lOMoARcPSD| 61630929
MỤC LỤC
Lời nói đầu ............................................................................................................ 2
Câu 1: Điều kiện có hiệu lực của di chúc: ......................................................... 2
Câu 2: Nhận xét phán quyết của Tòa án nhân dân cấp thẩm phán quyết
của Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm? Nêu rõ căn cứ pháp lý? ..................... 8
Câu 3: Quan điểm giải quyết vụ việc trên của nhóm theo quy định của
phápluật hiện hành ........................................................................................... 17
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 19
Tài liệu tham khảo ............................................................................................... 19
lOMoARcPSD| 61630929
Lời nói đầu
Di chúc việc thể hiện ý nguyện của người còn sống về việc định đoạt tài
sản của mình sau khi đã qua đời. Để có một bản di chúc hợp pháp và có hiệu lực
pháp luật thì cần có những điều kiện nhất định đã được quy định cụ thể trong Bộ
luật dân shiện hành. Trong đời sống thực tế, đã không ít các tình huống
không xác định tính hợp pháp của di chúc dẫn đến những nhầm lẫn s
cố gây mâu thuẫn. Để đảm bảo thực hiện đúng như ý nguyện của người để lại di
chúc cũng như các quyền, lợi ích và nghĩa vụ của những người có liên quan, cần
phải có nhận thức chính xác và sự đánh giá trên cơ sở pháp luật về tính hợp pháp
của di chúc.
Bài tiểu luận sau đây của tổ 2 lớp K4A xin được giải quyết tình huống số 7
trong bộ câu hỏi tình huống lần 2 môn Luật Dân sự Việt Nam 1. Trong quá trình
giải quyết, nghiên cứu, phân tích tổng hợp, các thành viên trong nhóm đã rất
cố gắng, tuy nhiên, khó tránh khỏi những khiếm khiếm nhất định, rất mong nhận
được ý kiến đóng góp từ quý thầy, cô và các bạn để bài làm được hoàn thiện hơn
và khắc phục những hạn chế.
NỘI DUNG
Câu 1: Điều kiện có hiệu lực của di chúc:
Di chúc hợp pháp.
Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015 (BLDS 2015) quy định về di chúc hợp
pháp:
“Điều 630. Di chúc hợp pháp
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe dọa, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
lOMoARcPSD| 61630929
2. Di chúc của người từ đ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
phảiđược lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về
việc lập di chúc.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết
chữphải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng
thực.
4. Di chúc bằng văn bản không công chứng, chứng thực chỉ được coi làhợp
pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ýchí
cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người
di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên
hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng
thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc quan
thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”
Để xác định một bản di chúc có hợp pháp hay không cần xem xét 4 điều kiện:
năng lực hành vi dân sự của người lập di chúc, ý chí của người đó, nội dung
ràng, logic, hợp pháp của di chúc, và hình thức của bản di chúc đó
Người lập di chúc phải có năng lực hành vi dân sự:
Pháp luật cho phép cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản,tuy nhiên
không phải nhân nào cũng thể thực hiện quyền lập di chúc trước khi mình
qua đời, điều đó còn phụ thuộc vào năng lực hành vi dân sự của nhân. Năng
lực của nhân được pháp luật quy định bao gồm năng lực pháp luật dân sự
năng lực hành vi dân sự. Một người chỉ được coi là có đủ năng lực hành vi trong
việc lập di chúc nếu người đó đáp ứng được các yêu cầu:
- Yêu cầu về độ tuổi: Chỉ những người đủ 18 tuổi trở lên mới có quyền
lậpdi chúc. Đối với những người chưa đủ 18 tuổi nhưng đã tròn 15 tuổi ,nếu
lOMoARcPSD| 61630929
muốn lập di chúc phải được sự đồng ý của cha,mẹ,hoặc người giám hộ,vấn đề
này cần xác định theo mấy trường hợp:
+ Trường hợp thứ nhất: trong lúc người chưa thành niên lập di chúc mà cả cha
và mẹ đều đang còn sống thì phải có sự đồng ý của cha và mẹ.
+ Trường hợp thứ hai: vào thời điểm di chúc được lập nếu cha hoặc mẹ đã chết
trước hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì di chúc chỉ cần sự đồng ý của người
còn lại.
+ Trường hợp thứ ba: khi người lập di chúc người giám hộ mà việc giám hộ
phù hợp với quy định của pháp luật thì di chúc chỉ cần sự đồng ý của người giám
hộ là đại diện.
- Yêu cầu về nhân thức: đây là một yếu tố không thể thiếu trong việc xác
lậpnăng lực hành vi dân sự ca người lập di chúc, nếu trong lúc lập di chúc
người đó không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì di chúc đó sẽ bị
coi là không hợp pháp. Tại điểm a,khoản 1,Điều 630 BLDS 2015 đã quy định
Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối,
đe dọa, cưỡng ép” nên di chúc sẽ không được coi là hợp pháp khi rơi vào 1
trong các trường hợp sau:
+ Di chúc được lập ra trong hoặc sau khi người đó mắc 1 số bệnh không
thế nhận thức được nữa.
+ Một người lập di chúc nhưng bị tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự trên skết luận của tchức giám định y khoa thẩm quyền
mà thời điểm bị coi là mất năng lực hành vi dân sự trước thời điểm di chúc được
lập.
+ Một người lập di chúc sau khi bị Tòa án tuyên bố bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự mà di chúc đó không có sự đng ý của người đại diện.
lOMoARcPSD| 61630929
. Người lập di chúc phải hoàn toàn tự nguyện.
Điều kiện này cụ thể hóa nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận
đã được quy định BLDS 2015 “quyền tự do cam kết ,thỏa thuận trong việc xác
lập quyền,nghĩa vụ dân sđược pháp luật bảo đảm,nếu cam kết,thỏa thuận đó
không vi phạm điều cấm của pháp luật,không trái đạo đức hội..”,tự nguyện
được xem như biểu hiện của tự do lập di chúc và là một điều kiện để xem xét tính
hợp pháp của di chúc. Di chúc sbị coi không hợp pháp nếu không sự thống
nhất giữa các vấn đề đã được thể hiện trong nội dung của bản di chúc với ý chí
chủ quan của người lập ra nó.
Nội dung của di chúc không trái pháp luật,đạo đức xã hội.
Di chúc có được coi là hợp pháp hay không không hẳn chỉ dựa vào năng lực
hành vi dân sự của người lập mà còn dựa vào nhiều yếu tố,trong đó nội dung của
di chúc một điều quan trọng. Nội dung của di chúc sự tổng hợp các vấn đề
người lập di chúc đã thể hiện trong di chúc đó. Vì vậy một di chúc chỉ được
coi là hợp pháp nếu sự thể hiện trên không vi phạm những điều pháp luật đã cấm,
không trái những điều pháp luật đã quy định, ngoài ra di chúc muốn được coi
hợp pháp thì nội dung của nó phải phù hợp với đạo đức xã hội.
Để di chúc lập ra có giá trị pháp lí thì nội dung trong di chúc đó phải phù hợp
với những quy định của pháp luật, phù hợp với đạo đức hội. Trường hợp chỉ
một số điểm trong nội dung của di chúc không phù hợp với pháp luật tchỉ
riêng những phần đó bcoi không có giá trị pháp lí, còn những phần khác của
di chúc vẫn có hiệu lực pháp luật.
Hình thức của di chúc không trái với pháp luật.
Khi lập di chúc, di chúc phải được thể hiện dưới một hình thức nhất định, đây
cũng là một trong những điều kiện có hiệu lực của di chúc, đã quy định “di chúc
phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì
lOMoARcPSD| 61630929
thể di chúc miệng”, với mỗi loại di chúc cần đáp ứng được những yêu cầu nhất
định
+Hình thức viết của di chúc: Để bản di chúc của mình hiệu lực pháp luật,
người lập di chúc cần quan tâm tới những vấn đề sau:
Thứ nhất: Các yêu cầu về nội dung đối với mọi di chúc viết:
- Di chúc phải ghi rõ ngày,tháng,năm lập di chúc.
- Di chúc phải ghi rõ họ và tên,nơi cư trú của người lập di chú.
- Di chúc phải ghihọ,tên người,tên cơ quan,tổ chức được hưởng di
sảnhoặc xác định các điều kiện để nhân,cơ quan,tổ chức được nhận di sản.
- Di chúc phải ghi rõ di sản để lại và nơi có di sản.
- Di chúc phải ghi việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ nội
dungcủa nghĩa vụ.
- Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng hiệu, nếu di chúc
gồmnhiều trang thì mỗi trang phải đánh số thứ tvà phải cóhiệu hoặc điểm
chỉ của người lập di chúc.
Thứ hai, mỗi loại di chúc viết phải được lập theo một trình tự tương ứng. Hình
thức di chúc bằng văn bản nhiều loại, bao gồm: di chúc bằng văn bản không
có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có người làm chứng, di chúc bằng văn
bản có công chứng, di chúc bằng văn bản có chứng thực.
