Tiểu luận Giới thiệu nhà hát tuồng - Cơ sở văn hóa Việt Nam | Trường Đại học Văn hóa Hà Nội

Tiểu luận Giới thiệu nhà hát tuồng - Cơ sở văn hóa Việt Nam | Trường Đại học Văn hóa Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Giới thiệu nhà hát tuồng việt nam
Quá trình hình thành và phát triển:
Nhà hát Tuồng Việt Nam, tiền thân là Đoàn Tuồng Bắc vốn đã có từ lâu đời và biểu
diễn phổ biến khá rộng rãi chẳng những ở các vùng nông thôn mà ở các đô thị lớn
ở phái bắc như: Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng, Nam Định,Vinh …Và những rạp
Tuồng có tên tuổi như: Quảng Lạc, Sán Nhiên Đài quanh năm diễn Tuồng.
Do điều kiện vật chất của xã hội phong kiến lâu đời kiểu Á Đông đã ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển của sân khấu Tuồng. Nghệ thuật Tuồng và nghệ sĩ Tuồng luôn bị
chế độ thực dân, phong kiến khinh bạc, coi “đào, kép “ là “ xướng ca vô loài “; đặt
địa vị ca hát dưới kẻ cùng đinh. Ây thế mà nó vẫn sống, vẫn tồn tại. Nó sống được
chính là nhờ bàn tay đum bọc và yêu thích vô hạn của nhân dân; nhờ các thế hệ
diễn viên “ Sinh vì nghệ, tử vì nghệ” ; nhờ có đường lối văn hoá, văn nghệ của
Đảng mới có đủ sức nhiệm mầu để các thế hệ diên viên nối tiếp nhau chuyển tải
những lớp phù sa bồi đắp nên mảnh đất phì nhiêu của nghệ thuật sân khấu Tuồng.
Năm 1954, hoà bình được lập lại, ngoài các đoàn Văn công kháng chiến và miền
Nam ra tập kết, phong trào hát Tuồng phát triển, làm giầu thêm hương sắc cho
vườn hoa nghệ thuật dân tộc. Trước tình hình phát triển của phong trào Tuồng và vị
trí của nghệ thuật sân khấu Tuồng Bắc, đòi hỏi phải có một đơn vị nghệ thuật mẫu
mực về tổ chức, tiêu biểu về phong cách. Do đó, năm 1959 Bộ Văn hoá quyết định
thành lập Đoàn Tuồng Bắc. Được tin này, các nghệ nhân Tuồng đang nằm rải rác ở
các tỉnh: Nghệ An, Thanh Hoá, Nam Định, Bắc Ninh, Thái Bình, Hải Hưng, Hải
Phòng, Hà Tây hướng về Hà Nội tham gia vào việc thành lập Đoàn Tuồng Bắc.
Lúc đầu, Đoàn chỉ có 15 người, nơi ăn, chốn ở chưa có, phải ở nhờ nhà dân và tập
luyện trong chùa Hà. Trong bước đi ban đầu, Đoàn được sự giúp đỡ thân tình của
Đội Tuồng Liên khu 5 và một ý chí phấn đấu: “Tất cả vì sự nghiệp Tuồng” của các
nghệ nhân: Quang Tốn, Bạch Trà, Doãn Khoái, Đình Nhi, Ngọc Phùng, Ngọc
Đống,Văn Kính, Văn Thành, Chu Lượng, Mẫn Thu, Minh Thịnh, Diễm Lan, Chu
Hải, Hiệp Tắc, Đắc Hán, Hoàng Bản, Văn Tuy, Như Tường, Lê Bá Tùng, Ngọc
Như, Ngọc Duyên, Đoàn Thị Ngà,Thanh Hảo, Hữu Điều, Bà Can, Bà Thứ…
Nơi chùa Hà thinh không vắng lặng, từ lâu chỉ có tiếng cầu kinh, niệm phật trong
tiếng mõ đều đều, đến nay tiếng trống Tuồng đã làm thức tỉnh, lay động cõi thâm
sâu của từng pho tượng Phật. Số phận nhân vật trong các tích Tuồng như thắp sáng
hồn người trong cõi nhân gian. Những vai mẫu : Đào Phi Phụng, Đắc Kỷ, Trại
Ba,Trương Phi, Triệu Tử Long, Xuân Đào cắt thịt… được khai thác, tập luyện lại
kỹ càng. Những vở Tuồng cổ : Đào Tam Xuân loạn trào, Mục Quế Anh dâng cây,
Ngũ Viên Thiệu được dàn dựng. Đây là những vở Tuồng đầu tiên đến với khán giả
trong buổi sơ khai thành lập Đoàn Tuồng Bắc.
