho giáo không
đặt vấn đề về một cuộc cách mạng, không cầu cứu ở bạo lực, mà tìm cứu cánh ở một
nền giáo dục. Đức Khổng Tử là người đầu tiên lập ra trường tư, mở giáo dục ra toàn
dân. Có giáo dục và tự giáo dục thì mỗi người mới biết phận vị của mình mà nhìn
nhận hành động trong cuộc sống cho đúng.
Nội dung của giáo dục Nho giáo, giáo dục và tự giáo dục, hướng vào việc giáo dục
những chuẩn mực chính trị – đạo đức đã hình thành từ ngàn xưa, được nêu gương
sáng trong cổ sử mà thôi nên cách dạy của Nho giáo là chỉ dạy làm người nói chung,
không hề đề cập đến khoa học, kinh tế, nghề nghiệp, tức không hướng vào phương
diện kỹ nghệ và kinh tế. Thừa thời gian mới học đến lục nghề. Đây là một nền giáo dục thiên lệch.
Đồng thời, nguyên tắc giáo dục trong Nho giáo là nguyên tắc tự giác: nguyên tắc tự
nguyện làm sáng tỏ, thường dùng phương pháp nêu gương.
2.4 Quan điểm về quản lý xã hội (trị quốc): (Tiểu luận: Ảnh hưởng của nho giáo
đối với đời sống tinh thần)
Để theo đuổi mục tiêu lý tưởng xây dựng xã hội đại đồng, Nho giáo nêu nguyên tắc quản lý xã hội như sau:
Nguyên tắc 1: Thực hiện nguyên tắc tập quyền cao độ (Chế độ quân chủ trung
ương tập quyền cao độ). Trong phạm vi quốc gia, toàn bộ quyền lực tập trung vào
một người là Hoàng đế.
Nguyên tắc 2: Thực hiện “chính danh” trong quản lý xã hội.
“Chính danh” nghĩa là mỗi người cần phải nhận thức và hành động theo đúng cương
vị, địa vị của mình: vua phải ra đạo vua, tôi phải ra đạo tôi, cha phải ra đạo cha, con
phải ra đạo con, chồng phải ra đạo chồng, vợ phải ra đạo vợ… Nếu như mọi người
không chính danh thì xã hội ắt trở nên loạn lạc. Không thể có một xã hội trị bình mà
nguyên tắc chính danh bị vi phạm.
Trong Nho giáo, Khổng Tử đặc biệt đề cao giữa danh và thực. Thực do học, tài và phận quy định.
Nguyên tắc 3: Thực hiện Văn trị – Lễ trị – Nhân trị. Đây là nguyên tắc có tính
chất đường lối căn bản của Nho giáo.
Văn trị: Đề cao trị bằng hiểu biết. Tạo ra vẻ đẹp của một nền chính trị để mọi người tự giác tuân theo.
Lễ trị: Dùng tổ chức, thiết chế xã hội để trị quốc. Đề cao nghi lễ giao tiếp trong trị quốc.
Nhân trị: Trị quốc bằng lòng nhân ái, mở rộng ân trạch của hoàng cung tới bốn phương.
Khổng Tử cho rằng trị quốc là việc rất khó, nhưng cũng rất dễ làm nếu đức Minh
quân biết sử dụng ba loại người: Cả quyết can đảm, Minh đản (trí thức) và Nghệ
tinh. Nhà vua muốn trị vì đất nước và muốn có đức nhân phải biết dùng người và
thực hiện ba điều: (Tiểu luận: Ảnh hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
+ Kính sự: Chăm lo đến việc công.
+ Như tín: Giữ lòng tin với dân.
+ Tiết dụng: Tiết kiệm tiêu dùng.
Ngược lại, dân và bề tôi đối với vua phải như đối với cha mẹ mình, phải tỏ lòng
trung của mình đối với vua.
Tiếp tục thuyết ” Nhân trị” của Khổng Tử, Mạnh Tử đề ra tư tưởng ” Nhân chính”.
