Tiểu luận “Đường lối lãnh đạo giáo dục và đào tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”

Tiểu luận môn Lịch sử Đảng với đề tài: Đường lối lãnh đạo giáo dục và đào tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay” của Học viện báo chí và tuyên truyền  giúp bạn tham khảo và hoàn thành tốt bài tiểu luận của mình đạt kết quả cao.

lOMoARcPSD| 36237285
HỌC VIỆN BÁO CHÍ TUYÊN TRUYỀN
KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG
TIỂU LUẬN
XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG
ĐƯỜNG LỐI LÃNH ĐẠO GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
Họ và tên:
Lớp:
Giảng viên hướng dẫn:
QUẢNG NINH, 2021
lOMoARcPSD| 36237285
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ
BÌNH VÀ PHÊ BÌNH TRONG ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ.................................4
1.1. Một số quan niệm liên quan đến đề tài.........................................................4
1.2. Mục đích của thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng bộ
thành phố................................................................................................................5
1.3. Nội dung, hình thức của thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng bộ
thành phố................................................................................................................7
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP
TRUNG DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY..............................................................................................................14
2.1. Khái quát về thành phố Hồ Chí Minh và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh.14
2.2. Thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng bộ
thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.........................................................................16
2.3. Những vấn đề đặt ra......................................................................................22
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH VIỆC THỰC
HIỆN NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH TRONG ĐẢNG BỘ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI GIAN TỚI..............................25
3.1. Phương hướng đẩy mạnh việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình
trong Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới...........................................25
3.2. Giải pháp đẩy mạnh việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong
Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới....................................................26
KẾT LUẬN............................................................................................................30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................31
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với truyền thống hiếu học, một quốc gia nhiều lợi thế về nhân lực trong khu
vực trên thế giới; đặc biệt các thoả thuận WTO GATS, thiết lập các quan hệ
hợp tác với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam đã và đang đứng
trước nhiều triển vọng cả những thách thức to lớn trong việc phát triển giáo dục
- đào tạo trong công cuộc đổi mới của đất nước.
Theo quan điểm của triết học, giáo dục nói chung một giá trị muôn thuở, đó
coi việc đi tìm chân khoa học, hoàn thiện nhân cách con người, truyền tri
thức văn hoá khắp nhân loại một mục tiêu của mình. Còn trong khoa học chính
trị và đạo đức học, giáo dục chứa đựng phương diện lợi ích xã hội. Nước ta đã thực
sự mở cửa với thế giới sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tạo
hội phát triển cho giáo dục - đào tạo, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp bách phải cải
cách giáo dục - đào tạo Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Xuất phát từ những do trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “Đường lối lãnh
đạo giáo dục đào tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay” làm tiểu luận
môn học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc tái hiện quá trình lãnh đạo cải cách giáo dục - đào tạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đề tài
góp phần khẳng định đường lối, chủ trương, định hướng đúng đắn của Đảng về vấn
đề giáo dục - đào tạo, những thành tựu đã đạt được, một số hạn chế và nguyên nhân
lOMoARcPSD| 36237285
2
của nó. Từ đó thể đúc kết một sbài học kinh nghiệm hữu ích cho quá trình cải
cách giáo dục - đào tạo trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích thực trạng giáo dục - đào tạo và yêu cầu tất yếu phải cải cách.
- Làm rõ Cương lĩnh, Chiến lược, đường lối, chủ trương của Đảng về giáo dục
- đào tạo.
- Phục dựng có hệ thống về quá trình cải cách giáo dục - đào tạo.
- Đường lối lãnh đạo của Đảng từ năm 1996 đến năm 2021. Nêu rõ thành công,
hạn chế, nguyên nhân.
- Đúc kết một số bài học có thể tham khảo hữu ích cho quá trình cải cách giáo
dục - đào tạo ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quan điểm, chủ trương, định hướng lãnh đạo, các chính sách của Đảng c
kết quả đạt được từ năm 1996 đến năm 2021.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Vấn đề cải cách giáo dục đào tạo dưới slãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước.
- Phạm vi thời gian: 1996 – nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Tiểu luận nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lãnh đạo,
cải cách giáo dục – đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa,
đồng thời kế thừa có chọn lọc một số công trình nghiên cứu liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp lịch
sử, logic; phương pháp thu thập, phân tích tài liệu; phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê số liệu nghiên cứu; phương pháp nghiên cứu tác phẩm, văn bản...
5. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 3 chương.
lOMoARcPSD| 36237285
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
1.1. Một số quan niệm liên quan đến đề tài
Giáo dục là sự truyền thụ tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm của con người từ đời
này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Giáo dục - đào tạo một hthống rộng lớn những quy luật vận động
phát triển tương đối độc lập, nhưng nó được chi phối, điều tiết, chế định bởi thể chế
phát triển kinh tế – xã hội chung, làm nên đặc tính và bản chất của một nền giáo dục
- đào tạo. Giáo dục - đào tạo vừa mang những đặc điểm của n tộc, vừa mang những
nội dung giá trị chung của nhân loại làm sở cho quá trình hội nhập quốc tế
toàn cầu hoá.
Cải cách giáo dục - đào tạo, đó là sửa đổi những bộ phận cũ, không còn phù
hợp với tình hình mới, xu thế tiến bộ chung của xã hội trong lĩnh vực giáo dục đào
tạo cho thành hợp lý và đáp ứng yêu cầu khách quan hơn. Cải cách ở đây phải gồm
cả đường lối, chủ trương, mục tiêu, đội ngũ nhà giáo, chương trình sách giáo khoa
cùng những cơ sở vật chất phục vụ việc học tập nghiên cứu kèm theo văn hoá thể
thao, giải trí đi kèm.
Trong các yếu tố và các quá trình giáo dục - đào tạo được định chế bởi hai nhân
tố chủ yếu là: tính chất xã hội, tính chất công cộng và phúc lợi xã hội hay lợi ích tư
nhân của giáo dục - đào tạo; mục tiêu của chính sách đầu tư, chính sách hội của
nhà nước trong việc phát triển, cải cách giáo dục đào tạo. Chủ trương, chính sách
của Đảng về cải cách giáo dục - đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đạt được mục tiêu phát triển giáo dục - đào tạo, chất lượng giáo dục -
đào tạo đối với toàn bộ hệ thống giáo dục - đào tạo.
2.5
hội mở cửa giao lưu hợp tác và phát triển là một nhu cầu tất yếu; tiếp thu
hình, phương thức và cả nội dung, chương trình tiến bộ, phù hợp. Vì thế giáo dục -
đào tạo nói chung, cải cách giáo dục - đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước không thể là một mô hình khép kín, cần tham khảo kinh
nghiệm thế giới, tiếp cận và tiếp nhận những thành công của nhân loại để giáo dục -
đào tạo vừa mang những đặc điểm riêng tính dân tộc lại vừa mang những nội
dung chung, những giá trị chung mà nhân loại đã đạt được trong quá trình giao lưu,
hội nhập và phát triển. Đó cũng là một trong những yêu cầu chung của đổi mới, đổi
mới chế quản chính sách xã hội đối với giáo dục - đào tạo nhằm đảm bảo
cho giáo dục - đào tạo phát triển năng động, hiệu quả chất lượng luôn là nhiệm
vụ quan trọng của mỗi nước.
1.2. Một số mô hình giáo dục, cải cách giáo dục trên thế giới
1.2.1. Mô hình cải cách giáo dục – đào tạo ở Nhật Bản
Chú trọng công tác giáo dục - đào tạo (GD-ĐT), phát triển nguồn nhân lực đã
được coi một trong những nguyên nhân rất bản quan trọng giúp cho Nhật
Bản từ một nước phong kiến nông nghiệp lạc hậu đầu thế kỷ 19 nhưng từ sau năm
1868 nhờ thực hiện cuộc Duy Tân Minh Trị mang tên Thiên hoàng Meiji (Minh Trị),
tiến hành mở cửa với phương Tây, đến đầu thế k20 Nhật Bản đã trở thành một
nước công nghiệp phát triển.
Không chỉ vậy, cũng do rất coi trọng công tác GD-ĐT, phát triển nguồn nhân
lực nên mặc Nhật Bản đã nước bại trận bị tàn phá nặng nề, kinh tế suy sụp
nghiêm trọng sau Thế chiến hai do theo đuổi chủ nghĩa phát xít Đại Đông Á nhưng
lOMoARcPSD| 36237285
6
sau đó chưa đầy hai thập niên, vào những năm 1960-1970 Nhật Bản đã vượt lên trở
thành cường quốc thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ.
Cho đến trước thập niên 90 của thế kỷ XX, Nhật Bản đã trải qua 2 lần đại cải
cách GD-ĐT cả hai lần đều chịu ảnh hưởng rất lớn thình GD-ĐT của phương
Tây, đặc biệt là của Mỹ.
Cuộc đại cải cách GD-ĐT lần thứ nhất do chính Thiên hoàng Minh Trị khởi
xướng trực tiếp chỉ đạo kể từ năm 1872, nghĩa chỉ sau 4 năm Tướng quân Meiji
nắm bính quyền Thiên hoàng Nhật Bản và thực hiện công cuộc Duy Tân
Minh Trị mở cửa học tập, hợp tác với phương Tây kể từ năm 1868. Cuộc đại cải
cách GD-ĐT lần thứ hai được tiến hành từ năm 1947, sau khi Thế chiến hai đã kết
thúc được hai năm.
Nhờ cả hai cuộc đại cải cách trên đây mà theo từng thời kỳ lịch sử tương ứng
trên, người Nhật đã làm cho cả thế giới ngạc nhiên, khâm phục về những kỳ tích
phát triển. Riêng đối với cuộc đại cải cách GD-ĐT lần thứ hai, nhiều kết quả nghiên
cứu đã đánh giá rất cao vai trò của nó, đã tạo cho người Nhật có được một hệ thống
GD-ĐT ra đời sau chiến tranh cho dưới stác động của những cải cách mang
tính bắt buộc của Mỹ song đã công rất lớn đối với việc GD-ĐT nguồn nhân
lực cần thiết cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước Nhật. Đó chính
một trong những nguyên nhân bản đưa lại thành tựu tăng trưởng cao liên tục suốt
những năm 1955-1973, tạo đà để Nhật Bản sớm trở thành “ hiện tượng kinh tế thần
kỳ” ở Đông Á và “ hoá rồng” ngay từ cuối thập niên 60 của thế kỷ XX.
Nghiên cứu so sánh cho thấy, về bản hệ thống GD-ĐT đã được nhờ cuộc
đại cải cách lần thứ hai đó vẫn đi theo mô hình “lấy thầy giáo là trung tâm” đã có từ
thời Minh Trị với những đặc trưng chủ yếu nhấn mạnh đến giáo dục cho học sinh
tính tập thể, đến giáo dục phổ cập, đến việc ghi nhớ bắt chước một cách thụ động
các kiến thức đã học từ thầy giáo, làm hạn chế tính sáng tạo duy độc lập của
mỗi cá nhân học sinh. Mô hình này đã tỏ ra rất phù hợp với Nhật Bản ở những thập
niên đầu ngay sau chiến tranh khi mà còn lạc hậu xa so với nhiều nước phương Tây
đã không chỉ làm cho mặt bằng trình độ dân tnói chung của đông đảo người
Nhật được nâng cao nhanh chóng còn kịp thời đào tạo ngay được một đội ngũ
lao động đủ lớn về quy mô và chất lượng trình độ khoa học kỹ thuật, có thể tiếp thu
ngay những tri thức đủ khả năng cải tiến các công nghệ và kỹ thuật hiện đại nhập
khẩu để nhanh chóng đuổi kịp các nước phương Tây tiên tiến hơn.
1.2.2. Mô hình cải cách giáo dục – đào tạo ở Hoa Kỳ
Hoa Kỳ một nước nền kinh tế mức cao nhất thế giới. Kinh tế ảnh
hưởng sâu sắc đến sự phát triển của nền giáo dục thông qua việc vận hành chế
cạnh tranh. Mặt khác còn thể hiện sphân cấp trách nhiệm ràng từ Chính
phủ liên bang đến Chính phủ địa phương, giữa nhà nước, các tổ chức kinh doanh,
hội và gia đình học sinh.