Năm 1962, vở Tuồng: “Tiếng gọi non sông”tham gia Hội diễn Sân khấu chuyên
nghiệp toàn quốc đạt tấm Huy chương vàng đầu tiên đã đánh dấu một bước đi
quan trọng trong buổi đầu thành lập Đoàn.
Nối tiếp thành quả trên, Đoàn tiếp tục dàn dựng vở Tuồng lịch sử “ An Tư công
chúa” tác giả Tống Phước Phổ, đạo diễn Vĩnh Phô – Đình Phong, âm nhạc Lê
Cường. Vở Tuồng có nội dung phong phú, mang đậm đặc chất Tuồng, khán giả
nhiệt thành ca ngợi. Thắng lợi này đã tạo cho các nghệ sĩ một khí thế mới, một tinh
thần phấn chấn, tin tưởng để tiếp tục gìn giữ, nghiên cứu ,tìm tòi, sáng tạo nên
những tác phẩm nghệ thuật Tuồng có giá trị.
Cuối năm 1966 Nhà hát được bổ xung thêm các nghệ sĩ nổi tiếng từ Đoàn Tuồng
Kim Lan Hà Nội: Ba Tuyên, Đắc Nhã, Hoàng Phụng, Hồng Nhung, Sáu Tấn…
Những vở Tuồng xuất sắc lại tiếp tục ra đời từ những vùng sơ tán Hùng Trì -Lạc
Đạo – Hưng Yên, trong cuộc chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ ra miền Bắc.
Đặc biệt là vở Tuồng “Đề Thám”, một công trình sáng tạo tập thể, dưới sự chỉ đạo
của Đoàn trưởng – hoạ sĩ Nguyễn Hồng và đạo diễn Ngọc Phương đã để lại một
dấu ấn quan trọng trong nhiệm vụ xây dựng và phát triển sự nghiệp Tuồng Bắc.
Trải qua một chặng đường 60 năm kế thừa, gìn giữ và phát huy nghệ thuật sân
khấu Tuồng truyền thống của dân tộc, Nhà hát Tuồng Việt Nam đã tập trung sức
lực và trí tuệ của các tác giả, đạo diễn, nghệ nhân , nghệ sĩ, diễn viên khai thác, dàn
dựng 88 tác phẩm sân khấu Tuồng thuộc nhiều đề tài : Truyền thống, lịch sử, dân
gian, hiện đại, nước ngoài. Trong đó có hàng loạt các vở Tuồng cổ mẫu mực: Sơn
Hậu, Đào Tam Xuân loạn trào, Triệu Đình Long cứu chúa, Đào Phi Phụng, Ngoại
Tổ dâng đầu, Phụng Nghi đình, Nghêu-Sò-ốc-Hến, Mục Quế Anh dâng cây, Nhất
Điện thị hàm oan, Thất hiền quyến Trương Đồ Nhục, Lý Phụng Đình…
Ngoài các vở Tuồng cổ, hàng chục trích đoạn đặc sắc cũng được chọn lọc, khai
thác, phục hồi: Ôn Đình chém Tá, Đào Tam Xuân đề cờ, Châu Sáng qua sông,
Châu Sương cấy râu, Hồ Nguyệt Cô hoá cáo, Xuân Đào cắt thịt, Triệu Tử đoạt A
Đẩu, Nữ Vương xé nộm, Trụ Vương dỡn tượng, Ông già cõng vợ đi xem hội…
được đầu tư, tinh luyện để biểu diễn, nghiên cứu giới thiệu nghệ thuật và truyền
dạy cho các thế hệ diễn viên trẻ. Những tác phẩm Tuồng cổ, những trích đoạn mẫu
mực đó là cây đại thụ lưu giữ và chuyển tải nguồn nhựa sống dồi dào của nghệ
thuật Tuồng đến muôn triệu tâm hồn người Việt Nam và khán giả trên khắp năm
châu, bốn biển.