+ Hình thức miệng của di chúc: Di chúc miệng là sự thể hiện ý chí thông qua
lời nói của nhân nhằm dịch chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi
chết. Khoản 1 Điều 629 BLDS 2015 quy định về di chúc miệng như sau: “ trường
hợp tính mạng của một người bị cái chết đe dọa không thể lập di chúc bằng
văn bản thì có thể di chúc miệng”
Thủ tục của di chúc miệng gần giống như thủ tục lập di chúc bằng văn bản có
người làm chứng, tuy nhiên sự khác nhau giữa hai thủ tục này chỗ một văn
bản thì bản thân di chúc, một văn bản thì chỉ với cách ghi lại một di
lOMoARcPSD| 61630929
chúc miệng. Được coi di chúc miệng trong trường hợp người để lại di sản lâm
vào tình trạng nguy kịch về tính mạng, họ di chúc miệng và người làm chứng ghi
lại thành văn bản lời di chúc đó.
Điều kiện với di sản: di sản phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa
kế. Điều 630 khoản 3:
“3. Di chúc không hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào
thời điểm mở thừa kế; nếu di sản đlại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì
phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.”
Nội dung của di chúc rõ ràng. Nếu nội dung của di chúc không
ràng, có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, không thể giải thích được
thì di chúc không có hiệu lực.
“Điều 648. Giải thích nội dung di chúc
Trường hợp nội dung di chúc không ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác
nhau thì những người thừa kế theo di chúc phải cùng nhau giải thích nội dung di
chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, xem xét đến mối
quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này
không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì quyền yêu cầu Tòa án giải
quyết.
Trường hợp một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không
ảnh hưởng đến c phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được
không có hiệu lực.”
Người thừa kế theo di chúc không từ chối nhận di sản.
Theo khoản 1 điều 620 BLDS 2015: “1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di
sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản
của mình đối với người khác.” Vì vậy, di chúc sẽ không có giá trị nếu người thừa
kế được chỉ định trong di chúc từ chối hưởng di sản và việc từ chối đó là hợp
pháp.
Hiệu lực di chúc khi người chết để lại nhiều di chúc khác nhau:
lOMoARcPSD| 61630929
Một người thể lập một hoặc nhiều di chúc, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di
chúc. Khi một người lập nhiều bản di chúc thì việc xác định hiệu lực của các di
chúc đó cần dựa trên nhiều dấu hiệu khác nhau như tính hợp pháp của các bản di
chúc. Nếu các di chúc đó đều hợp pháp thì cần xem xét nội dung của các bản di
chức đó mâu thuẫn nhau không; bản di chúc nào được lập sau cùng. Khi đó,
hiệu lực của các bản di chúc được xác định như sau:
+ Nếu mỗi bản di chúc định đoạt một tài sản khác nhau ttất cả các bản di
chúc đã lập đều có hiệu lực pháp luật.
+ Nếu các bản di chúc đó cùng định đoạt một tài sản thì bản di chúc nào được
lập sau cùng sẽ có hiệu lực pháp luật, các bản di chúc trước không có giá tri.
Điều 643 khoản 5: Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài
sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.”
Câu 2: Nhận xét phán quyết củaa án nhân dân cấp sơ thẩm và phán
quyết của Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm? Nêu rõ căn cứ pháp lý?
Trước hết xét các bản di chúc
a) Bản di chúc thứ nhất:
- Thời gian: 9/2007
- Địa điểm: Tại văn phòng luật sư ở thành phố Hồ Chí Minh
- Nội dung: Ph được hưởng thửa đất hơn 20.100 m
2
một nửa
thửa đất hơn 4.200 m
2
; Bà C được hưởng một nửa thửa đất hơn 4.200 m
2
- Hình thức: Di chúc bằng văn bản có người làm chứng
b) Bản di chúc thứ hai:
- Thời gian: 15/10/2010
- Địa điểm: Công chứng tại văn phòng công chứng Vì Dân
- Nội dung: Giống như bản di chúc thứ nhất nhưng có thêm nội dung
là chobà Trần Thị H hưởng bộ ghế thờ gồm lư hương, chân đèn, đĩa quả, bình
hoa.
lOMoARcPSD| 61630929
Di chúc có 3 trang nhưng không được đánh số thứ tự và điểm chỉ thiếu, không
sơ đồ minh họa vị tđất. Ngoài ra, tại trang thnhất di chúc thể hiện tài sản
của cụ Trần Thị B để lại chỉ bao gồm hai thửa đất nhưng trang thứ hai lại nói thêm
cụ Trần Thị B cho một người họ hàng khác là bà Trần Thị H được hưởng bộ ghế
thờ, lư hương, chân đèn, bình hoa...
- Hình thức: Di chúc bằng văn bản có công chứng chứng thực
c) Bản di chúc thứ ba:
- Thời gian: 7/2008
- Địa điểm: Lập tại phòng công chứng số 2 tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
- Nội dung: C được hưởng toàn bộ tài sản bao gồm hai thửa đất nói
trênvà một căn nhà gắn liền với quyền sử dụng 90 m
2
đất tại phường 2, quận
3, thành phố Hồ Chí Minh
- Hình thức: Di chúc bằng văn bản có công chứng chứng thực
Xét phán quyết của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm
Nội dung phán quyết: tại bản án sơ thẩm ngày 21/03/2017, TAND tỉnh Bà Rịa
Vũng Tàu cho rằng bản di chúc lập năm 2008 tại văn phòng công chứng s hai
hợp pháp, còn bản di chúc do VPCC Vì Dân lập năm 2010 là vô hiệu. Lý do bản
di chúc 2010 btuyên hiệu do “bản di chúc năm 2010 3 trang nhưng
không được đánh số thứ tự và điểm chỉ thiếu, không có sơ đồ minh họa vị trí đất.
Ngoài ra, tại trang thứ nhất di chúc thể hiện tài sản cảu cụ Trần Thị B để lại chỉ
bao gồm hai thửa đất nhưng trang thứ hai lại nói thêm cụ Trần Thị B cho một
người họ hàng khác là bà Trần Thị H được hưởng bghế thờ, lư hương, chân đèn,
bình hoa... Như vậy tài sản để lại sđịnh đoạt của cụ Trần Thị B không
ràng”
Từ đó TAND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của bà Lê Thị Ph, đồng thời tuyên cho Thị C được hưởng di sản thừa kế của
cụ Trần Thị B để lại theo di chúc năm 2008.
lOMoARcPSD| 61630929
thời điểm Trần Thị B lập di chúc những năm 2007,2008,2010 thì Bộ
luật dân snăm 2005 đang có hiệu lực thời điểm giải quyết vviệc là sau ngày
01/01/2017 nên khi giải quyết vấn đề liên quan đến việc lập di chúc của cụ Trần
Thị B sẽ sử dụng Bộ luật dân sự 2005 và khi giải quyết vấn đề liên quan đến việc
ra phán quyết của Tòa án các cấp thì sẽ sử dụng Bộ luật dân sự năm 2015 để giải
quyết.
Về mặt chủ thể: Bà Trần Thị B đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều
647 BLDS 2005 Điều 647: Người lập di chúc
“1. Người đã thành niên quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác không thể nhận thức làm chủ được hành vi
của mình.
2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi thể lập di chúc,
nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.”
Căn cứ pháp lý mà TAND sử dụng để đưa ra phán quyết:
Các Điều luật trong Bộ luật dân sự 2005 và Luật công chứng 2006
Điều 647.Người lập di chúc
1. Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bịbệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác không thể nhận thức làm chủ được hành vi
của mình.
2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi thể lập di
chúc,nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Điều 652. Di chúc hợp pháp và Điều 653 Nội dung ca di chúc
Các Điều luật trong Luật công chứng 2006:
“Điều 41. Ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng
1. Người yêu cầu công chứng, người làm chứng phải vào văn bản
côngchứng trước mặt công chứng viên.
lOMoARcPSD| 61630929
Trong trường hợp người thẩm quyền giao kết hợp đồng của tổ chức tín dụng,
doanh nghiệp khác đã đăng ký chữ ký mẫu tại tổ chức hành nghề công chứng thì
người đó thể trước vào hợp đồng; công chứng viên phải đối chiếu chữ
của họ trong hợp đồng với chữ ký mẫu trước khi thực hiện việc công chứng.
2. Việc điểm chỉ được thay thế việc trong văn bản ng chứng trong
cáctrường hợp người yêu cầu công chứng, người làm chứng không được do
khuyết tật hoặc không biết ký. Khi điểm chỉ, người yêu cầu công chứng, người
làm chứng sử dụng ngón trỏ phải; nếu không điểm chỉ được bằng ngón trỏ phải
thì điểm chỉ bằng ngón trtrái; trường hợp không thể điểm chbằng hai ngón trỏ
đó thì điểm chỉ bằng ngón khác phải ghi việc điểm chỉ đó bằng ngón nào,
của bàn tay nào.