Hệ thống giáo dục của Hoa Kỳ được phân thành bốn cấp theo cấu trúc: 6+3+3+4:
cấp học gồm mầm non tiểu học (từ mẫu giáo đến lớp 6); cấp trung học sở
(lớp 7 đến lớp 9); trung học cao (lớp 10 đến lớp 12) giáo dục đại học (đại học 2
năm hoặc 4 năm, thạc sỹ và tiến sỹ). Giáo dục ở Hoa Kỳ được xem là hàng hoá dịch
vụ công phục vụ lợi ích hội, do vậy Chính phủ trách nhiệm lớn trong việc
hoạch định chính sách, chiến lược và đầu tư cho giáo dục. Tuy nhiên vai trò quản
và sự can thiệp của Chính phủ đối với giáo dục ở mức độ thấp, chủ yếu là cấp kinh
phí và bảo đảm chính sách cho người học. Các yếu tố của thị trường được vận dụng
ở mức cao để phát triển giáo dục, tạo nên những điểm nổi bật của hệ thống giáo dục
ở Hoa Kỳ: chất lượng giáo dục đại học cao, cạnh tranh cao, tự do học thuật cao, đa
dạng các loại hình trường lớp, tự chủ lớn và trách nhiệm lớn, phân cấp trách nhiệm
rõ ràng giữa các Chính phủ và các lực lượng tham gia giáo dục. Các tổ chức kinh tế
lOMoARcPSD| 36237285
8
tham gia phát triển giáo dục. Hệ thống trường phát triển mạnh tất cả các cấp
học, đặc biệt giáo dục đại học. trường công hay đều phục vụ mục đích
công của giáo dục, kể cả các trường lợi nhuận. Thị trường giáo dục phát triển
mạnh cả ở trong nước và vươn ra thế giới. Tuy nhiên hệ thống giáo dục của Hoa Kỳ
cũng đang bị cạnh tranh gay gắt, chất lượng giáo dục phổ thông không cao, kém khả
năng cạnh tranh và strì trệ trong quản các khu vực trường công. Hoa Kỳ
đang thúc đẩy cải cách giáo dục, hiện đại hoá giáo dục, đẩy mạnh hợp tác công – tư
và xuất khẩu giáo dục, duy trì vị thế hàng đầu về chất lượng giáo dục đại học.
1.2.3. Kết luận
Nhìn chung, giáo dục - đào tạo ở các nước có nền kinh tế thị thường tự do có
chất lượng cao, đặc biệt là những nước tạo được sự cạnh tranh mạnh trong hệ thống
giáo dục - đào tạo, trao nhiều quyền tự do, tự chủ cho các trường học. Chất lượng
giáo dục công bằng giáo dục sđảm bảo hơn nếu nhà nước đầu tốt cho giáo
dục, nhà nước quản lý, coi trọng đảm bảo chất lượng giáo dục các trường huy
động được đa dạng các nguồn tài chính, đáp ứng các nhu cầu khác nhau của xã hội.
Nghiên cứu các hình giáo dục - đào tạo trong các nền kinh tế trên cho thấy những
nét chung những nét đặc thù mỗi nước; giáo dục - đào tạo của các nước vừa
chịu sự quản lý điều tiết của nhà nước vừa chịu sự tác động các quy luật các
tính chất của thị trường.
Mặt khác, các quan niệm về giáo dục - đào tạo, các chính sách giáo dục đào
tạo khác nhau của các nước đã tạo nên những nền giáo dục với các chất lượng và sự
phát triển khác nhau. Vì sự vận dụng các yếu tố của thị trường vào giáo dục đào tạo
theo những cách khác nhau của các nước khác nhau mỗi yếu tố của thị trường
có các ưu điểm và các nhược điểm của nó; do vậy, không có mô hình giáo dục - đào
tạo nào là tối ưu để một nước khác có thể bắt chước hoàn toàn.
Nhiều nước chất lượng giáo dục cao, giáo dục phát triển mạnh, nhưng nhiều nước
hệ thống giáo dục công phát triển một cách trì trệ so với hệ thống trường tư. Sự thành
công của một nước trong việc xây dựng được một nền giáo dục - đào tạo chất
lượng cao công bằng phụ thuộc vào việc vận dụng các quy luật của thị trường,
xác định hợp lý và rõ ràng vai trò của thị trường và của nhà nước trong việc tạo lập
môi trường vật chất và pháp lý để phát triển giáo dục - đào tạo. Phân định hợp lý và
rõ ràng vai trò của nhà nướcthị trường là rất quan trọng nếu giáo dục - đào tạo
của một đất nước chỉ do các quy luật của thị trường chi phối thì sẽ không thực
hiện được các chức năng công và đảm bảo lợi ích cho xã hội. Nhưng nếu nhà nước
can thiệp quá sâu sẽ hạn chế sự năng động, sáng tạo và không tạo lập được động lực
mạnh để thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Với sphát triển mạnh
mẽ của khoa học công nghệ, các nước chuyển sang hội thông tin kinh tế tri
thức. Với sự trợ giúp của công nghệ thông tin truyền thông, các yếu tố của thị trường
được vận dụng phát huy hiệu quả hơn. Tuy nhiên cả thị trường, nhà nước công
nghệ đều những mặt mạnh và yếu; việc tìm ra các mô hình, phối kết hợp các ưu
điểm để hạn chế các nhược điểm trong cải cách phát triển giáo dục - đào tạo luôn là
nhiệm vụ của mỗi nước.
CHƯƠNG 2
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CẢI CÁCH, PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC –
ĐÀO TẠO TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN
ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC (Từ năm 1996 đến năm 2021)
2.1. Thách thức và cơ hội đối với cải cách, phát triển giáo dục - đào tạo ở Việt
Nam trước năm 1996
Quá trình phát triển giáo dục - đào tạo bất cứ quốc gia nào cũng đều chịu
ảnh hưởng của trình độ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Nghiên cứu thực
tiễn phát triển giáo dục đào tạo Việt Nam trong các điều kiện kinh tế - hội
lOMoARcPSD| 36237285
10
giúp cho việc phân tích và đánh giá vmức độ cũng như các xu hướng của điều kiện
kinh tế - hội tác động đến quá trình phát triển giáo dục - đào tạo, từ đó chỉ ra
những mặt mạnh - yếu, những hội thách thức góp phần vào hoạch định các
chủ trương, chính sách cho phát triển giáo dục đào tạo Việt Nam trong giai đoạn
tiếp theo. Trong phần này xin được nêu thực tiễn phát triển giáo dục Việt Nam qua
các giai đoạn sau:
Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1996:
Điều kiện kinh tế - xã hội:
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) quyết định chủ trương đổi mới toàn diện đất
nước, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các điều kiện kinh tế - xã hội này đã ảnh
hưởng đến sự phát triển giáo dục - đào tạo:
- Những nguồn lực của đất nước, của nền kinh tế bắt đầu được giải
phóng,được tăng lên tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội;
- chế, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo ra sự
khuyến khích ở cả trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển các lĩnh vực kinh tế,
xã hội của đất nước;
- Do chưa có kinh nghiệm về quản lý kinh tế trong cơ chế thị trường nên
bêncạnh những thuận lợi cũng nhiều khó khăn này sinh, ảnh hưởng đến sự phát
triển các mặt kinh tế - hội của đất nước; nhu cầu về học tập, đào tạo nâng cao
kiến thức nghề nghiệp... ngày càng trở nên bức thiết.
- Đời sống của người dân bắt đầu được cải thiện từng bước được nâng
lêngóp phần củng cố và nâng cao niềm tin của người dân vào công cuộc đổi mới và
sự quản lý của nhà nước;
- Sự tăng nhanh về dân số, dân số trẻ là một ưu thế về nguồn nhân lực,
songcũng đặt ra thách thức vgiáo dục - đào tạo, về công ăn, việc làm, về các vấn
đề xã hội;
- Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng tạo nhiều hội thuận lợi lớn
lao,đồng thời cũng có nhiều thách thức không nhỏ đối với sự phát triển mọi mặt của
đất nước.
Cơ chế, chính sách và thực tiễn giáo dục - đào tạo:
Giáo dục - đào tạo bắt đầu chịu sự chi phối của cơ chế thị trường một cách rõ
rệt hơn. Sự phát triển mọi mặt của đất nước, của toàn xã hội cũng như của mỗi gia
đình ngày càng làm tăng nhu cầu học tập; Sự ảnh hưởng trở lại của giáo dục đào tạo
với đời sống kinh tế - hội ngày một sâu sắc rộng khắp hơn, vai tcủa giáo
dục - đào tạo đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đang dần được đề cao;
Giáo dục hướng ra toàn cầu một cách mạnh mẽ do những đòi hỏi hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, do những chính sách mở cửa của Nhà nước, cùng với
sự nâng cao mức sống của người dân;
Sự đa dạng hoá trong khu vực đào tạo, giáo dục trung học chuyên nghiệp,
dạy nghề, cao đẳng và đại học được thực hiện do nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội;
Tốc độ phát triển quy giáo dục tăng cao tất cả các cấp, ngành học, đặc
biệt là đối với khu vực giáo dục cao đẳng, đại học;
Sự tăng lên nhanh chóng về số lượng sẽ dẫn đến sự sa sút về mặt chất lượng
nếu như không có một cơ chế và trình độ quản lý phù hợp.
Quan điểm phát triển giáo dục - đào tạo của Đảng:
Những quan điểm phát triển giáo dục - đào tạo của Đảng trong giai đoạn này
đã từng bước có sự thay đổi tư duy và cách làm giáo dục:
- Từ đào tạo cho thành phần kinh tế nhà nước chuyển sang đào tạo cho
nhiềuthành phần kinh tế;
- Từ chỗ sinh viên tốt nghiệp được phân công công việc chuyên sang
sinhviên tự tìm việc làm trong các thành phần kinh tế khác nhau;
lOMoARcPSD| 36237285
12
- Từ đào tạo theo kế hoạch duy nhất do nhà nước giao chuyển sang đào
tạođể đáp ứng các nhu cầu khác nhau của xã hội và cá nhân;
- Từ chỗ giáo dục chỉ nguồn kinh pduy nhất từ ngân sách nhà
nướcchuyển sang khai thác nhiều nguồn kinh phí khác nhau: từ nhà nước, từ các
doanh nghiệp, từ người học....
Chủ trương và chính sách quản lý giáo dục - đào tạo có những thay đổi nhằm
tạo điều kiện để giáo dục có thể thích nghi, phát triển cho phù hợp với chế quản
lý mới trong phát triển kinh tế - xã hội.
2.2. Yêu cầu, mục tiêu của giáo dục - đào tạo Việt Nam trong quá trình đổi
mới
Quan điểm Phát triển giáo dục trong thời kỳ đổi mới là: “Khoa học giáo
dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội bảo
vệ Tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên
trình độ tiên tiến của thế giới” với những yêu cầu và mục tiêu sau:
Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo phải là quốc sách hàng đầu.
Đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều
kiện cho giáo dục đi trước phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế hội; Phát triển
giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những
con người kiến thức văn hoá, khoa học, kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ,
sáng tạo và kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu chủ nghĩa hội, sống lành mạnh, đáp
ứng nhu cầu phát triển đất nước hiện tại tương lai; mở rộng quy giáo dục đồng
thời chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, gắn học với hành, tài với đức;
Giáo dục - đào tạo phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, vừa phù
hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Thực hiện một nền giáo dục thường xuyên cho
mọi người, xác định học tập suốt đời quyền lợi trách nhiệm của mỗi công
dân;
Đa dạng hoá các hình thức đào tạo. Thực hiện công bằng hội trong giáo
dục; người đi học phải đóng học phí, người sử dụng lao động qua đào tạo phải đóng
góp chi phí đào tạo. Nhà nước chính sách bảo đảm cho người nghèo các đối
tượng chính sách đều được đi học.
Mục tiêu giáo dục - đào tạo trong thời kỳ đổi mới được xác định trong Báo
cáo Chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII là: “nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức tay nghề,
năng lực thực hành, tự chủ, năng động sáng tạo, đạo đức cách mạng, tinh
thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn
diện năng lực chuyên môn sâu, ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần”.
2.3. Quan điểm của Đảng về giáo dục - đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Công nghiệp hoá, như định nghĩa của Từ điển Bách khoa Việt Nam, là “quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên
tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp hoá và tiến bộ khoa học
công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.”
Để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá các nhà giáo dục cần lưu ý
rằng trong quá trình đó, con người không chỉ là chủ thể mà còn là đối tượng, không
chỉ được hưởng còn chịu sức ép do đó rất cần được chuẩn bị chu đáo về kiến
thức, kỹ năng và thái độ.
2.3.1. Giáo dục và đào tạo với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một tất yếu của sự phát
triển, nó trở thành làn sóng mạnh mẽ tác động đến tất cả các nước trên thế giới cũng
lOMoARcPSD| 36237285
14
như mọi mặt của đời sống hội. Kinh nghiệm cũng như thực tiễn đã chỉ ra rằng
một trong những tiền đề quan trọng bậc nhất để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là phải nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng ở mọi trình
độ từ công nhân, nhân viên nghiệp vụ đến cán bộ kỹ thuật, kỹ các nhà khoa
học... Không có trình độ dân trí cao, không có đội ngũ cán bộ và công nhân giỏi thì
không thể công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
thể nói rằng giáo dục - đào tạo là yếu tố tác động mạnh mẽ đến quy mô,
tốc độ cũng như sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Bởi vì:
Giáo dục phổ thông nền tảng giáo dục bậc cao sở tạo những bước “bứt
phá” nhanh hết sức cần thiết; đào tạo nghề, kỹ năng thực hành phải được coi trọng
đó là sự kết hợp giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp, kết hợp văn hóa
với tay nghề để hình thành năng lực thực sự trong bản thân người lao động. tạo
nên đội ngũ lao động tay nghề, trình đchuyên môn, kỹ thuật cũng như những
phẩm chất cần có để làm chủ tri thức, làm chủ các phương tiện kỹ thuật, công nghệ
hiện đại, bắt nhịp được với yêu cầu của cơ chế thị trường cũng như sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có thể nói rằng, nếu sự nghiệp giáo dục đào tạo chậm đổi
mới, chậm đẩy mạnh và phát triển thì nguy tụt hậu càng cao; công nghiệp hoá,
hiện đại hoá sẽ bị bó hẹp về quy mô, chậm về tốc độ kém về hiệu quả. Thế nên đầu
tư cho giáo dục - đào tạo không chỉ nên đi trước một bước mà là cần đi trước nhiều
bước.
Hiện nay, nước ta việc đưa công nghệ thông tin vào phục vụ cho việc mở
rộng, phát triển giáo dục đào tạo đang yêu cầu rất cấp thiết. Với những thànhtựu
và ưu thế của các phương tiện thông tin hiện đại, quá trình giáo dục – đào tạo được
thực hiện một cách có hiệu quả hơn làm cho lực lượng lao động có thể tự nâng cao
trình độ và tay nghệ thông qua việc cập nhật các nguồn thông tin đa dạng và phong
phú. Các công nghệ hiện đại có thể tạo ra khả năng mới cho con người thực hiện sự
đa dạng hóa kiến thức và nghề nghiệp. Nhờ vậy có thể đáp ứng được những yêu cầu
của hội về sự thích ứng, năng động sự phát triển tiềm năng, những thiên hướng
sáng tạo của con người.
Phát triển giáo dục - đào tạo một trong những nội dung quan trọng nhằm
phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá công
nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện cho giáo dục - đào tạo phát triển theo hướng
hiện đại phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
giáo dục - đào tạo hai quá trình mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng, chúng
vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau.
2.3.2. Định hướng, chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII,
ngày 16 tháng 12 năm 1996 đã nêu rõ những tư tưởng chủ đạo phát triển giáo dục -
đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá là:
Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung, phương pháp giáo dục -
đào tạo, trong các chính sách, nhất chính sách công bằng hội, phát huy ảnh
hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường đối với giáo dục -
đào tạo. Chống khuynh hướng "thương mại hoá", đề phòng khuynh hướng phi chính
trị hoá giáo dục - đào tạo. Không truyền bá tôn giáo trong trường học.
Thực sự coi giáo dục - đào tạo, quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo
dục - đào tạo cùng với khoa học công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh
tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển. Thực hiện
các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với giáo dục - đào tạo, đặc biệt là chính sách đầu
tư và chính sách tiền lương. Có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển giáo dục – đào
tạo.
lOMoARcPSD| 36237285
16
Giáo dục - đào tạo sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân.
Mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời; phê phán thói lười học. Mọi
người chăm lo cho giáo dục. Các cấp uỷ và tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các
đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế, xã hội, các gia đình và các nhân đều
trách nhiệm góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đóng góp trí tuệ, nhân
lực, vật lực, tài lực cho giáo dục - đào tạo. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục
gia đình giáo dục hội, tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh mọi nơi, trong
từng cộng đồng, từng tập thể.
Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - hội, những
tiến bộ khoa học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. Coi trọng cả ba mặt:
mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả.
Thực hiện công bằng hội trong giáo dục đào tạo. Tạo điều kiện để ai
cũng được học hành. Người nghèo được nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để học tập.
Bảo đảm điều kiện cho những người học giỏi phát triển tài năng.
17
Giữ vai trò nòng cốt của nhà trường công lập đi đôi với đa dạng hoá các loại
hình giáo dục - đào tạo, trên cơ sở nhà nước thống nhất quản lý, từ nội dung chương
trình, quy chế học, thi cử, văn bằng, tiêu chuẩn giáo viên, tạo cơ hội cho mọi người
thể lựa chọn cách học phù hợp với nhu cầu hoàn cảnh của mình. Phát triển các
trường bán công, dân lập những nơi điều kiện, từng bước mở các trường thục
một số bậc học như: mầm non , phổ thông trung học (cấp III), trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề, đại học. Mở rộng các hình thức đào tạo không tập trung, đào tạo
từ xa, từng bước hiện đại hóa hình thức giáo dục.
Nghị quyết cũng đề ra nhiệm vụ và mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo từ
năm 1996 đến năm 2000 với những nội dung cụ thể sau:
- Phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục các mặt yếu kém theo hướng:
chấn chỉnh công tác quản lý, khẩn trương lập lại trật tự, kỷ cương, kiên quyết đẩy
lùi tiêu cực; sắp xếp và củng cố hệ thống giáo dục - đào tạo và mạng lưới trường
lớp; nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo; phát triển quy mô giáo
dục - đào tạo, chuẩn bị tiền đề cho những bước phát triển mạnh vào đầu thế kỷ
XXI.
- Trên sở định hướng chiến lược trình bày trên, tiến hành xây dựng chiến lược
phát triển giáo dục - đào tạo cho thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ban hành
Luật Giáo dục.
- Mục tiêu chủ yếu là: thực hiện giáo dục toàn diện đức dục, trí dục, thâm dục, mỹ
dục tất cả các bậc học. Hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tưởng, nhân cách,
khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành. Cụ thể là:
o Phát triển bậc học mầm non phù hợp với điều kiện và yêu cầu của từng
nơi.
o Bảo đảm hầu hết trẻ em 5 tuổi được học chương trình mẫu giáo lớn, chuẩn
bị vào lớp 1.
- Phổ cập giáo dục bậc tiểu học được học đủ 9 môn theo trường trình quy định.
Thực hiện tốt 5 điều dạy của Bác Hồ. Phổ cập trung học sở các thành phố,
đô thị, các vùng kinh tế trọng điểm và những nơi có điều kiện.
- Thanh toán nạn mù chữ cho những người trong độ tuổi 15 - 35, thu hẹp diện mù
chữ ở độ tuổi khác, đặc biệt chú ý vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn,
để tất cả các tỉnh đều đạt chuẩn quốc gia về xoá chữ phổ cập tiểu học trước
khi bước sang thế kỷ XXI.
- Tăng quy mô học nghề bằng mọi hình thức để đạt 22% - 25% đội ngũ lao động
được qua đào tạo vào năm 2000. Kế hoạch đào tạo nghề phải theo sát chương
trình kinh tế - hội của từng vùng, phục vụ cho sự chuyển đổi lao động, cho
lOMoARcPSD| 36237285
18
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn nông nghiệp. Tăng cường đầu tư,
củng cố và phát triển các trường dạy nghề, xây dựng trường trọng điểm. Đào tạo
đủ công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, có tính đến nhu
cầu xuất khẩu lao động.
- Nâng quy mô giáo dục đại học, cao đẳng lên 1,5 lần so với năm 1995 với cơ cấu
đào tạo hợp , theo sát nhu cầu phát triển. Tiếp tục sắp xếp lại các trường đại
học. Xây dựng một số trường đại học trọng điểm. Xây dựng một số trường cao
đẳng cộng đồng ở các địa phương để đào tạo nhân lực tại chỗ.
- Tăng nhanh một số người đi học tập, bồi dưỡng ở nước ngoài.
- Mở rộng các hình thức học tập thường xuyên, đặc biệt hình thức học txa.
Quan tâm đào tạo đào tạo lại cán bộ quản lý, kỹ thuật, nghiệp vụ công nhân
các doanh nghiệp.
- Kiện toàn hệ thống trường chính trị hành chính. Tăng cường đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp các ngành.
- hình thức trường, lớp thích hợp nhằm đào tạo bồi dưỡng cán bộ chủ chốt xuất
thân từ công nông và lao động ưu tú, con em các gia đình thuộc diện chính sách.
- Đối với miền núi, vùng sâu vùng khó khăn, xoá "điểm trắng" về giáo dục ở bản,
ấp. Mở thêm các trường dân tộc nội trú và bán trú cụm xã, các huyện, tạo nguồn
cho các trường chuyên nghiệp đại học để tạo cán bcho các dân tộc, trước hết
là giáo viên, cán bộ y tế, cán bộ lãnh đạo và quản lý.
2.4. Cải cách giáo dục sau hội nghị đảng lần thứ XIII năm 2021
2.4.1. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, phát triển con người.
Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện hiệu quả chủ trương
giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động
lực then chốt đế phát triển đất nước. Tiếp tục đổi mới dồng bmục tiêu, nội dung,
chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục đào tạo theo hướng hiện đại,
hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng nhũng yêu cầu của phát
triển kinh tế - hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và
các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền
thông và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất
là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy hản sắc văn hóa thị trường và hội nhập quốc tế, lây
chất lượng hiệu quả đầu ra làm thước đo. Xây dựng triển khai thực hiện lộ
trình tiến tới miễn học phí đôi với học sinh phổ thông, trước hết là đốì với học sinh
tiểu học trung học cơ sỏ. Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển các sở đào
tạo ngoài công lập phù hợp vổi xu thế của thế giới và điểu kiện của Việt Nam trên
sỏ bảo đảm công bằng xả hội các giá trị bản của định hướng xã hội chủ
nghĩa, Quan tâm thích đáng đến phát triển giáo dục miền núi, vùng cao, hải đảo,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh nâng
cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các
sỏ giáo dục đào tạo. Gắn kết chặt chẽ giáo dục và đào tạo với nghiên cứu, triển
khai, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới; hình thành các trung tâm
nghiên cứu xuất sắc, các nhóm đổi mới sáng tạo mạnh. Cùng với đề cao vị trí, vai
trò trách nhiệm hội, cần đổi mới mạnh mẽ chính sách đãi ngộ, chăm lo xây
dựng đội ngũ nhà giáo cán bộ quản giáo dục khâu then chốt. Sắp xếp, đổi
mới căn bản hệ thống các sở đào tạo trường đại học, cao đẳng đào tạo nghề.
Xây dựng thực hiện hiệu quả chiến lược hợp tác hội nhập quốc tế về giáo
dục đào tạo. Phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về giáo dục
đào tạo trong khu vực, bắt kịp với trình độ tiên tiến của thế giói, tham gia vào thị
trường đào tạo nhân lực quốc tế.
lOMoARcPSD| 36237285
20
4.2. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tiếp tục được đổi mới và có
bước phát triển
Chủ trương đối mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo được tích cực triển
khai, bước đầu hiệu quả. Mạng lưới sở giáo dục dào tạo tiếp tục được mở
rộng về quy mô. Giáo đục và đào tạo ỏ những vùng khó khãn và vùng đồng bào dân
tộc thiểu số được chú trọng hơn. Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phố thông
mới được ban hành đang tích cực triển khai; phương pháp giảng dạy học tập
bước đôi mới. Giáo dục mầm non đat chuẩn phố cập cho trẻ em 5 tuổi giáo
dục phổ thông chuyển biến tốt, được thế giới công nhận nhân văn, khoa học
Iỹ luận chính trị góp phần tích cực cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối,
chính sách; bảo vệ, phát triển nển tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng, phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, con người Việt Nam và bảo vệ Tổ quốc.
Hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ được nâng lên, tạo chuyển biến
tích cực cho hoạt động đối mới và khôi nghiệp sáng tạo. Quản lý nhà nước về khoa
họcvà công nghệ có bước đổi mới. Một số cơ chế, chính sách về phát triển, quản lý
khoa học công nghệ, nhất chế, chính sách quản nguồn vổn đầu tư, tài
chính bước đầu phát huy tác dụng.
CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN
3.1. Phương hướng đẩy mạnh việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê
bình trong Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới
Một là, nâng cao trách nhiệm thư Đảng bộ; mở rộng dân chủ; duy trì chặt
chẽ chế độ tự phê bình phê bình. thư, phó thư Đảng bộ nhất thiết phải duy
trì hiệu quả hoạt động này. Song song với tự phê bình phê bình xoay quanh
thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, các chi bộ từng đảng viên cần phải tự
phê bình phê bình gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của
Đảng Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Hai là, tự phê bình phê bình phải trung thực, thẳng thắn, khách quan gắn
với xử kỷ luật nghiêm minh. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng, siết chặt
kỷ luật, kỷ cương; cán bộ, đảng viên vi phạm phải có hình thức, biện pháp xử lý kịp
thời, chính xác, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng. Tự phê bình và phê bình
phải gắn liền với xnghiêm vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước. Tự phê
bình và phê bình với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật, không nể nang, né tránh, không có vùng cấm.
Ba là, kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện tự phê bình và phê bình.Công tác
kiểm tra, giám sát thuộc chức năng lãnh đạo của Đảng, nội dung quan trọng bảo
đảm nghị quyết của Đảng thực hiện hiệu quả trên thực tế. Để thực hiện tốt nội
dung này, các cấp ủy cần có kế hoạch kiểm tra, giám sát cụ thể đối với từng chi bộ
trong Đảng bộ. Nội dung cần gắn chặt kết quả thực hiện tự phê bình và phê bình với
phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên trước tổ chức Đảng và
quần chúng. Việc duy trì nền nếp chế độ, nguyên tắc, thủ tục, nội dung và thực hiện
dân chủ trong tự phê bình và phê bình, nhận thức thái độ, động cơ trách nhiệm trong
tự phê bình và pbình, tính đấu tranh để xây dựng Đảng bộ… Qua kiểm tra cần chỉ
ra những hạn chế, khuyết điểm, kịp khắc phục những khâu yếu, mặt yếu và đề ra c
giải pháp giúp cấp ủy, chi bộ và đảng viên tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, góp phần
nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình.
3.2. Giải pháp đẩy mạnh việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình
trong Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới
lOMoARcPSD| 36237285
22
Để thực hiện những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh trong Di chúc, nhất tự phê
bình pbình nhằm xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng bộ Thành phố
Hồ Chí Minh trong sạch, vững mạnh, trong thời gian tới, cần phải tập trung thực
hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh không chỉ nâng cao nhận thức mà còn phải đề cao trách nhiệm trong thực hiện
đồng bộ, quyết liệt các giải pháp nâng cao chất lượng công tác tưởng, tổ chức,
kiểm tra, giám sát, tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng bộ. Đồng thời, đổi mới
mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của cấp ủy các cấp nhằm nâng cao vai trò điều hành,
hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp; nâng cao chất lượng hoạt động
của Mặt trận các đoàn thể chính trị - hội; phát huy vai trò của nhân dân, dựa
vào nhân dân để thiết thực xây dựng tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên liêm
chính, hết lòng phụng sự nhân dân. Trong đó, một mặt, tiếp tục chủ động, kịp thời
nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng nhân dân cán bộ, đảng viên; mặt khác,
đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền để nâng cao tính chiến đấu, sức thuyết
phục và hiệu quả công tác tuyên truyền, góp phần cụ thể hóa chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước đến với người dân, tăng cường sđồng thuận xã hội gắn với
biểu dương, nhân rộng những gương điển hình tiên tiến của tập thể nhân, tạo
sự lan tỏa trong cộng đồng.
Hai là, tiếp tục gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII với Chỉ thị
05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII theo chương trình toàn khóa chủ đề hằng
năm. Định kỳ tiến hành sơ kết rút kinh nghiệm, để kịp thời khắc phục những sai sót,
lệch lạc trong học tập làm theo tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; trong
tự phê bình phê bình… Đồng thời, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của
cấp ủy, người đứng đầu và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị trong tiến hành tự
phê bình và phê bình, trên tinh thần: tiến hành từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài,
từ cấp ủy, người đứng đầu đến cán bộ, đảng viên. Theo đó, cấp trên phải gương mẫu
tự kiểm điểm trước đcấp dưới noi theo; tập thể kiểm điểm trước, nhân kiểm
điểm sau; cấp ủy viên cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo kiểm điểm trước, đảng viên
kiểm điểm sau. Cấp dưới phải mạnh dạn phê bình cấp trên; tchức sở đảng
mỗi cán bộ, đảng viên phải lắng nghe ý kiến phê bình của quần chúng, để tự phê
bình phê bình không chỉ đảm bảo chất lượng, hiệu quả n góp phần làm tăng
uy tín của cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cơ quan, địa phương, đơn vị.
Ba , duy trì thực hiện nghiêm túc, thường xuyên, hiệu quả các nguyên tắc
xây dựng Đảng, Điều lệ Đảng, chú trọng thực hiện nhất tphê bình phê bình
gắn với nhiệm vụ chính trị, với các đợt sinh hoạt đảng. Trong khi tiến hành tự phê
bình và phê bình, phải nêu được điểm tốt, điểm mạnh của cá nhân và tập thể trước;
tiếp đó, góp ý những điểm yếu, điểm hạn chế cần khắc phục, sửa chữa trong cả thời
gian trước mắt lâu dài, để tổ chức nhân được phê bình, góp ý tâm phục,
khẩu phục, chủ động khắc phục những hạn chế, yếu kém như: phê bình mang tính
hình thức, qua loa, đại khái hoặc lợi dụng tự phê bình phê bình đnói xấu, bôi
nhọ, đả kích hbệ lẫn nhau. Trong đó, kết hợp chặt chẽ giữa công tác tưởng
với công tác tổ chức; phát huy dân chủ; đề cao tính tự giác, trách nhiệm, thái độ
phương pháp tphê bình phê bình đúng đắn, phù hợp, bảo đảm tính văn hóa, tính
khoa học, tính nhân văn của mỗi cán bộ, đảng viên. Cung cấp thông tin kịp thời, đầy
đủ, chính xác cho cán bộ, đảng viên đkịp thời bảo vệ cái đúng, phê phán cái sai với
tâm trong sáng, trung thực, bản lĩnh, làm cho ý kiến góp ý phê bình vừa chính xác,
chất lượng vừa có tính thuyết phục cao, đảm bảo đúng người, đúng việc. Đồng thời,
khắc phục tình trạng bưng bít sự thật, không công khai hoặc thông tin sai lệch, làm
ảnh hưởng đến chất lượng tự phê bình và phê bình.
Bốn là, phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, nhất là nhân dân tại mỗi
địa phương, cơ quan, đơn vị trong giám sát, phê bình tổ chức đảng và cán bộ, đảng
lOMoARcPSD| 36237285
24
viên với các hình thức phù hợp. Những ý kiến đóng góp của các tổ chức quần chúng,
tầng lớp nhân dân đối với các cấp ủy, tổ chức đảng mỗi cán bộ, đảng viên cần
được tập hợp đầy đủ tiếp thu nghiêm túc theo tinh thần Quy định 1374QĐ/TU
ngày 1/12/2017 ca Ban Thường vụ Thành ủy. Sau khi tiến hành kiểm điểm, tự phê
bình phê bình, các cấp ủy một mặt phải báo cáo nghiêm túc kết quả với cấp ủy
cấp trên; mặt khác, thông báo việc tiếp thu những ý kiến đóng góp xây dựng của tổ
chức quần chúng và nhân dân đi cùng với kế hoạch sửa chữa khuyết điểm để nhân
dân biết, giám sát việc thực hiện.Thông qua đó, kịp thời phát hiện sai lầm, khuyết
điểm của cán bộ, đảng viên, của cấp ủy, góp phần phòng và chống các biểu hiện
nhân chủ nghĩa, quan liêu, tham ô, tham nhũng, chuyên quyền, độc đoán của cán bộ,
đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng; ngăn chặn
nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Năm , chú trọng “rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hiện cần kiêm liêm
chính, chí công vô tư” cho cán bộ, đảng viên theo Di chúc; tăng cường mối quan hệ
mật thiết với nhân dân, nâng cao tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội
ngũ cán bộ, đảng viên. Gắn tự phê bình và phê bình trong mỗi tổ chức đảng, mỗi cá
nhân cán bộ, đảng viên với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng trên tinh
thần vừa cẩn thận vừa kịp thời, để một mặt phát huy ưu điểm của mỗi cán bộ, đảng
viên; mặt khác, phân loại đảng viên, đánh giá đảng viên hằng năm, theo định kỳ
nghiêm túc. Tự phê bình phê bình một khâu, một chế độ, một trong những
phương pháp cơ bản không chỉ để tiến hành, nâng cao chất lượng hiệu quả của công
tác kiểm tra, giám sát còn giúp tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp những
kết luận chính xác nhanh chóng, đúng người, đúng tội đối với cán bộ, đảng viên vi
phạm pháp luật, vi phạm Điều lệ Đảng và Quy định về những điều đảng viên không
được làm… Đồng thời, thông qua tự phê bình phê bình đkịp thời động viên,
biểu dương những nhân, tập thể thành tích; đề ra phương hướng, giải pháp giúp
đỡ những nhân, tập thể còn hạn chế, khuyết điểm định kỳ thông báo kết quả
khắc phục, sửa chữa khuyết điểm trước tập thể cấp ủy cấp trên, góp phần tăng
cường củng cố khối đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng bộ Thành phố mang tên
Bác.
KẾT LUẬN
Tóm lại, Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, tự phê bình phê bình ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo sức
chiến đấu của tổ chức đảng, giữ gìn phẩm chất, tư cách đảng viên, nâng cao uy tín
của Đảng củng cố niềm tin của quần chúng đối với Đảng. thành thật với mình,
thành thật với người, đó chính nhân cách, là hành vi cao thượng, trách nhiệm
của con người nói chung đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng đặc biệt là
trong giai đoạn hiện nay. Thực hiện tốt công tác tự phê bình và phê bình sẽ là cơ sở,
là yếu tố góp phần để các cấp ủy Đảng trong thực hiện thắng lợi nghị quyết mà Đại
hội Đảng các cấp đã đề ra và đó cũng là tiền đề để các cấp ủy tiếp tục phát huy dân
chủ, khơi dậy trí tuệ của từng cán bộ, đảng viên, từng cấp ủy trong việc xây dựng
nghị quyết Đại hội Đảng các cấp trong thời gian sắp tới.
Chỉ có gương mẫu nêu gương tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên,
nhất cán bộ cấp cao, người đứng đầu mới làm cho cán bộ, đảng viên và tổ chức
đảng mạnh lên, dân chủ được phát huy, tinh thần làm việc cởi mở, hiệu quả công
việc tốt hơn. Từ đó, cuộc “chiến” giữ vững niềm tin của người dân với Đảng mới
thành công. Và như vậy mới khắc phục được tình trạng tự phê bình và phê bình mãi
là khuyết điểm của đảng viên.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội.
lOMoARcPSD| 36237285
26
2. V.I. Lênin (2006), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Văn Thị Thanh Mai (2018), Thực hiện tự phê bình phê bình theo Di chúc để
xây dựng Đảng bộ thành phố mang tên Bác trong sạch, vững mạnh, Công thông
tin điện tử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Minh (2020), Nêu gương tự phê bình phê bình xây dựng Đảng về
đạo đức, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
5. Cao Hải Yến (2019), Thấm nhuần lời Bác dặn về tự phê bình và phê bình trong
Đảng, Công thông tin điện tử bảo tàng Hồ Chí Minh.
6. Đức Tâm (2020), Tự phê bình và phê bình đúng cách, Báo điện tử Hà Nội mới.
7. Trần Thị Thu Loan (2019), Cần hiểu đúng về tự phê bình phê bình theo
tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Xây dựng Đảng.
| 1/28

Preview text:

lOMoAR cPSD| 36237285
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG TIỂU LUẬN
XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ CHÍNH TRỊ VÀ TƯ TƯỞNG
ĐƯỜNG LỐI LÃNH ĐẠO GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY Họ và tên: Lớp:
Giảng viên hướng dẫn: QUẢNG NINH, 2021 lOMoAR cPSD| 36237285 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ
BÌNH VÀ PHÊ BÌNH TRONG ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ.................................4

1.1. Một số quan niệm liên quan đến đề tài.........................................................4 1.2.
Mục đích của thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng bộ
thành phố................................................................................................................5
1.3. Nội dung, hình thức của thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng bộ
thành phố................................................................................................................7
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP
TRUNG DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY..............................................................................................................14

2.1. Khái quát về thành phố Hồ Chí Minh và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh.14
2.2. Thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng bộ
thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.........................................................................16
2.3. Những vấn đề đặt ra......................................................................................22
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH VIỆC THỰC
HIỆN NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH TRONG ĐẢNG BỘ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI GIAN TỚI..............................25

3.1. Phương hướng đẩy mạnh việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình
trong Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới...........................................25
3.2. Giải pháp đẩy mạnh việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong
Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới....................................................26
KẾT LUẬN............................................................................................................30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................31 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với truyền thống hiếu học, là một quốc gia có nhiều lợi thế về nhân lực trong khu
vực và trên thế giới; đặc biệt các thoả thuận WTO và GATS, thiết lập các quan hệ
hợp tác với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam đã và đang đứng
trước nhiều triển vọng và cả những thách thức to lớn trong việc phát triển giáo dục
- đào tạo trong công cuộc đổi mới của đất nước.
Theo quan điểm của triết học, giáo dục nói chung có một giá trị muôn thuở, đó
là coi việc đi tìm chân lý khoa học, hoàn thiện nhân cách con người, truyền bá tri
thức và văn hoá khắp nhân loại là một mục tiêu của mình. Còn trong khoa học chính
trị và đạo đức học, giáo dục chứa đựng phương diện lợi ích xã hội. Nước ta đã thực
sự mở cửa với thế giới sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tạo
cơ hội phát triển cho giáo dục - đào tạo, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp bách phải cải
cách giáo dục - đào tạo Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “Đường lối lãnh
đạo giáo dục và đào tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay” làm tiểu luận môn học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc tái hiện quá trình lãnh đạo cải cách giáo dục - đào tạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đề tài
góp phần khẳng định đường lối, chủ trương, định hướng đúng đắn của Đảng về vấn
đề giáo dục - đào tạo, những thành tựu đã đạt được, một số hạn chế và nguyên nhân lOMoAR cPSD| 36237285
của nó. Từ đó có thể đúc kết một số bài học kinh nghiệm hữu ích cho quá trình cải
cách giáo dục - đào tạo trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích thực trạng giáo dục - đào tạo và yêu cầu tất yếu phải cải cách.
- Làm rõ Cương lĩnh, Chiến lược, đường lối, chủ trương của Đảng về giáo dục - đào tạo.
- Phục dựng có hệ thống về quá trình cải cách giáo dục - đào tạo.
- Đường lối lãnh đạo của Đảng từ năm 1996 đến năm 2021. Nêu rõ thành công, hạn chế, nguyên nhân.
- Đúc kết một số bài học có thể tham khảo hữu ích cho quá trình cải cách giáo
dục - đào tạo ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quan điểm, chủ trương, định hướng lãnh đạo, các chính sách của Đảng và các
kết quả đạt được từ năm 1996 đến năm 2021.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Vấn đề cải cách giáo dục – đào tạo dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
- Phạm vi thời gian: 1996 – nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Tiểu luận nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lãnh đạo, 2
cải cách giáo dục – đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa,
đồng thời kế thừa có chọn lọc một số công trình nghiên cứu liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp lịch
sử, logic; phương pháp thu thập, phân tích tài liệu; phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê số liệu nghiên cứu; phương pháp nghiên cứu tác phẩm, văn bản...
5. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 3 chương. lOMoAR cPSD| 36237285 CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
1.1. Một số quan niệm liên quan đến đề tài
Giáo dục là sự truyền thụ tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm của con người từ đời
này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Giáo dục - đào tạo là một hệ thống rộng lớn có những quy luật vận động và
phát triển tương đối độc lập, nhưng nó được chi phối, điều tiết, chế định bởi thể chế
phát triển kinh tế – xã hội chung, làm nên đặc tính và bản chất của một nền giáo dục
- đào tạo. Giáo dục - đào tạo vừa mang những đặc điểm của dân tộc, vừa mang những
nội dung giá trị chung của nhân loại làm cơ sở cho quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá.
Cải cách giáo dục - đào tạo, đó là sửa đổi những bộ phận cũ, không còn phù
hợp với tình hình mới, xu thế tiến bộ chung của xã hội trong lĩnh vực giáo dục đào
tạo cho thành hợp lý và đáp ứng yêu cầu khách quan hơn. Cải cách ở đây phải gồm
cả đường lối, chủ trương, mục tiêu, đội ngũ nhà giáo, chương trình và sách giáo khoa
cùng những cơ sở vật chất phục vụ việc học tập và nghiên cứu kèm theo văn hoá thể thao, giải trí đi kèm.
Trong các yếu tố và các quá trình giáo dục - đào tạo được định chế bởi hai nhân
tố chủ yếu là: tính chất xã hội, tính chất công cộng và phúc lợi xã hội hay lợi ích tư
nhân của giáo dục - đào tạo; mục tiêu của chính sách đầu tư, chính sách xã hội của
nhà nước trong việc phát triển, cải cách giáo dục – đào tạo. Chủ trương, chính sách
của Đảng về cải cách giáo dục - đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đạt được mục tiêu phát triển giáo dục - đào tạo, chất lượng giáo dục -
đào tạo đối với toàn bộ hệ thống giáo dục - đào tạo. 4 2.5
Xã hội mở cửa giao lưu hợp tác và phát triển là một nhu cầu tất yếu; tiếp thu mô
hình, phương thức và cả nội dung, chương trình tiến bộ, phù hợp. Vì thế giáo dục -
đào tạo nói chung, cải cách giáo dục - đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước không thể là một mô hình khép kín, cần tham khảo kinh
nghiệm thế giới, tiếp cận và tiếp nhận những thành công của nhân loại để giáo dục -
đào tạo vừa mang những đặc điểm riêng có tính dân tộc lại vừa mang những nội
dung chung, những giá trị chung mà nhân loại đã đạt được trong quá trình giao lưu,
hội nhập và phát triển. Đó cũng là một trong những yêu cầu chung của đổi mới, đổi
mới cơ chế quản lý và chính sách xã hội đối với giáo dục - đào tạo nhằm đảm bảo
cho giáo dục - đào tạo phát triển năng động, hiệu quả và chất lượng luôn là nhiệm
vụ quan trọng của mỗi nước.
1.2. Một số mô hình giáo dục, cải cách giáo dục trên thế giới
1.2.1. Mô hình cải cách giáo dục – đào tạo ở Nhật Bản
Chú trọng công tác giáo dục - đào tạo (GD-ĐT), phát triển nguồn nhân lực đã
được coi là một trong những nguyên nhân rất cơ bản và quan trọng giúp cho Nhật
Bản từ một nước phong kiến nông nghiệp lạc hậu đầu thế kỷ 19 nhưng từ sau năm
1868 nhờ thực hiện cuộc Duy Tân Minh Trị mang tên Thiên hoàng Meiji (Minh Trị),
tiến hành mở cửa với phương Tây, đến đầu thế kỷ 20 Nhật Bản đã trở thành một
nước công nghiệp phát triển.
Không chỉ vậy, cũng do rất coi trọng công tác GD-ĐT, phát triển nguồn nhân
lực nên mặc dù Nhật Bản đã là nước bại trận bị tàn phá nặng nề, kinh tế suy sụp
nghiêm trọng sau Thế chiến hai do theo đuổi chủ nghĩa phát xít Đại Đông Á nhưng lOMoAR cPSD| 36237285
sau đó chưa đầy hai thập niên, vào những năm 1960-1970 Nhật Bản đã vượt lên trở
thành cường quốc thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ.
Cho đến trước thập niên 90 của thế kỷ XX, Nhật Bản đã trải qua 2 lần đại cải
cách GD-ĐT và cả hai lần đều chịu ảnh hưởng rất lớn từ mô hình GD-ĐT của phương
Tây, đặc biệt là của Mỹ.
Cuộc đại cải cách GD-ĐT lần thứ nhất do chính Thiên hoàng Minh Trị khởi
xướng và trực tiếp chỉ đạo kể từ năm 1872, nghĩa là chỉ sau 4 năm Tướng quân Meiji
nắm bính quyền Thiên hoàng Nhật Bản và thực hiện công cuộc Duy Tân
Minh Trị mở cửa học tập, hợp tác với phương Tây kể từ năm 1868. Cuộc đại cải
cách GD-ĐT lần thứ hai được tiến hành từ năm 1947, sau khi Thế chiến hai đã kết thúc được hai năm.
Nhờ cả hai cuộc đại cải cách trên đây mà theo từng thời kỳ lịch sử tương ứng
trên, người Nhật đã làm cho cả thế giới ngạc nhiên, khâm phục về những kỳ tích
phát triển. Riêng đối với cuộc đại cải cách GD-ĐT lần thứ hai, nhiều kết quả nghiên
cứu đã đánh giá rất cao vai trò của nó, đã tạo cho người Nhật có được một hệ thống
GD-ĐT ra đời sau chiến tranh cho dù dưới sự tác động của những cải cách mang
tính bắt buộc của Mỹ song nó đã có công rất lớn đối với việc GD-ĐT nguồn nhân
lực cần thiết cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước Nhật. Đó chính là
một trong những nguyên nhân cơ bản đưa lại thành tựu tăng trưởng cao liên tục suốt
những năm 1955-1973, tạo đà để Nhật Bản sớm trở thành “ hiện tượng kinh tế thần
kỳ” ở Đông Á và “ hoá rồng” ngay từ cuối thập niên 60 của thế kỷ XX.
Nghiên cứu so sánh cho thấy, về cơ bản hệ thống GD-ĐT đã có được nhờ cuộc
đại cải cách lần thứ hai đó vẫn đi theo mô hình “lấy thầy giáo là trung tâm” đã có từ
thời Minh Trị với những đặc trưng chủ yếu nhấn mạnh đến giáo dục cho học sinh
tính tập thể, đến giáo dục phổ cập, đến việc ghi nhớ và bắt chước một cách thụ động 6
các kiến thức đã học từ thầy giáo, làm hạn chế tính sáng tạo và tư duy độc lập của
mỗi cá nhân học sinh. Mô hình này đã tỏ ra rất phù hợp với Nhật Bản ở những thập
niên đầu ngay sau chiến tranh khi mà còn lạc hậu xa so với nhiều nước phương Tây
vì đã không chỉ làm cho mặt bằng trình độ dân trí nói chung của đông đảo người
Nhật được nâng cao nhanh chóng mà còn kịp thời đào tạo ngay được một đội ngũ
lao động đủ lớn về quy mô và chất lượng trình độ khoa học kỹ thuật, có thể tiếp thu
ngay những tri thức và đủ khả năng cải tiến các công nghệ và kỹ thuật hiện đại nhập
khẩu để nhanh chóng đuổi kịp các nước phương Tây tiên tiến hơn.
1.2.2. Mô hình cải cách giáo dục – đào tạo ở Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là một nước có nền kinh tế ở mức cao nhất thế giới. Kinh tế có ảnh
hưởng sâu sắc đến sự phát triển của nền giáo dục thông qua việc vận hành cơ chế
cạnh tranh. Mặt khác nó còn thể hiện ở sự phân cấp trách nhiệm rõ ràng từ Chính
phủ liên bang đến Chính phủ địa phương, giữa nhà nước, các tổ chức kinh doanh, xã
hội và gia đình học sinh.