Để phù hợp với sự phát triển của xã hội, sân khấu Tuồng luôn có chiều hướng
vươn lên, vượt qua những định kiến:” Tuồng sản sinh từ chế độ phong kiến, phục
vụ cho chế độ phong kiến thì sân khấu Tuồng thuộc về bảo tàng như đền đài , lăng
tẩm.” Những vở Tuồng nói về cuộc đấu tranh gìn giữ và bảo vệ đất nước, hình
tượng các anh hùng dân tộc, danh nhân đất nước được đưa lên sân khấu Tuồng như
: An Tư công chúa,Trần Hưng Đạo, Đô đốc Bùi Thị Xuân, Lê Lợi, Đề Thám, Suối
Đất Hoa, Chu Văn An, Bà Ba cai Vàng, Tình mẹ, Không còn đường nào khác,
Huyền Trân công chúa, Nguyễn Tri Phương, Phũ Mó Thõn Cảnh Phỳc … Những
vở Tuồng đề cao nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, phê phán những thói hư, tật sấu trong xã
hội: Chiếc bóng oan khiên, Phương thuốc thần kỳ, Mối tình của một nhà sư, Tiếng
trống kêu oan, Rừng thức,đã thắp sáng tinh thần dân tộc, động viên , thúc đẩy hàng
triệu trái tim người dân Việt Nam chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước. Để
tiếp cận với những tác phẩm sân khấu bất hủ của nhân loại, Nhà hát Tuồng Việt
Nam còn mạnh dạn dàn dựng thử nghiệm những kịch bản: ÔTello, Rômêô-Juyliet,
Lơ-xít, Giông tố, Tarát BumBa, Êđíp làm vua,Từ đó rút ra những bài học bổ ích,
nâng cao kiến thức, mở rộng tầm nhìn cho các nghệ sĩ; làm giầu thêm, phong phú
thêm vốn liếng nghệ thuật Tuồng phục vụ quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế.
Thành tích đạt được
Nhà hát Tuồng đã được nhà nước tặng thưởng
Huân chương độc lập hạng Nhất
Huân chương Độc lập Hạng nhì
– Huân chương Độc lập Hạng Ba.
– Huân chương Lao động Hạng Nhất, Hạng Nhì, Hạng Ba.
– Huy chương Vì sự nghiệp sân khấu Việt Nam cho các NSND, NSUT,
nghệ sỹ xuất sắc của Nhà hát
Nhà hát Tuồng đã được nhà nước tặng thưởng:
– Huân chương Độc lập Hạng Ba.
– Huân chương Lao động Hạng Nhất, Hạng Nhì, Hạng Ba.
– Huy chương Vì sự nghiệp sân khấu Việt Nam cho các NSND, NSUT, nghệ sỹ
xuất sắc của Nhà hát.
– 20 Huy chương vàng, bạc, giải thưởng cho các vở diễn tại Liên hoan, Hội diễn
Sân khấu chuyên nghiệp Toàn Quốc.
– 200 Huy chương vàng, bạc, giải thưởng cho các cá nhân nghệ sỹ.
– Nhà nước đã phong tặng danh hiệu: 9 NSND – 27 NSUT và nhiều nghệ sĩ tài
năng trẻ.
Những vở diễn được tặng giải thưởng tại các Hội diễn và liên hoan Sân khấu
chuyên nghiệp Toàn quốc:
– ”Tiếng gọi non sông” HUY CHƯƠNG VÀNG – Hội diễn SK chuyên nghiệp
toàn quốc 1962.
