



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61591627
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ *****
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Đề tài : “ Lịch sử phát triển của phép biện chứng”
Lớp: Kĩ thuật Nhiệt 02 Khóa: 65
Giảng viên hướng dẫn:
Nhóm sinh viên thực hiện: Họ và tên MSSV Mã lớp Phan Nguyên Thưởng 20204424 123849 Nguyễn Thanh Sơn 20204499 123849 Bùi Văn Nhật 20204378 123849 Lê Bá Duy 20204473 123849 Hà Nội,2021 lOMoAR cPSD| 61591627
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ *****
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Đề tài : “ Lịch sử phát triển của phép biện chứng”
Lớp: Kĩ thuật Nhiệt 02 Khóa: 65
Giảng viên hướng dẫn:
Nhóm sinh viên thực hiện: Họ và tên MSSV Mã lớp Phan Nguyên Thưởng 20204424 123849 Nguyễn Thanh Sơn 20204499 123849 Bùi Văn Nhật 20204378 123849 Lê Bá Duy 20204473 123849 Hà Nội,2021 lOMoAR cPSD| 61591627
BẢN PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
- Người phân chia và tổng hợp chính, bìa và nội dung: Nguyễn Thanh Sơn-20204499
• Lí do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu, phạm vi và đối tượng nghiên cứu, định
hướng phương pháp nghiên cứu, bố cục bài tiểu luận, kết luận.
• Phân tích lịch sử phát triển triết học cổ đại Hy Lạp
• Phân tích phép biện chứng duy vật trong sự vận động và sự phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay
- Người phụ trách nội dung: Phan Nguyên Thưởng- 20204424
• Lí do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu, phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
• Phân tích Triết học Trung Hoa cổ đại, Triết học Ấn Độ cổ đại
- Người phụ trách nội dung: Bùi Văn Nhật- 20204378
• Lí do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu, phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
• Phân tích Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác-xít
- Người phụ trách nội dung: Lê Bá Duy- 20204473
• Lí do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu, phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
• Phân tích phép biện chứng Tây Âu thế kỉ XIV- XVIII và phép biện chứng cổ điển Đức. MỤC LỤC
Phần I: Mở đầu.....................................................................................................................................4
1. Lí do chọn đề tài.......................................................................................................4
2. Mục đích nghiên cứu................................................................................................4
3. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu..........................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................5
5. Bố cục bài tiểu luận gồm..........................................................................................5
Phần II: Phân tích lịch sử phát triển phép biện chứng...........................................................5
CHƯƠNG I: Các phép biện chứng trước triết học Mác........................................................5
1. Phép biện chứng tự phát ngây thơ thời cổ đại.....................................................5 1.1 Triết học Trung Hoa cổ
đại....................................................................................5
1.2 Triết học Ấn Độ cổ đại......................................................................................8 lOMoAR cPSD| 61591627
1.3 Triết học Hy Lạp cổ đại...................................................................................10
2. Phép biện chứng Tây Âu thế kỉ XIV- XVIII.......................................................15
3. Phép biện chứng cổ điển Đức..............................................................................15
CHƯƠNG II: Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác-xít.........................18
1. Điều kiện kinh tế-xã hội cho sự ra đười các phép duy vật biện chứng.............18
2. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật....................................................18
CHƯƠNG III: Phép biện chứng duy vật trong sự vận động và sự phát triển của nền
kinh tế nước ta hiện nay..................................................................................................................19
1. Cơ sở để Đảng ta đề ra đường lối đổi mới.............................................................20
1.1 Kinh nghiệm tiến hành đổi mới của Đảng Cộng sản Liên Xô.............................20
1.2 Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam...............................21
2. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp đổi mới.......................22
3. Giải quyết những mối quan hệ biện chứng trong công cuộc đổi mới..................23
Kết luận.................................................................................................................................................24
Tài liệu tham khảo.............................................................................................................................25 Phần I: Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử phát triển của nhân loại trải qua hàng nghìn năm cho đến nay chúng ta vẫn
luôn đau đáu đi tìm bản chất, nguồn gốc của thế giới này và từ đó đặt ra câu hỏi đó là liệu
rằng chúng ta có thể nhận thức được thế giới này hay không. Đó cũng chinh là nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến sự ra đời của môn học khoa học đầu tiên trên thế giới đó chính là Triết
học. Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ được
thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những triết học đầu tiên trong lịch sử xuất hiện vào
khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở Ấn Độ cổ đại, Trung quốc cổ đại, Hy Lạp và
La Mã cổ đại và ở các nước khác. Triết học được xem là một hình thái ý thức xã hội, là học
thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về thái độ của con người
đối với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Những nhân tài kiệt xuất trong lịch sử nhân loại trước khi họ bước vào một nghành khoa
học cụ thể nào đó thì hầu hết họ chinh là các triết gia nổi tiếng như: Isaac Newton, Pythago,
René Descartes, Fourier,…Điều đó cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của triết học trong
đời sống xã hội góp phần định hình quy luật của xã hội và quy luật của thế giới. Nhưng
lịch sử lại cho chúng ta thấy rằng không chỉ có một mà có nhiều trường phai triết học khác
nhau xuất hiện như: chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vât, hay trường phái khả tri luận,
bất khả tri luận. Dù là trường phái nào thì họ đều xem xét các quan điểm của triết học theo
hai phương pháp chính đó là phép biện chứng và phép siêu hình. Với mong muốn tìm hiểu lOMoAR cPSD| 61591627
và nâng cao khả năng nhận thức của mình về triết học nhóm em đã quyết định chọn đề tài
đó chính là tìm hiểu về “ Lịch sử phát triển của phép biện chứng”. Bới vì trong phép biện
chứng nhóm em nhận thấy rằng nó thể hiện sự đúng đắn trong việc nhìn nhận thế giới mà
bọn em có thể áp dụng những quy luật đó vào chính trong cuộc sống hằng ngày của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài về “ Lịch sử phát triển của phép biện chứng” quả thực không phải là một chủ đề
mới, nhưng nó vẫn được nhắc đến về tính đúng đắn của phương pháp luận biện chứng.
Nhóm em tìm hiểu về đề tài này nhằm mục đích trau dồi, mở mang tri thức về triết học,
qua đây có thể áp dụng những kiến thức đã tìm hiểu vào trong cuộc sống của mình đó chính
là khi xem xét các sự vật, hiện tượng xảy ra phải đặt chúng trong các mối quan hệ ràng
buộc và quy định lẫn nhau.
3. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài trên nhóm em sẽ tìm hiểu về phép biện chứng trước khi triết học Mác-Lênin ra
đời và phép biện chứng theo quan điểm của triết học Mác-Lênin. Về phép biện chứng trước
khi triết học Mác ra đời, nhóm em sẽ tìm hiểu về phép biện chứng tự phát ngây thơ thời cổ
đại, phép biện chứng Tây Âu thế kỉ XIV-XVIII và phép biện chứng cổ điển Đức.
Qua đó làm nổi bật lên phép biện chứng duy vật của triết học Mác-Lênin đó vẫn là quan
điểm đúng đắn nhất cho tới ngày nay và ứng dụng của phép biện chứng đó vào thực tế đời
sống xã hội con người nói chung và sinh viên nói riêng.
4. Phương pháp nghiên cứu :
Sử dụng phương pháp : phân tích, tổng hợp, đánh giá.., bài tiểu luận đã sử dụng các phương
pháp trên để tìm kiếm, phân tích vấn đề.
5. Bố cục bài tiểu luận: gồm 3 chương
• Chương I: Các phép biện chứng trước triết học Mác
• Chương II: Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác-xít
• Chương III: Phép biện chứng duy vật trong sự vận động và sự phát
triển của nền kinh tế nước ta hiện nay
CHƯƠNG I: Các phép biện chứng trước triết học Mác
1. Phép biện chứng tự phát ngây thơ thời cổ đại 1.1
Triết học Trung hoa cổ đại 1.1.1 Hoàn cảnh ra đời:
1)Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn có hai miền khác nhau. lOMoAR cPSD| 61591627
• Miền Bắc có lưu vực sông Hoàng Hà, xa biển, khí hậu lạnh, đất đai khô
khan, cây cỏ thưa thớt, sản vật hiếm hoi.
• Miền Nam có lưu vực sông Dương Tử khí hậu ấm áp, cây cối xanh tươi, sản vật phong phú.
2) Trung Hoa cổ đại có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ III tr.CN kéo dài tới tận thế kỷIII
tr. CN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa bằng uy quyền bạo lực mở đầu
thời kỳ phong kiến tập quyền.
Trong khoảng 2000 năm lịch sử ấy, lịch sử Trung Hoa được phân chia làm hai thời kỳ lớn:
Thời kỳ từ thế kỷ IX tr. CN về trước và thời kỳ từ thế kỷ VIII đến cuối thế kỷ III tr. CN.
2.1. Thời kỳ thứ nhất có các triều đại nhà Hạ, nhà Thương và Tây Chu.
Theo các văn bản cổ, nhà Hạ ra đời khoảng thế kỷ XXI tr. CN, là cái mốc đánh dấu sự mở
đầu cho chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Hoa.
Khoảng nửa đầu thế kỷ XVII tr. CN, người đứng đầu bộ tộc Thương là Thành Thang đã lật
đổ Vua Kiệt nhà Hạ, lập nên nhà Thương đặt đô ở đất Bạc, tỉnh Hà Nam bây giờ. Đến thế
kỷ XIV tr. CN, Bàn Canh dời đô về đất Ân thuộc huyện An Dương Hà Nam ngày nay. Vì
vậy, nhà Thương còn gọi là nhà Ân.
Vào khoảng thế kỷ XI tr. CN, Chu Vũ Vương, con Chu Văn Vương đã giết Vua Trụ nhà
Thương lập ra nhà Chu (giai đoạn đầu của nhà Chu là Tây Chu), đưa chế độ nô lệ ở Trung Hoa lên đỉnh cao.
Trong thời kỳ thứ nhất này, những tư tưởng triết học đã xuất hiện, tuy chưa đạt tới mức là
một hệ thống. Thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí là thế giới
quan thống trị trong đời sống tinh thần xã hội Trung Hoa bấy giờ. Tư tưởng triết học thời
kỳ này đã gắn chặt thần quyền và thế quyền và ngay từ đầu nó đã lý giải sự liên hệ mật
thiết giữa đời sống chính trị – xã hội với lĩnh vực đạo đức luân lý.
Đồng thời, thời kỳ này đã xuất hiện những quan niệm có tính chất duy vật mộc mạc, những
tư tưởng vô thần tiến bộ đối lập lại chủ nghĩa duy tâm, thần bí thống trị đương thời.
2.2. Thời kỳ thứ hai là thời kỳ Đông Chu (thường gọi là thời kỳ Xuân Thu – Chiến
Quốc), là thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến.
Dưới thời Tây Chu, đất đai thuộc về nhà Vua thì dưới thời Đông Chu quyền sở hữu tối cao
về đất đai thuộc tầng lớp địa chủ và chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất hình thành. Từ đó,
sự phân hóa sang hèn dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện.
Xã hội lúc này ở vào tình trạng hết sức đảo lộn. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế
lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên.
Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ thị tộc nhà Chu, hình thành xã
hội phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong
kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển. lOMoAR cPSD| 61591627
Sự biến chuyển sôi động đó của thời đại đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ điểm, những
trung tâm các “kẻ sĩ” luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những hình mẫu của một xã hội trong tương lai.
Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “Bách gia minh
tranh” (trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh các nhà tư tưởng lớn và
hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh.
Đặc điểm các trường phái này là luôn lấy con người và xã hội làm trung tâm của sự
nghiên cứu, có xu hướng chung là giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị – đạo
đức của xã hội.
Theo Lưu Hâm (đời Tây Hán), Trung Hoa thời kỳ này có chín trường phái triết học chính
(gọi là Cửu lưu hoặc Cửu gia) là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Âm Dương gia, Danh gia,
Pháp gia, Nông gia, Tung hoành gia, Tạp gia.
Có thể nói, trừ Phật giáo được du nhập từ Ấn Độ sau này, các trường phái triết học được
hình thành vào thời Xuân Thu – Chiến Quốc được bổ sung hoàn thiện qua nhiều giai đoạn
lịch sử trung cổ, đã tồn tại trong suốt quá trình phát triển của lịch sử tư tưởng Trung Hoa
cho tới thời cận đại.
3)Đặc điểm phép biện chứng của triết học Trung Hoa thời cổ đại
3.1 Ra đời trên cơ sở kinh tế – xã hội Đông Chu, so sánh với triết học phương Tây và Ấn
Độ cùng thời, triết học Trung Hoa cổ, trung đại có những đặc điểm nổi bật.
Thứ nhất, nhấn mạnh tinh thần nhân văn.
Trong tư tưởng triết học cổ, trung đại Trung Hoa, các loại tư tưởng liên quan đến con
người như triết học nhân sinh, triết học đạo đức, triết học chính trị, triết học lịch sử phát
triển, còn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.
Thứ hai, chú trọng chính trị đạo đức.
Suốt mấy ngàn năm lịch sử các triết gia Trung Hoa đều theo đuổi vương quốc luân lý
đạo đức, họ xem việc thực hành đạo đức như là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một
đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Có thể nói, đây chính là nguyên nhân
triết học dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng của Trung Hoa.
Thứ ba, nhấn mạnh sự hài hoà thống nhất giữa tự nhiên và xã hội.
Khi khảo cứu các vận động của tự nhiên, xã hội và nhân sinh, đa số các nhà triết học
thời Tiền Tần đều nhấn mạnh sự hài hòa thống nhất giữa các mặt đối lập, coi trọng tính
đồng nhất của các mối liên hệ tương hỗ của các khái niệm, coi việc điều hoà mâu thuẫn là
mục tiêu cuối cùng để giải quyết vấn đề. Nho gia, Đạo gia, Phật giáo… đều phản đối cái
“thái quá” và cái “bất cập”. Tính tổng hợp và liên hệ của các phạm trù “thiên nhân hợp lOMoAR cPSD| 61591627
nhất”, “tri hành hợp nhất”, “thể dụng như nhất”, “tâm vật dung hợp”… đã thể hiện đặc
điểm hài hòa thống nhất của triết học trung, cổ đại Trung Hoa.
Thứ tư là tư duy trực giác.
Đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy của triết học cổ, trung đại Trung Hoa là
nhận thức trực giác, tức là có trong sự cảm nhận hay thể nghiệm. Cảm nhận tức là đặt mình
giữa đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí, ta và vật ăn khớp, khơi dậy linh cảm, quán xuyến
nhiều chiều trong chốc lát, từ đó mà nắm bản thể trừu tượng.
Hầu hết các nhà tư tưởng triết học Trung Hoa đều quen phương thức tư duy trực quan
thể nghiệm lâu dài, bỗng chốc giác ngộ. Phương thức tư duy trực giác đặc biệt coi trọng
tác dụng của cái tâm, coi tâm là gốc rễ của nhận thức, “lấy tâm để bao quát vật”. Cái gọi là
“đến tận cùng chân lý” của Đạo gia, Phật giáo, Lý học, v.v. nặng về ám thị, chỉ dựa vào
trực giác mà cảm nhận, nên thiếu sự chứng minh rành rọt.
Vì vậy, các khái niệm và phạm trù chỉ là trực giác, thiếu suy luận lô-gíc, làm cho triết
học Trung Hoa cổ đại thiếu đi những phương pháp cần thiết để xây dựng một hệ thống lý luận khoa học.
3.2 Nhận định về triết học Trung Hoa thời cổ, trung đại:
Nền triết học Trung Hoa cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm hữu nô lệ
lên xã hội phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm hàng đầu của các nhà tư
tưởng Trung Hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính trị – đạo đức của xã hội.
Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải thích và đưa ra những biện pháp giải
quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn, trong việc
xác lập một trật tự xã hội theo mô hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền
theo những giá trị chuẩn mực chính trị – đạo đức phong kiến phương Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung Hoa thời cổ
còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc về sự biến dịch của vũ
trụ. Những tư tưởng về Âm Dương, Ngũ hành tuy còn có những hạn chế nhất định, nhưng
đó là những triết lý đặc sắc mang tính chất duy vật và biện chứng của người Trung Hoa
thời cổ, đã có ảnh hưởng to lớn tới thế giới quan triết học sau này không những của người
Trung Hoa mà cả những nước chịu ảnh hưởng của nền triết học Trung Hoa.
1.2 Triết học Ấn Độ cổ đại 1.2.1 Hoàn cảnh ra đời:
Là một trong những hình thái ý thức xã hội, triết học Ấn Độ hình thành, phát triển và
nội dung, đặc điểm của nó tất yếu bị chi phối và phản ánh những điều kiện tự nhiên, điều
kiện khí hậu đa dạng, khắc nghiệt cùng với sự quy định và ảnh hưởng sâu sắc bởi điều kiên
lịch sử - xã hội Ấn Độ khá đặc biệt thời cổ đại. Đó là chế độ nô lệ mang tínḥ chất gia trưởng lOMoAR cPSD| 61591627
hà khắc, lại bị kìm hãm bởi công xã nông thôn và chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội - chế
độ varna, hết sức khắt khe. Quá trình hình thành, nội dung và đăc điểṃ của triết học Ấn
Độ còn dựa trên sự phát triển của nền văn minh Ấn Độ cổ, từ thời kỳ văn minh sông Ấn
(thiên niên kỷ III tr. CN đến thiên kỷ II tr. CN) qua nền văn minh Veda Sử thi (khoảng thế
kỷ XV tr. CN - thế kỷ VI tr. CN), đến thời kỳ Phât giáo - Bàlamôṇ giáo (thế kỷ VI tr. CN -
thế kỷ III sau CN), với thành tựu khoa học và văn hóa nổi bật trên các lĩnh vực như: thiên
văn học, lịch pháp, toán học, y học, văn học, nghệ thuật, kiến
trúc... Tất cả luôn tác động và ghi dấu ấn sâu đậm đến nội dung, đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại.
Trên cơ sở điều kiện và tiền đề đó, triết học Ấn Độ cổ đại đã hình thành, phát triển và
trải qua hai thời kỳ: Thời kỳ Veda - Sử thi (từ thế kỷ XV trước CN đến thế kỷ VI trước CN)
triết học Ấn Độ được thể hiện trong kinh Veda, Upanishad, trong Sử thi cổ Ấn Độ
Ràmàyana và Mahàbhàrata, trong đó thế giới quan thần thoại tôn giáo mang tính chất đa
thần tự nhiên chiếm địa vị thống trị. Và sau đó là sự biến chuyển từ thế giới quan đa thần
sang nhất thần và cuối cùng hòa trộn với nó là thuyết nhất nguyên, với quan niệm về “Tinh
thần vũ trụ tối cao” là bản thể của thế giới, đánh dấu bước chuyển từ tư duy thần thoại tôn
giáo sang tư duy triết học. Thời kỳ Cổ điển hay thời kỳ Phật giáo - Bàlamôn giáo (từ thế
kỷ VI trước CN đến thế kỷ III sau C.N) là thời kỳ hình thành các trường phái triết học lớn
như: Sànkhya, Vais’esika, Nyàya, Yoga, Mimàmsà và Vedànta, gọi là các darsanas hay hệ
thống triết học chính thống (as’tika), và các môn phái Jaina, Lokàyata và Phật giáo.., gọi
là hệ thống triết học không chính thống (nas’tika), đi sâu lý giải về thế giới và nhân sinh
hệ thống chặt chẽ hơn.
1.2.2 Đặc điểm của phép biện chứng trong triết học Ấn Độ cổ đại
1. Triết học Ấn Độ quan tâm đến nhiều vấn đề, nhưng vấn đề chủ yếu là vấn đề conngười,
bởi vậy, nó là triết lý nhân sinh. Đặc điểm đặc biệt trong triết học Ấn Độ là nó phân con
người thành những yếu tố cấu thành, trong đó cái tâm có ý nghĩa quyết định, từ đó hướng
chủ yếu của nó là đi sâu nghiên cứu, phân tích cái tâm của con người. Triết học Ấn Độ cho
rằng muốn hiểu được thế giới thế giới trước hết phải hiểu mình đã và khi đã hiểu mình thì
hiểu tất cả vì bản thể vũ trụ có trong mỗi con người.
2. Mục đích của triết học Ấn Độ là để đạt đến sự giải thoát, trừ bỏ chủ nghĩa duy vật.
Vớimục đích giải thoát nên mỗi hệ thống triết học Ấn Độ là những con đường khác nhau
để đi đến giải thoát. Như vậy, triết học Ấn Độ giống như ngón tay chỉ mặt trăng, như con
đò để đưa lữ khách qua sông. Do đó, triết học Ấn Độ là triết lý sống, nó gắn liền với tôn
giáo, tâm linh, là triết học của tôn giáo.
3. Nếu như nhận thức trong triết học phương Tây nhìn chung bắt đầu từ học hỏi, tích
lũykiến thức và đi theo con đường từ đơn giản đến phức tạp, từ hiện tượng đến bản chất,
từ cảm tính đến lý tính... thì nhận thức trong triết học Ấn Độ lại bắt đầu từ luân lý đạo đức
(thanh lọc thân tâm), sau đó để tập trung tư tưởng (định), rồi mới đến tuệ. Như vậy, trong
triết học Ấn Độ, nhận thức gắn liền với đạo đức. Trong nhận thức, triết học Ấn Độ lại đề
cao việc tự nhận thức, tự hiểu. Điều này quy định tính chất trực nhận, trức giác trong triết lOMoAR cPSD| 61591627
học Ấn Độ. Từ đó, một lôgic kéo theo là công cụ, phương tiện nhận thức trong triết học
Ấn Độ lại nghiêng về ẩn dụ hình ảnh; trong khi đó, công cụ nhận thức của triết học phương
Tây lại chủ yếu là khái niệm.
4. Triết học Ấn Độ vừa mang tính thống nhất, vừa mang tính đa dạng. Thống nhất ở chỗdù
trực tiếp hay gián tiếp nó đều bị chi phối bởi quan niệm đồng nhất thể của Upanishad; hầu
hết các trường phái đều hướng đến giải thoát; một số nguyên lý chung có ở nhiều trường
phái. Đa dạng ở chỗ triết học Ấn Độ chia thành nhiều khuynh hướng, nhiều nhánh nhỏ; trừ
chủ nghĩa duy vật, mỗi trường phái là những con đường khác nhau để đi đến giải thoát;
nhiều vấn đề khác nhau được đặt ra ở những trường phái khác nhau.
Trong thời kỳ này toàn bộ hệ thống triết học Ấn Độ được chia thành 9 trường phái:
• Sáu trường phái “chính thống” là: - Vedanta - Mimansa- Samkhya - Yoga - Vaisesika - Nyaya
• Ba trường phái “không chính thống” là: - Lokayata - Jaina - Buddha (Phật giáo)
5. Sự phát triển của triết học Ấn Độ là sự đấu tranh giữa các trường phái và suy cho cùngnó
phản ánh nhu cầu của đời sống xã hội trong đó tôn giáo là trung tâm điểm. Mặt khác, sự
phát triển của triết học Ấn Độ chủ yếu đi theo hướng tuần tự thay đổi về lượng, tức những
nguyên lý nền tảng đã được đặt ra từ thời cổ xưa, về sau chỉ phát triển, bổ sung, hoàn thiện.
6. Biện chứng trong triết học Ấn Độ mang tính chất ngây thơ, duy tâm; sự phát triển đitheo
vòng tròn, tuần hoàn. Điều này do công xã nông thôn biệt lập, khép kín ở Ấn Độ quy định.
7. Khác với triết học Trung Quốc, tư duy trong triết học Ấn Độ không trọng cái cụ thể,hữu
hạn; họ muốn vượt cái này để đi đến cái tuyệt đối.
Tóm lại, những đặc điểm cơ bản trên của triết học Ấn Độ là do điều kiện tự nhiên, kinh
tế - xã hội của Ấn Độ cổ đại quy định. Do các điều kiện tự nhiên, về con người, về xã hội,
về kinh tế, chính trị, văn hóa và tôn giáo, tâm linh, nền triết học Ấn Độ đã trải qua nhiều
bước thăng trầm, tạo nên nét đặc sắc mang bản chất rất Ấn Độ, rất phương Đông. lOMoAR cPSD| 61591627
1.3 Khái quát lịch sử triết học duy vật Hy Lạp cổ đại 1.3.1 :
Điều kiện kinh tế, văn hóa – xã hội của Hy lạp cổ đại :
1.3.1.1 : Điều kiện về địa lý :
Hy Lạp cổ đại là một lãnh thổ rộng lớn bao gồm khu vực miền Nam bán đảo Bancăng
(thuộc Châu Âu), nhiều hòn đảo nằm trên biển Êgiê và cả một vùng rộng lớn ở ven biển
bán đảo Tiểu á. Yếu tố địa lý tự nhiên này đã tạo điều kiện cơ bản để nền nông nghiệp, thủ
công nghiệp, thương nghiệp Hy Lạp cổ đại phát triển từ rất sớm, ngoài ra Hy lạp cổ đại còn
là đầu mối giao thông đường biển quan trọng và thuận lợi với các nước khác trên thế giới.
Khí hậu ở Hy Lạp quanh năm ấm áp thuận lợi cho du lịch và phát triển kinh tế.
1.3.1.2 : Điều kiện về khoa học :
Các ngành về khoa học như toán học, vật lý học, thiên văn học trong xã hội Hy Lạp
cổ đại phát triển mạnh mẽ gắn liền với tên tuổi các nhà khoa học nổi tiếng như : Talet, Pitago,Ơclit, Ácximet…
1.3.1.3 : Điều kiện về kinh tế :
Xã hội chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp xuất hiện vào thế kỷ X tr.CN và phát triển mạnh
vào thế kỷ VIII tr.CN. Đến thế kỷ thứ III sau CN, Athen trở thành trung tâm kinh tế của Hy
Lạp cổ đại và của Châu Âu với sự phát triển của thương nghiệp, thủ công nghiệp và nông nghiệp.
1.3.1.4 : Điều kiện về văn hóa, nghệ thuật :
Nhiều công trình nghệ thuật, điêu khắc, hội họa, văn học ( thần thoại Hy Lạp) phát
triển đạt trình độ cao, đã biến Athen trở thành trung tâm văn hóa của Hy Lạp cổ đại và cái
nôi của triết học Châu Âu.
1.3.2 : Hoàn cảnh ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại :
Từ thế kỉ XV đến IX tr.CN ,chế độ cộng sản nguyên thuỷ ở Hy Lạp cổ đại tan rã và
hình thành chế độ chiếm hữu nô lệ. Thời kì này đã xảy ra những biến động lớn về kinh tế
và thiết chế xã hội . Vào thế kỉ thứ V tr.CN ,đã xảy ra cuộc chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư ,
kết thúc bằng chiến thắng thuộc về Hy Lạp , chiến thắng này đã mở ra thời kì hưng thịnh
về kinh tế và chính trị của Hy Lạp cổ đại một liên minh gồm 300 quốc gia thành bang
được thành lập trong đó có Athen và SPAC là 2 thành bang hùng mạnh nhất. Thành bang lOMoAR cPSD| 61591627
Athen, nằm ở vùng đồng bằng Attien thuộc trung bộ Hy Lạp , có địa lý thuận lợi nên trở
thành một trung tâm kinh tế , văn hoá là thiết chế của chủ nô dân chủ Athen.
Thành bang Spác nằm ở vùng bình nguyên Iaconi , đất đai thích hợp đối với phát triển
nông nghiệp là dinh luỹ của chủ nô quí tộc cha truyền con nối, để thực hiện cai trị theo
truyền thống , Spác đã xây dựng 1 thiết chế nhà nước quân chủ , thực hiện sự áp bức rất
tàn khốc đối với nô lệ. Do sự cạnh tranh quyền bá chủ toàn Hy Lạp , nên đã xảy ra cuộc
chiến tranh tàn khốc Pôlôpône kéo dài hàng chục năm , và cuối cùng dẫn tới sự thất bại
nặng nề của Athen. Cuộc chiến tranh này đã làm đất nước Hy Lạp suy yếu cả về kinh tế và
chinh trị quân sự . Sau đó Hy Lạp bị nước Maxedoan xâm chiếm. Đến thế kỉ II sau CN, Hy
Lạp lại bị La mã xâm chiếm. Quá trình lịch sử đó gắn liền với sự hình thành và phát triển
kinh tế xã hội và tư tưởng triết học : triết học (philosophia theo tiếng hy lạp cổ là tình yêu
sự thông thái đồng thời xuất hiện ở cả Hy Lạp , Trung Quốc , Ấn Độ cổ đại vào khoảng thế
kỉ 6 tr.CN, sự ra đời của triết học đánh dấu một bước phát triển của tư tưởng nhân loại , từ
cảm nhận vũ trụ một cách trực quan đến thế giới quan dựa trên các tri thức mang tính khái
quát , trừu tượng hoá của tư duy .
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển trên cơ sở kinh tế đó là quyền sở hữu của chủ nô
đối với tư liệu sản xuất và người nô lệ. Vào thế kỉ IX -VII tr.CN, nền sản xuất chiếm hữu
nô lệ ở Hy Lạp cực kì phát triển . Đó là thời kì nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang
thời đại đồ sắt , với việc xuất hiện quan hệ tiền hàng đã làm cho thương mại và trao đổi
hàng hoá được tăng cường . Thời kì này người Hy Lạp đã có thể đóng những thuyền lớn
cho phép họ vượt biển Địa Trung Hải tìm đến những miền đất mới , nhờ đó lãnh thổ của
Hy Lạp và thuộc địa của nó được mở rộng , tạo điều kiện cho sự giao lưu văn hoá giữa các
dân tộc. Sự phát triển của sản xuất đã dẫn đến các quan hệ và tổ chức xã hội cũ bị đảo lộn
. Nếu như trước đây các tổ chức xã hội cũ như bộ tộc , bộ lạc mang tính cộng đồng cao ,
cuộc sống mỗi cá nhân hầu như hoàn toàn hoà tan vào cuộc sống cộng đồng , thì giờ đây
xuất hiện các tư tưởng tư hữu và sau đó là chế độ tư hữu về của cải , điều đó buộc mỗi
người cần ý thức và suy nghĩ hơn về bản thân mình , cần có một lập trường sống riêng phù
hợp với hoàn cảnh mới , nhu cầu đó đòi hỏi sự ra đời của triết học . Thời kì Hy Lạp cổ đại
là một thời kì của chế độ nô lệ, là một hình thức áp bức bóc lột tàn nhẫn , vô nhân đạo nhất
so với tất cả các hình thức bóc lột. Tuy nhiên chế độ áp bức bóc lột đó là cơ sở kinh tế trên lOMoAR cPSD| 61591627
con đường phát triển của Hy Lạp cổ đại, có chế độ đó giai cấp chủ nô mới có thể thoát ly
được cuộc đời lao động chân tay tạo ra sự phân công lao động .Từ sự phân công lao động
phát triển cho phép trong xã hội xuất hiện tầng lớp những người chuyên sống bằng lao
dộng trí óc từ đó tạo điều kiện nảy sinh các tri thức khoa học , nghệ thuật ,và triết học như
Ăngghen đã nhận xét trong tác phẩm Chống ĐuyRinh: phải có chế độ nô lệ mới xây dựng
được một qui mô phân công lao động lớn lao trong nông nghiệp , công nghiệp mới xây
dựng được Hy Lạp cổ đại giàu có , nếu không có chế độ nô lệ thì không có Hy Lạp và cũng
không có nền khoa học nghệ thuật ,và cả triết học. Ngoài ra , chính sự xuất hiện tri thức
khoa học sơ khai, như việc phát minh ra lịch một năm có 12 tháng , 365 ngày của Talet ,
những phát hiện của Talet và Pitago về toán học , hình học của Ơclit, vật lý của Acsimet đã
tạo điều kiện rất lớn thúc đẩy sự hình thành của triết học . Chúng làm cho các quan niệm
thần thoại truyền thống và các tôn giáo nguyên thuỷ vào khoảng thế kỉ VII-VI tr.CN đã
không còn đáp ứng và lý giải được những vấn đề mới của thế giới quan . những khám phá
khoa học đầu tiên của người cổ đại đã cho thấy sự giả dối của bức tranh vũ trụ quan và
nhân sinh quan của các tôn giáo và thần thoại , đòi hỏi con người phải có cách lý giải mới
về thế giới xung quanh và cuộc sống của mình .
Một số nhà nghiên cứu đã sai lầm khi nói rằng triết học có xuất phát từ bản thân thần
thoại bằng con đường phát triển nội tại của nó , tức là sự thay đổi hình thức của nó bởi sự
thay thế các hình ảnh , hình tượng bằng cấu trúc khái niệm và tư duy lôgic . Trên thực tế ,
mặc dù triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trên nền tảng thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ
nhưng khác với chúng , triết học là một dạng thế giới quan hoàn toàn mới dựa trên cơ sở
trí tuệ sâu sắc, những kết luận và tri thức triết học mang tính lý luận khái quát cao được
nảy sinh, đã đẩy các dạng thế giới quan khác trước chúng vào lĩnh vực hoạt động nghệ
thuật hay sáng tác dân gian. Sự nảy nở các trào lưu tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại có liên
hệ mật thiết và chịu ảnh hưởng của triết học phương đông cổ đại . Vào thời kì khoa học
phát sinh ở Hy Lạp , thì ở phương đông đã tích luỹ được những tri thức đáng kể về thiên
văn học , hình học , đại số , y học các nhà bác học lớn của Hy Lạp ,phần nhiều đã tới Aicâp,
Babilon để nghiên cứu và học tập. Những mầm mống về quan niệm duy vật vô thần của
những nhà triết học Aicâp và Babilon có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của triết học lOMoAR cPSD| 61591627
ở Hy Lạp cổ đại . Có thể nói triết học phương đông , trước hết là triết học Ai câp và Babilon
là một trong những tiền đề của triết học Hy Lạp cổ đại .
1.3.3 : Những đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại :
Triết học Hy Lạp cổ đại được coi là đỉnh cao của nền văn minh cổ đại và là một trong
những điểm xuất phát của lịch sử triết học thế giới. Nền triết học này có những đặc điểm sau :
Một là, triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của
giai cấp chủ nô thống trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp chủ nô duy trì trật tự xã hội,
củng cố vai trò thốn trị xã hội.
Hai là, trong triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu,
trường phái duy vật – duy tâm, biện chứng siêu hình, vô thần – hũu thần. Trong đó điển
hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật của Đêmôcrít và trào lưu duy tâm của Planton,
giữa trường phái siêu hình của Pácmênít và trường phái biện chứng của Hêraclít, v.v.
Ba là, triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu
biết về các lĩnh vực khác nhau, nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như một hình ảnh
chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó. Do trình độ tư duy lý luận còn
thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi sâu vào
bản chất sự vật, mà chỉ mới nghiên cứu tự nhiên trong tổng thể, để có cái nhìn tổng quát
về thế giới. Vì vậy, các nhà triết học còn đồng thời còn là các nhà khoa học tự nhiên, họ
quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên, để rút ra những kết luận triết học.
Bốn là, triết học Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác. Các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại nghiên cứu phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện, để bảo
vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý. Họ đã phát hiện ra nhiều yếu tố của
phép biện chứng, nhưng chưa trình bày thành hệ thống lý luận chặt chẽ.
Năm là, triết học Hy Lạp coi trọng vấn đề con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã
đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về con người, tìm cách lý giải về vấn đề quan hệ giữa
linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức – chính trị - xã hội. Mặc dù còn nhiều bất đồng, lOMoAR cPSD| 61591627
song nhìn chung, các triết gia Hy Lạp đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa.
2. Phép biện chứng Tây Âu thế kỷ XIV – XVIII
Suốt trong 4 thế kỷ từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII, sự trưởng thành của tư tưởng
biện chứng Tây Âu mang nhiều ý nghĩa độc đáo. Phép biện chứng trong thời kỳ này phát
triển trong thời kỳ thống trị của tư duy siêu hình.Sau đêm trường Trung cổ, triết học là
thứ triết học kinh viện giáo điều gắn với đạo Thiên chúa. Đến thời kỳ Phục hưng, triết học
thời kỳ này đã khôi phục lại những tư tưởng duy vật cổ đại nhưng vẫn còn mang tính
phiếm thần, yếu tố duy vật xen lẫn duy tâm. Tuy nhiên phép biện chứng thời kỳ này vẫn
có bước phát triển như tư tưởng về sự phù hợp của các mặt đối lập của Gioocdanơ Brunô
1548 -1600. Theo G.Brunô mọi cái đều liên hệ với nhau và đều vậnđộng, kể từ các hạt
vật chất nhỏ nhất - nguyên tử đến vô số thế giới của vũ trụ vô tận, cái này tiêu diệt cái kia
ra đời. Nếu không theo nguyên tắc các mặt đối lập phù hợp với nhau thì dù là nhà tốn
học, nhà vật lý, cả nhà triết học cũng không làm việc được.
Một trong những đại biểu của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại là Ph.Bêcơn 15611626.
Ph.Bêcơn khẳnh định vật chất không tách rời vận động, nhận thức bản chất của sự vật là
nhận thức sự vận động của chúng. Ông đã tiến hành phân vận động thành 19 loại. Tuy
nhiên tính chất siêu hình của ông thể hiện: Ông quy mọi loại vận động về vận động cơ học.
Song cống hiến của ông là ở chỗ coi đứng yên là một hình thức của vận động, coi vận động
là đặc tính cố hữu của vật chất, ơng là người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới.
Trong thời kỳ cận đại, khoa học tự nhiên đã phát triển và đi sâu mổ xẻ phân tích giới
tự nhiên thành những bộ phận nhỏ để nghiên cứu. Những chính phương pháp đó đã tạo ra
thói quen nghiên cứu xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tách rời và bất biến. Từ khi
Ph.Bêcơn và Lốccơ đem phương pháp trong khoa học tự nhiên áp dụng vào triết học thì
phương pháp siêu hình trở thành phương pháp thống trị trong triết học.Phương pháp siêu
hình đó đóng một vai trò tích cực nhất định trong q trình nhận thức giới tự nhiên, phương
pháp đó chỉ thích ứng với trình độ sưu tập, mơ tả giới tự nhiên. Do đó khi khoa học chuyển
sang nghiên cứu các quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng thì nó bộc lộ rõ
những hạn chế. Vì vậy nó khơng tránh khỏi bị phủ định bởi phép biện chứng của triết học
cổ điển Đức với đỉnh cao là phép biện chứng Hêghen.
3. Phép biện chứng cổ điển Đức
Phép biện chứng là thành tựu lớn nhất trong nền triết cổ điển Đức, được thể hiện qua tư
tưởng triết học của hai nhà triết học lớn là Kant và Heghen.
“Biện chứng” có gốc từ tiếng Hy Lạp là “dialektica” (với nghĩa là nghệ thuật đàm
thoại, tranh luận). Theo nghĩa này, biện chứng là nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân
lý bằng cách phát hiện các mâu thuẫn trong lập luận của đối phương và nghệ thuật bảo vệ
những lập luận của mình. Trong triết học Marx, “biện chứng” được dùng đối lập với “siêu lOMoAR cPSD| 61591627
hình”, đó là lý luận đồng thời là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái liên hệ, tác
động qua lại lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau và trong quá trình vận động, phát triển không ngừng.
Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại và từ đó đến nay, lịch sử phát triển của nó đã trải
qua nhiều giai đoạn khác nhau, gắn với sự phát triển của khoa học và thực tiễn.
Thời cổ đại, phép biện chứng mang nặng tính mộc mạc, chất phác. Cả triết học
Phương Đông và Phương Tây cổ đại đều chứa đựng tư tưởng về biện chứng. Trong triết
học Phương Đông cổ đại, quan niệm về nhân duyên, vô ngã, vô thường của Đạo Phật chứa
đựng những tư tưởng biện chứng khá sâu sắc. Trong thuyết Âm – Dương, Âm và Dương
tồn tại trong mối liên hệ quy định lẫn nhau tạo ra sự thống nhất giữa cái bất biến và cái
biến đổi; giữa cái duy nhất và cái số nhiều, đa dạng, phong phú. Trong thuyết ngũ hành,
năm yếu tố Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ tồn tại trong mối liên hệ tương sinh, tương
khắc với nhau. Các yếu tố đó tác động, chuyển hóa lẫn nhau, rằng buộc, quy định lẫn nhau,
tạo ra sự biến đổi trong vạn vật. Lão Tử (khoảng thế kỷ VI. TCN) cho rằng vạn vật bị chi
phối bởi hai quy luật phổ biến là quân bình và phản phục. Luật quân bình luôn giữ cho sự
vận động của vạn vật được cân bằng theo một trật tự điều hòa trong tự nhiên, không có gì
thái hóa, không có gì bất cập. Luật phản phục là khi sự vật phát triển đến cực điểm thì
chuyển quay trở lại theo phương hướng cũ. Trong Đạo đức kinh, còn có những tư tưởng
biện chứng trực quan như bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều là thể thống nhất của hai
mặt đối lập vừa xung khắc với nhau, vừa nương tựa vào nhau, vừa bao hàm lẫn nhau,v.v.
Triết học Hy Lạp cổ đại với các triết gia tiêu biểu như Heraclite, Socrate, Platon,
Aristotle,… đều chứa đựng tư tưởng biện chứng. Heraclite cho rằng bản nguyên của thế
giới là lửa và khẳng định bản tính của thế giới là “mọi thứ đều trôi qua”. Ông cho rằng
“mọi cái biến đổi thành lửa và lửa thành mọi cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và
hàng hóa thành vàng”, bản thân vũ trụ “mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh viễn đang
không ngừng cháy bùng và tàn lụi”. Ông xây dựng “học thuyết về dòng chảy” với luận
điểm kinh điển “Không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Đối lập với phép
biện chứng khẳng định của Heraclite là phép biện chứng “phủ định” của trường phái Ele,
với chủ trương vạn vật bất biến, không sinh thành, không diệt vong với hai đại biểu lớn là
Parmenides và Denon. Vào thời cực thịnh của triết học Hy Lạp cổ đại, tu tưởng biện chứng
được thể hiện trong tư tưởng của Socrate. Socrate được xem là người đầu tiên sử dụng
thuật ngữ biện chứng theo nghĩa là nghệ thuật tranh luận, hướng các bên cùng quan tâm
đến vấn đề tranh luận với mục đích đạt được chân lý bằng con đường đối lập các ý kiến
của họ qua hình thức hỏi – đáp. Tư tưởng này được phát triển hơn trong quan niệm biện
chứng của Platon. Platon cho rằng biện chứng là nghệ thuật tìm ra các khái niệm đúng, là
thao tác logic phân chia và gắn kết các khái niệm bằng công cụ hỏi- đáp để xác định các
khái niệm đó. Aristotle có những nghiên cứu sâu sắc về logic và biện chứng. Ông đưa ra
nhiều tư tưởng về phạm trù, quy luật và xây dựng các hình thức cơ bản của tư duy. Phép
biện chứng của Aristotle ngoài sự thể hiện các quan niệm về các vật thể tự nhiên và sự vận
động của chúng, còn thể hiện rõ trong sự giải thích về cái riêng và cái chung, ông đã cố lOMoAR cPSD| 61591627
gắng khảo sát cái chung trong sự thống nhất không tách rời cái riêng; theo ông, nhận thức
cái chung trong cái đơn lẻ là thực chất của nhận thức cảm tính.