Hệ thống giáo dục của Hoa Kỳ được phân thành bốn cấp theo cấu trúc: 6+3+3+4:
cấp sơ học gồm mầm non và tiểu học (từ mẫu giáo đến lớp 6); cấp trung học cơ sở
(lớp 7 đến lớp 9); trung học cao (lớp 10 đến lớp 12) và giáo dục đại học (đại học 2
năm hoặc 4 năm, thạc sỹ và tiến sỹ). Giáo dục ở Hoa Kỳ được xem là hàng hoá dịch
vụ công phục vụ lợi ích xã hội, do vậy Chính phủ có trách nhiệm lớn trong việc
hoạch định chính sách, chiến lược và đầu tư cho giáo dục. Tuy nhiên vai trò quản lý
và sự can thiệp của Chính phủ đối với giáo dục ở mức độ thấp, chủ yếu là cấp kinh
phí và bảo đảm chính sách cho người học. Các yếu tố của thị trường được vận dụng
ở mức cao để phát triển giáo dục, tạo nên những điểm nổi bật của hệ thống giáo dục
ở Hoa Kỳ: chất lượng giáo dục đại học cao, cạnh tranh cao, tự do học thuật cao, đa
dạng các loại hình trường lớp, tự chủ lớn và trách nhiệm lớn, phân cấp trách nhiệm
rõ ràng giữa các Chính phủ và các lực lượng tham gia giáo dục. Các tổ chức kinh tế lOMoAR cPSD| 36237285
tham gia phát triển giáo dục. Hệ thống trường tư phát triển mạnh ở tất cả các cấp
học, đặc biệt là giáo dục đại học. Dù ở trường công hay tư đều phục vụ mục đích
công của giáo dục, kể cả các trường vì lợi nhuận. Thị trường giáo dục phát triển
mạnh cả ở trong nước và vươn ra thế giới. Tuy nhiên hệ thống giáo dục của Hoa Kỳ
cũng đang bị cạnh tranh gay gắt, chất lượng giáo dục phổ thông không cao, kém khả
năng cạnh tranh và có sự trì trệ trong quản lý ở các khu vực trường công. Hoa Kỳ
đang thúc đẩy cải cách giáo dục, hiện đại hoá giáo dục, đẩy mạnh hợp tác công – tư
và xuất khẩu giáo dục, duy trì vị thế hàng đầu về chất lượng giáo dục đại học.
1.2.3. Kết luận
Nhìn chung, giáo dục - đào tạo ở các nước có nền kinh tế thị thường tự do có
chất lượng cao, đặc biệt là những nước tạo được sự cạnh tranh mạnh trong hệ thống
giáo dục - đào tạo, trao nhiều quyền tự do, tự chủ cho các trường học. Chất lượng
giáo dục và công bằng giáo dục sẽ đảm bảo hơn nếu nhà nước đầu tư tốt cho giáo
dục, nhà nước quản lý, coi trọng đảm bảo chất lượng giáo dục và các trường huy
động được đa dạng các nguồn tài chính, đáp ứng các nhu cầu khác nhau của xã hội.
Nghiên cứu các mô hình giáo dục - đào tạo trong các nền kinh tế trên cho thấy những
nét chung và những nét đặc thù ở mỗi nước; giáo dục - đào tạo của các nước vừa
chịu sự quản lý và điều tiết của nhà nước vừa chịu sự tác động các quy luật và các
tính chất của thị trường.
Mặt khác, các quan niệm về giáo dục - đào tạo, các chính sách giáo dục đào
tạo khác nhau của các nước đã tạo nên những nền giáo dục với các chất lượng và sự
phát triển khác nhau. Vì sự vận dụng các yếu tố của thị trường vào giáo dục đào tạo
theo những cách khác nhau của các nước là khác nhau và vì mỗi yếu tố của thị trường
có các ưu điểm và các nhược điểm của nó; do vậy, không có mô hình giáo dục - đào
tạo nào là tối ưu để một nước khác có thể bắt chước hoàn toàn. 8
Nhiều nước có chất lượng giáo dục cao, giáo dục phát triển mạnh, nhưng nhiều nước
hệ thống giáo dục công phát triển một cách trì trệ so với hệ thống trường tư. Sự thành
công của một nước trong việc xây dựng được một nền giáo dục - đào tạo có chất
lượng cao và công bằng phụ thuộc vào việc vận dụng các quy luật của thị trường,
xác định hợp lý và rõ ràng vai trò của thị trường và của nhà nước trong việc tạo lập
môi trường vật chất và pháp lý để phát triển giáo dục - đào tạo. Phân định hợp lý và
rõ ràng vai trò của nhà nước và thị trường là rất quan trọng vì nếu giáo dục - đào tạo
của một đất nước mà chỉ do các quy luật của thị trường chi phối thì sẽ không thực
hiện được các chức năng công và đảm bảo lợi ích cho xã hội. Nhưng nếu nhà nước
can thiệp quá sâu sẽ hạn chế sự năng động, sáng tạo và không tạo lập được động lực
mạnh để thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Với sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học công nghệ, các nước chuyển sang xã hội thông tin và kinh tế tri
thức. Với sự trợ giúp của công nghệ thông tin truyền thông, các yếu tố của thị trường
được vận dụng và phát huy hiệu quả hơn. Tuy nhiên cả thị trường, nhà nước và công
nghệ đều có những mặt mạnh và yếu; việc tìm ra các mô hình, phối kết hợp các ưu
điểm để hạn chế các nhược điểm trong cải cách phát triển giáo dục - đào tạo luôn là
nhiệm vụ của mỗi nước. CHƯƠNG 2
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CẢI CÁCH, PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC –
ĐÀO TẠO TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN
ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC (Từ năm 1996 đến năm 2021)
2.1. Thách thức và cơ hội đối với cải cách, phát triển giáo dục - đào tạo ở Việt Nam trước năm 1996
Quá trình phát triển giáo dục - đào tạo ở bất cứ quốc gia nào cũng đều chịu
ảnh hưởng của trình độ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Nghiên cứu thực
tiễn phát triển giáo dục – đào tạo ở Việt Nam trong các điều kiện kinh tế - xã hội lOMoAR cPSD| 36237285
giúp cho việc phân tích và đánh giá về mức độ cũng như các xu hướng của điều kiện
kinh tế - xã hội tác động đến quá trình phát triển giáo dục - đào tạo, từ đó chỉ ra
những mặt mạnh - yếu, những cơ hội và thách thức góp phần vào hoạch định các
chủ trương, chính sách cho phát triển giáo dục – đào tạo Việt Nam trong giai đoạn
tiếp theo. Trong phần này xin được nêu thực tiễn phát triển giáo dục Việt Nam qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1996:
Điều kiện kinh tế - xã hội:
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) quyết định chủ trương đổi mới toàn diện đất
nước, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các điều kiện kinh tế - xã hội này đã ảnh
hưởng đến sự phát triển giáo dục - đào tạo: -
Những nguồn lực của đất nước, của nền kinh tế bắt đầu được giải
phóng,được tăng lên tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội; -
Cơ chế, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo ra sự
khuyến khích ở cả trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển các lĩnh vực kinh tế,
xã hội của đất nước; -
Do chưa có kinh nghiệm về quản lý kinh tế trong cơ chế thị trường nên
bêncạnh những thuận lợi cũng có nhiều khó khăn này sinh, ảnh hưởng đến sự phát
triển các mặt kinh tế - xã hội của đất nước; nhu cầu về học tập, đào tạo nâng cao
kiến thức nghề nghiệp... ngày càng trở nên bức thiết. -
Đời sống của người dân bắt đầu được cải thiện và từng bước được nâng
lêngóp phần củng cố và nâng cao niềm tin của người dân vào công cuộc đổi mới và
sự quản lý của nhà nước; -
Sự tăng nhanh về dân số, dân số trẻ là một ưu thế về nguồn nhân lực,
songcũng đặt ra thách thức về giáo dục - đào tạo, về công ăn, việc làm, về các vấn đề xã hội; 10 -
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng tạo nhiều cơ hội thuận lợi lớn
lao,đồng thời cũng có nhiều thách thức không nhỏ đối với sự phát triển mọi mặt của đất nước.
Cơ chế, chính sách và thực tiễn giáo dục - đào tạo:
Giáo dục - đào tạo bắt đầu chịu sự chi phối của cơ chế thị trường một cách rõ
rệt hơn. Sự phát triển mọi mặt của đất nước, của toàn xã hội cũng như của mỗi gia
đình ngày càng làm tăng nhu cầu học tập; Sự ảnh hưởng trở lại của giáo dục đào tạo
với đời sống kinh tế - xã hội ngày một sâu sắc và rộng khắp hơn, vai trò của giáo
dục - đào tạo đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đang dần được đề cao;
Giáo dục hướng ra toàn cầu một cách mạnh mẽ do những đòi hỏi hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, do những chính sách mở cửa của Nhà nước, cùng với
sự nâng cao mức sống của người dân;
Sự đa dạng hoá trong khu vực đào tạo, giáo dục trung học chuyên nghiệp,
dạy nghề, cao đẳng và đại học được thực hiện do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội;
Tốc độ phát triển quy mô giáo dục tăng cao ở tất cả các cấp, ngành học, đặc
biệt là đối với khu vực giáo dục cao đẳng, đại học;
Sự tăng lên nhanh chóng về số lượng sẽ dẫn đến sự sa sút về mặt chất lượng
nếu như không có một cơ chế và trình độ quản lý phù hợp.
Quan điểm phát triển giáo dục - đào tạo của Đảng:
Những quan điểm phát triển giáo dục - đào tạo của Đảng trong giai đoạn này
đã từng bước có sự thay đổi tư duy và cách làm giáo dục: -
Từ đào tạo cho thành phần kinh tế nhà nước chuyển sang đào tạo cho
nhiềuthành phần kinh tế; -
Từ chỗ sinh viên tốt nghiệp được phân công công việc chuyên sang
sinhviên tự tìm việc làm trong các thành phần kinh tế khác nhau; lOMoAR cPSD| 36237285 -
Từ đào tạo theo kế hoạch duy nhất do nhà nước giao chuyển sang đào
tạođể đáp ứng các nhu cầu khác nhau của xã hội và cá nhân; -
Từ chỗ giáo dục chỉ có nguồn kinh phí duy nhất từ ngân sách nhà
nướcchuyển sang khai thác nhiều nguồn kinh phí khác nhau: từ nhà nước, từ các
doanh nghiệp, từ người học....
Chủ trương và chính sách quản lý giáo dục - đào tạo có những thay đổi nhằm
tạo điều kiện để giáo dục có thể thích nghi, phát triển cho phù hợp với cơ chế quản
lý mới trong phát triển kinh tế - xã hội.
2.2. Yêu cầu, mục tiêu của giáo dục - đào tạo Việt Nam trong quá trình đổi mới
Quan điểm Phát triển giáo dục trong thời kỳ đổi mới là: “Khoa học và giáo
dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên
trình độ tiên tiến của thế giới” với những yêu cầu và mục tiêu sau:
Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo phải là quốc sách hàng đầu.
Đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều
kiện cho giáo dục đi trước phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế xã hội; Phát triển
giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những
con người có kiến thức văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ,
sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, đáp
ứng nhu cầu phát triển đất nước hiện tại và tương lai; mở rộng quy mô giáo dục đồng
thời chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, gắn học với hành, tài với đức;
Giáo dục - đào tạo phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, vừa phù
hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Thực hiện một nền giáo dục thường xuyên cho
mọi người, xác định học tập suốt đời và là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi công dân; 12
Đa dạng hoá các hình thức đào tạo. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo
dục; người đi học phải đóng học phí, người sử dụng lao động qua đào tạo phải đóng
góp chi phí đào tạo. Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người nghèo và các đối
tượng chính sách đều được đi học.
Mục tiêu giáo dục - đào tạo trong thời kỳ đổi mới được xác định trong Báo
cáo Chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII là: “nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề,
có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh
thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn
diện và có năng lực chuyên môn sâu, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần”.
2.3. Quan điểm của Đảng về giáo dục - đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Công nghiệp hoá, như định nghĩa của Từ điển Bách khoa Việt Nam, là “quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên
tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp hoá và tiến bộ khoa học –
công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.”