– “Đề Thám” HUY CHƯƠNG VÀNG – Hội diễn SK chuyên nghiệp toàn quốc
1970.
– “Suối đất hoa” HUY CHƯƠNG VÀNG – Hội diễn SK chuyên nghiệp toàn
quốc1980.
– “Hoàng hôn đen” HUY CHƯƠNG VÀNG – Hội diễn SK chuyên nghiệp toàn
quốc 1990.
– “Triệu Đình Long” Giải A – Hội diễn SK chuyên nghiệp toàn quốc 1990.
– “Chu Văn An” Giải A – Hội diễn SK chuyên nghiệp toàn quốc 1990.
– “Lý Phụng Đình” Giải A – Hội diễn SK chuyên nghiệp toàn quốc 1990.
– “Đào Phi Phụng” Giải thưởng Hội NSSK VN – 1993.
– “Ngoại Tổ dâng đầu” Giải thưởng Hội NSSK VN – 1994.
– “Trần Hưng Đạo” HUY CHƯƠNG BẠC – Hội diễn SK chuyên nghiệp toàn
quốc 1995 – Giải thưởng Hội NSSK VN – 1995
– “Lý Chiêu Hoàng” HUY CHƯƠNG VÀNG – Liên hoan SK nhỏ toàn quốc
1996.
– “Trương Đồ Nhục” Giải B – SK băng hình 1997.
– “Huyền Trân Công chúa” Giải thưởng Hội NSSK VN – 1998.
– “Hồ Quý Ly” HUY CHƯƠNG VÀNG – Hội diễn SK chuyên nghiệp toàn quốc
1990.
– “Rừng Thức” – Huy chương vàng năm 2005.
– “Triệu Đình Long” – Huy chương vàng năm 2008.
– “Đào Tam Xuân” – Huy chương vàng năm 2008.
– “Huyền Trân Công Chúa” – Huy chương vàng năm 2011.
– Cuộc thi diễn tấu dàn nhạc dân tộc toàn quốc – Huy chương vàng năm 2012.
– “Nguyễn Tri Phương” – giải B năm 2013.
Môi trường đặc thù
Chính quyền:
| 1/16

Preview text:

Giới thiệu nhà hát tuồng việt nam
Quá trình hình thành và phát triển:
Nhà hát Tuồng Việt Nam, tiền thân là Đoàn Tuồng Bắc vốn đã có từ lâu đời và biểu
diễn phổ biến khá rộng rãi chẳng những ở các vùng nông thôn mà ở các đô thị lớn
ở phái bắc như: Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng, Nam Định,Vinh …Và những rạp
Tuồng có tên tuổi như: Quảng Lạc, Sán Nhiên Đài quanh năm diễn Tuồng.
Do điều kiện vật chất của xã hội phong kiến lâu đời kiểu Á Đông đã ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển của sân khấu Tuồng. Nghệ thuật Tuồng và nghệ sĩ Tuồng luôn bị
chế độ thực dân, phong kiến khinh bạc, coi “đào, kép “ là “ xướng ca vô loài “; đặt
địa vị ca hát dưới kẻ cùng đinh. Ây thế mà nó vẫn sống, vẫn tồn tại. Nó sống được
chính là nhờ bàn tay đum bọc và yêu thích vô hạn của nhân dân; nhờ các thế hệ
diễn viên “ Sinh vì nghệ, tử vì nghệ” ; nhờ có đường lối văn hoá, văn nghệ của
Đảng mới có đủ sức nhiệm mầu để các thế hệ diên viên nối tiếp nhau chuyển tải
những lớp phù sa bồi đắp nên mảnh đất phì nhiêu của nghệ thuật sân khấu Tuồng.