Nhìn chung, phép biện chứng cổ đại mang nặng tính tự phát, ngây thơ. Mặc dù còn
nhiều hạn chế nhưng phép biện chứng cổ đại đã coi thế giới là một chỉnh thể thống nhất;
giữa các bộ phận của thế giới có mối liên hệ qua lại, thâm nhập, quy định, tác động lẫn
nhau; thế giới không ngừng vận động, biến đổi. Những nội dug tư tưởng cơ bản của phép
biện chứng Hy Lạp cổ đại là cơ sở để phép biện chứng phát triển lên hình thức cao hơn,
“triết học hiện đại chỉ tiếp tục cái công việc do Hêraclít và Arixtốt đã mở đầu mà thôi”
Triết học Tây Âu thời kỳ Trung cổ (thế kỷ V – XV), với sự hình thành và phát triển
của phương thức sản xuất phong kiến, triết học và khoa học thời kỳ này là một bước lùi so
với thiờ kỳ cổ đại. Thời kỳ này, triết học gắn liền với tôn giáo (Cơ đốc giáo) và chủ nghĩa
kinh viện, tư tưởng về biện chứng không được phát triển.
Triết học Tây Âu thời Phục hưng (thế kỷ XV – XVI) và Cận đại (thế kỷ XVII –
XVIII), gắn liền với sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
triết học có điều kiện phát triển. Tuy nhiên, triết học thời kỳ này (cận đại) gắn với phương
thức tư duy siêu hình của khoa học tự nhiên, tư tưởng biện chứng không được phát triển.
Bước sang cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, với bối cảnh lịch sử đặc thù của
nước Đức, với sự phát triển của triết học cổ điển Đức, tư tưởng biện chứng từ thời cổ đại
mới được “sống lại” và phát triển trong một hình thái mới. Phép biện chứng được xem là
thành tựu lớn nhất của triết học cổ điển Đức.
Kant được xem là người sáng lập phép biện chứng cổ điển Đức. Trong triết học Kant,
tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng về sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập,
theo đó, sự thống nhất và thâm nhập lẫn nhau giữa các mặt đối lập là động lực của sự vận
động và phát triển. Động lực đó có trước vật chất và tách rời vật chất. Trong triết học Fichte,
tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng về mâu thuẫn và nguồn gốc của sự phát triển. Mâu
thuẫn và phát triển chỉ tồn tại trong ý thức, thể hiện trong sự vận động tiến bộ của tư duy
trong quá trình nhận thức. Trong triết học Schelling, tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng
về mối liên hệ phổ biến, sự thống nhất và sự phát triển, tư tưởng về sự thống nhất biện
chứng của tự nhiên, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập trong tự nhiên.
Nhìn chung, phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức là phép biện chứng duy tâm,
được hình thành từ Kant, phát triển qua các nhà triết học sau đó như Fichte, Schelling và
phát triển đỉnh cao trong triết học của Hegel: “hình thức thứ hai của phép biện chứng, hình
thức quen thuộc của các nhà khoa học tự nhiên Đức, là triết học cổ điển Đức từ Cantơ đến Hêghen”.
CHƯƠNG II: Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác - xít
1. Điều kiện kinh tế - xã hội cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật lOMoAR cPSD| 61591627
Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
đang phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tư sản đã cung cấp thực tiễn cho
C.Mác và Ph.Ănghen để đúc kết và kiểm nghiệm lý luận về phép biện chứng. Dựa trên cơ
sở thành tựu khoa học tự nhiên (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX) đi vào hệ thống hoá
tài liệu khoa học thực nghiệm. Đây là hai tiền đề thực tiễn rất quan trọng cho sự ra đời của
phép biện chứng duy vật. Tiền đề lý luận của phép biện chứng duy vật chính là phép biện
chứng duy tâm của Hêghen. Các ông đã tách ra cái hạt nhân hợp lý vốn có của nó là phép
biện chứng và vứt bỏ cách giải thích hiện tượng tự nhiên xã hội và tư duy một cách thần
thánh hoá tư duy, nói cách khác các ông đã cải tạo một cách duy vật phép biện chứng duy
tâm Hêghen. Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng, trong khi đó các học thuyết triết học trước đây duy vật nhưng siêu hình (Triết học
cận đại) hoặc biện chứng nhưng duy tâm (cổ điển Đức). Phép biện chứng duy vật không
chỉ duy vật trong tự nhiên mà đi đến cùng trong lĩnh vực xã hội, do đó các ông đã xây dựng
sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
2.Nội dung chính của phép biện chứng duy vật
Theo C.Mác: Biện chứng khách quan là cái có trước, còn biện chứng chủ quan (tư
duy biện chứng) là cái có sau và là phản ánh của biện chứng khách quan, đây là sự khác
nhau giữa phép biện chứng duy vật của ông với phép biện chứng duy tâm của Hêghen.
C.Mác cho rằng ông chỉ làm cái công việc là đặt phép biện chứng duy tâm của Hêghen
"đứng trên hai chân của mình" tức là đứng trên nền tảng duy vật. Theo C.Mác thì phép biện
chứng chính là "khoa học về mối liên hệ phổ biến trong tự nhiên xã hội và tự nhiên, trong
tư duy". Theo Lênin thì phép biện chứng là "học thuyết về sự phát triển đầy đủ, sâu sắc và
toàn diện nhất, học thuyết về tính tương đối của sự vật". Ba mối liên hệ chủ yếu trong phép
biện chứng duy vật là: 1. Mối liên hệ cùng tồn tại và phát triển;
2. Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau tuy có sự khác nhau nhưng vẫn có sự giống nhau;
3. Mối liên hệ về sự chuyển hoá vận động và phát triển.
Các mối liên hệ được khái quát thành các cặp phạm trù như( phần tử - hệ thống,
nguyên nhân - kết quả, lượng - chất) và các quy luật (quy luật lượng - chất, quy luật đấu
tranh và thống nhất của các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định). Lần đầu tiên
trong lịch sử triết học, Mác đã công khai tính giai cấp của để bảo vệ lợi ích của giai cấp
công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong khi đó các nền triết học trước Mác che
dấu lợi ích của nó, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, của một nhóm người thiểu số trong
xã hội. Triết học C.Mác là một hệ thống sáng tạo, là một hệ thống mở, không ngừng được
bổ sung, được làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn và phát triển. Cùng với chính sự
phát triển thực tiễn, học thuyết của C.Mác là kim chỉ nam cho hành động. Những nội dung
chính của phép biện chứng được C.Mác và Ph.Ănghen luận chứng trong tác phẩm: "Biện
chứng của tự nhiên" (1873 - 1883), "Chống Đuy -rinh" (1876 -1878), "Lút-vich Phoiơ Bắc
và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức" và một số tác phẩm do V.I.Lênin viết như: "Chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán" (1908 -1909), "Bút ký triết học". lOMoAR cPSD| 61591627
Tóm lại, phép biện chứng duy vật Mác - xít là kết quả của sự chín muồi về mặt lịch
sử của nhận thức khoa học và của thực tiễn xã hội. Sự ra đời của nó đáp ứng nhu cầu về
mặt lý luận của giai cấp công nhân. Giai đoạn mới trong sự phát triển của phép biện chứng
gắn với tên tuổi của V.I.Lênin đã vận dụng thành công phép biện chứng Mác-xít trong cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917. Sự phát triển của V.I.Lênin về
phép biện chứng duy vật thể hiện trong lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa như là một
công cụ sắc bén để cải tạo thế giới một cách cách mạng nhất.
CHƯƠNG III : Phép biện chứng duy vật trong sự vận động và sự phát triển của nền
kinh tế nước ta hiện nay
Phép biện chứng duy vật là một học thuyết khoa học, là linh hồn của chủ nghĩa
Mác, là đỉnh cao của tư duy khoa học mà nhân loại đã đạt được thông qua bộ óc thiên tài
của C.Mác vào giữa thế kỷ XIX. Sau đó đã được Ph.Ăngghen bổ sung và hoàn thiện vào
cuối thế kỷ XIX và V.I.Lênin phát triển trong điều kiện cách mạng mới vào đầu thế kỷ XX.
Sau khi tiếp thu, nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thấy được hạt nhân của chủ nghĩa Mác - Lênin chính là Phép biện chứng duy vật với nhận
xét rất cô đọng: “chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng”(1). Trên
cơ sở nắm chắc nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật và nhận thức rõ về vị trí, vai
trò, tầm quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng một cách
sáng tạo để giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam; đồng thời, Người đặt ra yêu
cầu đối với những người cộng sản là phải hiểu biết chắc chắn về phép biện chứng duy vật
để vận dụng vào việc phân tích và giải quyết các vấn đề của thực tiễn cách mạng. Có thể
nói, với tài năng thiên bẩm của mình, trong tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sẵn
yếu tố duy vật biện chứng nên khi đến với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin thì tự nhiên
tư duy đó đã thấm nhuần phép biện chứng duy vật một cách khoa học, như Người đã khái
quát trong tác phẩm Thường thức chính trị (1950): “Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết
tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành”. Người đã sử dụng vũ khí sắc bén đó để giải
quyết mọi vấn đề khó khăn, phức tạp trên con đường lãnh đạo cách mạng Việt Nam để
giành lấy độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội theo con đường mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra.
Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, thế giới vật
chất tồn tại khách quan, các sự vật và hiện tượng luôn luôn vận động và biến đổi, chuyển
hóa lẫn nhau, cái cũ mất đi, cái mới ra đời. Do các sự vật và hiện tượng trong thế giới luôn
có sự vận động, biến đổi thường xuyên, nên tư duy con người cũng phải luôn luôn đổi mới
để theo kịp sự vận động, biến đổi đó, như Ph.Ăngghen đã viết trong tác phẩm Chống Đuy
rinh: “Phép biện chứng… là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và
phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”, “là chìa khóa để giúp con
người nhận thức và chinh phục thế giới”. Cho nên khi xây dựng đường lối đổi mới, Đảng
ta đã xác định trước hết đổi mới tư duy cho cán bộ, đảng viên về cả phương pháp tư duy;
nhận thức lý luận; cơ chế, chính sách. Phép biện chứng duy vật chính là công cụ hữu hiệu lOMoAR cPSD| 61591627
giúp Đảng ta giải quyết thấu đáo ba vấn đề lớn liên quan đến đường lối đổi mới từ năm 1986 đến nay.
1. Cơ sở để Đảng ta đề ra đường lối đổi mới
1.1 Kinh nghiệm tiến hành đổi mới của Đảng Cộng sản Liên Xô
Tính chất chủ quan, nóng vội, vi phạm các quy luật khách quan trong quá trình lãnh
đạo đất nước (nhất là trên lĩnh vực kinh tế) là đặc điểm nổi bật trong quá trình đổi mới của
Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1921, sau 4 năm thực hiện chính sách “Cộng sản thời chiến”
để huy động sức người, sức của phục vụ cho chiến tranh, V.I.Lênin đã nhận ra những thiếu
sót, khuyết điểm của Đảng Cộng sản Liên Xô là tư tưởng tả khuynh, nóng vội khi cho rằng
có thể tiến ngay lên chủ nghĩa cộng sản nên ông đã kịp thời đưa ra chính sách kinh tế mới
(NEP). Chính sách NEP của Đảng Cộng sản Liên Xô thể hiện rõ quan điểm duy vật biện
chứng trong giải quyết những mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đó là, phải vận dụng đúng quy luật khách quan giữa quan hệ sản xuất với
lực lượng sản xuất, phải đổi mới phương thức quản lý kinh tế, cơ cấu lại các thành phần và
loại hình kinh tế trong các ngành nghề để phát triển sản xuất, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào phát triển kinh tế - xã hội… Sau 3 năm thực hiện NEP đã giúp cho nền kinh tế Liên Xô
phục hồi nhanh chóng và tạo đà phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, sau khi V.I.Lênin qua đời (năm 1924) những người lãnh đạo trong Đảng
Cộng sản Liên Xô đã thay thế chính sách NEP bằng chủ trương xóa bỏ chế độ tư hữu, đẩy
mạnh phong trào tập thể hóa nông nghiệp và thực hiện quốc hữu hóa toàn bộ các ngành
công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải…; tiến hành quản lý kinh tế theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, xóa bỏ kinh tế thị trường, thực hiện chế độ bao cấp một cách bình
quân… và họ coi đó là một sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ
nghĩa xã hội trong điều kiện của nước Nga Xô viết. Có thể thấy, cơ chế quản lý tập trung
cao độ khi đó cũng đã phát huy được sức mạnh của nhân dân bằng mệnh lệnh để phát triển
kinh tế và tăng cường tiềm lực quân sự, quốc phòng để Hồng quân Liên Xô đánh bại quân
đội phát xít giành chiến thắng trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, làm cho uy tín của phe
xã hội chủ nghĩa lên cao kéo dài đến tận những năm 80 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, điều đó
cũng khiến các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô chủ quan, ngộ nhận rằng chủ
nghĩa xã hội đã hoàn toàn thắng lợi và đưa ra lý luận về chủ nghĩa xã hội phát triển, đồng
thời tuyên bố có thể đi lên chủ nghĩa cộng sản ở thời điểm đó. Cùng thời điểm này, các
nước tư bản chủ nghĩa đã biết tự điều chỉnh để thích nghi, tận dụng triệt để những thành
tựu của cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, đưa nền kinh tế của họ
vượt xa các nước xã hội chủ nghĩa.
Thực tế đó đã tác động mạnh mẽ đến đời sống của nhân dân Liên Xô, làm nảy sinh tư
tưởng cải cách, đổi mới trong một số nhà lãnh đạo cấp tiến bấy giờ và khi M.X.Gorbachov
lên làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô đã chính thức đề ra công cuộc “cải tổ”. Nhưng
thay vì thực hiện việc cải cách theo tinh thần của NEP do V.I.Lênin đề ra trước kia, Đảng
Cộng sản Liên Xô lại bị những người lãnh đạo theo chủ nghĩa cơ hội, lợi dụng để “cải tổ”
theo hướng phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, thực hiện mở rộng dân chủ theo kiểu đa