3. Việc điểm chỉ cũng thể thực hiện đồng thời với việc trong các
trườnghợp sau đây:
a) Công chứng di chúc;
b) Theo đề nghị của người yêu cầu công chứng;
c) Công chứng viên thấy cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu
công chứng.
Điều 42. Việc ghi trang, tờ trong văn bản công chứng
Văn bản công chứng có từ hai trang trở lên thì từng trang phải được đánh số
thứ tự. Văn bản công chứng có từ hai ttrở lên phải được đóng du giáp lai giữa
các tờ.
Điều 48. Công chứng di chúc
1. Người lập di chúc phải tự mình yêu cầu công chứng di chúc; không ủyquyền
cho người khác yêu cầu công chứng di chúc.
2. Trường hợp công chứng viên nghi ngờ người lập di chúc bị bệnh tâm
thầnhoặc mắc bệnh khác không thể nhận thức làm chủ được hành vi của
mình hoặc căn cứ cho rằng việc lập di chúc dấu hiệu bị lừa dối, đe dọa hoặc
lOMoARcPSD| 61630929
cưỡng ép thì công chứng viên từ chối công chứng di chúc đó hoặc theo đề nghị
của người lập di chúc tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định.
Trong trường hợp tính mạng người lập di chúc bị đe doạ thì người yêu cầu
công chứng không phải xuất trình đầy đủ giấy tquy định tại khoản 1 Điều 35
của Luật này nhưng phải ghi rõ trong văn bn công chứng.
3. Di chúc đã được công chứng nhưng sau đó người lập di chúc muốn sửađổi,
bổ sung, thay thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc thì có thể yêu cầu bất kỳ
công chứng viên nào công chứng việc sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ đó.
Trong trường hợp di chúc trước đó đang được lưu giữ tại một tổ chức hành nghề
công chứng thì người lập di chúc phải thông báo cho tổ chức hành nghề công
chứng đó biết việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc.”
Căn cứ vào những sở pháp nêu trên thể thấy trong trường hợp này
cả hai bản di chúc năm 2008 và năm 2010 đều là di chúc thuộc hình thức di chúc
bằng văn bản có công chứng, chứng thực nên khi công chứng chứng thực thì văn
phòng công chứng sẽ giữ lại một bản làm căn cứ pháp lý. Vì vậy, khi giải quyết
trường hợp này cần xét đến các trường hợp:
Trường hợp 1: Bản di chúc năm 2008 khớp với bản sao được lưu tại văn
phòng công chứng. Còn bản di chúc năm 2010 không khớp với bản sao được lưu
tại Văn phòng công chứng thì Tòa án nhân dân xét xem bản di chúc năm 2008 có
đáp ứng đầy đủ điều kiện của di chúc hiệu lực được quy định tại Điều 630,
Điều 631 BLDS 2015 không tđó sẽ tuyên bản di chúc 2010 hiệu đồng thời
tuyên bản di chúc năm 2008 có hiệu lực hay vô hiệu.
Trường hợp 2: Ngược lại với trường hợp 1, Bản di chúc năm 2010 khớp với
bản sao di chúc được lưu tại văn phòng công chứng. Còn bản di chúc năm 2008
không khớp với bản sao được lưu tại Văn phòng công chứng thì TAND xét xem
bản di chúc năm 2010 có đáp ứng đầy đủ điều kiện của di chúc có hiệu lực được
quy định tại Điều 630, Điều 631 BLDS 2015 không tđó sẽ tuyên bản di chúc
2008 vô hiệu và đồng thời tuyên bản di chúc năm 2010 có hiệu lực hay vô hiệu.
lOMoARcPSD| 61630929
Trường hợp 3: Cả hai bản di chúc đều khớp với những bản di chúc được lưu
tại Văn phòng công chứng thì sẽ xét từng bản di chúc:
Xét bản di chúc năm 2010: Khi cụ Trần Thị B đem bản di chúc lập năm 2010
đi công chứng, chứng thực thì văn phòng công chứng sẽ giữ lại một bản để làm
căn cứ cho việc đã công chứng chứng thực loại văn bản này.
vậy TAND khi xem xét bản di chúc này cần yêu cầu văn phòng công chứng
nộp bản di chúc là căn cứ để TAND so sánh cả về nội dung và hình thức. Xét thấy
nếu bản di chúc này khớp cả về hình thức và nội dung thì vấn đề về số thứ tự các
trang không ảnh hưởng tới nội dung bản di chúc, đây là một lỗi kỹ thuật thể bỏ
qua.
Còn đối với việc thiếu điểm chỉ thì xét nếu các trang của bản di chúc đó đã
có chữ ký thì sẽ không cần điểm chỉ nữa. n nếu các trang khác của bản di chúc
đã được điểm chỉ trang bị thiếu điểm chỉ nghĩa cụ Trần Thị B không thể
ký vì lý do nào đó hoặc khuyết tật hoặc không biết chữ hoặc không biết ký (Điều
41 Luật công chứng năm 2006). vậy nếu thiếu điểm chỉ thì bản di chúc sẽ
không hợp pháp sẽ không hiệu lực. Tuy nhiên trường hợp di chúc được
cụ Trần Thị B nhờ người khác viết bằng tay và sdụng loại giấy đôi, trong trường
hợp này chỉ cần điểm chmặt đầu mặt cuối của bản di chúc thì bản di chúc
vẫn được tính hiệu lực, nếu xét thêm nội dung giữa các trang sự liên kết,
logic với nhau.
Như vậy Tòa án cấpthẩm không thể chỉ dựa vào những thiếu sót về mặt kỹ
thuật như vậy mà đưa ra phán quyết bản di chúc năm 2010 là vô hiệu.
Xét bản di chúc năm 2008: Bản di chúc này được lập tại văn phòng công chứng
thì theo Điều 658 Bộ luật dân sự 2005. Thủ tục lập di chúc tại quan công chứng
hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
“Việc lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn phải tuân theo thủ tục sau đây:
lOMoARcPSD| 61630929
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng
viênhoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn. Công chứng viên hoặc người thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại
nội dung người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc hoặc điểm chỉ
vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể
hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người thẩm quyền chứng thực
của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc;
2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không ngheđược
bản di chúc, không hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người m chứng
người này phải xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người thẩm
quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên,
người thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng
nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc người làm chứng.” Như vậy
TAND cần phải yêu cầu công chứng viên đã công chứng, chứng thực bản di chúc
năm 2008 xác nhận lại nội dung chữ của mình trong ban di chúc đúng
hay không.
Hơn nữa sau khi hoàn tất thủ tục lập di chúc thì người lập di chúc còn phải gửi
giữ di chúc. Điều này được quy định tại Điều 665 Bộ luật dân sự 2005 về việc Gửi
giữ di chúc
“1. Người lập di chúc thể yêu cầu quan công chứng lưu giữ hoặc gửi
người khác giữ bản di chúc.
2. Trong trường hợp cơ quan công chứng lưu giữ bản di chúc thì phải
bảoquản, giữ gìn theo quy định của pháp luật về công chứng.
3. Cá nhân giữ bản di chúc có các nghĩa vụ sau đây:
a) Giữ bí mật nội dung di chúc;
b) Giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất lạc, hư hại thì phải
báo ngay cho người lập di chúc;
lOMoARcPSD| 61630929
c) Giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người thẩm quyền công
bốdi chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập
thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của hai
người làm chứng.”
Điều 52 Luật công chứng năm 2006 về việc nhận lưu giữ di chúc
“1. Người lập di chúc thể yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nhận
lưu giữ di chúc của mình. Khi nhận lưu giữ di chúc, công chứng viên phải niêm
phong bản di chúc trước mặt người lập di chúc, ghi giấy nhận lưu giữ giao cho
người lập di chúc.
2. Đối với di chúc đã được tổ chức hành nghề công chứng nhận lưu
giữnhưng sau đó giải thể hoặc chấm dứt hoạt động thì trước khi giải thể hoặc
chấm dứt hoạt động, tổ chức hành nghề công chứng phải thoả thuận với người
lập di chúc về việc chuyển cho tổ chức hành nghề công chứng khác lưu giữ di
chúc.
Trường hợp không thoả thuận được thì phải trả lại di chúc và phí lưu giữ di chúc
cho người lập di chúc.
3. Việc công bố di chúc lưu giữ tại tổ chức hành nghề công chứng
đượcthực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự.”
Tại buổi giải hòa Thi C đưa ra bản di chúc năm 2008 tuy nhiên TAND
cũng chưa biết bản di chúc này trước đó do nhân hoặc tổ chức nào có trách
nhiệm gìn giữ. vậy cần phải tìm hiểu về người gìn giữ bản di chúc để biết được
sự tồn tại của bản di chúc này. Như vậy khi đã hoàn thành việc đối chiếu bản di
chúc với những căn cứ liên quan nếu trùng khớp thì TAND mới có thể tuyên bản
di chúc này có hiệu lực.
Từ những phân tích trên cho thấy phán quyết của TAND cấp sơ thẩm là chưa
đủ căn cứ và quá vội vàng dẫn đến phán quyết chưa chính xác và không hòa giải
được cho vụ việc này.
lOMoARcPSD| 61630929
Xét phán quyết của Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm
Khi TAND cấp phúc thẩm tiến hành đầy đủ những bước kiểm tra đối chiếu các
bản di chúc thì nhận thấy bản di chúc năm 2010 bản di chúc cuối cùng được p
trước khi cụ Trần Thị B chết, khi lập di chúc cụ B còn minh mẫn, nói chuyện
được. Tại thời điểm lập bản di chúc này ngoài công chứng viên VPCC Dân còn
có các nhân chứng khác chứng kiến việc cụ Trần Thị B nghe rõ và đồng ý với nội
dung công chứng. Về nội dung, di chúc ghi ngày, tháng, năm lập di chúc, họ
tên người lập di chúc, cũng như những người được hưởng di sản, tên di sản nơi
di sản. sai sót một số lỗi kỹ thuật nhưng những sai sót này không ảnh
hưởng đến nội dung.
Tuy nhiên theo quy định tại Điều 41 của Luật công chứng năm 2006 v
điểm chỉ trong văn bản công chứng thì người yêu cầu công chứng thể
hoặc điểm chỉ vào bản di chúc. Nhưng việc điểm chỉ được thay thế việc ký trong
văn bản công chứng trong các trường hợp người yêu cầu công chứng không
được do khuyết tật hoặc không biết ký.
Điều 42 Luật công chứng năm 2006 về việc ghi trang, tờ trong văn bản công
chứng: “Văn bản công chứng từ hai trang trở lên thì từng trang phải được
đánh số thứ tự. Văn bản công chứng có từ hai tờ trở lên phải được đóng dấu giáp
lai giữa các tờ.”
Theo căn cứ trên thì TAND cấp phúc thẩm cần xem xét trong bản di chúc năm
2010 cụ Trần Thị B sdụng chhay điểm chỉ. Nếu tất cả các trang của di chúc
đã có chữ thì không cần điểm chỉ nữa. Còn nếu ở một trang của bản di chúc cụ
Trần Thị B đã sử dụng điểm chỉ thì chứng tỏ cụ Trần Thị B không thể ký được vì
một lý do nào đó hoặc khuyết tật hoặc không biết chữ hoặc không biết ký. Thêm
vào đó bản di chúc có ba trang mà không đánh số thứ tự theo yêu cầu. Vì vậy nếu
đủ chữ hoặc thiếu điểm chỉ không đánh số trang cho bản di chúc nghĩa
Trần Thị B đã không thực hiện đúng những quy định của pháp luật về nội
dung di chúc. Tuy nhiên như đã trình bày trên trong trường hợp cụ Trần Thị B
nhờ người viết di chúc sử dụng loại giấy đôi. Trường hợp đó nội dung của di chúc
lOMoARcPSD| 61630929
vẫn sliên kết với nhau nên bản di chúc này vẫn có hiệu lực. Nhưng việc
TAND cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bà Lê Thị Ph tuyên di sản của c
Trần Thị B được chia theo di chúc lập ngày 15/10/2010 tại văn phòng công chứng
Vì Dân chưa chính xác. Bởi vì khi so sánh hai bản di chúc với nhau thì có nội
dung tài sản thừa như là bản di chúc năm 2008 có thêm một di sản là một căn nhà
gắn liền với quyền sử dụng 90 m
2
đất tại phường 2, quận 3, thành phố Hồ Chí
Minh. Và bản di chúc năm 2010 lại có thêm di sản là bộ ghế thờ. Như vậy những
nội dung tài sản thừa không lặp nhau nên việc quyết định chia di sản theo bản di
chúc năm 2010 là chưa đúng.
Tóm lại, thông qua việc phân tích phán quyết của TAND cấp thẩm phán
quyết của TAND cấp phúc thẩm dựa trên những dữ kiện có liên quan cho thấy cả
hai bản di chúc được lập năm 2008 năm 2010 đều hợp pháp. vậy phán quyết
của TAND hai cấp đều chưa đúng.
Câu 3: Quan điểm giải quyết vụ việc trên của nhóm theo quy định của pháp
luật hiện hành
Chúng ta 3 bản di chúc đã được tóm tắt phía trên. Đối với vụ việc này,
điều đầu tiên cần làm là đi tới văn phòng công chứng để kiểm chứng độ xác thực
của hai bản di chúc năm 2008 năm 2010. Nếu đã xác thực được hai bản di chúc
đều khớp với bản tại phòng công chứng, đồng thời đầy đủ các dấu hiệu xác nhận
của nơi công chứng thì ta xét tới tính hợp pháp của 2 bản di chúc (việc xét tính
hợp pháp của hai bản di chúc đã được nhắc đến phần trên). Tiếp theo đó, vụ việc
được xử lí như sau:
- Xét bản di chúc được lặp năm 2007 và bản di chúc năm 2008. Ta thấy cả2
bản di chúc đều định đoạt hai thửa đất 20.100 m
2
4.200 m
2
, tuy nhiên bản di
chúc năm 2008 có đề cập thêm về một căn nhà gắn liền với quyền sử dụng 90 m
2
đất tại phường 2, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ theo khoản 5 điều 667
Bộ luật dân sự 2005: “Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với mt tài sản
thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật.” thì bản di chúc năm 2007 đã
lOMoARcPSD| 61630929
hết hiệu lực khi bản di chúc năm 2008 được lập do cùng đề cập đến một loại tài
sản.
- Tiếp theo xét bản di chúc năm 2008 năm 2010. Cả hai bản di chúc
nàyđều cùng đề cập đến hai thửa đất ban đầu. Điều khác nhau giữa hai bản di chúc
này việc bản di chúc năm 2008 đề cập thêm đến việc cho Thị C một
căn ngắn liền với quyền sdụng 90m2 đất tại phường 2, quận 3, thành phố H
Chí Minh, còn bản di chúc 2010 đề cập thêm việc để lại cho bà Trần Thị H hưởng
bộ ghế thờ gồm lư hương, chân đèn, đĩa quả, bình hoa.
Điều 662 Bộ luật dân sự 2005 quy định về sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy
bỏ di chúc:
“1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc vào bất
cứ lúc nào.
2. Trong trường hợp người lập di chúc b sung di chúc thì di chúc đã
lậpvàphần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã
lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
3. Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thìdi
chúc trước bị huỷ bỏ.
Theo quy định tại các khoản 1 của điều luật này, quyền được hưởng hai thửa
đất 20.100 m
2
4.200 m
2
đã bị sửa đổi so với bản 2008 phải công nhận sự sửa
đổi này. Tuy nhiên, chỉ có bộ phận trong bản di chúc 2008 đề cập đến hai thửa đất
này bị vô hiệu và bà Lê Thị C vẫn được hưởng một căn nhà gắn liền với quyền s
dụng 90m2 đất tại phường 2, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại
khoản 2. Bản di chúc 2010 đề cập đến việc sửa đổi, bổ sung di chúc nhưng
không hề nhắc đến căn nhà gắn với quyền sdụng đất tại thành phố Hồ Chí Minh
nên quyền được hưởng di sản này của bà Lê Thị C không bị ảnh hưởng.
Như vậy, quan điểm giải quyết vụ việc trên của nhóm thừa nhận tính hợp
pháp của các bản di chúc. Sau đó:
1. Chia cho Thị C được hưởng một nửa thửa đất 4.200 m
2
Bàu
Chinh, huyện Châu Đức (Bà Rịa – Vũng Tàu), kèm theo đó là một căn nhà
lOMoARcPSD| 61630929
gắn liền với quyền sử dụng 90m2 đất tại phường 2, quận 3, thành phố Hồ
Chí Minh.
2. Chia cho Lê Thị Ph được hưởng thửa đất hơn 20.100 m
2
cùng một nửa
thửa đất 4.200 m
2
còn lại.
3. Chia cho Trần Thị H hưởng bghế thờ gồm hương, chân đèn, đĩaquả,
bình hoa.
KẾT LUẬN
thể thấy rằng chế định di chúc ý nghĩa quan trọng trong việc chuyển
quyền sở hữu đối với tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác nhằm đảm bảo địa
vị pháp cho các chủ thể liên quan. Qua phân tích giải quyết tình huống
trên, thể đưa ra nhận xét rằng việc xác định tính hợp pháp của di chúc một cách
cẩn trọng là cần thiết để việc lập di chúc và sau đó việc chia thừa kế theo di chúc
sẽ có hiệu quả hơn, tránh những nhầm lẫn và mâu thuẫn không đáng có.
Tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình luật dân sự, Tập 1, Nxb.
Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Ni, 2016;
2. Bộ luật dân sự năm 2005.
3. Bộ luật dân sự năm 2015.
4. Luật công chứng năm 2006.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61630929 MỤC LỤC
Lời nói đầu ............................................................................................................ 2
Câu 1: Điều kiện có hiệu lực của di chúc: ......................................................... 2
Câu 2: Nhận xét phán quyết của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm và phán quyết
của Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm? Nêu rõ căn cứ pháp lý?
..................... 8
Câu 3: Quan điểm giải quyết vụ việc trên của nhóm theo quy định của
phápluật hiện hành
........................................................................................... 17
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 19
Tài liệu tham khảo ............................................................................................... 19 lOMoAR cPSD| 61630929 Lời nói đầu
Di chúc là việc thể hiện ý nguyện của người còn sống về việc định đoạt tài
sản của mình sau khi đã qua đời. Để có một bản di chúc hợp pháp và có hiệu lực
pháp luật thì cần có những điều kiện nhất định đã được quy định cụ thể trong Bộ
luật dân sự hiện hành. Trong đời sống thực tế, đã có không ít các tình huống vì
không xác định rõ tính hợp pháp của di chúc mà dẫn đến những nhầm lẫn và sự
cố gây mâu thuẫn. Để đảm bảo thực hiện đúng như ý nguyện của người để lại di
chúc cũng như các quyền, lợi ích và nghĩa vụ của những người có liên quan, cần
phải có nhận thức chính xác và sự đánh giá trên cơ sở pháp luật về tính hợp pháp của di chúc.
Bài tiểu luận sau đây của tổ 2 lớp K4A xin được giải quyết tình huống số 7
trong bộ câu hỏi tình huống lần 2 môn Luật Dân sự Việt Nam 1. Trong quá trình
giải quyết, nghiên cứu, phân tích và tổng hợp, các thành viên trong nhóm đã rất
cố gắng, tuy nhiên, khó tránh khỏi những khiếm khiếm nhất định, rất mong nhận
được ý kiến đóng góp từ quý thầy, cô và các bạn để bài làm được hoàn thiện hơn
và khắc phục những hạn chế. NỘI DUNG
Câu 1: Điều kiện có hiệu lực của di chúc:
Di chúc hợp pháp.
Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015 (BLDS 2015) quy định về di chúc hợp pháp:
“Điều 630. Di chúc hợp pháp
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe dọa, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật. lOMoAR cPSD| 61630929
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
phảiđược lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết
chữphải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi làhợp
pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ýchí
cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người
di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên
hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng
thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có
thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”
Để xác định một bản di chúc có hợp pháp hay không cần xem xét 4 điều kiện:
năng lực hành vi dân sự của người lập di chúc, ý chí của người đó, nội dung rõ
ràng, logic, hợp pháp của di chúc, và hình thức của bản di chúc đó
Người lập di chúc phải có năng lực hành vi dân sự:
Pháp luật cho phép cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản,tuy nhiên
không phải cá nhân nào cũng có thể thực hiện quyền lập di chúc trước khi mình
qua đời, điều đó còn phụ thuộc vào năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Năng
lực của cá nhân được pháp luật quy định bao gồm năng lực pháp luật dân sự và
năng lực hành vi dân sự. Một người chỉ được coi là có đủ năng lực hành vi trong
việc lập di chúc nếu người đó đáp ứng được các yêu cầu:
- Yêu cầu về độ tuổi: Chỉ những người đủ 18 tuổi trở lên mới có quyền
lậpdi chúc. Đối với những người chưa đủ 18 tuổi nhưng đã tròn 15 tuổi ,nếu lOMoAR cPSD| 61630929
muốn lập di chúc phải được sự đồng ý của cha,mẹ,hoặc người giám hộ,vấn đề
này cần xác định theo mấy trường hợp:
+ Trường hợp thứ nhất: trong lúc người chưa thành niên lập di chúc mà cả cha
và mẹ đều đang còn sống thì phải có sự đồng ý của cha và mẹ.
+ Trường hợp thứ hai: vào thời điểm di chúc được lập nếu cha hoặc mẹ đã chết
trước hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì di chúc chỉ cần sự đồng ý của người còn lại.
+ Trường hợp thứ ba: khi người lập di chúc có người giám hộ mà việc giám hộ
phù hợp với quy định của pháp luật thì di chúc chỉ cần sự đồng ý của người giám hộ là đại diện.
- Yêu cầu về nhân thức: đây là một yếu tố không thể thiếu trong việc xác
lậpnăng lực hành vi dân sự của người lập di chúc, nếu trong lúc lập di chúc
người đó không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì di chúc đó sẽ bị
coi là không hợp pháp. Tại điểm a,khoản 1,Điều 630 BLDS 2015 đã quy định
Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối,
đe dọa, cưỡng ép” nên di chúc sẽ không được coi là hợp pháp khi rơi vào 1
trong các trường hợp sau:
+ Di chúc được lập ra trong hoặc sau khi người đó mắc 1 số bệnh mà không
thế nhận thức được nữa.
+ Một người lập di chúc nhưng bị tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định y khoa có thẩm quyền
mà thời điểm bị coi là mất năng lực hành vi dân sự trước thời điểm di chúc được lập.
+ Một người lập di chúc sau khi bị Tòa án tuyên bố bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự mà di chúc đó không có sự đồng ý của người đại diện. lOMoAR cPSD| 61630929
. Người lập di chúc phải hoàn toàn tự nguyện.
Điều kiện này là cụ thể hóa nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận
đã được quy định BLDS 2015 “quyền tự do cam kết ,thỏa thuận trong việc xác
lập quyền,nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm,nếu cam kết,thỏa thuận đó
không vi phạm điều cấm của pháp luật,không trái đạo đức xã hội..”,tự nguyện
được xem như biểu hiện của tự do lập di chúc và là một điều kiện để xem xét tính
hợp pháp của di chúc. Di chúc sẽ bị coi là không hợp pháp nếu không có sự thống
nhất giữa các vấn đề đã được thể hiện trong nội dung của bản di chúc với ý chí
chủ quan của người lập ra nó.
Nội dung của di chúc không trái pháp luật,đạo đức xã hội.
Di chúc có được coi là hợp pháp hay không không hẳn chỉ dựa vào năng lực
hành vi dân sự của người lập mà còn dựa vào nhiều yếu tố,trong đó nội dung của
di chúc là một điều quan trọng. Nội dung của di chúc là sự tổng hợp các vấn đề
mà người lập di chúc đã thể hiện trong di chúc đó. Vì vậy một di chúc chỉ được
coi là hợp pháp nếu sự thể hiện trên không vi phạm những điều pháp luật đã cấm,
không trái những điều pháp luật đã quy định, ngoài ra di chúc muốn được coi là
hợp pháp thì nội dung của nó phải phù hợp với đạo đức xã hội.
Để di chúc lập ra có giá trị pháp lí thì nội dung trong di chúc đó phải phù hợp
với những quy định của pháp luật, phù hợp với đạo đức xã hội. Trường hợp chỉ
có một số điểm trong nội dung của di chúc không phù hợp với pháp luật thì chỉ
riêng những phần đó bị coi là không có giá trị pháp lí, còn những phần khác của
di chúc vẫn có hiệu lực pháp luật.
Hình thức của di chúc không trái với pháp luật.
Khi lập di chúc, di chúc phải được thể hiện dưới một hình thức nhất định, đây
cũng là một trong những điều kiện có hiệu lực của di chúc, đã quy định “di chúc
phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có lOMoAR cPSD| 61630929
thể di chúc miệng”, với mỗi loại di chúc cần đáp ứng được những yêu cầu nhất định
+Hình thức viết của di chúc: Để bản di chúc của mình có hiệu lực pháp luật,
người lập di chúc cần quan tâm tới những vấn đề sau:
Thứ nhất: Các yêu cầu về nội dung đối với mọi di chúc viết: -
Di chúc phải ghi rõ ngày,tháng,năm lập di chúc. -
Di chúc phải ghi rõ họ và tên,nơi cư trú của người lập di chú. -
Di chúc phải ghi rõ họ,tên người,tên cơ quan,tổ chức được hưởng di
sảnhoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân,cơ quan,tổ chức được nhận di sản. -
Di chúc phải ghi rõ di sản để lại và nơi có di sản. -
Di chúc phải ghi rõ việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dungcủa nghĩa vụ. -
Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng kí hiệu, nếu di chúc
gồmnhiều trang thì mỗi trang phải đánh số thứ tự và phải có ký hiệu hoặc điểm
chỉ của người lập di chúc.
Thứ hai, mỗi loại di chúc viết phải được lập theo một trình tự tương ứng. Hình
thức di chúc bằng văn bản có nhiều loại, bao gồm: di chúc bằng văn bản không
có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có người làm chứng, di chúc bằng văn
bản có công chứng, di chúc bằng văn bản có chứng thực.
+ Hình thức miệng của di chúc: Di chúc miệng là sự thể hiện ý chí thông qua
lời nói của cá nhân nhằm dịch chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi
chết. Khoản 1 Điều 629 BLDS 2015 quy định về di chúc miệng như sau: “ trường
hợp tính mạng của một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng
văn bản thì có thể di chúc miệng”
Thủ tục của di chúc miệng gần giống như thủ tục lập di chúc bằng văn bản có
người làm chứng, tuy nhiên sự khác nhau giữa hai thủ tục này là ở chỗ một văn
bản thì bản thân nó là di chúc, một văn bản thì chỉ với tư cách là ghi lại một di lOMoAR cPSD| 61630929
chúc miệng. Được coi là di chúc miệng trong trường hợp người để lại di sản lâm
vào tình trạng nguy kịch về tính mạng, họ di chúc miệng và người làm chứng ghi
lại thành văn bản lời di chúc đó.
Điều kiện với di sản: di sản phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa
kế. Điều 630 khoản 3:
“3. Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào
thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì
phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.”
Nội dung của di chúc rõ ràng. Nếu nội dung của di chúc không rõ
ràng, có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, không thể giải thích được
thì di chúc không có hiệu lực.
“Điều 648. Giải thích nội dung di chúc
Trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác
nhau thì những người thừa kế theo di chúc phải cùng nhau giải thích nội dung di
chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối
quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này
không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không
ảnh hưởng đến các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được
không có hiệu lực.”
Người thừa kế theo di chúc không từ chối nhận di sản.
Theo khoản 1 điều 620 BLDS 2015: “1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di
sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản
của mình đối với người khác.” Vì vậy, di chúc sẽ không có giá trị nếu người thừa
kế được chỉ định trong di chúc từ chối hưởng di sản và việc từ chối đó là hợp pháp.
Hiệu lực di chúc khi người chết để lại nhiều di chúc khác nhau: lOMoAR cPSD| 61630929
Một người có thể lập một hoặc nhiều di chúc, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di
chúc. Khi một người lập nhiều bản di chúc thì việc xác định hiệu lực của các di
chúc đó cần dựa trên nhiều dấu hiệu khác nhau như tính hợp pháp của các bản di
chúc. Nếu các di chúc đó đều hợp pháp thì cần xem xét nội dung của các bản di
chức đó có mâu thuẫn nhau không; bản di chúc nào được lập sau cùng. Khi đó,
hiệu lực của các bản di chúc được xác định như sau:
+ Nếu mỗi bản di chúc định đoạt một tài sản khác nhau thì tất cả các bản di
chúc đã lập đều có hiệu lực pháp luật.
+ Nếu các bản di chúc đó cùng định đoạt một tài sản thì bản di chúc nào được
lập sau cùng sẽ có hiệu lực pháp luật, các bản di chúc trước không có giá tri.
Điều 643 khoản 5: “ Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài
sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.”
Câu 2: Nhận xét phán quyết của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm và phán
quyết của Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm? Nêu rõ căn cứ pháp lý?
Trước hết xét các bản di chúc
a) Bản di chúc thứ nhất: - Thời gian: 9/2007 -
Địa điểm: Tại văn phòng luật sư ở thành phố Hồ Chí Minh -
Nội dung: Bà Ph được hưởng thửa đất hơn 20.100 m2 và một nửa
thửa đất hơn 4.200 m2 ; Bà C được hưởng một nửa thửa đất hơn 4.200 m2 -
Hình thức: Di chúc bằng văn bản có người làm chứng b) Bản di chúc thứ hai: - Thời gian: 15/10/2010 -
Địa điểm: Công chứng tại văn phòng công chứng Vì Dân -
Nội dung: Giống như bản di chúc thứ nhất nhưng có thêm nội dung
là chobà Trần Thị H hưởng bộ ghế thờ gồm lư hương, chân đèn, đĩa quả, bình hoa. lOMoAR cPSD| 61630929
Di chúc có 3 trang nhưng không được đánh số thứ tự và điểm chỉ thiếu, không
có sơ đồ minh họa vị trí đất. Ngoài ra, tại trang thứ nhất di chúc thể hiện tài sản
của cụ Trần Thị B để lại chỉ bao gồm hai thửa đất nhưng trang thứ hai lại nói thêm
cụ Trần Thị B cho một người họ hàng khác là bà Trần Thị H được hưởng bộ ghế
thờ, lư hương, chân đèn, bình hoa... -
Hình thức: Di chúc bằng văn bản có công chứng chứng thực c) Bản di chúc thứ ba: - Thời gian: 7/2008 -
Địa điểm: Lập tại phòng công chứng số 2 tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu -
Nội dung: Bà C được hưởng toàn bộ tài sản bao gồm hai thửa đất nói
trênvà một căn nhà gắn liền với quyền sử dụng 90 m2 đất tại phường 2, quận
3, thành phố Hồ Chí Minh -
Hình thức: Di chúc bằng văn bản có công chứng chứng thực
Xét phán quyết của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm
Nội dung phán quyết: tại bản án sơ thẩm ngày 21/03/2017, TAND tỉnh Bà Rịa
Vũng Tàu cho rằng bản di chúc lập năm 2008 tại văn phòng công chứng số hai là
hợp pháp, còn bản di chúc do VPCC Vì Dân lập năm 2010 là vô hiệu. Lý do bản
di chúc 2010 bị tuyên vô hiệu là do “bản di chúc năm 2010 có 3 trang nhưng
không được đánh số thứ tự và điểm chỉ thiếu, không có sơ đồ minh họa vị trí đất.
Ngoài ra, tại trang thứ nhất di chúc thể hiện tài sản cảu cụ Trần Thị B để lại chỉ
bao gồm hai thửa đất nhưng trang thứ hai lại nói thêm cụ Trần Thị B cho một
người họ hàng khác là bà Trần Thị H được hưởng bộ ghế thờ, lư hương, chân đèn,
bình hoa... Như vậy tài sản để lại và sự định đoạt của cụ Trần Thị B không rõ ràng”
Từ đó TAND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của bà Lê Thị Ph, đồng thời tuyên cho bà Lê Thị C được hưởng di sản thừa kế của
cụ Trần Thị B để lại theo di chúc năm 2008. lOMoAR cPSD| 61630929
Vì thời điểm bà Trần Thị B lập di chúc là những năm 2007,2008,2010 thì Bộ
luật dân sự năm 2005 đang có hiệu lực và thời điểm giải quyết vụ việc là sau ngày
01/01/2017 nên khi giải quyết vấn đề liên quan đến việc lập di chúc của cụ Trần
Thị B sẽ sử dụng Bộ luật dân sự 2005 và khi giải quyết vấn đề liên quan đến việc
ra phán quyết của Tòa án các cấp thì sẽ sử dụng Bộ luật dân sự năm 2015 để giải quyết.
Về mặt chủ thể: Bà Trần Thị B đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều
647 BLDS 2005 Điều 647: Người lập di chúc
“1. Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc,
nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.”
Căn cứ pháp lý mà TAND sử dụng để đưa ra phán quyết:
Các Điều luật trong Bộ luật dân sự 2005 và Luật công chứng 2006
Điều 647.Người lập di chúc
1. Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bịbệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di
chúc,nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Điều 652. Di chúc hợp pháp và Điều 653 Nội dung của di chúc
Các Điều luật trong Luật công chứng 2006:
“Điều 41. Ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng
1. Người yêu cầu công chứng, người làm chứng phải ký vào văn bản
côngchứng trước mặt công chứng viên. lOMoAR cPSD| 61630929
Trong trường hợp người có thẩm quyền giao kết hợp đồng của tổ chức tín dụng,
doanh nghiệp khác đã đăng ký chữ ký mẫu tại tổ chức hành nghề công chứng thì
người đó có thể ký trước vào hợp đồng; công chứng viên phải đối chiếu chữ ký
của họ trong hợp đồng với chữ ký mẫu trước khi thực hiện việc công chứng.
2. Việc điểm chỉ được thay thế việc ký trong văn bản công chứng trong
cáctrường hợp người yêu cầu công chứng, người làm chứng không ký được do
khuyết tật hoặc không biết ký. Khi điểm chỉ, người yêu cầu công chứng, người
làm chứng sử dụng ngón trỏ phải; nếu không điểm chỉ được bằng ngón trỏ phải
thì điểm chỉ bằng ngón trỏ trái; trường hợp không thể điểm chỉ bằng hai ngón trỏ
đó thì điểm chỉ bằng ngón khác và phải ghi rõ việc điểm chỉ đó bằng ngón nào, của bàn tay nào.
3. Việc điểm chỉ cũng có thể thực hiện đồng thời với việc ký trong các
trườnghợp sau đây:
a) Công chứng di chúc;
b) Theo đề nghị của người yêu cầu công chứng;
c) Công chứng viên thấy cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu công chứng.
Điều 42. Việc ghi trang, tờ trong văn bản công chứng
Văn bản công chứng có từ hai trang trở lên thì từng trang phải được đánh số
thứ tự. Văn bản công chứng có từ hai tờ trở lên phải được đóng dấu giáp lai giữa các tờ.
Điều 48. Công chứng di chúc
1. Người lập di chúc phải tự mình yêu cầu công chứng di chúc; không ủyquyền
cho người khác yêu cầu công chứng di chúc.
2. Trường hợp công chứng viên nghi ngờ người lập di chúc bị bệnh tâm
thầnhoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của
mình hoặc có căn cứ cho rằng việc lập di chúc có dấu hiệu bị lừa dối, đe dọa hoặc lOMoAR cPSD| 61630929
cưỡng ép thì công chứng viên từ chối công chứng di chúc đó hoặc theo đề nghị
của người lập di chúc tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định.
Trong trường hợp tính mạng người lập di chúc bị đe doạ thì người yêu cầu
công chứng không phải xuất trình đầy đủ giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 35
của Luật này nhưng phải ghi rõ trong văn bản công chứng.
3. Di chúc đã được công chứng nhưng sau đó người lập di chúc muốn sửađổi,
bổ sung, thay thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc thì có thể yêu cầu bất kỳ
công chứng viên nào công chứng việc sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ đó.
Trong trường hợp di chúc trước đó đang được lưu giữ tại một tổ chức hành nghề
công chứng thì người lập di chúc phải thông báo cho tổ chức hành nghề công
chứng đó biết việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc.”
Căn cứ vào những cơ sở pháp lý nêu trên có thể thấy trong trường hợp này
cả hai bản di chúc năm 2008 và năm 2010 đều là di chúc thuộc hình thức di chúc
bằng văn bản có công chứng, chứng thực nên khi công chứng chứng thực thì văn
phòng công chứng sẽ giữ lại một bản làm căn cứ pháp lý. Vì vậy, khi giải quyết
trường hợp này cần xét đến các trường hợp:
Trường hợp 1: Bản di chúc năm 2008 khớp với bản sao được lưu tại văn
phòng công chứng. Còn bản di chúc năm 2010 không khớp với bản sao được lưu
tại Văn phòng công chứng thì Tòa án nhân dân xét xem bản di chúc năm 2008 có
đáp ứng đầy đủ điều kiện của di chúc có hiệu lực được quy định tại Điều 630,
Điều 631 BLDS 2015 không từ đó sẽ tuyên bản di chúc 2010 vô hiệu và đồng thời
tuyên bản di chúc năm 2008 có hiệu lực hay vô hiệu.
Trường hợp 2: Ngược lại với trường hợp 1, Bản di chúc năm 2010 khớp với
bản sao di chúc được lưu tại văn phòng công chứng. Còn bản di chúc năm 2008
không khớp với bản sao được lưu tại Văn phòng công chứng thì TAND xét xem
bản di chúc năm 2010 có đáp ứng đầy đủ điều kiện của di chúc có hiệu lực được
quy định tại Điều 630, Điều 631 BLDS 2015 không từ đó sẽ tuyên bản di chúc
2008 vô hiệu và đồng thời tuyên bản di chúc năm 2010 có hiệu lực hay vô hiệu. lOMoAR cPSD| 61630929
Trường hợp 3: Cả hai bản di chúc đều khớp với những bản di chúc được lưu
tại Văn phòng công chứng thì sẽ xét từng bản di chúc:
Xét bản di chúc năm 2010: Khi cụ Trần Thị B đem bản di chúc lập năm 2010
đi công chứng, chứng thực thì văn phòng công chứng sẽ giữ lại một bản để làm
căn cứ cho việc đã công chứng chứng thực loại văn bản này.
Vì vậy TAND khi xem xét bản di chúc này cần yêu cầu văn phòng công chứng
nộp bản di chúc là căn cứ để TAND so sánh cả về nội dung và hình thức. Xét thấy
nếu bản di chúc này khớp cả về hình thức và nội dung thì vấn đề về số thứ tự các
trang không ảnh hưởng tới nội dung bản di chúc, đây là một lỗi kỹ thuật có thể bỏ qua.
Còn đối với việc thiếu điểm chỉ thì xét nếu các trang của bản di chúc đó đã
có chữ ký thì sẽ không cần điểm chỉ nữa. Còn nếu các trang khác của bản di chúc
đã được điểm chỉ và có trang bị thiếu điểm chỉ nghĩa là cụ Trần Thị B không thể
ký vì lý do nào đó hoặc khuyết tật hoặc không biết chữ hoặc không biết ký (Điều
41 Luật công chứng năm 2006). Vì vậy nếu thiếu điểm chỉ thì bản di chúc sẽ
không hợp pháp và sẽ không có hiệu lực. Tuy nhiên có trường hợp di chúc được
cụ Trần Thị B nhờ người khác viết bằng tay và sử dụng loại giấy đôi, trong trường
hợp này chỉ cần có điểm chỉ ở mặt đầu và mặt cuối của bản di chúc thì bản di chúc
vẫn được tính có hiệu lực, nếu xét thêm nội dung giữa các trang có sự liên kết, logic với nhau.
Như vậy Tòa án cấp sơ thẩm không thể chỉ dựa vào những thiếu sót về mặt kỹ
thuật như vậy mà đưa ra phán quyết bản di chúc năm 2010 là vô hiệu.
Xét bản di chúc năm 2008: Bản di chúc này được lập tại văn phòng công chứng
thì theo Điều 658 Bộ luật dân sự 2005. Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng
hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
“Việc lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn phải tuân theo thủ tục sau đây: lOMoAR cPSD| 61630929
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng
viênhoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại
nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ
vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể
hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực
của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc;
2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không ngheđược
bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng
và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm
quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên,
người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng
nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.” Như vậy
TAND cần phải yêu cầu công chứng viên đã công chứng, chứng thực bản di chúc
năm 2008 xác nhận lại nội dung và chữ ký của mình trong ban di chúc là đúng hay không.
Hơn nữa sau khi hoàn tất thủ tục lập di chúc thì người lập di chúc còn phải gửi
giữ di chúc. Điều này được quy định tại Điều 665 Bộ luật dân sự 2005 về việc Gửi giữ di chúc
“1. Người lập di chúc có thể yêu cầu cơ quan công chứng lưu giữ hoặc gửi
người khác giữ bản di chúc. 2.
Trong trường hợp cơ quan công chứng lưu giữ bản di chúc thì phải
bảoquản, giữ gìn theo quy định của pháp luật về công chứng. 3.
Cá nhân giữ bản di chúc có các nghĩa vụ sau đây:
a) Giữ bí mật nội dung di chúc;
b) Giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất lạc, hư hại thì phải
báo ngay cho người lập di chúc; lOMoAR cPSD| 61630929
c) Giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công
bốdi chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập
thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của hai
người làm chứng.”
Điều 52 Luật công chứng năm 2006 về việc nhận lưu giữ di chúc
“1. Người lập di chúc có thể yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nhận
lưu giữ di chúc của mình. Khi nhận lưu giữ di chúc, công chứng viên phải niêm
phong bản di chúc trước mặt người lập di chúc, ghi giấy nhận lưu giữ và giao cho
người lập di chúc. 2.
Đối với di chúc đã được tổ chức hành nghề công chứng nhận lưu
giữnhưng sau đó giải thể hoặc chấm dứt hoạt động thì trước khi giải thể hoặc
chấm dứt hoạt động, tổ chức hành nghề công chứng phải thoả thuận với người
lập di chúc về việc chuyển cho tổ chức hành nghề công chứng khác lưu giữ di chúc.
Trường hợp không thoả thuận được thì phải trả lại di chúc và phí lưu giữ di chúc
cho người lập di chúc. 3.
Việc công bố di chúc lưu giữ tại tổ chức hành nghề công chứng
đượcthực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự.”
Tại buổi giải hòa bà Lê Thi C có đưa ra bản di chúc năm 2008 tuy nhiên TAND
cũng chưa biết bản di chúc này trước đó là do cá nhân hoặc tổ chức nào có trách
nhiệm gìn giữ. Vì vậy cần phải tìm hiểu về người gìn giữ bản di chúc để biết được
sự tồn tại của bản di chúc này. Như vậy khi đã hoàn thành việc đối chiếu bản di
chúc với những căn cứ liên quan nếu trùng khớp thì TAND mới có thể tuyên bản
di chúc này có hiệu lực.
Từ những phân tích trên cho thấy phán quyết của TAND cấp sơ thẩm là chưa
đủ căn cứ và quá vội vàng dẫn đến phán quyết chưa chính xác và không hòa giải
được cho vụ việc này. lOMoAR cPSD| 61630929
Xét phán quyết của Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm
Khi TAND cấp phúc thẩm tiến hành đầy đủ những bước kiểm tra đối chiếu các
bản di chúc thì nhận thấy bản di chúc năm 2010 là bản di chúc cuối cùng được lâp
trước khi cụ Trần Thị B chết, khi lập di chúc cụ B còn minh mẫn, nói chuyện
được. Tại thời điểm lập bản di chúc này ngoài công chứng viên VPCC Vì Dân còn
có các nhân chứng khác chứng kiến việc cụ Trần Thị B nghe rõ và đồng ý với nội
dung công chứng. Về nội dung, di chúc ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc, họ
tên người lập di chúc, cũng như những người được hưởng di sản, tên di sản và nơi
có di sản. Dù có sai sót một số lỗi kỹ thuật nhưng những sai sót này không ảnh hưởng đến nội dung.
Tuy nhiên theo quy định tại Điều 41 của Luật công chứng năm 2006 về ký
và điểm chỉ trong văn bản công chứng thì người yêu cầu công chứng có thể ký
hoặc điểm chỉ vào bản di chúc. Nhưng việc điểm chỉ được thay thế việc ký trong
văn bản công chứng trong các trường hợp người yêu cầu công chứng không ký
được do khuyết tật hoặc không biết ký.
Điều 42 Luật công chứng năm 2006 về việc ghi trang, tờ trong văn bản công
chứng: “Văn bản công chứng có từ hai trang trở lên thì từng trang phải được
đánh số thứ tự. Văn bản công chứng có từ hai tờ trở lên phải được đóng dấu giáp
lai giữa các tờ.”
Theo căn cứ trên thì TAND cấp phúc thẩm cần xem xét trong bản di chúc năm
2010 cụ Trần Thị B sử dụng chữ ký hay điểm chỉ. Nếu tất cả các trang của di chúc
đã có chữ ký thì không cần điểm chỉ nữa. Còn nếu ở một trang của bản di chúc cụ
Trần Thị B đã sử dụng điểm chỉ thì chứng tỏ cụ Trần Thị B không thể ký được vì
một lý do nào đó hoặc khuyết tật hoặc không biết chữ hoặc không biết ký. Thêm
vào đó bản di chúc có ba trang mà không đánh số thứ tự theo yêu cầu. Vì vậy nếu
có đủ chữ ký hoặc thiếu điểm chỉ và không đánh số trang cho bản di chúc nghĩa
là bà Trần Thị B đã không thực hiện đúng những quy định của pháp luật về nội
dung di chúc. Tuy nhiên như đã trình bày ở trên trong trường hợp cụ Trần Thị B
nhờ người viết di chúc sử dụng loại giấy đôi. Trường hợp đó nội dung của di chúc lOMoAR cPSD| 61630929
vẫn có sự liên kết với nhau nên bản di chúc này vẫn có hiệu lực. Nhưng việc
TAND cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bà Lê Thị Ph tuyên di sản của cụ
Trần Thị B được chia theo di chúc lập ngày 15/10/2010 tại văn phòng công chứng
Vì Dân là chưa chính xác. Bởi vì khi so sánh hai bản di chúc với nhau thì có nội
dung tài sản thừa như là bản di chúc năm 2008 có thêm một di sản là một căn nhà
gắn liền với quyền sử dụng 90 m2 đất tại phường 2, quận 3, thành phố Hồ Chí
Minh. Và bản di chúc năm 2010 lại có thêm di sản là bộ ghế thờ. Như vậy những
nội dung tài sản thừa không lặp nhau nên việc quyết định chia di sản theo bản di
chúc năm 2010 là chưa đúng.
Tóm lại, thông qua việc phân tích phán quyết của TAND cấp sơ thẩm và phán
quyết của TAND cấp phúc thẩm dựa trên những dữ kiện có liên quan cho thấy cả
hai bản di chúc được lập năm 2008 và năm 2010 đều hợp pháp. Vì vậy phán quyết
của TAND hai cấp đều chưa đúng.
Câu 3: Quan điểm giải quyết vụ việc trên của nhóm theo quy định của pháp luật hiện hành
Chúng ta có 3 bản di chúc đã được tóm tắt ở phía trên. Đối với vụ việc này,
điều đầu tiên cần làm là đi tới văn phòng công chứng để kiểm chứng độ xác thực
của hai bản di chúc năm 2008 và năm 2010. Nếu đã xác thực được hai bản di chúc
đều khớp với bản tại phòng công chứng, đồng thời đầy đủ các dấu hiệu xác nhận
của nơi công chứng thì ta xét tới tính hợp pháp của 2 bản di chúc (việc xét tính
hợp pháp của hai bản di chúc đã được nhắc đến ở phần trên). Tiếp theo đó, vụ việc được xử lí như sau:
- Xét bản di chúc được lặp năm 2007 và bản di chúc năm 2008. Ta thấy cả2
bản di chúc đều định đoạt hai thửa đất 20.100 m2 và 4.200 m2, tuy nhiên bản di
chúc năm 2008 có đề cập thêm về một căn nhà gắn liền với quyền sử dụng 90 m2
đất tại phường 2, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ theo khoản 5 điều 667
Bộ luật dân sự 2005: “Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản
thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật.” thì bản di chúc năm 2007 đã lOMoAR cPSD| 61630929
hết hiệu lực khi bản di chúc năm 2008 được lập do cùng đề cập đến một loại tài sản.
- Tiếp theo xét bản di chúc năm 2008 và năm 2010. Cả hai bản di chúc
nàyđều cùng đề cập đến hai thửa đất ban đầu. Điều khác nhau giữa hai bản di chúc
này là ở việc bản di chúc năm 2008 đề cập thêm đến việc cho bà Lê Thị C một
căn nhà gắn liền với quyền sử dụng 90m2 đất tại phường 2, quận 3, thành phố Hồ
Chí Minh, còn bản di chúc 2010 đề cập thêm việc để lại cho bà Trần Thị H hưởng
bộ ghế thờ gồm lư hương, chân đèn, đĩa quả, bình hoa.
Điều 662 Bộ luật dân sự 2005 quy định về sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc:
“1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc vào bất cứ lúc nào.
2. Trong trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã
lậpvàphần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã
lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
3. Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thìdi
chúc trước bị huỷ bỏ.
Theo quy định tại các khoản 1 của điều luật này, quyền được hưởng hai thửa
đất 20.100 m2 và 4.200 m2 đã bị sửa đổi so với bản 2008 và phải công nhận sự sửa
đổi này. Tuy nhiên, chỉ có bộ phận trong bản di chúc 2008 đề cập đến hai thửa đất
này bị vô hiệu và bà Lê Thị C vẫn được hưởng một căn nhà gắn liền với quyền sử
dụng 90m2 đất tại phường 2, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại
khoản 2. Bản di chúc 2010 có đề cập đến việc sửa đổi, bổ sung di chúc nhưng
không hề nhắc đến căn nhà gắn với quyền sử dụng đất tại thành phố Hồ Chí Minh
nên quyền được hưởng di sản này của bà Lê Thị C không bị ảnh hưởng.
Như vậy, quan điểm giải quyết vụ việc trên của nhóm là thừa nhận tính hợp
pháp của các bản di chúc. Sau đó:
1. Chia cho bà Lê Thị C được hưởng một nửa thửa đất 4.200 m2 ở xã Bàu
Chinh, huyện Châu Đức (Bà Rịa – Vũng Tàu), kèm theo đó là một căn nhà lOMoAR cPSD| 61630929
gắn liền với quyền sử dụng 90m2 đất tại phường 2, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.
2. Chia cho bà Lê Thị Ph được hưởng thửa đất hơn 20.100 m2 cùng một nửa
thửa đất 4.200 m2 còn lại.
3. Chia cho bà Trần Thị H hưởng bộ ghế thờ gồm lư hương, chân đèn, đĩaquả, bình hoa. KẾT LUẬN
Có thể thấy rằng chế định di chúc có ý nghĩa quan trọng trong việc chuyển
quyền sở hữu đối với tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác nhằm đảm bảo địa
vị pháp lý cho các chủ thể có liên quan. Qua phân tích và giải quyết tình huống
trên, có thể đưa ra nhận xét rằng việc xác định tính hợp pháp của di chúc một cách
cẩn trọng là cần thiết để việc lập di chúc và sau đó việc chia thừa kế theo di chúc
sẽ có hiệu quả hơn, tránh những nhầm lẫn và mâu thuẫn không đáng có.
Tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình luật dân sự, Tập 1, Nxb.
Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016;
2. Bộ luật dân sự năm 2005.
3. Bộ luật dân sự năm 2015.
4. Luật công chứng năm 2006.