Năm 1954, hoà bình được lập lại, ngoài các đoàn Văn công kháng chiến và miền
Nam ra tập kết, phong trào hát Tuồng phát triển, làm giầu thêm hương sắc cho
vườn hoa nghệ thuật dân tộc. Trước tình hình phát triển của phong trào Tuồng và vị
trí của nghệ thuật sân khấu Tuồng Bắc, đòi hỏi phải có một đơn vị nghệ thuật mẫu
mực về tổ chức, tiêu biểu về phong cách. Do đó, năm 1959 Bộ Văn hoá quyết định
thành lập Đoàn Tuồng Bắc. Được tin này, các nghệ nhân Tuồng đang nằm rải rác ở
các tỉnh: Nghệ An, Thanh Hoá, Nam Định, Bắc Ninh, Thái Bình, Hải Hưng, Hải
Phòng, Hà Tây hướng về Hà Nội tham gia vào việc thành lập Đoàn Tuồng Bắc.
Lúc đầu, Đoàn chỉ có 15 người, nơi ăn, chốn ở chưa có, phải ở nhờ nhà dân và tập
luyện trong chùa Hà. Trong bước đi ban đầu, Đoàn được sự giúp đỡ thân tình của
Đội Tuồng Liên khu 5 và một ý chí phấn đấu: “Tất cả vì sự nghiệp Tuồng” của các
nghệ nhân: Quang Tốn, Bạch Trà, Doãn Khoái, Đình Nhi, Ngọc Phùng, Ngọc
Đống,Văn Kính, Văn Thành, Chu Lượng, Mẫn Thu, Minh Thịnh, Diễm Lan, Chu
Hải, Hiệp Tắc, Đắc Hán, Hoàng Bản, Văn Tuy, Như Tường, Lê Bá Tùng, Ngọc
Như, Ngọc Duyên, Đoàn Thị Ngà,Thanh Hảo, Hữu Điều, Bà Can, Bà Thứ…
Nơi chùa Hà thinh không vắng lặng, từ lâu chỉ có tiếng cầu kinh, niệm phật trong
tiếng mõ đều đều, đến nay tiếng trống Tuồng đã làm thức tỉnh, lay động cõi thâm
sâu của từng pho tượng Phật. Số phận nhân vật trong các tích Tuồng như thắp sáng
hồn người trong cõi nhân gian. Những vai mẫu : Đào Phi Phụng, Đắc Kỷ, Trại
Ba,Trương Phi, Triệu Tử Long, Xuân Đào cắt thịt… được khai thác, tập luyện lại
kỹ càng. Những vở Tuồng cổ : Đào Tam Xuân loạn trào, Mục Quế Anh dâng cây,
Ngũ Viên Thiệu được dàn dựng. Đây là những vở Tuồng đầu tiên đến với khán giả
trong buổi sơ khai thành lập Đoàn Tuồng Bắc.
Năm 1962, vở Tuồng: “Tiếng gọi non sông”tham gia Hội diễn Sân khấu chuyên
nghiệp toàn quốc đạt tấm Huy chương vàng đầu tiên đã đánh dấu một bước đi
quan trọng trong buổi đầu thành lập Đoàn.
Nối tiếp thành quả trên, Đoàn tiếp tục dàn dựng vở Tuồng lịch sử “ An Tư công
chúa” tác giả Tống Phước Phổ, đạo diễn Vĩnh Phô – Đình Phong, âm nhạc Lê
Cường. Vở Tuồng có nội dung phong phú, mang đậm đặc chất Tuồng, khán giả
nhiệt thành ca ngợi. Thắng lợi này đã tạo cho các nghệ sĩ một khí thế mới, một tinh
thần phấn chấn, tin tưởng để tiếp tục gìn giữ, nghiên cứu ,tìm tòi, sáng tạo nên
những tác phẩm nghệ thuật Tuồng có giá trị.
Cuối năm 1966 Nhà hát được bổ xung thêm các nghệ sĩ nổi tiếng từ Đoàn Tuồng
Kim Lan Hà Nội: Ba Tuyên, Đắc Nhã, Hoàng Phụng, Hồng Nhung, Sáu Tấn…
Những vở Tuồng xuất sắc lại tiếp tục ra đời từ những vùng sơ tán Hùng Trì -Lạc
Đạo – Hưng Yên, trong cuộc chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ ra miền Bắc.