Để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá các nhà giáo dục cần lưu ý
rằng trong quá trình đó, con người không chỉ là chủ thể mà còn là đối tượng, không
chỉ được hưởng mà còn chịu sức ép do đó rất cần được chuẩn bị chu đáo về kiến
thức, kỹ năng và thái độ.
2.3.1. Giáo dục và đào tạo với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một tất yếu của sự phát
triển, nó trở thành làn sóng mạnh mẽ tác động đến tất cả các nước trên thế giới cũng lOMoAR cPSD| 36237285
như mọi mặt của đời sống xã hội. Kinh nghiệm cũng như thực tiễn đã chỉ ra rằng
một trong những tiền đề quan trọng bậc nhất để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là phải nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng ở mọi trình
độ từ công nhân, nhân viên nghiệp vụ đến cán bộ kỹ thuật, kỹ sư và các nhà khoa
học... Không có trình độ dân trí cao, không có đội ngũ cán bộ và công nhân giỏi thì
không thể công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Có thể nói rằng giáo dục - đào tạo là yếu tố tác động mạnh mẽ đến quy mô,
tốc độ cũng như sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bởi vì:
Giáo dục phổ thông là nền tảng và giáo dục bậc cao là cơ sở tạo những bước “bứt
phá” nhanh và hết sức cần thiết; đào tạo nghề, kỹ năng thực hành phải được coi trọng
vì đó là sự kết hợp giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp, kết hợp văn hóa
với tay nghề để hình thành năng lực thực sự trong bản thân người lao động. Nó tạo
nên đội ngũ lao động có tay nghề, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cũng như những
phẩm chất cần có để làm chủ tri thức, làm chủ các phương tiện kỹ thuật, công nghệ
hiện đại, bắt nhịp được với yêu cầu của cơ chế thị trường cũng như sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có thể nói rằng, nếu sự nghiệp giáo dục đào tạo chậm đổi
mới, chậm đẩy mạnh và phát triển thì nguy cơ tụt hậu càng cao; công nghiệp hoá,
hiện đại hoá sẽ bị bó hẹp về quy mô, chậm về tốc độ kém về hiệu quả. Thế nên đầu
tư cho giáo dục - đào tạo không chỉ nên đi trước một bước mà là cần đi trước nhiều bước.
Hiện nay, ở nước ta việc đưa công nghệ thông tin vào phục vụ cho việc mở
rộng, phát triển giáo dục và đào tạo đang là yêu cầu rất cấp thiết. Với những thànhtựu
và ưu thế của các phương tiện thông tin hiện đại, quá trình giáo dục – đào tạo được
thực hiện một cách có hiệu quả hơn làm cho lực lượng lao động có thể tự nâng cao
trình độ và tay nghệ thông qua việc cập nhật các nguồn thông tin đa dạng và phong 14
phú. Các công nghệ hiện đại có thể tạo ra khả năng mới cho con người thực hiện sự
đa dạng hóa kiến thức và nghề nghiệp. Nhờ vậy có thể đáp ứng được những yêu cầu
của xã hội về sự thích ứng, năng động và sự phát triển tiềm năng, những thiên hướng
sáng tạo của con người.
Phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những nội dung quan trọng nhằm
phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và công
nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện cho giáo dục - đào tạo phát triển theo hướng
hiện đại phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và giáo dục - đào tạo là hai quá trình có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng, chúng
vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau.
2.3.2. Định hướng, chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII,
ngày 16 tháng 12 năm 1996 đã nêu rõ những tư tưởng chủ đạo phát triển giáo dục -
đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá là:
Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung, phương pháp giáo dục -
đào tạo, trong các chính sách, nhất là chính sách công bằng xã hội, phát huy ảnh
hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường đối với giáo dục -
đào tạo. Chống khuynh hướng "thương mại hoá", đề phòng khuynh hướng phi chính
trị hoá giáo dục - đào tạo. Không truyền bá tôn giáo trong trường học.
Thực sự coi giáo dục - đào tạo, là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo
dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh
tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển. Thực hiện
các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với giáo dục - đào tạo, đặc biệt là chính sách đầu
tư và chính sách tiền lương. Có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển giáo dục – đào tạo. lOMoAR cPSD| 36237285
Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân.
Mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời; phê phán thói lười học. Mọi
người chăm lo cho giáo dục. Các cấp uỷ và tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các
đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế, xã hội, các gia đình và các cá nhân đều có
trách nhiệm góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đóng góp trí tuệ, nhân
lực, vật lực, tài lực cho giáo dục - đào tạo. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục
gia đình và giáo dục xã hội, tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong
từng cộng đồng, từng tập thể.
Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những
tiến bộ khoa học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. Coi trọng cả ba mặt:
mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo. Tạo điều kiện để ai
cũng được học hành. Người nghèo được nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để học tập.
Bảo đảm điều kiện cho những người học giỏi phát triển tài năng. 17
Giữ vai trò nòng cốt của nhà trường công lập đi đôi với đa dạng hoá các loại
hình giáo dục - đào tạo, trên cơ sở nhà nước thống nhất quản lý, từ nội dung chương
trình, quy chế học, thi cử, văn bằng, tiêu chuẩn giáo viên, tạo cơ hội cho mọi người
có thể lựa chọn cách học phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của mình. Phát triển các
trường bán công, dân lập ở những nơi có điều kiện, từng bước mở các trường tư thục
ở một số bậc học như: mầm non , phổ thông trung học (cấp III), trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề, đại học. Mở rộng các hình thức đào tạo không tập trung, đào tạo
từ xa, từng bước hiện đại hóa hình thức giáo dục.
Nghị quyết cũng đề ra nhiệm vụ và mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo từ
năm 1996 đến năm 2000 với những nội dung cụ thể sau: 16
- Phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục các mặt yếu kém theo hướng:
chấn chỉnh công tác quản lý, khẩn trương lập lại trật tự, kỷ cương, kiên quyết đẩy
lùi tiêu cực; sắp xếp và củng cố hệ thống giáo dục - đào tạo và mạng lưới trường
lớp; nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo; phát triển quy mô giáo
dục - đào tạo, chuẩn bị tiền đề cho những bước phát triển mạnh vào đầu thế kỷ XXI.
- Trên cơ sở định hướng chiến lược trình bày ở trên, tiến hành xây dựng chiến lược
phát triển giáo dục - đào tạo cho thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ban hành Luật Giáo dục.
- Mục tiêu chủ yếu là: thực hiện giáo dục toàn diện đức dục, trí dục, thâm dục, mỹ
dục ở tất cả các bậc học. Hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách,
khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành. Cụ thể là:
o Phát triển bậc học mầm non phù hợp với điều kiện và yêu cầu của từng nơi.
o Bảo đảm hầu hết trẻ em 5 tuổi được học chương trình mẫu giáo lớn, chuẩn bị vào lớp 1.
- Phổ cập giáo dục bậc tiểu học được học đủ 9 môn theo trường trình quy định.
Thực hiện tốt 5 điều dạy của Bác Hồ. Phổ cập trung học cơ sở ở các thành phố,
đô thị, các vùng kinh tế trọng điểm và những nơi có điều kiện.
- Thanh toán nạn mù chữ cho những người trong độ tuổi 15 - 35, thu hẹp diện mù
chữ ở độ tuổi khác, đặc biệt chú ý vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn,
để tất cả các tỉnh đều đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập tiểu học trước
khi bước sang thế kỷ XXI.
- Tăng quy mô học nghề bằng mọi hình thức để đạt 22% - 25% đội ngũ lao động
được qua đào tạo vào năm 2000. Kế hoạch đào tạo nghề phải theo sát chương
trình kinh tế - xã hội của từng vùng, phục vụ cho sự chuyển đổi lao động, cho lOMoAR cPSD| 36237285
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn và nông nghiệp. Tăng cường đầu tư,
củng cố và phát triển các trường dạy nghề, xây dựng trường trọng điểm. Đào tạo
đủ công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, có tính đến nhu
cầu xuất khẩu lao động.
- Nâng quy mô giáo dục đại học, cao đẳng lên 1,5 lần so với năm 1995 với cơ cấu
đào tạo hợp lý , theo sát nhu cầu phát triển. Tiếp tục sắp xếp lại các trường đại
học. Xây dựng một số trường đại học trọng điểm. Xây dựng một số trường cao
đẳng cộng đồng ở các địa phương để đào tạo nhân lực tại chỗ.
- Tăng nhanh một số người đi học tập, bồi dưỡng ở nước ngoài.
- Mở rộng các hình thức học tập thường xuyên, đặc biệt là hình thức học từ xa.
Quan tâm đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý, kỹ thuật, nghiệp vụ và công nhân các doanh nghiệp.
- Kiện toàn hệ thống trường chính trị và hành chính. Tăng cường đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp các ngành.
- Có hình thức trường, lớp thích hợp nhằm đào tạo bồi dưỡng cán bộ chủ chốt xuất
thân từ công nông và lao động ưu tú, con em các gia đình thuộc diện chính sách.
- Đối với miền núi, vùng sâu vùng khó khăn, xoá "điểm trắng" về giáo dục ở bản,
ấp. Mở thêm các trường dân tộc nội trú và bán trú cụm xã, các huyện, tạo nguồn
cho các trường chuyên nghiệp và đại học để tạo cán bộ cho các dân tộc, trước hết
là giáo viên, cán bộ y tế, cán bộ lãnh đạo và quản lý.
2.4. Cải cách giáo dục sau hội nghị đảng lần thứ XIII năm 2021
2.4.1. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, phát triển con người.
Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương
giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động
lực then chốt đế phát triển đất nước. Tiếp tục đổi mới dồng bộ mục tiêu, nội dung, 18
chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại,
hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng nhũng yêu cầu của phát
triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và
các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền
thông và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất
là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy hản sắc văn hóa thị trường và hội nhập quốc tế, lây
chất lượng và hiệu quả đầu ra làm thước đo. Xây dựng và triển khai thực hiện lộ
trình tiến tới miễn học phí đôi với học sinh phổ thông, trước hết là đốì với học sinh
tiểu học và trung học cơ sỏ. Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển các cơ sở đào
tạo ngoài công lập phù hợp vổi xu thế của thế giới và điểu kiện của Việt Nam trên
cơ sỏ bảo đảm công bằng xả hội và các giá trị cơ bản của định hướng xã hội chủ
nghĩa, Quan tâm thích đáng đến phát triển giáo dục ở miền núi, vùng cao, hải đảo,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh và nâng
cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các cơ
sỏ giáo dục và đào tạo. Gắn kết chặt chẽ giáo dục và đào tạo với nghiên cứu, triển
khai, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới; hình thành các trung tâm
nghiên cứu xuất sắc, các nhóm đổi mới sáng tạo mạnh. Cùng với đề cao vị trí, vai
trò và trách nhiệm xã hội, cần đổi mới mạnh mẽ chính sách đãi ngộ, chăm lo xây
dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt. Sắp xếp, đổi
mới căn bản hệ thống các cơ sở đào tạo trường đại học, cao đẳng và đào tạo nghề.
Xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo
dục và đào tạo. Phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về giáo dục và
đào tạo trong khu vực, bắt kịp với trình độ tiên tiến của thế giói, tham gia vào thị
trường đào tạo nhân lực quốc tế. lOMoAR cPSD| 36237285
4.2. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tiếp tục được đổi mới và có bước phát triển
Chủ trương đối mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được tích cực triển
khai, bước đầu có hiệu quả. Mạng lưới cơ sở giáo dục và dào tạo tiếp tục được mở
rộng về quy mô. Giáo đục và đào tạo ỏ những vùng khó khãn và vùng đồng bào dân
tộc thiểu số được chú trọng hơn. Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phố thông
mới được ban hành và đang tích cực triển khai; phương pháp giảng dạy và học tập
có bước đôi mới. Giáo dục mầm non đat chuẩn phố cập cho trẻ em 5 tuổi và giáo
dục phổ thông có chuyển biến tốt, được thế giới công nhận và nhân văn, khoa học
Iỹ luận chính trị góp phần tích cực cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối,
chính sách; bảo vệ, phát triển nển tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng, phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, con người Việt Nam và bảo vệ Tổ quốc.
Hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ được nâng lên, tạo chuyển biến
tích cực cho hoạt động đối mới và khôi nghiệp sáng tạo. Quản lý nhà nước về khoa
họcvà công nghệ có bước đổi mới. Một số cơ chế, chính sách về phát triển, quản lý
khoa học và công nghệ, nhất là cơ chế, chính sách quản lý nguồn vổn đầu tư, tài
chính bước đầu phát huy tác dụng. CHƯƠNG 3 KẾT LUẬN
3.1. Phương hướng đẩy mạnh việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê
bình trong Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới
Một là, nâng cao trách nhiệm bí thư Đảng bộ; mở rộng dân chủ; duy trì chặt
chẽ chế độ tự phê bình và phê bình. Bí thư, phó bí thư Đảng bộ nhất thiết phải duy
trì có hiệu quả hoạt động này. Song song với tự phê bình và phê bình xoay quanh
thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, các chi bộ và từng đảng viên cần phải tự 20
phê bình và phê bình gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của
Đảng và Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Hai là, tự phê bình và phê bình phải trung thực, thẳng thắn, khách quan gắn
với xử lý kỷ luật nghiêm minh. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng, siết chặt
kỷ luật, kỷ cương; cán bộ, đảng viên vi phạm phải có hình thức, biện pháp xử lý kịp
thời, chính xác, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng. Tự phê bình và phê bình
phải gắn liền với xử lý nghiêm vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước. Tự phê
bình và phê bình với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật, không nể nang, né tránh, không có vùng cấm.
Ba là, kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện tự phê bình và phê bình.Công tác
kiểm tra, giám sát thuộc chức năng lãnh đạo của Đảng, là nội dung quan trọng bảo
đảm nghị quyết của Đảng thực hiện có hiệu quả trên thực tế. Để thực hiện tốt nội
dung này, các cấp ủy cần có kế hoạch kiểm tra, giám sát cụ thể đối với từng chi bộ
trong Đảng bộ. Nội dung cần gắn chặt kết quả thực hiện tự phê bình và phê bình với
phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên trước tổ chức Đảng và
quần chúng. Việc duy trì nền nếp chế độ, nguyên tắc, thủ tục, nội dung và thực hiện
dân chủ trong tự phê bình và phê bình, nhận thức thái độ, động cơ trách nhiệm trong
tự phê bình và phê bình, tính đấu tranh để xây dựng Đảng bộ… Qua kiểm tra cần chỉ
ra những hạn chế, khuyết điểm, kịp khắc phục những khâu yếu, mặt yếu và đề ra các
giải pháp giúp cấp ủy, chi bộ và đảng viên tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, góp phần
nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình.
3.2. Giải pháp đẩy mạnh việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình
trong Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới lOMoAR cPSD| 36237285
Để thực hiện những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh trong Di chúc, nhất là tự phê
bình và phê bình nhằm xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng bộ Thành phố
Hồ Chí Minh trong sạch, vững mạnh, trong thời gian tới, cần phải tập trung thực
hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh không chỉ nâng cao nhận thức mà còn phải đề cao trách nhiệm trong thực hiện
đồng bộ, quyết liệt các giải pháp nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, tổ chức,
kiểm tra, giám sát, tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng bộ. Đồng thời, đổi mới
mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của cấp ủy các cấp nhằm nâng cao vai trò điều hành,
hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp; nâng cao chất lượng hoạt động
của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội; phát huy vai trò của nhân dân, dựa
vào nhân dân để thiết thực xây dựng tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên liêm
chính, hết lòng phụng sự nhân dân. Trong đó, một mặt, tiếp tục chủ động, kịp thời
nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng nhân dân và cán bộ, đảng viên; mặt khác,
đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền để nâng cao tính chiến đấu, sức thuyết
phục và hiệu quả công tác tuyên truyền, góp phần cụ thể hóa chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước đến với người dân, tăng cường sự đồng thuận xã hội gắn với
biểu dương, nhân rộng những gương điển hình tiên tiến của tập thể và cá nhân, tạo
sự lan tỏa trong cộng đồng.
Hai là, tiếp tục gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII với Chỉ thị
05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII theo chương trình toàn khóa và chủ đề hằng
năm. Định kỳ tiến hành sơ kết rút kinh nghiệm, để kịp thời khắc phục những sai sót,
lệch lạc trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; trong
tự phê bình và phê bình… Đồng thời, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của
cấp ủy, người đứng đầu và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị trong tiến hành tự
phê bình và phê bình, trên tinh thần: tiến hành từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, 22
từ cấp ủy, người đứng đầu đến cán bộ, đảng viên. Theo đó, cấp trên phải gương mẫu
tự kiểm điểm trước để cấp dưới noi theo; tập thể kiểm điểm trước, cá nhân kiểm
điểm sau; cấp ủy viên và cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo kiểm điểm trước, đảng viên
kiểm điểm sau. Cấp dưới phải mạnh dạn phê bình cấp trên; tổ chức cơ sở đảng và
mỗi cán bộ, đảng viên phải lắng nghe ý kiến phê bình của quần chúng, để tự phê
bình và phê bình không chỉ đảm bảo chất lượng, hiệu quả mà còn góp phần làm tăng
uy tín của cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cơ quan, địa phương, đơn vị.
Ba là, duy trì và thực hiện nghiêm túc, thường xuyên, hiệu quả các nguyên tắc
xây dựng Đảng, Điều lệ Đảng, chú trọng thực hiện nhất là tự phê bình và phê bình
gắn với nhiệm vụ chính trị, với các đợt sinh hoạt đảng. Trong khi tiến hành tự phê
bình và phê bình, phải nêu được điểm tốt, điểm mạnh của cá nhân và tập thể trước;
tiếp đó, góp ý những điểm yếu, điểm hạn chế cần khắc phục, sửa chữa trong cả thời
gian trước mắt và lâu dài, để tổ chức và cá nhân được phê bình, góp ý tâm phục,
khẩu phục, chủ động khắc phục những hạn chế, yếu kém như: phê bình mang tính
hình thức, qua loa, đại khái hoặc lợi dụng tự phê bình và phê bình để nói xấu, bôi
nhọ, đả kích và hạ bệ lẫn nhau. Trong đó, kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng
với công tác tổ chức; phát huy dân chủ; đề cao tính tự giác, trách nhiệm, thái độ và
phương pháp tự phê bình và phê bình đúng đắn, phù hợp, bảo đảm tính văn hóa, tính
khoa học, tính nhân văn của mỗi cán bộ, đảng viên. Cung cấp thông tin kịp thời, đầy
đủ, chính xác cho cán bộ, đảng viên để kịp thời bảo vệ cái đúng, phê phán cái sai với
tâm trong sáng, trung thực, bản lĩnh, làm cho ý kiến góp ý phê bình vừa chính xác,
chất lượng vừa có tính thuyết phục cao, đảm bảo đúng người, đúng việc. Đồng thời,
khắc phục tình trạng bưng bít sự thật, không công khai hoặc thông tin sai lệch, làm
ảnh hưởng đến chất lượng tự phê bình và phê bình.
Bốn là, phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, nhất là nhân dân tại mỗi
địa phương, cơ quan, đơn vị trong giám sát, phê bình tổ chức đảng và cán bộ, đảng lOMoAR cPSD| 36237285
viên với các hình thức phù hợp. Những ý kiến đóng góp của các tổ chức quần chúng,
tầng lớp nhân dân đối với các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên cần
được tập hợp đầy đủ và tiếp thu nghiêm túc theo tinh thần Quy định 1374QĐ/TU
ngày 1/12/2017 của Ban Thường vụ Thành ủy. Sau khi tiến hành kiểm điểm, tự phê
bình và phê bình, các cấp ủy một mặt phải báo cáo nghiêm túc kết quả với cấp ủy
cấp trên; mặt khác, thông báo việc tiếp thu những ý kiến đóng góp xây dựng của tổ
chức quần chúng và nhân dân đi cùng với kế hoạch sửa chữa khuyết điểm để nhân
dân biết, giám sát việc thực hiện.Thông qua đó, kịp thời phát hiện sai lầm, khuyết
điểm của cán bộ, đảng viên, của cấp ủy, góp phần phòng và chống các biểu hiện cá
nhân chủ nghĩa, quan liêu, tham ô, tham nhũng, chuyên quyền, độc đoán của cán bộ,
đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng; ngăn chặn
nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Năm là, chú trọng “rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hiện cần kiêm liêm
chính, chí công vô tư” cho cán bộ, đảng viên theo Di chúc; tăng cường mối quan hệ
mật thiết với nhân dân, nâng cao tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội
ngũ cán bộ, đảng viên. Gắn tự phê bình và phê bình trong mỗi tổ chức đảng, mỗi cá
nhân cán bộ, đảng viên với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng trên tinh
thần vừa cẩn thận vừa kịp thời, để một mặt phát huy ưu điểm của mỗi cán bộ, đảng
viên; mặt khác, phân loại đảng viên, đánh giá đảng viên hằng năm, theo định kỳ
nghiêm túc. Tự phê bình và phê bình là một khâu, một chế độ, một trong những
phương pháp cơ bản không chỉ để tiến hành, nâng cao chất lượng hiệu quả của công
tác kiểm tra, giám sát mà còn giúp tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp có những
kết luận chính xác nhanh chóng, đúng người, đúng tội đối với cán bộ, đảng viên vi
phạm pháp luật, vi phạm Điều lệ Đảng và Quy định về những điều đảng viên không
được làm… Đồng thời, thông qua tự phê bình và phê bình để kịp thời động viên,
biểu dương những cá nhân, tập thể có thành tích; đề ra phương hướng, giải pháp giúp
đỡ những cá nhân, tập thể còn hạn chế, khuyết điểm và định kỳ thông báo kết quả 24
khắc phục, sửa chữa khuyết điểm trước tập thể và cấp ủy cấp trên, góp phần tăng
cường và củng cố khối đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng bộ Thành phố mang tên Bác. KẾT LUẬN
Tóm lại, ở Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức đảng, giữ gìn phẩm chất, tư cách đảng viên, nâng cao uy tín
của Đảng và củng cố niềm tin của quần chúng đối với Đảng. thành thật với mình,
thành thật với người, đó chính là nhân cách, là hành vi cao thượng, là trách nhiệm
của con người nói chung và đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng đặc biệt là
trong giai đoạn hiện nay. Thực hiện tốt công tác tự phê bình và phê bình sẽ là cơ sở,
là yếu tố góp phần để các cấp ủy Đảng trong thực hiện thắng lợi nghị quyết mà Đại
hội Đảng các cấp đã đề ra và đó cũng là tiền đề để các cấp ủy tiếp tục phát huy dân
chủ, khơi dậy trí tuệ của từng cán bộ, đảng viên, từng cấp ủy trong việc xây dựng
nghị quyết Đại hội Đảng các cấp trong thời gian sắp tới.
Chỉ có gương mẫu nêu gương tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ cấp cao, người đứng đầu mới làm cho cán bộ, đảng viên và tổ chức
đảng mạnh lên, dân chủ được phát huy, tinh thần làm việc cởi mở, hiệu quả công
việc tốt hơn. Từ đó, cuộc “chiến” giữ vững niềm tin của người dân với Đảng mới
thành công. Và như vậy mới khắc phục được tình trạng tự phê bình và phê bình mãi
là khuyết điểm của đảng viên.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội. lOMoAR cPSD| 36237285
2. V.I. Lênin (2006), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Văn Thị Thanh Mai (2018), Thực hiện tự phê bình và phê bình theo Di chúc để
xây dựng Đảng bộ thành phố mang tên Bác trong sạch, vững mạnh, Công thông
tin điện tử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Minh (2020), Nêu gương tự phê bình và phê bình là xây dựng Đảng về
đạo đức, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
5. Cao Hải Yến (2019), Thấm nhuần lời Bác dặn về tự phê bình và phê bình trong
Đảng, Công thông tin điện tử bảo tàng Hồ Chí Minh.
6. Đức Tâm (2020), Tự phê bình và phê bình đúng cách, Báo điện tử Hà Nội mới.
7. Trần Thị Thu Loan (2019), Cần hiểu đúng về tự phê bình và phê bình theo Tư
tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Xây dựng Đảng. 26