Tiểu luận dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam | Trường Cao Đẳng Công Thương Việt Nam
Tiểu luận dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của Trường Cao Đẳng Công Thương Việt Nam. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 23 trang giúp bạn tham khảo, ôn tập và hoàn thành tốt bài tập của mình đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (vn)
Trường: Trường Cao đẳng công thương Việt Nam
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Mục lục
Phần mở đầu
Lý do chọn đề tài
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản không chỉ ở chỗ xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xóa bỏ phân hóa giai cấp, mà về chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải vượt qua dân chủ tư sản, thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những thành tựu quan trọng về lý luận của Đảng, góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển đường lối đổi mới của Đảng vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đáp ứng được khát vọng của nhân dân, phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn Việt Nam. Tổng kết về vấn đề này, khẳng định: “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Đây là một trong những luận điểm khái quát cốt lõi về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Bên cạnh đó, việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm nhận diện rõ nội hàm, đặc trưng và định hướng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với điều kiện thực tiễn theo tinh thần của Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và đặc biệt Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” là yêu cầu rất quan
trọng, qua đó tạo sự thống nhất trong nhận thức, hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân về những nội dung này.
Mục đích nghiên cứu
Dân chủ là mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới đã được Đảng từng bước nhận thức sâu sắc trên cơ sở tổng kết thực tiễn những năm đổi mới. Để đi lên chủ nghĩa xã hội, cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc…, quan điểm nhất quán của Đảng là phải xây dựng thành công nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bởi, mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Dân chủ được nhận thức là một trong những thành tố quan trọng trong hệ mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Trong xã hội hiện đại, muốn thực hành dân chủ, phát huy vai trò chủ thể nhân dân và xây dựng hệ thống chính trị dân chủ thì phải xây dựng nhà nước pháp quyền. Đó là phương thức chung mà thông qua đó công dân đạt tới xã hội dân chủ và khẳng định quyền làm chủ của mình một cách thực chất.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Với phương pháp luận là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giúp cho tư duy và góc độ nghiên cứu luôn đi đúng hướng và có hiệu quả. Và kết hợp với phương pháp tổng hợp, logic-lịch sử…
Page 3
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình hình thành và phát triển các nền dân chủ trong lịch sử và trực tiếp nhất là nền dân chủ tư sản, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài, phức tạp và giá trị của nền dân chủ tư sản chưa phải là hoàn thiện nhất, do đó, tất yếu xuất hiện một nền dân chủ mới, cao hơn nền dân chủ tư sản và đó chính là nền dân chủ vô sản hay còn gọi là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Khi cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi (1917), một thời đại mới mở ra – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền lực của nhân dân _ tức là xây dựng nhà nước dân chủ thực sự, dân làm chủ nhà nước và xã hội, bảo vệ quyền lợi cho đại đa số nhân dân.
Chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta được xác lập sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đến năm 1976, tên nước được đổi thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đại hội VI của Đảng (1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó phát huy dân chủ để làm động lực phát triển đất nước.
Ba mươi năm đổi mới, dân chủ ngày càng được nhận thức, phát triển và hoàn thiện đúng đắn, phù hợp hơn với điều kiện ở nước ta.
Trước hết, Đảng ta khẳng định một trong những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là do nhân dân làm chủ. Dân chủ đã được đưa vào mục tiêu tổng quát của cách mạng Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước". “Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm…”.
- Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Page 5
Ngay từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định con đường mà cách mạng Việt Nam phấn đấu là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đó chính là con đường mang đến độc lập, tự do, công bằng, dân chủ, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội mà toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã, đang và sẽ tiếp tục nhất quán, kiên trì xây dựng. Kế thừa và phát triển các quan điểm tiến bộ về dân chủ trong lịch sử tư tưởng nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tác phẩm của Tổng Bí thư đã luận giải, làm sáng rõ, phát triển, hoàn thiện lý luận, thực tiễn vấn đề dân chủ trong xã hội XHCN mà nhân dân ta hướng tới, được thể hiện khái quát ở những nội dung cụ thể sau đây: Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định quan điểm xuyên suốt của Đảng ta, đó là “Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam” và “xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Đất nước ta đang tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có đặc trưng cơ bản và thuộc tính quan trọng là “phải gắn
kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”. Đồng thời, chúng ta coi “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam”.
Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta đều xuất phát từ Nhân dân, vì lợi ích của Nhân dân và lấy hạnh phúc của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.Đồng thời “Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ”. Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Theo đó, Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của Nhân dân và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội.
Với phương pháp khoa học biện chứng, tư duy hệ thống, trình bày logic, dung dị, Tổng Bí thư đã phân tích, hệ thống hóa, có những quan điểm, tư tưởng, nhận thức mới mang tính lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH, trong đó dân chủ xã hội là một trong những vấn đề cốt lõi, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội XHCN, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể Việt Nam, xây dựng một xã hội tất cả là nhằm
Page 7
mục tiêu phát triển con người, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, sự phát triển bền vững.
Thực tiễn hiện nay cho thấy, những mục tiêu mà Đảng, Nhà nước ta đề ra trong việc xây dựng CNXH nói chung và phát huy dân chủ XHCN nói riêng đã và đang từng bước được hiện thực hóa. Quần chúng nhân dân tại các địa bàn trong cả nước luôn nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi nhất để phát triển và được bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.Tuy nhiên, trong quá trình ấy, nước ta cũng thường xuyên phải đối mặt với các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Phương thức, thủ đoạn của chúng ngày càng tinh vi, xảo quyệt, quyết liệt và trắng trợn hơn. Hoạt động có lúc âm thầm, lẩn khuất, có lúc công khai, thách thức, chủ yếu tập trung vào thời điểm diễn ra các sự kiện chính trị trong nước, sự kiện đối ngoại quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, hoặc thời điểm xảy ra các vụ, việc phức tạp, nhạy cảm. Các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị luôn triệt để lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”, “phòng, chống tham nhũng”… để can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước. Chúng ra sức nhào nặn, bóp méo thông tin, tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận các giá trị lý luận - thực tiễn và thành quả về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, nói xấu chế độ XHCN, vu cáo Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền… Cán bộ, đảng viên, nhân dân cần nhận diện, tăng cường đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch, làm thất bại “diễn biến hòa bình” chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một giá trị vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phải là một kiểu nhà nước mà là một phương thức tổ chức quyền lực nhà nước dựa trên nền tảng Hiến pháp và pháp luật, vì dân chủ, con người, quyền con người, quyền công dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là một trong những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, được xây dựng, hoàn thiện đồng thời với xây dựng, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dân chủ xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là ba trụ cột phát triển đất nước.
Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền XHCN VN
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Đây là một trong những nhận thức đặc biệt quan trọng, nhiều tính mới của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Tính phổ quát thể hiện ở điểm: Là Nhà nước pháp quyền thì phải là Nhà nước dân chủ, nghĩa là Nhà nước phải thuộc về Nhân dân và hình thành nên bằng con đường dân chủ.
Tuy nhiên, sự khác biệt lớn nhất nằm ở hai điểm là “tính nhân dân” và “sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Bàn về “tính nhân dân” của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, tưởng như không thấy có sự
Page 9
khác biệt lớn với các tiêu chuẩn dân chủ của Nhà nước pháp quyền, nhưng nhìn nhận từ góc độ văn hóa và chính trị, nhận thức này có sự phát triển mới.
Tư tưởng, quan điểm pháp quyền (Nhà nước pháp quyền) xuất hiện và phát triển ở phương Tây. Trong nền văn minh phương Tây, dân chủ gắn liền với ý chí tự do của cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân phát triển mạnh mẽ và trở thành nền tảng văn hóa phương Tây. Theo đó, quyền, tự do của con người được hiểu là quyền, tự do của mỗi cá nhân trong xã hội. Ở phương Đông/châu Á, bao gồm Việt Nam, con người sống trong tổng hòa các quan hệ, giá trị to lớn mà xã hội xây dựng, gìn giữ và bảo vệ là cộng đồng, truyền thống gia đình, ý thức quốc gia - dân tộc và các giá trị truyền thống khác. Theo đó, đối với phương Đông, dân chủ và quyền con người phải nằm trong tổng hòa các quan hệ xã hội, bao gồm cả tính cộng đồng, gia đình, dòng tộc và cá nhân. Vì lẽ đó, Nhà nước pháp quyền phải là Nhà nước “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Thuật ngữ “Nhân dân” vừa mang tính cá thể, vừa mang tính cộng đồng, là tổng hòa các mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, gia đình, dòng tộc, xã hội và Nhà nước, vừa là quan hệ chính trị, đồng thời cũng là quan hệ văn hóa.
Như vậy, nếu hiểu dân chủ gắn với nhân quyền và nhân quyền gắn với quyền, tự do của cá nhân thì khó tương hợp được với văn hóa, nhận thức và nhân sinh quan của các dân tộc phương Đông, trong đó có Việt Nam. Nhà nước là giá trị, sản nghiệp chung, niềm tự hào chung, chỗ dựa chung, chuẩn mực chung mà họ hướng tới. Vì vậy, Nhà nước phải phục vụ cái chung, hòa hợp được giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng và cá nhân, giữa quan hệ chính trị và văn hóa. Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân thể hiện được ý niệm Nhà nước thuộc về cộng đồng người, phục vụ cộng đồng người và do cộng đồng người đó xây dựng lên. Đó là điểm khác biệt giữa Nhà nước dân chủ và Nhà nước của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân trong quan niệm và hệ giá trị giữa Đông và Tây. Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân trở thành một điểm mới, phù hợp với Việt Nam, nhưng vẫn tương thích với tính phổ quát trong đặc điểm này của Nhà nước pháp quyền.
Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân, mà còn của Nhân dân lao động và cả dân tộc, đại biểu trung thành vì lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và cả dân tộc, gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Như vậy, Đảng đại diện cho tất thảy nhân dân lao động và cho cả dân tộc Việt Nam, mà không đơn thuần dựa hoàn toàn trên lập trường giai cấp. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội - xã hội thật sự vì con người; phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, do Nhân dân và phục vụ lợi ích của Nhân dân, mà không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Rõ ràng, với bản chất như trên, Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sẽ khắc phục được sự bất bình đẳng trong điều kiện thực hiện quyền. Bên cạnh đó, trong một xã hội đa đảng, mỗi đảng lại đại diện cho nhóm lợi ích riêng mà Nhà nước pháp quyền lại được lãnh đạo bởi một đảng (đảng đó chỉ đại diện cho nhóm lợi ích riêng biệt hay cục bộ) thì sẽ xung đột với triết lý pháp quyền, còn khi Đảng Cộng sản Việt Nam là đại diện cho đại đa số người lao động và cả dân tộc (cho tất cả) thì không có lý do để tranh luận về tính đại diện, ý chí của Đảng và Nhà nước. Theo tác giả, đây là điểm nhân văn, tiến bộ của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Page 11
Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật.
Đây là đặc điểm mang tính phổ biến và đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Mục đích tối thượng của Nhà nước pháp quyền là công lý và quyền con người. Không thể có pháp quyền nếu quyền con người không được bảo đảm, bảo vệ, tôn trọng và công nhận. Quyền con người dù có tính phổ quát, nhưng việc thực hiện và cách tiếp cận về quyền con người lại không giống nhau, bởi nó gắn liền với nhân sinh quan, hệ giá trị của quốc gia, dân tộc, tôn giáo hay chủng tộc người ở khu vực nhất định. Trong nền văn hóa phương Tây, con người thường được gắn với cá nhân và quyền con người cũng gắn với cá thể người, trong khi ở phương Đông, đặc biệt là vùng văn hóa Viễn Đông, con người nằm trong tổng hòa quan hệ với cộng đồng, gia đình, xã hội. Vì vậy, tuyệt đối hóa quyền cá nhân sẽ dẫn đến xung đột với hệ giá trị và truyền thống, văn hóa phương Đông.
Kể từ Hiến pháp năm 2013, Việt Nam đã công nhận các quyền con người như là các giá trị phổ quát và tách biệt quyền con người với quyền công dân, đồng thời cam kết công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người, quyền công dân. Bởi lẽ, sự tiến bộ của con người và vì lợi ích của con người cũng là mục tiêu tồn tại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Hiện Việt Nam đang hoàn thiện các cơ chế chính trị, pháp lý để thực hiện các cam kết này. Đây là một trong những đặc điểm cơ bản, đồng thời cũng là mục tiêu, cam kết của Việt Nam trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong giai đoạn mới.
Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật
Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đặt mình dưới pháp luật, được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật. Chỉ khi luật pháp tối thượng thì mới có pháp quyền. Để Nhà nước đặt mình dưới pháp luật thì Hiến pháp phải có vị trí tối thượng và là ý chí đồng thuận của dân chúng. Một trong những chức năng chính của Hiến pháp là kiến tạo chính quyền và tạo cơ sở để chính quyền hoạt động, vậy nên, Việt Nam đã có những thay đổi mang tính chất cơ bản và nền tảng theo triết lý pháp quyền, đó là: Trong Lời nói đầu của Hiến pháp năm 2013, thay vì giao cho Quốc hội xây dựng Hiến pháp như các bản Hiến pháp trước đây, lần này, Nhân dân đã được xướng tên như là chủ thể lập hiến: “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Như vậy, Quốc hội không phải là cơ quan có chủ quyền lập hiến, mà là chủ thể “thực hiện quyền lập hiến”. Điều này quan trọng bởi chỉ khi đó, Nhà nước mới đặt mình dưới Hiến pháp, do Hiến pháp tạo ra, vận hành theo Hiến pháp và các luật được xây dựng theo tinh thần Hiến pháp. Hiến pháp là luật cao nhất và khi Hiến pháp có hiệu lực tối cao thì mới có cơ hội cho pháp luật có được vị trí tối thượng - tiêu chí cơ bản và phổ quát của Nhà nước pháp quyền. Vì vậy, những thay đổi của Hiến pháp năm 2013 đã tạo tiền đề cơ bản và quan trọng nhất cho việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.
Không chỉ tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và các luật được làm ra trên cơ sở Hiến pháp, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam còn khẳng định quản lý xã hội bằng pháp luật. Đây là sự bổ sung và khẳng định cho nhận thức thay đổi về vị trí của Hiến pháp và tính tối thượng của pháp luật. Sở dĩ cần có khẳng định này là bởi trước đây, không chỉ có pháp luật, Việt Nam còn quản lý xã hội bằng rất nhiều phương thức khác. Việc khẳng định này là sự bảo đảm chắc chắn rằng, ở Nhà nước pháp
Page 13
quyền XHCN Việt Nam, luật pháp là nền tảng để quản lý xã hội. Đây cũng là sự bảo đảm cho tính pháp quyền của Nhà nước Việt Nam XHCN.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Đây là một trong những đặc điểm mang nhiều tính chất đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, vừa là sự chọn lọc những tinh túy của phương thức, mô hình tổ chức quyền lực và quản trị quốc gia tiến bộ trên thế giới, nhưng vẫn giữ được những nét đặc thù trong điều kiện Việt Nam.
Điểm khác biệt so với mô hình tập quyền XHCN trước đây là quyền lực không tập trung vào một cơ quan mà tập trung ở nguồn cội của nó - Hiến pháp - chủ quyền nhân dân. Các cơ quan như Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân… chỉ là cơ quan thực hiện quyền, mà không phải là cơ quan nắm giữ các quyền này. Do đặc thù về mô hình tổ chức quyền lực, Quốc hội Việt Nam vẫn là “cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”. Vì vậy, để phù hợp với tính phổ quát của Nhà nước pháp quyền trong việc phân chia quyền lực, thì dù thống nhất ở gốc quyền lực, nhưng việc tổ chức thực hiện quyền lực cần được phân công chặt chẽ, phối hợp hiệu quả và kiểm soát trong việc thực hiện quyền. Chủ thể cao nhất nhân danh sự ủy thác của Nhân dân thực hiện quyền phân công, điều phối việc phối hợp và thiết lập cơ chế kiểm soát thực hiện quyền chính là Quốc hội, cơ quan này thực hiện quyền thông qua nhiệm vụ “thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp”.
So sánh với Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết số 27/NQ-TW đã làm rõ hơn các yêu cầu như “phân công rành mạch”, “phối hợp chặt chẽ” và “kiểm soát hiệu quả”. Những tính từ này vừa có mục đích nhấn mạnh, nhưng cũng là tiền đề chính trị, yêu cầu quan trọng cần đặc biệt lưu ý
trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, việc kiểm soát thực hiện quyền lực vẫn đang là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và là nhiệm vụ trọng tâm được xác định trong thời gian tới ở Việt Nam.
Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán
Nói về Nhà nước pháp quyền, không thể không nhắc tới pháp luật; Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng không ngoại lệ. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền trước hết phải là các chuẩn mực pháp lý được làm ra bằng con đường dân chủ và là sản phẩm của ý chí đích thực của người dân. Theo Geofrey de Q. Walker, Nhà nước pháp quyền phải có tính phù hợp, có nghĩa là cần được xây dựng một cách dân chủ và nội dung của pháp luật phải phản ánh những quy tắc dân chủ cơ bản được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi. Bên cạnh đó, mục tiêu tối thượng của Nhà nước pháp quyền là công lý và quyền con người, nên chỉ có pháp luật dân chủ mới có thể bảo vệ được công lý và quyền con người, do tất cả đều nằm dưới sự ngự trị của pháp luật dân chủ, kể cả Nhà nước.
Bên cạnh yếu tố dân chủ, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải công bằng, nhân đạo. Đây cũng là các yêu cầu mang tính phổ quát về pháp luật trong Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, có lẽ, từ định hướng phát triển của Việt Nam, tính công bằng và nhân đạo có mục tiêu hướng tới sự công bằng hơn trong tiếp cận nguồn lực xã hội, trong thụ hưởng thành quả phát triển của đất nước, đặc biệt là đối với các nhóm yếu thế, những người lao động.
Việt Nam đang trong tiến trình đổi mới, cải cách, hội nhập với nhiều thay đổi nhanh chóng, nên yêu cầu về một nền pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận,
Page 15
được thực hiện nghiêm minh và nhất quán cũng là những yêu cầu cần thiết cho nền pháp luật trong điều kiện đặc thù của Việt Nam. Vì vậy, đây không chỉ là đặc trưng của pháp luật, mà còn là yêu cầu tiên quyết cần đặt ra trong việc hoàn thiện pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.
Độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử; Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Độc lập tư pháp là một trong những đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền. Bởi lẽ, Tòa án luôn được coi là “chiếc khiên” vững chắc để bảo vệ công lý, quyền con người và tính tối thượng của pháp luật. Tư pháp không độc lập thì không thể bảo vệ được pháp luật, công lý và quyền con người, những điều cơ bản này không được bảo vệ thì không có pháp quyền.
Để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, tiếp tục hoàn thiện nền tư pháp phải là một trong những nhiệm vụ cấp bách. Hiện nay, các giải pháp và nhiệm vụ trọng tâm được Nghị quyết số 27/NQ-TW xác định đúng và trúng. Để Tòa án, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập thực sự, cần hàng loạt những cải cách xa hơn nữa, trong đó, với điều kiện của Việt Nam, trước hết, cần thiết kế, tổ chức hệ thống tư pháp sao cho bảo đảm sự độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, tiến tới loại bỏ quan hệ hành chính giữa các cấp Tòa án với nhau. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là yêu cầu bắt buộc. Để có được sự độc lập thực sự, cần có hệ thống các bảo đảm về pháp lý, bảo đảm an ninh, an toàn cho cá nhân và người thân, bảo đảm về mức sống, bảo đảm về chính trị và các bảo đảm khác.
Tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Đây cũng là đặc điểm mang tính phổ quát và đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền phải phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, có nhiều các chuẩn mực quốc tế không phù hợp với điều kiện văn hóa, kinh tế, chính trị và định hướng phát triển của Việt Nam. Vì vậy, để bảo vệ chủ quyền quốc gia, chủ quyền nhân dân, đồng thời cũng thể hiện là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam tuân thủ và thực hiện các cam kết, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc bên cam kết. Điều này không trái với nguyên tắc chung đã được xác lập, bởi Nhân dân là chủ thể kiến tạo quyền lực và là chủ thể ủy thác, trao quyền thì các thiết chế quyền lực mới có cơ sở pháp lý thảo luận, đàm phán, gia nhập hay phê duyệt các điều ước quốc tế. Vì lẽ đó, các điều ước quốc tế không thể và không nên đi ngược lại với ý chí của Nhân dân, xâm phạm lợi ích của Nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Đó là cơ sở pháp lý và cũng là yêu cầu cơ bản nhằm bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp - hiện thân của chủ quyền nhân dân.
Một là, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo ra cơ sở kinh tế vững chắc cho xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Cần thể chế hóa quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế. Đồng thời, phải phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.
Page 17
Hai là, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh với tư cách điều kiện tiên quyết để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Đảng phải dân chủ hóa trong sinh hoạt, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình.
Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh với tư cách điều kiện để thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước phải đảm bảo quyền con người là giá trị cao nhất. Các chính sách, pháp luật đều phải dựa vào ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Nhà nước đảm bảo quyền tự do của công dân, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Bốn là, nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta cần phải đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động để nâng cao vị trí, vai trò của mình; tạo ra khối đoàn kết toàn dân, chăm lo đời sống nhân dân, thực hiện dân chủ trong đời sống xã hội; đồng thời tham gia vào bảo vệ chính quyền, xây dựng Đảng, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Năm là, xây dựng và từng bước hoàn thiện các hệ thống giám sát, phản biện xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Cần công khai hóa, minh bạch hóa, dân chủ hóa về thông tin, về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến lợi ích chính đáng của nhân dân. Cần cụ thể hóa các quy chế và hình thức thể hiện sự tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân.
Ngoài ra cần nâng cao dân trí, văn hoá, pháp luật cho toàn thể xã hội.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Một là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân và dân tộc. Đảm bảo quyền lực của nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền.
Hai là cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước.
Đảm bảo Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân, là cơ quan có quyền lập hiến, lập pháp; thực hiện một số nhiệm vụ thuộc quyền hành pháp, tư pháp, quyền giám sát tối cao, đối với hoạt động của Nhà nước.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm mạnh và bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Đẩy mạnh xã hội hóa các ngành dịch vụ công, phù hợp hơn với cơ chế của thị trường.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực.
Từng bước rèn luyện, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và công chức; Áp dụng các chính sách đải ngộ, động viên, khuyến khích cho các cán bộ, công chức đã hoàn thành tốt nhiệm vụ và ngược lại.
Bốn là, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm.
Đảng và nhà nước ta chủ trương: Tiếp tục hoàn thiện các thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Xây dựng và hoàn thiện cơ chế khuyến khích và bảo vệ
Page 19
những người đấu tranh chống tham nhũng; Xây dựng các chế tài để xử lý các cá nhân và tổ chức vi phạm; động viên khuyến khích toàn Đảng, toàn dân thực hành tiết kiệm.
Kết luận
Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam, làm rõ bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và phương hướng tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhà nước pháp quyền là giá trị phổ quát, là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài, bền bỉ, gian khổ của quần chúng nhân dân trong quá trình phá bỏ mô hình nhà nước độc tài, chuyên chế để xây dựng mô hình nhà nước kiểu mới, mà ở đó “ý chí của người dân được nâng lên thành luật”. việc lựa chọn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hoàn toàn xuất phát từ mục tiêu, ước vọng của cả dân tộc Việt Nam về một nhà nước dân chủ, chế độ dân chủ, xã hội dân chủ, mà không phải là sự học theo nhà nước tư sản hay bất cứ mô hình nhà nước nào khác.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ, Đảng ta đúc kết thành cơ chế quản lý điều hành đất nước: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Cơ chế đó đã tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đáp ứng đòi hỏi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa phải tiếp tục quán triệt sâu sắc và hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ cũng như quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân bởi đây là nền tư tưởng, lý luận có ý nghĩa quan trọng trong tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Page 21
Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân.… Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Để nhân dân thực sự phát huy được quyền làm chủ của mình thì vấn đề cốt lõi hiện nay là phải ra sức xây dựng, củng cố hệ thống chính trị một cách đồng bộ, đặc biệt là đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị xã hội, xây dựng, hoàn thiện toàn bộ máy Nhà nước vững mạnh, trong sạch, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cao. Tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức dưới chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta. Để bảo vệ đất nước, giữ gìn dân chủ, chính quyền nhân dân phải dùng pháp luật của nhân dân làm công cụ để quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Chính vì vậy, vấn đề dân chủ trong xây dựng nhà nước pháp quyền đã và đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta quán triệt để xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tài liệu tham khảo
https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/ V8hhp4dK31Gf/content/xay-dung-va-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen- xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-trong-giai-doan-moi
https://kiemsat.vn/dac-trung-co-ban-cua-nha-nuoc-phap-quyen-xa- hoi-chu-nghia-viet-nam-65855.html
Giáo Trình Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học PDF (tailieuvui.com)
Phụ lục hình ảnh
Page 23