Đặc biệt là vở Tuồng “Đề Thám”, một công trình sáng tạo tập thể, dưới sự chỉ đạo
của Đoàn trưởng – hoạ sĩ Nguyễn Hồng và đạo diễn Ngọc Phương đã để lại một
dấu ấn quan trọng trong nhiệm vụ xây dựng và phát triển sự nghiệp Tuồng Bắc.
Trải qua một chặng đường 60 năm kế thừa, gìn giữ và phát huy nghệ thuật sân
khấu Tuồng truyền thống của dân tộc, Nhà hát Tuồng Việt Nam đã tập trung sức
lực và trí tuệ của các tác giả, đạo diễn, nghệ nhân , nghệ sĩ, diễn viên khai thác, dàn
dựng 88 tác phẩm sân khấu Tuồng thuộc nhiều đề tài : Truyền thống, lịch sử, dân
gian, hiện đại, nước ngoài. Trong đó có hàng loạt các vở Tuồng cổ mẫu mực: Sơn
Hậu, Đào Tam Xuân loạn trào, Triệu Đình Long cứu chúa, Đào Phi Phụng, Ngoại
Tổ dâng đầu, Phụng Nghi đình, Nghêu-Sò-ốc-Hến, Mục Quế Anh dâng cây, Nhất
Điện thị hàm oan, Thất hiền quyến Trương Đồ Nhục, Lý Phụng Đình…
Ngoài các vở Tuồng cổ, hàng chục trích đoạn đặc sắc cũng được chọn lọc, khai
thác, phục hồi: Ôn Đình chém Tá, Đào Tam Xuân đề cờ, Châu Sáng qua sông,
Châu Sương cấy râu, Hồ Nguyệt Cô hoá cáo, Xuân Đào cắt thịt, Triệu Tử đoạt A
Đẩu, Nữ Vương xé nộm, Trụ Vương dỡn tượng, Ông già cõng vợ đi xem hội…
được đầu tư, tinh luyện để biểu diễn, nghiên cứu giới thiệu nghệ thuật và truyền
dạy cho các thế hệ diễn viên trẻ. Những tác phẩm Tuồng cổ, những trích đoạn mẫu
mực đó là cây đại thụ lưu giữ và chuyển tải nguồn nhựa sống dồi dào của nghệ
thuật Tuồng đến muôn triệu tâm hồn người Việt Nam và khán giả trên khắp năm châu, bốn biển.
Để phù hợp với sự phát triển của xã hội, sân khấu Tuồng luôn có chiều hướng
vươn lên, vượt qua những định kiến:” Tuồng sản sinh từ chế độ phong kiến, phục
vụ cho chế độ phong kiến thì sân khấu Tuồng thuộc về bảo tàng như đền đài , lăng
tẩm.” Những vở Tuồng nói về cuộc đấu tranh gìn giữ và bảo vệ đất nước, hình
tượng các anh hùng dân tộc, danh nhân đất nước được đưa lên sân khấu Tuồng như
: An Tư công chúa,Trần Hưng Đạo, Đô đốc Bùi Thị Xuân, Lê Lợi, Đề Thám, Suối
Đất Hoa, Chu Văn An, Bà Ba cai Vàng, Tình mẹ, Không còn đường nào khác,
Huyền Trân công chúa, Nguyễn Tri Phương, Phũ Mó Thõn Cảnh Phỳc … Những
vở Tuồng đề cao nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, phê phán những thói hư, tật sấu trong xã
hội: Chiếc bóng oan khiên, Phương thuốc thần kỳ, Mối tình của một nhà sư, Tiếng
trống kêu oan, Rừng thức,đã thắp sáng tinh thần dân tộc, động viên , thúc đẩy hàng
triệu trái tim người dân Việt Nam chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước. Để
tiếp cận với những tác phẩm sân khấu bất hủ của nhân loại, Nhà hát Tuồng Việt
Nam còn mạnh dạn dàn dựng thử nghiệm những kịch bản: ÔTello, Rômêô-Juyliet,
Lơ-xít, Giông tố, Tarát BumBa, Êđíp làm vua,Từ đó rút ra những bài học bổ ích,
nâng cao kiến thức, mở rộng tầm nhìn cho các nghệ sĩ; làm giầu thêm, phong phú
thêm vốn liếng nghệ thuật Tuồng phục vụ quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế.