Theo Mạnh Tử, việc chăm dân, trị nước là vì nhân nghĩa, chứ không phải vì lợi và
Mạnh Tử chủ trương một chế độ “bảo dân”, trong đó người trị vì phải lo cái lo cho
dân, vui cái vui của dân, tạo cho dân có sản nghiệp riêng và cuộc sống bình yên, no
đủ, như thế dân không bao giờ bỏ vua. Đồng thời ông cũng khuyên các bậc vua chúa
phải giữ mình khiêm cung, tiết kiệm, gia huệ cho dân, thu thuế của dân có chừng
mực. Đặc biệt Mạnh Tử có quan điểm hết sức mới mẻ và sâu sắc về nhân quyền.
Ông nói: “Dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ vi”, vì theo ông, có dân mới có
nước, có nước mới có vua. Thậm chí ông cho rằng dân có khi còn quan trọng hơn
vua. Kẻ thống trị nếu không được dân ủng hộ thì chính quyền sớm muộn
cũng sẽ phải sụp đổ, nếu vua tàn ác, không hợp với lòng dân và ý trời thì sẽ có thể bị truất phế.
Nguyên tắc 4: Đề cao nguyên lý công bằng xã hội. Đức Khổng Tử đã nói:
“Không lo thiếu mà lo không đều, Không lo nghèo mà lo dân không yên”. (Tiểu
luận: Ảnh hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Sự không công bằng là đầu mối của loạn xã hội. Cơ sở công bằng trong tôn giáo: +
Theo phái Mặc gia: Công bằng theo kiểu cào bằng.
+ Theo phái Nho giáo: Công bằng trên cơ sở danh của mình. Tức là công bằng theo
danh (địa vị xã hội) trong hưởng quyền lợi phân phối theo chức vụ, địa vị.
Trên đây là những quan điểm cơ bản của Nho giáo mà sau khi Nho giáo du nhập vào
Việt Nam thì những quan điểm này sẽ có những ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống
tinh thần, chính trị, xã hội của người Việt Nam. Và thực tế thì cho đến nay Nho giáo
vẫn giữ vai trò chủ đạo, chi phối dời sống tinh thần người Việt. Ảnh hưởng của Nho
giáo, do thực tế lịch sử rất lớn.
Chương II: ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG TINH
THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM (Tiểu luận: Ảnh hưởng của nho giáo đối với
đời sống tinh thần)
1. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam :
Nho giáo truyền nhập vào Việt Nam khoảng 2000 năm nhưng nó có vị trí chi phối
cao nhất là từ thế kỷ 15 về sau. Trước đó, vào thời Trần, ảnh hưởng của Nho giáo
chưa sâu đậm. Có thể có một bộ phận quan chức cao cấp còn áp dụng ít nhiều lễ
giáo, còn trong dân gian và kể cả quan chức cấp thấp thì ảnh hưởng của Nho giáo chưa đáng kể.
Sự hình thành và phát triển Nho giáo ở Trung Quốc gắn liền với sự hưng thịnh của
các triều đại, là hệ tư tưởng gắn liên với giai cấp thống trị, nhưng xét về khía cạnh
văn hóa, Nho giáo góp phần làm phong phú nền văn hóa Trung Hoa. Do vậy, sự phát
triển và mở rộng của Nho giáo cũng tuân thủ những quy luật của sự mở rộng và phát
triển của văn hóa. Sự du nhập Nho giáo vào xã hội Việt Nam gắn liền với sự xâm
lược của các thế lực phong kiến phương Bắc. Quá trình đó diễn ra nhanh hơn, đồng
bộ hơn việc thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam thời bấy giờ. (Tiểu
luận: Ảnh hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Nếu không có sự xâm lược của các thế lực phong kiến đối với Việt Nam thì Nho giáo
vẫn du nhập vào xã hội Việt Nam, nhưng quá trình đó sẽ diễn ra chậm hơn và không
đồng bộ. Sự du nhập Nho giáo Việt Nam cùng với sự xâm lược của các thế lực
phương Bắc được thực hiện bởi các quan đô hộ, bởi chính sách đồng hóa, được
chính quyền đô hộ nâng đỡ, cho nên Nho giáo không được thiện cảm và bắt rễ chậm
chạp hơn so với Phật giáo. Cho nên, trãi qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc Nho giáo
vẫn chưa xác lập được vị trí độc tôn trong đời sống. Trong suốt hơn một ngàn năm
đó nhiều cuộc khởi nghĩa đấu tranh giành độc lập dân tộc đã nỗ ra, nhưng hầu như
không có sự tham gia của các nhà nho. Chiến thắng trên sông Bạch Đằng vào năm
938 đã chấm dứt hơn một ngàn năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển
của Việt Nam. Vào thời điểm này, Phật giáo có vị trí đặc biệt quan trọng. (Tiểu luận:
Ảnh hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Các triều đại đầu tiên của nền độc lập như Ngô, Đinh, Lê không theo đạo Nho mà
theo đạo Phật. Các nhà sư có vai trò to lớn và quyết định trong việc gây dựng triều
Lý – nhà nước quân chủ tập quyền đầu tiên ở nước ta và cũng từ khi nhà Lý ra đời,
do nhu cầu quản lý nhà nước mà nhà Lý đã bắt đầu quan tâm đến Nho giáo. Vào thời
điểm này sự đóng góp của các nhà sư vào sự ổn định đất nước là chủ yếu, nhưng xu
hướng Nho giáo dần dần thay thế Phật giáo càng thấy rõ. Việc Lý Thánh Tông vào
năm 1070 cho lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử như là mốc ghi nhận sự tiếp
nhận chính thức Nho giáo trên bình diện cả nước.
Sang thời Lê Thánh Tông (1460-1497) Nho giáo được phát triển và cũng từ đó về
sau, Nho giáo thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày càng sâu đậm trên nhiều lĩnh
vực tư tưởng, thơ văn, phong tục, tập quán… qua hệ thống giáo dục, pháp luật, chính
quyền. Cho đến đầu thế kỷ 20 này, năm 1919 khoa cử Nho học bị bãi bỏ, nhưng giáo
dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và Trung còn kéo dài đến đầu thập kỷ 40. Như vậy,
trong thời Lê Nguyễn liên tục gần 600 năm Nho học – Nho giáo không thể không
thắm vào các tầng lớp xã hội. Nó được thường xuyên tái lập và trở thành một trong
những yếu tố văn hóa truyền thống Việt Nam khá sâu đậm. Đầu thế kỷ XX, chính
quyền thực dân Pháp và phong kiến ở Việt Nam đã hủy bỏ chế độ học tập và thi cử
theo Nho học. Tuy vậy, Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng lâu dài đến xã hội và con người Việt Nam về sau .
2, Ảnh hưởng của nho giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam : (Tiểu
luận: Ảnh hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, suốt hai
triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho giáo Trung
Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà có
những biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí Nho giáo trong
đời sống xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn hóa hết sức sáng tạo của
người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo
nên tính đa dạng, nhưng thống nhất và độc đáo của văn hóa Việt Nam.
Trong thời kỳ phát triển xã hội cổ đại Việt Nam, Nho giáo với hệ thống tư tưởng
chính trị của mình đã tích cực góp phần xây dựng các nhà nước phong kiến trung
ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng một hệ thống quản lý thống trị xã
hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và kinh tế quốc gia.
Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là người “học nhi
bất yếm, hối nhân bất nguyện”. Hàng nghìn năm qua, nhà nước Việt Nam đều lấy
Nho học . Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt
là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý
nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm người, coi trọng con người là
yếu tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con người đặc biệt
về văn hóa, sử học, triết học. Với phương châm “học nhi ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm
ra một nghề nghiệp mới và nâng cao vị trí xã hội của bản thân là động lực hiếu học
trong nhân dân. Hiếu học là đặc điểm của Nho giáo. Hiếu học đã trở thành truyền
thống văn hóa Á Đông trong đó có Việt (Tiểu luận: Ảnh hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu dưỡng đạo
đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội ngày càng phát triển văn minh hơn.
Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn, có
tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thô, ấp hướng tới tầm mức
quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền chặt hơn, có tôn
ty hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè”.
Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan hệ giữa
người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh mối quan hệ này, xây dựng
tinh thần trung quân, ái quốc nhưng không mù quáng trung quân mà vẫn đặt ái quốc
lên hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với tổ quốc và trung hậu với nhân dân.
Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng liêng của bề tôi
đối với nhà vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng, nhưng đối với Nguyễn
Trãi và các trí thức Việt Nam thì điều cốt yếu của nhân nghĩa là phải đem lại cho
nhân dân cuộc sống thanh bình, và đội quân chính nghĩa phải nhằm tiêu diệt những quân tàn bạo.
Tuy nhiên trong thời kỳ này, sự đóng góp của Nho giáo vào đời sống tinh thần của
người Việt Nam vẫn có nhiều mặt không tích cực như: Không như Nho giáo Trung
Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp nhưng cũng không phản đối. Nho giáo Việt
Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích thương nghiệp, quá chú trọng đến tự
sản, tự tiêu mà quên đi sự trao đổi mua bán, kềm hãm tính năng động, sáng tạo dẫn
đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị. Trong những giai đoạn đầu của
chế độ phong kiến, nó tạo sự ổn định, phát triển nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức
ỳ quá lớn khiến đất nước không thể phát triển.
Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị cái
mới ưu việt hơn tiêu diệt.
Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà không
hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều tìm được, chinh
phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn minh, khoa học tư
nhiên, kỷ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn minh
phương Tây vốn xuất hiện sau.
Đến thời kỳ cách mạng dân tộc: Nho giáo được Việt Nam hóa, trí thức Nho giáo đã
có những đóng góp đáng kể vào việc củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, nâng nó lên thành những tư tưởng ổn định thúc đẩy sự phát triển của đất nước,
tạo nên một sức mạnh to lớn để suốt một ngàn năm giữ vững độc lập và chiến thắng mọi kẻ xâm lược.
Bước sang thế kỷ thứ 19, Việt Nam và các nước phương Đông phải đối đầu với sự
xâm lược của chủ nghĩa đế quốc có trình độ kỷ thuật, tiềm năng kinh tế, tổ chức quân
đội và chất lượng vũ khí. Nho giáo lúc bấy giờ tỏ ra bất lực cả về tư tưởng và hành
động. Bác Hồ khi kế thừa các tư tưởng triết học Nho giáo đã tinh lọc, loại bỏ những
tư tưởng không phù hợp với thời đại và hoàn cảnh của Việt nam lúc bấy giờ. Trên
con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng suốt không thể
không gạt đi cái cốt lõi lạc hậu của Nho giáo và giữ gìn, phát huy những nhân tố hợp
lý của nó nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. (Tiểu luận: Ảnh hưởng của nho
giáo đối với đời sống tinh thần)
Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí Minh
không thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo, không thể chấp nhận lòng trung
thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp bức mình. Chữ Trung ở
Nho giáo là trung thành tuyệt đối với nhà vua và chế độ phong kiến, còn ở Hồ Chí Minh, Trung là trung thành
với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, lên án chế độ phong kiến và lật đổ nhà
Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên chăn dắt
và sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là “đày tớ của dân”, phải học
hỏi nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với tinh thần ấy, cách mạng đã xây dựng được
khối đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức mạnh vô địch để giành độc lập và xây dựng tổ quốc.
Nho giáo đã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần “trọng nam khinh nữ”, từ chổ
khinh rẽ phụ nữ đến chổ áp bức họ, trói buộc họ trong bếp núc gia đình. Cách mạng
Việt Nam đã sớm xóa bỏ những tử tưởng lạc hậu ấy để cho phụ nữ cùng bình đẳng
với nam giới trên mọi lĩnh vực chiến đấu, sản xuất và quản lý đất đai.
Nho giáo luôn quay về với quá khứ, đời này không bằng đời xưa, người ít tuổi
không bằng người nhiều tuổi. Cách mạng luôn nhìn về phía trước, đặt niềm tin vào
thanh niên và tiền đồ dân tộc. (Tiểu luận: Ảnh hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Đảo ngược lại học thuyết của Nho giáo, nhằm mục tiêu trái hẳn với mục tiêu của
Nho giáo, Hồ Chí Minh không xóa bỏ toàn bộ nội dung của Nho giáo mà giữ lại
những nhân tố hợp lý vốn phục vụ cho chế độ cũ thành những công cụ chống lại chế
độ cũ và xây dựng chế độ mới. Với tinh thần nói trên mà trong quá trình lãnh đạo
Cách mạng tháng tám, Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều câu chữ của Nho giáo,
nhiều kinh nghiệm giáo dục và tu dưỡng của Nho giáo, nhiều biện pháp động viên
tinh thần và ý chí của Nho giáo để cổ vũ nhân dân đứng lên chiến đấu giành lại độc
lập tự do với một khí phách kiên cường, tinh thần mưu trí và sáng tạo.
Ngày nay, Sau hai cuộc kháng chiến Nhân dân Việt Nam giành lại được độc lập và
thống nhất, đất nước ta đang phát triển theo định hướng XHCN, trên con đường tiến
tới một tương lai tốt đẹp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Chúng ta
lại thường xuyên đụng đến nho giáo, nó vẫn bám sát chúng ta, tiếp tục đem đến cho
chúng ta nhiều bài học cả chính diện và phản diện. Nho giáo nhiều lúc nêu lại điều
hay y tốt như tạo thêm năng lượng cho cổ xe cách mạng tiến lên, nhưng cũng có
trường hợp nho giáo trở nên thọc gậy bánh xe.
Hiện nay Việt Nam đang bước vào cơ chế thị trường xuất hiện nhiều xáo trộn trong
quan hệ xã hội, sinh hoạt gia đình và phẩm chất cá nhân. Thực tế cho thấy mâu thuẫn
không thể điều hòa được giữa phát triển vật chất và suy thoái tinh thần, giữa kinh tế
và đạo đức văn hóa xã hội. Để chống lại, khôi phục lại truyền thống văn hóa tốt đẹp
xưa nay của nhân dân ta, Đảng ta chủ trương giáo dục con người, chiến lược con
người, phát huy sáng tạo, độc lập tư chủ, chủ trương giáo dục “Tiên học lễ, hậu học
văn” là những điều cốt yếu của nền giáo dục. Về kinh tế chủ trương làm giàu chính
đáng, cạnh tranh lành mạnh, hợp đạo để động viên khuyến khích nhân dân ta trong
công cuộc xây dựng đất nước, dần hình thành đạo đức trong kinh doanh. (Tiểu luận:
Ảnh hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Cho đến nay, Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống gia đình, các
phẩm chất, đạo đức của người phụ nữ, vẫn còn những quan điểm coi thường phụ nữ,
lấy tiêu chuẩn tứ đức làm đầu “ công, dung, ngôn, hạnh”. Người phụ nữ trở nên bị
phong tỏa, dồn nén trong vòng tứ đức không phát huy được hết năng lực của mình.
Truyền thống quan hệ cha con và anh em đến nay trong gia đình Việt Nam vẫn giữ
được tư tưởng của nho giáo, là nét đẹp trong quan hệ văn hóa xã hội Việt nam. Nho
giáo đòi hỏi sự gắn bó chặt chẽ giữa các thành viên trong một gia đình, trong một
dòng họ, nó kêu gọi sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, khuyến khích nhau giữ gìn
truyền thống của gia đình và dòng họ. Những nghi thức ứng xử hàng ngày, những lời
răn dạy của ông cha, những gia huấn được lưu truyền đến các đời con cháu.
Nho giáo vẫn thể hiện rõ như việc lập bàn thờ tổ tiên ở mỗi gia đình. Việc thờ cúng
ông ba cha mẹ trong nhà gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên trong họ, việc xây dựng
nhà thờ, sửa sang mồ mả, sưu tầm ghi chép gia phả, đều góp phần làm khăng khít
hơn mối quan hệ trong gia đình, gia tộc. Đã có nhiều biểu hiện tốt đẹp của tình người
nảy sinh từ đó. Sự giáo dục của Nho giáo lấy lễ nghĩa làm biện pháp đã đạt được tới
mức độ sâu sắc ở chổ nó thành tiêu chuẩn để đánh giá hành vi của con người. Nho
giáo đã huy động được dư luận toàn thể xã hội, biết quí trọng người có lể và khinh
gét người vô lể và điều này đã đi vào sâu lương tâm của con người. (Tiểu luận: Ảnh
hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Bên cạnh đó đời sống tinh thần văn hóa dân gian không thể tách rời các thời kỳ cho
đến nay. Những nhà Nho nước ta, kể cả những bậc đại sỹ phu không bao giờ coi
thường văn hóa dân gian, vì họ thấy được trong văn hóa dân gian có những giá trị
mà bất cứ ai có tinh thần dân tộc đều không thể bỏ qua. Ví như ở Hội đền Hùng
thường có các quan đầu tỉnh thay mặt Nhà nước về làm chủ tế, có không ít các nho sĩ
tham gia sinh hoạt văn hóa dân gian làng xã. Ở nông thôn hiện nay, ngôi đình làng là
noi thể hiện rõ nhất sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với đời sống tinh thần của người Việt Nam…
Ảnh hưởng của Nho giáo trong lịch sử phát triển dời sống tinh thần ở nưóc ta vẫn
tiếp tục và duy trì cho đến ngày nay….
KẾT LUẬN: (Tiểu luận: Ảnh hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần) 7
Nho giáo tồn tại thực ở nước ta hàng chục thế kỷ. Trong thời gian lâu dài như thế, ở
vị trí ý thức hệ chính thống nó chi phối khá nhiều mặt đời sống tinh thần của dân tộc ta.
Ngày nay cả nước bước vào thời kỳ xây dựng mọi mặt đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, trên con đường tiến tới: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, sự phát triển của kinh tế, văn hóa, giáo dục,…. Đời sống vật chất tinh
thần của người dân được nâng cao. Bên cạnh đó là sự du nhập của văn hóa, lối sống
của Phương Tây ngày càng mạnh mẽ hơn đã làm thay đổi nhất định trong suy nghĩ,
các phong tục tập quán của người Việt cũng như những tư tưởng của Nho giáo ở Việt
Nam. Nho giáo tuy không còn ảnh hưởng nhiều trong đời sống tinh thần của Người
Việt như trước nhưng nó vẫn còn hiện diện bám sát chúng ta và tiếp tục đem lại cho
chúng ta nhiều ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực. Những tư tưởng bảo thủ, hủ nho sẽ
là những cản trở không nhỏ cho quá trình chuyển đổi đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. (Tiểu luận: Ảnh hưởng của nho giáo đối với đời sống tinh thần)
Chúng ta cần phải biết chắt lọc, tiếp thu và phát triển những tư tưởng của Nho giáo,
xem xét kỹ lưỡng những ảnh hưởng của Nho giáo trong quá trình xây dựng và bảo
vệ đất nước, giữ lại những ảnh hưởng tích cực, những nét văn hóa Nho giáo tốt đẹp
trong dân gian như thờ cúng tổ tiên, các hội làng, tinh thần yêu nước, truyền thống
nhân đạo, các quy tắc ứng xử trong gia đình…vận dụng những tư tưởng đó vào việc
giáo dục, đào tạo con người, xây dựng gia đình, xã hội an lành, hạnh phúc là điều rất
hay, rất cần thiết. Và xa hơn là kế thừa những cái tốt vì lợi ích xây dựng chủ nghĩa xã
hội, vì sự toàn thắng của chủ nghĩa Mác, tức là nhấn mạnh lập trường cách mạng
thực tiễn trong thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.