Thành tích đạt được
Nhà hát Tuồng đã được nhà nước tặng thưởng
Huân chương độc lập hạng Nhất
Huân chương Độc lập Hạng nhì
– Huân chương Độc lập Hạng Ba.
– Huân chương Lao động Hạng Nhất, Hạng Nhì, Hạng Ba.
– Huy chương Vì sự nghiệp sân khấu Việt Nam cho các NSND, NSUT,
nghệ sỹ xuất sắc của Nhà hát
Nhà hát Tuồng đã được nhà nước tặng thưởng:
– Huân chương Độc lập Hạng Ba.
– Huân chương Lao động Hạng Nhất, Hạng Nhì, Hạng Ba.
– Huy chương Vì sự nghiệp sân khấu Việt Nam cho các NSND, NSUT, nghệ sỹ xuất sắc của Nhà hát.
– 20 Huy chương vàng, bạc, giải thưởng cho các vở diễn tại Liên hoan, Hội diễn
Sân khấu chuyên nghiệp Toàn Quốc.
– 200 Huy chương vàng, bạc, giải thưởng cho các cá nhân nghệ sỹ.
– Nhà nước đã phong tặng danh hiệu: 9 NSND – 27 NSUT và nhiều nghệ sĩ tài năng trẻ.
Những vở diễn được tặng giải thưởng tại các Hội diễn và liên hoan Sân khấu chuyên nghiệp Toàn quốc:
– ”Tiếng gọi non sông” HUY CHƯƠNG VÀNG – Hội diễn SK chuyên nghiệp toàn quốc 1962.
– “Đề Thám” HUY CHƯƠNG VÀNG – Hội diễn SK chuyên nghiệp toàn quốc 1970.
– “Suối đất hoa” HUY CHƯƠNG VÀNG – Hội diễn SK chuyên nghiệp toàn quốc1980.
– “Hoàng hôn đen” HUY CHƯƠNG VÀNG – Hội diễn SK chuyên nghiệp toàn quốc 1990.
– “Triệu Đình Long” Giải A – Hội diễn SK chuyên nghiệp toàn quốc 1990.
– “Chu Văn An” Giải A – Hội diễn SK chuyên nghiệp toàn quốc 1990.
– “Lý Phụng Đình” Giải A – Hội diễn SK chuyên nghiệp toàn quốc 1990.
– “Đào Phi Phụng” Giải thưởng Hội NSSK VN – 1993.
– “Ngoại Tổ dâng đầu” Giải thưởng Hội NSSK VN – 1994.
– “Trần Hưng Đạo” HUY CHƯƠNG BẠC – Hội diễn SK chuyên nghiệp toàn
quốc 1995 – Giải thưởng Hội NSSK VN – 1995
– “Lý Chiêu Hoàng” HUY CHƯƠNG VÀNG – Liên hoan SK nhỏ toàn quốc 1996.
– “Trương Đồ Nhục” Giải B – SK băng hình 1997.
– “Huyền Trân Công chúa” Giải thưởng Hội NSSK VN – 1998.
– “Hồ Quý Ly” HUY CHƯƠNG VÀNG – Hội diễn SK chuyên nghiệp toàn quốc 1990.
– “Rừng Thức” – Huy chương vàng năm 2005.
– “Triệu Đình Long” – Huy chương vàng năm 2008.
– “Đào Tam Xuân” – Huy chương vàng năm 2008.
– “Huyền Trân Công Chúa” – Huy chương vàng năm 2011.
– Cuộc thi diễn tấu dàn nhạc dân tộc toàn quốc – Huy chương vàng năm 2012.
– “Nguyễn Tri Phương” – giải B năm 2013.
Môi trường đặc thù Chính quyền: