CHỦ ĐỀ 4 : GIẢI PHÁP BẢO V, BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI VIỆT NAM
HIỆN NAY
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: Khái quát bảo đảm ,bảo vệ quyền con người
1. Khái niệm bảo đảm, bảo vệ quyền con người
2. Đặc điểm của việc bảo đảm , bảo vệ quyền con người
LỜI MỞ ĐẦU:
Quyền con người là những giá trị cao quý , kết tinh từ nền văn hóa của tất cả các dân tộc trên
thế giới. Đây là tiếng nói chung, mục tiêu chung và phương tiện chung của toàn nhân loại để
bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi người.
lOMoARcPSD| 46342985
CHƯƠNG I: Khái quát bảo đảm, bảo vệ quyền con người
1. Khái niệm
Quyền con người là một phạm trù đa diện và có nhiều định nghĩa khác nhau.
Mỗi định nghĩa có những cách tiếp cận, nghiên cứu vấn đề từ những góc độ nhất
định bản chưa định nghĩa nào bao hàm được tất cả c thuộc tính của
quyền con người. thể thấy, sự phù hợp của các định nghĩa hiện về quyền
con người phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi nhân, tuy nhiên,
cấp độ quốc tế, Văn phòng Cao ủy Liên Hợp quốc về quyền con người (OHCHR)
định nghĩa: Quyền con người những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo
vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bmặc làm tổn
hại đến nhân phẩm, những sđược phép tự do bản của con người. Bên cạnh
đó, một số học giả khác theo học thuyết về các quyền tự nhiên cũng đưa ra cách
hiểu, quan niệm về quyền con người, theo đó, quyền con người những sự được
phép tất cả các thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính,
chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội… đều ngay tkhi sinh ra, đơn giản chỉ họ
là con người.
Ở Việt Nam, cũng tồn tại một số định nghĩa về quyền con người. Trong đó, một
cách khái quát, quyền con người được hiểu là những quyền bẩm sinh, vốn có của
con người nếu không được hưởng thì chúng ta sẽ không thể sống như một
con người. Quan niệm nêu trên của các học giả Việt Nam cho thấy sự ảnh hưởng
của các học thuyết về quyền tự nhiên trên thế giới, vậy, quyền con người chính
những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốncủa con người được ghi nhận bảo
vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pp lý quốc tế.
Bên cạnh đó, thuật ngữ “bảo đảm” thể hiểu làm cho chắc chắn thực hiện
được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết hoặc sự bảo đảm thực hiện
được hoặc giữ được. Trong khi “bảo vệ” được hiểu là chống lại sự xâm phạm để
giữ li cho luôn luôn được nguyên vẹn. Như vậy, bảo đảm và bảo vệ là hai khái
niệm khác nhau nhưng nội hàm của chúng những điểm tương đồng, btrợ cho
nhau, vì vậy, trong thực tế người ta hay sử dụng chúng đi liền với nhau hoặc thay
thế cho nhau. Theo đó, các thuật ngữ “bảo đảm, bảo vệ” hàm chỉ các yếu tố -
công cụ được sử dụng nhằm làm cho chắc chắn thực hiện được, chống lại sự xâm
phạm để giữ gìn mt cách trn vẹn sự vật, hiện tượng nào đó.
lOMoARcPSD| 46342985
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Bảo đảm, bảo vệ quyền con người là việc
sử dụng các công cụ cũng như yếu tố tác động nhằm làm cho quyền con người
chắc chắn được thực hiện, đồng thời, chống lại mi âm mưu xâm phạm quyền
con người; mục đích cuối cùng quyền con người phải được thừa nhận, thực
hiện với đúng tính chất, nội hàm vốn có của nó.
2. Đặc điểm của việc bảo đảm , bảo vệ quyền con người
Việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người có một số đim đặc thù sau:
Chủ thể của hoạt động bảo đảm, bảo vệ quyền con người khá rộng, không chỉ
Nhà nước bao gồm tất cả c nhân, tổ chức trong hội, thậm c
tổ chức quốc tế cũng có thể cùng tham gia.
Bảo đảm, bảo vệ quyền con người phải được thực hiện thông quahệ thống
thể chế - công cụ điu chỉnh quan hxã hội.
Việc bo đảm, bảo vệ quyền con người ở mỗi quốc gia luôn chịusự tác động
bởi nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế - hội, hội nhập quốc tế, xu hướng
dân chủ - yêu chuộng hòa bình, bối cảnh xây dựng - hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền…
3. Sự cần thiết phải bảo đảm , bảo vệ quyền con người trong xây dựng hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
CHƯƠNG II : NỘI DUNG VÀ CÁC YẾU TỐ BẢO ĐẢM ,BẢO V
QUYỀN CON NGƯỜI
1. Nội dung bảo đảm ,bảo vệ quyền con người
Thực tiễn cho thấy, nội dung của hoạt động bảo đảm, bảo vệ quyền con người
các quốc gia tn thế giới không hoàn toàn giống nhau. Với Việt Nam, dựa trên
các quy định của Hiến pháp năm 2013 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới, hội nhập
quốc tế đẩy nhanh quá trình xây dựng, hoàn thiện Nnước pháp quyền
hội chủ nghĩa Vit Nam, nội dung bảo đm, bảo vquyền con người, quyền công
dân bao gồm những vấn đề sau:
Thứ nhất, ng nhận (obligation to recognition): Các chủ thể trong xã hội
trách nhiệm bảo đảm quyền, trước hết chủ yếu Nhà nước. Công nhận
nghĩa là phải thừa nhận đồng thời phải ghi nhận ngày càng đầy đủ, bản
bằng các thể chế quan phương pháp luật các thể chế phi quan phương
lOMoARcPSD| 46342985
khác mà đặc biệt là đạo đức (đối với các tổ chức xã hội). Đó là sự thừa nhận,
ghi nhận đối với các quyền dân sự, chính trị kinh tế, hội, văn hóa của
con người.
Thứ hai, tôn trọng (obligation to respect): Các chủ thể trong hội trách
nhiệm bảo đảm quyền, trước hết và chủ yếu Nnước. Theo đó, các chủ
thể mà đặc biệt là Nhà nước phải kiềm chế kng can thiệp, kể cả trực tiếp
gián tiếp vào việc thừa nhận, bảo vệ, bảo đảm thực hiện thúc đẩy các quyền
con người, quyền công n đã được ghi nhận trong Hiến pháp pháp luật.
Đồng thời, phải chủ động xây dựng triển khai thực hiện hiệu quả các thể
chế, chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển và biện pháp quản lý cụ thể
để mọi người được thụ hưởng và phát triển các quyền con người của mình
trong thực tế.
Thứ ba, bảo vệ (obligation to protect): Nhà nước phải ngăn chặn vic vi phạm
quyền con người, quyền công dân đến từ phía các quan nhà nước, các doanh
nghiệp, các tổ chc chính trị, xã hội và
cá nhân; ngăn chặn tình trạng phân bit đối xử hoặc sự hình thành các thế lc
đe dọa quyền con người, quyền công dân trên các lĩnh vực; điều tra, trừng trị
và phục hồi các quyền đã bị vi phạm hoặc bồi thường khi có sai phạm từ phía
cơ quan, người có thẩm quyền.
Thứ tư, thực hiện (obligation to fulfil): Các chthể trong hội, đặc biệt
Nhà nước phải chủ động xây dựng thể chế (pháp luật, quy chế thiết chế)
cũng như các chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển, biện pháp quản
cụ thể để bảo đảm cho mi người được ởng thụ đến mức cao nhất thể
các quyền con người, quyền công dân. Việc thực hiện chỉ được bảo đảm (bảo
đảm thực hiện) khi các thể chế, chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển
biện pháp quản được đề ra (hay xây dựng) phải mang tính khả thi
hiệu quả, chứ không phải mang tính hình thức hay đề ra “cho có”, đc biệt là
trong quá trình thực thi các quyền con người, quyền công dân ca các nhóm
yếu thế.
Thứ năm, thúc đẩy (obligation to promote): Tạo lập điều kiện và môi trường
kinh tế nói riêng và xã hội nói chung, mang tính hỗ trợ, thuận lợi cho việc tiếp
lOMoARcPSD| 46342985
cận quyền con người, quyền công dân của các nhóm hội, đặc biệt các
nhóm yếu thế; đồng thời, thiết lập và duy trì một cơ chế minh bạch, hiệu quả
để giám sát quyền con người cả khu vực công và tư, theo thể chế pháp quyền
hội chủ nghĩa. Việc thúc đẩy quyền con người, quyền công dân đòi hỏi Nhà
nước các chủ thể trong hội trách nhiệm bảo đảm quyền kng chỉ thụ
động, mà quan trọng hơn, là phải chủ động xây dựng và triển khai, thực hiện
các thể chế, chiến lược, kế hoạch, chương trình, biện pháp quản lý cụ thể, để
hỗ trợ các nhân tập thể điều kiện môi trường thuận lợi cho việc
thụ hưởng và phát triển các quyền của mình.
2. Các yếu tố bảo đảm ,bảo vệ quyền con người
Bảo đảm, bảo vệ quyền con người một quá trình phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khác nhau. Các yếu tố bảo đảm quyền con người cần thiết lập đó là:
Thứ nhất, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề bảo đảm, bảo
vệ quyền con người.
Bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là quan điểm nhất quán, xuyên
suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện qua nhiều Văn kiện Đại hội
Đảng. Ngay từ Cương lĩnh y dựng đất nước trong thời kỳ quá đlên chủ
nghĩa xã hội (tháng 6/1991, được bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác
định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể
phát triển. Tôn trọng bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với
quyền li ích dân tộc, đất nước quyền làm chủ của nhân dân”. Quan
điểm tn tiếp tục được quán triệt trong Đại hội XIII của Đảng, theo đó: “Tôn
trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân
theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và tch nhiệm
công dân đối vihội”.
Quan điểm của Đảng chính là sự kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
đó là: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết ca nhân dân”. Quan điểm nhân dân trung
tâm, chủ thể trong chiến lược phát trin đã làm rõ hơn về chủ thể thụ hưởng
quyền con người đó chính nhân dân. Theo đó, trong các chương trình, chính
sách phát triển của Đảng đều phải hướng trọng tâm vào con người nhân dân;
lấy quyền lợi ích chính đáng của con người là sở xây dựng hoạch
lOMoARcPSD| 46342985
định chính sách phát triển quốc gia; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm
mục tiêu phấn đấu cao nhất trong hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức,
viên chức nhà nước.
Thứ hai, hệ thống thể chế pháp hoàn thiện để bảo đảm, bảo vệ quyền con
người trong xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền hội chnghĩa
Việt Nam hiện nay.
Hệ thống thể chế pháp đó chính hệ thống pháp luật hoàn thiện. Dưới góc
độ khoa học, hệ thống pháp luật hoàn thiện phải đáp ứng các tiêu chí về tính
toàn diện, đồng bộ; tính khách quan, khoa học; tính khả thi; tính ổn định
gọn nhẹ; tính công khai, minh bạch; tính hài hòa giữa quy định pháp luật quốc
gia với quy định pháp luật quốc tế đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật lập pháp
hiện đại. Theo đó, để bảo đảm, bảo vệ thúc đẩy quyền con người Việt
Nam hiện nay thì việc tạo lập một hệ thống pháp luật hoàn thiện đáp ứng các
yêu cầu bản nêu trên chính sở, hành lang pháp yêu cầu cấp thiết.
Thứ ba, hệ thống các thiết chế bảo đảm qtrình tổ chức, thực hiện các quy
định pháp luật ln quan đến quyền con người.
Thuật ngữ “các thiết chế” được khai thác dưới góc độ các tổ chức tồn tại trong
xã hội, đặc biệt là Nhà nước - bộ máy nhà nước đóng vai trò quan trọng trong
tổ chức, thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến quyền con người, bảo
đảm quyền con người hiện nay. Xét ở góc độ thiết chế nhà nước, một bộ máy
năng lực tổ chức nguồn nhân lực dồi dào, kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ sẽ bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện, bảo vệ quyền con
người hiệu quả. Xét góc độ hội, việc phát huy vai trò của các tổ chức
khác trong xã hội như Đảng, Đoàn, Mặt trận hay các Hội cùng chung tay với
Nhà nước để thực hiện quy định pháp luật về quyền con người góp phần
đáng kể trong bo đảm quyền con người ở Việt Nam đạt hiệu quả cao.
lOMoARcPSD| 46342985
Bên cạnh đó, các yếu tố như điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóahội, nhận
thức của con người trong hội, vấn đề hội nhập, xu hướng dân chủ - yêu hòa
bình và nhiều yếu tố khác đều ít nhiều có những tác động nhất định đến việc
bảo đảm, bảo vệ quyền con người Việt Nam. Việc xem xét sự ảnh hưởng
của các yếu tố trên cần thiết, góp phần quyết định hiệu quả việc bảo đảm,
bảo vệ quyền con nời hiện nay.
CHƯƠNG III : Thực trạng bảo vệ , bảo đảm quyền con người ở Việt
Nam
1. Thành tựu đạt được
Từ năm 1986 khi Việt Nam tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, xóa bỏ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa lấy con người là trung tâm, trải qua hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam
đã đạt được những thành tu đáng kể trong thực hiện và bảo đảm, bảo vệ quyền
con người, có thể kể tới một số điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, Việt Nam đã xây dng hệ thống thể chế pháp về quyền con người
và bảo đảm quyền con người tương đối đầy đủ và ngày càng hoàn thiện. Đây
chính sự hiện thực hóa nội dung “công nhận” tạo sở cho việc thực
hiện bảo đảm quyn con người.
Quyền con người được đề cập c thể trong Hiến pháp năm 1992 với quy định tại
Điều 50: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người v
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, th hiện ở các quyền
công dân được quy định trong Hiến pháp luật”. Đây chính thành tựu
bước đầu thể hiện sự coi trọng vấn đề quyền con người trong y dựng và hoàn
thiện nhà nước Việt Nam. Kế tiếp đó, một số các quyền khác như quyền bình
đẳng của phụ nữ, quyền trẻ em… cũng được chính thức đề cập trong Hiến pháp
năm 1992 và các văn bản pháp luật khác liên quan. Xét riêng trên lĩnh vực lập
pháp, chỉ tính từ năm 1996 đến năm 2002, Nhà nước đã ban hành 13.000 văn bản
pháp luật các loại, trong đó hơn 40 bộ luật luật, trên 120 pháp lệnh, gần 850
văn bản pháp luật của Chính phủ trên 3.000 văn bản pháp quy của các bộ,
ngành, trong đó đã “nội luật hóa” một cách toàn diện những công ước quốc tế về
quyền con người Việt Nam đã pchuẩn hoặc gia nhập tđầu những năm 80
của thế kỷ XX trong thời kỳ y. Đây điều trong giai đoạn trước hầu
như chúng ta chưa làm được.
lOMoARcPSD| 46342985
Tại Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam, các quy định về quyền con người, bảo
đảm quyền con người sphát triển đáng kể. Từ vị trí thứ năm, Chương Quyền
công dân của Hiến pháp năm 1992 được chuyển lên vị trí thứ hai trong Hiến pháp
năm 2013, thể hiện sự quan tâm vượt bậc, cũng như nhận thức của các nhà lập
hiến Việt Nam về tầm quan trọng của quyền con người và quyền công dân. Lần
đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, quá trình soạn thảo Chương về quyền
con người và quyền công dân đã được tham khảo, đối chiếu một cách tương đối
toàn diện với tiêu chuẩn của các quy định nhân quyền của các Công ước quốc tế
Việt Nam đã tham gia, kết. Đi sâu hơn vào nội dung Chương II, thể
thấy, Hiến pháp năm 2013 có một số thay đổi cụ thể như sau: Không đồng nhất
“quyền con người” với “quyền công dân” sử dụng hp hai thuật ngữ
này trong từng lĩnh vực cụ thể; thay đổi tư duy pháp lý về quyền con người theo
hướng quyền con người là tự nhiên, vốn có, Nhà nước có trách nhiệm ghi nhận,
tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người; thừa nhận một số quyền mới bảo
đảm sự tương thích với quy định trong các
Công ước quốc tế về quyền con người Việt Nam tham gia… thể thấy,
những thay đổi trong Hiến pháp năm 2013 là phù hợp vi quy định pháp luật
quốc tế, đồng thời đã khắc phục những hạn chế trước đây.
Cùng với việc hoàn thiện thể chế pháp về quyền con người được ghi nhận trong
các bản Hiến pháp, các văn bản pháp luật khác về quyền con người, bảo đảm
quyền con người vẫn tiếp tục có sự phát triển mạnh. Từ năm 2013 cho đến nay,
công tác cải cách pháp luật, hoàn thiện thể chế, chính sách đã được đẩy mạnh vi
hơn 100 luật, bộ luật có liên quan đến quyền con người được ban hành mới hoặc
sửa đổi, bsung. Đặc biệt, ngày 20/11/2019, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Lao
động (sửa đổi) với nhiều quy định mới, bảo đảm tốt hơn quyền của người lao
động, bản tương thích với các điều ước quốc tế quan trọng của Tổ chức Lao
động quốc tế (ILO). Theo Báo cáo của Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc
(UNDP) năm 2018, Việt Nam thuộc nhóm trung bình cao về Chỉ số phát triển
con người (xếp hạng 116/189 quốc gia); Chỉ số bình đng giới (xếp hạng 67/160
quốc gia). Những nỗ lực của Việt Nam nêu trên nhằm xây dựng hoàn thiện thể
chế pháp cho việc thừa nhận, tôn trọng bảo đảm quyền con người trong giai
đoạn hiện nay.
lOMoARcPSD| 46342985
Thứ hai, xây dựng được hệ thống thiết chế (Nhà nước và các tổ chức khác trong
xã hội) bảo đảm quyền con người và không ngng đổi mới các thiết chế trên phù
hợp với điều kiện thực tin nhằm phát huy vai trò, hiệu quả ti đa trong bảo vệ
quyền con người.
Xét ở góc độ các thiết chế nhà nước mà cụ thể chính là tổ chức và hoạt động của
các quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người nước ta hiện nay,
trong đó nhấn mạnh các cơ quan quan trọng như Quốc hội, Chính phủ và Tòa án.
Từ khi Việt Nam tiến hành đổi mới (đặc biệt từ năm 2013 đến nay), tổ chức
hoạt động của các cơ quan như Quốc hội, Chính phủ và hệ thống Tòa án đu có
sự đổi mới đáng kể theo phương châm “tinh gọn - khoa học - hiệu quả”. Trong
lĩnh vực quyền con người, bảo đảm quyền con người, hoạt động của các cơ quan
nêu trên cũng đổi mới thu được những thành tựu đáng kể. Quốc hội đã ban
hành Hiến pháp, bộ luật, luật trên tinh thần đề cao, tôn trọng và bảo đảm quyền
con người. Chính ph- quan đưa các quy định pháp luật nói chung pp
luật về quyền con người đi vào đời sống, bảo đảm quyền con người được thực thi
trong đời sống. Hệ thống Tòa án - cơ quan có nhiệm vụ “bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người” đã những s đổi mới đáng kể từ năm 2014 đến nay nhằm
phát huy tối đa vai trò của quan pháp trong bảo đảm quyền con người
Việt Nam hiện nay.
Xét từ góc độ hội, bảo đảm, bảo vệ quyền con người Việt Nam hiện nay thực
sự là công vic chung của toàn xã hội, không riêng của Nhà nước. Thực tiễn cho
thấy, các tổ chức khác trong xã hội như Đảng, Đoàn, Mặt trận và các Hội ở nước
ta thời gian vừa qua đã tham gia đáng kể vào quá trình thực hiện, bảo đảm quyền
con người hiện nay. Đảng Cộng sản Việt Nam - tổ chức lãnh đạo xã hội, luôn lấy
con người trung tâm, vì vậy mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều xuất phát
từ con người và suy cho cùng nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích chính đáng ca con
người, tôn trọng bảo đảm quyền con người trên mọi lĩnh vực đời sống. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, với chức năng tập hợp các lực lượng quần chúng trong
hội; hoặc Công đoàn Việt Nam - tổ chức đại diện quyền lợi của người lao động
nhiều tổ chức khác Việt Nam cũng phát huy vai trò trong việc bảo đảm quyền
con người hiện nay.
Thứ ba, nhìn chung, các quyền con người việc bo đảm, bảo vệ quyền con
người Việt Nam hiện nay đã được hiện thực hóa trong tất cả các lĩnh vực
bản, quan trọng của đời sống xã hội.
lOMoARcPSD| 46342985
Trong lĩnh vc chính trị: Nhà nước Vit Nam đã thừa nhận và bảo đảm thực hiện
các quyền con người bản như quyền làm chủ của nhân dân; quyền tham gia
quản lý, giám sát hoạt động của Nhà nước; quyền bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và cùng nhau phát triển của các dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam; quyền
được sống trong đất nước độc lập, có chủ quyền.
Trong lĩnh vực kinh tế: Nhà nước Việt Nam công nhận và bảo đảm các quyền con
người bản như quyền về sở hữu, quyền lao động, quyền việc làm, quyền
được sản xuất - kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế… các
quyền trên đều được hiện thực hóa trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Trong các lĩnh vực văn hóa, hội, tưởng của Nhà nước, quyền con người
luôn được ghi nhận, tôn trọng bo đảm trong thực tế. Trên thực tiễn, mọi người
trong hội Việt Nam hiện nay đu được hưởng các quyền tự do tín ngưỡng, văn
hóa; quyền tự do đi lại; quyền được tiếp cận thông tin; quyền được học tập; quyền
được chăm sóc vy tế; các quyền an sinh xã hội; các quyền công dân cơ bản…
Trong lĩnh vc đối ngoại cũng như hp tác quốc tế, Việt Nam thành viên của
Công ước quốc tế về quyền con người và luôn nỗ lực để thực hiện các quy định
trong Công ước nhằm bảo vệ quyền con người.
2. Một số hạn chế
Bên cạnh các thành tựu kể trên, việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người Việt
Nam hiện nay vẫn còn một số tồn tại, hạn chế sau:
Thứ nhất, hthống thể chế pháp lý bảo đảm quyền con người ở Việt Nam
hiện nay trong một số trường hợp chưa phù hợp và chưa đầy đủ so với các
Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam tham gia.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) là một trong những
điều ước quốc tế quan trọng nhất về quyền con người đã được Đại hội đồng Liên
Hợp quốc thông qua cùng với Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa (ICESCR) theo Nghị quyết số 2200 A (XXI) ngày 16/2/1966. Việt Nam
đã gia nhập ICCPR và ICESCR ngày 24/9/1982. thành viên của cả hai công
ước, Việt Nam nghĩa vụ thực hiện đầy đủ những quyền con người được ghi
lOMoARcPSD| 46342985
nhận trong các công ước này phải “nội luật hóa” vào các quy định pháp luật
quốc gia.
Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn chưa có quy định về một số quyền
con người đã được ghi nhận trong hai công ước tn. Đó các quyền không bị
bắt làm lệ dịch (Điều 8 ICCPR); quyền không bị bkhông hoàn
thành nghĩa vụ theo hợp đồng (Điều 11 ICCPR); quyền được thừa nhận thể
nhân trước pháp luật mọi nơi (Điều 16 ICCPR); quyền đình công (Điều 8.1
ICECSR); quyền thành lập, gia nhập công đoàn (Điều 22 ICCPR, Điều 8.1
ICESCR); tự do ởng (Điều 18.1 ICCPR); quyền được giữ quan điểm riêng
không bị can thiệp (Điều 19.1 ICCPR). Bên cạnh đó, trong cả hai công ước
trên các quyền như tự do đi lại, cư trú; quyền tự do lập hội, biểu tình; quyền
nơi hp pháp… đều được thừa nhận quyền con người tất cả mọi người
không phân biệt đều được hưởng. Tuy nhiên, tại Hiến pháp m 2013 mới chỉ
thừa nhận các quyền trên dành cho “công dân” đó được xem quyền công
dân. Thiết nghĩ, trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Nnước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, các nhà lập pháp, cơ quan có thẩm quyền cần
nghiên cứu, xem xét để chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với các công ước quốc
tế về quyền con người mà Việt Nam tham gia.
Thứ hai, hoạt động của một số thiết chế Việt Nam chưa thực sự hiệu
quả, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm quyền con người hiện
nay, một số quyền con người mới dừng mức độ công nhận, việc tôn trọng
bảo đảm quyền con người trong thực tiễn gp những khó khăn nhất
định, hiệu quả chưa cao.
Trong thời gian vừa qua, các thiết chế bảo đảm thúc đẩy quyền con người
Việt Nam về cơ bản hoạt động hiệu quả, phát huy vai trò tích cực trong việc bảo
vệ quyn con người nước ta hiện nay. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng một số thiết
chế chưa thực hiện đúng, đủ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình; thậm
chí hiện tượng tham ô, tham nhũng, trục lợi xảy ra một squan nhà nước
trong lĩnh vực bản của đời sống gây ra những hậu quả nghiêm trọng, ảnh
hưởng ln đến lợi ích của hội, của Nhà nước, quyền lợi ích ca nhân,
công dân bị xâm phạm. Những vụ việc xy ra gần đây như vụ việc Công ty Việt
Á; những hành vi thao túng thị trường chứng khoán của cá nhân tại các tập đoàn
lOMoARcPSD| 46342985
lớn như FLC hay Tân Hoàng Minh… gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc bảo
đảm và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, sự tham gia của các tổ chức - với cách là các thiết chế khác
trong xã hội để cùng bảo đảm, bo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Vit
Nam cũng chưa thực sự chủ động hiệu quả. Sự phối hợp giữa Nhà nước
các tổ chức khác trong hội trong việc bảo đảm thúc đẩy quyền
con người trong một số trường hợp còn hạn chế, ảnh hưởng nhất định đến
kết quả của việc bảo vệ quyền con người.

Preview text:

CHỦ ĐỀ 4 : GIẢI PHÁP BẢO VỆ , BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY MỤC LỤC
CHƯƠNG I: Khái quát bảo đảm ,bảo vệ quyền con người
1. Khái niệm bảo đảm, bảo vệ quyền con người
2. Đặc điểm của việc bảo đảm , bảo vệ quyền con người LỜI MỞ ĐẦU:
Quyền con người là những giá trị cao quý , kết tinh từ nền văn hóa của tất cả các dân tộc trên
thế giới. Đây là tiếng nói chung, mục tiêu chung và phương tiện chung của toàn nhân loại để
bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi người. lOMoAR cPSD| 46342985
CHƯƠNG I: Khái quát bảo đảm, bảo vệ quyền con người 1. Khái niệm
Quyền con người là một phạm trù đa diện và có nhiều định nghĩa khác nhau.
Mỗi định nghĩa có những cách tiếp cận, nghiên cứu vấn đề từ những góc độ nhất
định và cơ bản chưa có định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của
quyền con người. Có thể thấy, sự phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền
con người phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở
cấp độ quốc tế, Văn phòng Cao ủy Liên Hợp quốc về quyền con người (OHCHR)
định nghĩa: Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo
vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn
hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người. Bên cạnh
đó, một số học giả khác theo học thuyết về các quyền tự nhiên cũng đưa ra cách
hiểu, quan niệm về quyền con người, theo đó, quyền con người là những sự được
phép mà tất cả các thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính,
chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội… đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người.
Ở Việt Nam, cũng tồn tại một số định nghĩa về quyền con người. Trong đó, một
cách khái quát, quyền con người được hiểu là những quyền bẩm sinh, vốn có của
con người mà nếu không được hưởng thì chúng ta sẽ không thể sống như một
con người. Quan niệm nêu trên của các học giả Việt Nam cho thấy sự ảnh hưởng
của các học thuyết về quyền tự nhiên trên thế giới, vì vậy, quyền con người chính
là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo
vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Bên cạnh đó, thuật ngữ “bảo đảm” có thể hiểu là làm cho chắc chắn thực hiện
được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết hoặc sự bảo đảm thực hiện
được hoặc giữ được. Trong khi “bảo vệ” được hiểu là chống lại sự xâm phạm để
giữ lại cho luôn luôn được nguyên vẹn. Như vậy, bảo đảm và bảo vệ là hai khái
niệm khác nhau nhưng nội hàm của chúng có những điểm tương đồng, bổ trợ cho
nhau, vì vậy, trong thực tế người ta hay sử dụng chúng đi liền với nhau hoặc thay
thế cho nhau. Theo đó, các thuật ngữ “bảo đảm, bảo vệ” hàm chỉ các yếu tố -
công cụ được sử dụng nhằm làm cho chắc chắn thực hiện được, chống lại sự xâm
phạm để giữ gìn một cách trọn vẹn sự vật, hiện tượng nào đó. lOMoAR cPSD| 46342985
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Bảo đảm, bảo vệ quyền con người là việc
sử dụng các công cụ cũng như yếu tố tác động nhằm làm cho quyền con người
chắc chắn được thực hiện, đồng thời, chống lại mọi âm mưu xâm phạm quyền
con người; mục đích cuối cùng là quyền con người phải được thừa nhận, thực
hiện với đúng tính chất, nội hàm vốn có của nó.
2. Đặc điểm của việc bảo đảm , bảo vệ quyền con người
Việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người có một số điểm đặc thù sau:
• Chủ thể của hoạt động bảo đảm, bảo vệ quyền con người khá rộng, không chỉ
là Nhà nước mà bao gồm tất cả các cá nhân, tổ chức trong xã hội, thậm chí
tổ chức quốc tế cũng có thể cùng tham gia.
• Bảo đảm, bảo vệ quyền con người phải được thực hiện thông quahệ thống
thể chế - công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội.
• Việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người ở mỗi quốc gia luôn chịusự tác động
bởi nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, xu hướng
dân chủ - yêu chuộng hòa bình, bối cảnh xây dựng - hoàn thiện Nhà nước pháp quyền…
3. Sự cần thiết phải bảo đảm , bảo vệ quyền con người trong xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
CHƯƠNG II : NỘI DUNG VÀ CÁC YẾU TỐ BẢO ĐẢM ,BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
1. Nội dung bảo đảm ,bảo vệ quyền con người
Thực tiễn cho thấy, nội dung của hoạt động bảo đảm, bảo vệ quyền con người ở
các quốc gia trên thế giới không hoàn toàn giống nhau. Với Việt Nam, dựa trên
các quy định của Hiến pháp năm 2013 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới, hội nhập
quốc tế và đẩy nhanh quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, nội dung bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân bao gồm những vấn đề sau:
• Thứ nhất, công nhận (obligation to recognition): Các chủ thể trong xã hội có
trách nhiệm bảo đảm quyền, trước hết và chủ yếu là Nhà nước. Công nhận
nghĩa là phải thừa nhận đồng thời phải ghi nhận ngày càng đầy đủ, cơ bản
bằng các thể chế quan phương là pháp luật và các thể chế phi quan phương lOMoAR cPSD| 46342985
khác mà đặc biệt là đạo đức (đối với các tổ chức xã hội). Đó là sự thừa nhận,
ghi nhận đối với các quyền dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hóa của con người.
• Thứ hai, tôn trọng (obligation to respect): Các chủ thể trong xã hội có trách
nhiệm bảo đảm quyền, trước hết và chủ yếu là Nhà nước. Theo đó, các chủ
thể mà đặc biệt là Nhà nước phải kiềm chế không can thiệp, kể cả trực tiếp và
gián tiếp vào việc thừa nhận, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy các quyền
con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật.
Đồng thời, phải chủ động xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả các thể
chế, chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển và biện pháp quản lý cụ thể
để mọi người được thụ hưởng và phát triển các quyền con người của mình trong thực tế.
• Thứ ba, bảo vệ (obligation to protect): Nhà nước phải ngăn chặn việc vi phạm
quyền con người, quyền công dân đến từ phía các cơ quan nhà nước, các doanh
nghiệp, các tổ chức chính trị, xã hội và
cá nhân; ngăn chặn tình trạng phân biệt đối xử hoặc sự hình thành các thế lực
đe dọa quyền con người, quyền công dân trên các lĩnh vực; điều tra, trừng trị
và phục hồi các quyền đã bị vi phạm hoặc bồi thường khi có sai phạm từ phía
cơ quan, người có thẩm quyền.
• Thứ tư, thực hiện (obligation to fulfil): Các chủ thể trong xã hội, đặc biệt là
Nhà nước phải chủ động xây dựng thể chế (pháp luật, quy chế và thiết chế)
cũng như các chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển, biện pháp quản lý
cụ thể để bảo đảm cho mọi người được hưởng thụ đến mức cao nhất có thể
các quyền con người, quyền công dân. Việc thực hiện chỉ được bảo đảm (bảo
đảm thực hiện) khi các thể chế, chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển
và biện pháp quản lý được đề ra (hay xây dựng) phải mang tính khả thi và
hiệu quả, chứ không phải mang tính hình thức hay đề ra “cho có”, đặc biệt là
trong quá trình thực thi các quyền con người, quyền công dân của các nhóm yếu thế.
• Thứ năm, thúc đẩy (obligation to promote): Tạo lập điều kiện và môi trường
kinh tế nói riêng và xã hội nói chung, mang tính hỗ trợ, thuận lợi cho việc tiếp lOMoAR cPSD| 46342985
cận quyền con người, quyền công dân của các nhóm xã hội, đặc biệt là các
nhóm yếu thế; đồng thời, thiết lập và duy trì một cơ chế minh bạch, hiệu quả
để giám sát quyền con người ở cả khu vực công và tư, theo thể chế pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Việc thúc đẩy quyền con người, quyền công dân đòi hỏi Nhà
nước và các chủ thể trong xã hội có trách nhiệm bảo đảm quyền không chỉ thụ
động, mà quan trọng hơn, là phải chủ động xây dựng và triển khai, thực hiện
các thể chế, chiến lược, kế hoạch, chương trình, biện pháp quản lý cụ thể, để
hỗ trợ các cá nhân và tập thể có điều kiện và môi trường thuận lợi cho việc
thụ hưởng và phát triển các quyền của mình.
2. Các yếu tố bảo đảm ,bảo vệ quyền con người
Bảo đảm, bảo vệ quyền con người là một quá trình và phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khác nhau. Các yếu tố bảo đảm quyền con người cần thiết lập đó là:
• Thứ nhất, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề bảo đảm, bảo vệ quyền con người.
Bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là quan điểm nhất quán, xuyên
suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện qua nhiều Văn kiện Đại hội
Đảng. Ngay từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (tháng 6/1991, được bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác
định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể
phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với
quyền và lợi ích dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”. Quan
điểm trên tiếp tục được quán triệt trong Đại hội XIII của Đảng, theo đó: “Tôn
trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân
theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm
công dân đối với xã hội”.
Quan điểm của Đảng chính là sự kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
đó là: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Quan điểm nhân dân là trung
tâm, là chủ thể trong chiến lược phát triển đã làm rõ hơn về chủ thể thụ hưởng
quyền con người đó chính là nhân dân. Theo đó, trong các chương trình, chính
sách phát triển của Đảng đều phải hướng trọng tâm vào con người nhân dân;
lấy quyền và lợi ích chính đáng của con người là cơ sở xây dựng và hoạch lOMoAR cPSD| 46342985
định chính sách phát triển quốc gia; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm
mục tiêu phấn đấu cao nhất trong hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
• Thứ hai, hệ thống thể chế pháp lý hoàn thiện để bảo đảm, bảo vệ quyền con
người trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Hệ thống thể chế pháp lý đó chính là hệ thống pháp luật hoàn thiện. Dưới góc
độ khoa học, hệ thống pháp luật hoàn thiện phải đáp ứng các tiêu chí về tính
toàn diện, đồng bộ; tính khách quan, khoa học; tính khả thi; tính ổn định và
gọn nhẹ; tính công khai, minh bạch; tính hài hòa giữa quy định pháp luật quốc
gia với quy định pháp luật quốc tế và đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật lập pháp
hiện đại. Theo đó, để bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt
Nam hiện nay thì việc tạo lập một hệ thống pháp luật hoàn thiện đáp ứng các
yêu cầu cơ bản nêu trên chính là cơ sở, hành lang pháp lý và yêu cầu cấp thiết.
• Thứ ba, hệ thống các thiết chế bảo đảm quá trình tổ chức, thực hiện các quy
định pháp luật có liên quan đến quyền con người.
Thuật ngữ “các thiết chế” được khai thác dưới góc độ các tổ chức tồn tại trong
xã hội, đặc biệt là Nhà nước - bộ máy nhà nước đóng vai trò quan trọng trong
tổ chức, thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến quyền con người, bảo
đảm quyền con người hiện nay. Xét ở góc độ thiết chế nhà nước, một bộ máy
có năng lực tổ chức và nguồn nhân lực dồi dào, có kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ sẽ là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện, bảo vệ quyền con
người hiệu quả. Xét ở góc độ xã hội, việc phát huy vai trò của các tổ chức
khác trong xã hội như Đảng, Đoàn, Mặt trận hay các Hội cùng chung tay với
Nhà nước để thực hiện quy định pháp luật về quyền con người và góp phần
đáng kể trong bảo đảm quyền con người ở Việt Nam đạt hiệu quả cao. lOMoAR cPSD| 46342985
• Bên cạnh đó, các yếu tố như điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, nhận
thức của con người trong xã hội, vấn đề hội nhập, xu hướng dân chủ - yêu hòa
bình và nhiều yếu tố khác đều ít nhiều có những tác động nhất định đến việc
bảo đảm, bảo vệ quyền con người ở Việt Nam. Việc xem xét sự ảnh hưởng
của các yếu tố trên là cần thiết, góp phần quyết định hiệu quả việc bảo đảm,
bảo vệ quyền con người hiện nay.
CHƯƠNG III : Thực trạng bảo vệ , bảo đảm quyền con người ở Việt Nam
1. Thành tựu đạt được
Từ năm 1986 khi Việt Nam tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, xóa bỏ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa lấy con người là trung tâm, trải qua hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam
đã đạt được những thành tựu đáng kể trong thực hiện và bảo đảm, bảo vệ quyền
con người, có thể kể tới một số điểm nổi bật sau:
• Thứ nhất, Việt Nam đã xây dựng hệ thống thể chế pháp lý về quyền con người
và bảo đảm quyền con người tương đối đầy đủ và ngày càng hoàn thiện. Đây
chính là sự hiện thực hóa nội dung “công nhận” và tạo cơ sở cho việc thực
hiện bảo đảm quyền con người.
Quyền con người được đề cập cụ thể trong Hiến pháp năm 1992 với quy định tại
Điều 50: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền
công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Đây chính là thành tựu
bước đầu thể hiện sự coi trọng vấn đề quyền con người trong xây dựng và hoàn
thiện nhà nước Việt Nam. Kế tiếp đó, một số các quyền khác như quyền bình
đẳng của phụ nữ, quyền trẻ em… cũng được chính thức đề cập trong Hiến pháp
năm 1992 và các văn bản pháp luật khác liên quan. Xét riêng trên lĩnh vực lập
pháp, chỉ tính từ năm 1996 đến năm 2002, Nhà nước đã ban hành 13.000 văn bản
pháp luật các loại, trong đó có hơn 40 bộ luật và luật, trên 120 pháp lệnh, gần 850
văn bản pháp luật của Chính phủ và trên 3.000 văn bản pháp quy của các bộ,
ngành, trong đó đã “nội luật hóa” một cách toàn diện những công ước quốc tế về
quyền con người mà Việt Nam đã phê chuẩn hoặc gia nhập từ đầu những năm 80
của thế kỷ XX và trong thời kỳ này. Đây là điều mà trong giai đoạn trước hầu
như chúng ta chưa làm được. lOMoAR cPSD| 46342985
Tại Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam, các quy định về quyền con người, bảo
đảm quyền con người có sự phát triển đáng kể. Từ vị trí thứ năm, Chương Quyền
công dân của Hiến pháp năm 1992 được chuyển lên vị trí thứ hai trong Hiến pháp
năm 2013, thể hiện sự quan tâm vượt bậc, cũng như nhận thức của các nhà lập
hiến Việt Nam về tầm quan trọng của quyền con người và quyền công dân. Lần
đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, quá trình soạn thảo Chương về quyền
con người và quyền công dân đã được tham khảo, đối chiếu một cách tương đối
toàn diện với tiêu chuẩn của các quy định nhân quyền của các Công ước quốc tế
mà Việt Nam đã tham gia, ký kết. Đi sâu hơn vào nội dung Chương II, có thể
thấy, Hiến pháp năm 2013 có một số thay đổi cụ thể như sau: Không đồng nhất
“quyền con người” với “quyền công dân” mà có sử dụng hợp lý hai thuật ngữ
này trong từng lĩnh vực cụ thể; thay đổi tư duy pháp lý về quyền con người theo
hướng quyền con người là tự nhiên, vốn có, Nhà nước có trách nhiệm ghi nhận,
tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người; thừa nhận một số quyền mới bảo
đảm sự tương thích với quy định trong các
Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam tham gia… Có thể thấy,
những thay đổi trong Hiến pháp năm 2013 là phù hợp với quy định pháp luật
quốc tế, đồng thời đã khắc phục những hạn chế trước đây.
Cùng với việc hoàn thiện thể chế pháp lý về quyền con người được ghi nhận trong
các bản Hiến pháp, các văn bản pháp luật khác về quyền con người, bảo đảm
quyền con người vẫn tiếp tục có sự phát triển mạnh. Từ năm 2013 cho đến nay,
công tác cải cách pháp luật, hoàn thiện thể chế, chính sách đã được đẩy mạnh với
hơn 100 luật, bộ luật có liên quan đến quyền con người được ban hành mới hoặc
sửa đổi, bổ sung. Đặc biệt, ngày 20/11/2019, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Lao
động (sửa đổi) với nhiều quy định mới, bảo đảm tốt hơn quyền của người lao
động, cơ bản tương thích với các điều ước quốc tế quan trọng của Tổ chức Lao
động quốc tế (ILO). Theo Báo cáo của Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc
(UNDP) năm 2018, Việt Nam thuộc nhóm trung bình cao về Chỉ số phát triển
con người (xếp hạng 116/189 quốc gia); Chỉ số bình đẳng giới (xếp hạng 67/160
quốc gia). Những nỗ lực của Việt Nam nêu trên nhằm xây dựng và hoàn thiện thể
chế pháp lý cho việc thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong giai đoạn hiện nay. lOMoAR cPSD| 46342985
Thứ hai, xây dựng được hệ thống thiết chế (Nhà nước và các tổ chức khác trong
xã hội) bảo đảm quyền con người và không ngừng đổi mới các thiết chế trên phù
hợp với điều kiện thực tiễn nhằm phát huy vai trò, hiệu quả tối đa trong bảo vệ quyền con người.
Xét ở góc độ các thiết chế nhà nước mà cụ thể chính là tổ chức và hoạt động của
các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay,
trong đó nhấn mạnh các cơ quan quan trọng như Quốc hội, Chính phủ và Tòa án.
Từ khi Việt Nam tiến hành đổi mới (đặc biệt từ năm 2013 đến nay), tổ chức và
hoạt động của các cơ quan như Quốc hội, Chính phủ và hệ thống Tòa án đều có
sự đổi mới đáng kể theo phương châm “tinh gọn - khoa học - hiệu quả”. Trong
lĩnh vực quyền con người, bảo đảm quyền con người, hoạt động của các cơ quan
nêu trên cũng đổi mới và thu được những thành tựu đáng kể. Quốc hội đã ban
hành Hiến pháp, bộ luật, luật trên tinh thần đề cao, tôn trọng và bảo đảm quyền
con người. Chính phủ - cơ quan đưa các quy định pháp luật nói chung và pháp
luật về quyền con người đi vào đời sống, bảo đảm quyền con người được thực thi
trong đời sống. Hệ thống Tòa án - cơ quan có nhiệm vụ “bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người” đã có những sự đổi mới đáng kể từ năm 2014 đến nay nhằm
phát huy tối đa vai trò của cơ quan tư pháp trong bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện nay.
Xét từ góc độ xã hội, bảo đảm, bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay thực
sự là công việc chung của toàn xã hội, không riêng của Nhà nước. Thực tiễn cho
thấy, các tổ chức khác trong xã hội như Đảng, Đoàn, Mặt trận và các Hội ở nước
ta thời gian vừa qua đã tham gia đáng kể vào quá trình thực hiện, bảo đảm quyền
con người hiện nay. Đảng Cộng sản Việt Nam - tổ chức lãnh đạo xã hội, luôn lấy
con người là trung tâm, vì vậy mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều xuất phát
từ con người và suy cho cùng nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích chính đáng của con
người, tôn trọng và bảo đảm quyền con người trên mọi lĩnh vực đời sống. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, với chức năng tập hợp các lực lượng quần chúng trong
xã hội; hoặc Công đoàn Việt Nam - tổ chức đại diện quyền lợi của người lao động
và nhiều tổ chức khác ở Việt Nam cũng phát huy vai trò trong việc bảo đảm quyền con người hiện nay.
Thứ ba, nhìn chung, các quyền con người và việc bảo đảm, bảo vệ quyền con
người ở Việt Nam hiện nay đã được hiện thực hóa trong tất cả các lĩnh vực cơ
bản, quan trọng của đời sống xã hội. lOMoAR cPSD| 46342985
Trong lĩnh vực chính trị: Nhà nước Việt Nam đã thừa nhận và bảo đảm thực hiện
các quyền con người cơ bản như quyền làm chủ của nhân dân; quyền tham gia
quản lý, giám sát hoạt động của Nhà nước; quyền bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và cùng nhau phát triển của các dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam; quyền
được sống trong đất nước độc lập, có chủ quyền.
Trong lĩnh vực kinh tế: Nhà nước Việt Nam công nhận và bảo đảm các quyền con
người cơ bản như quyền về sở hữu, quyền lao động, quyền có việc làm, quyền
được sản xuất - kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế… các
quyền trên đều được hiện thực hóa trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, tư tưởng của Nhà nước, quyền con người
luôn được ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm trong thực tế. Trên thực tiễn, mọi người
trong xã hội Việt Nam hiện nay đều được hưởng các quyền tự do tín ngưỡng, văn
hóa; quyền tự do đi lại; quyền được tiếp cận thông tin; quyền được học tập; quyền
được chăm sóc về y tế; các quyền an sinh xã hội; các quyền công dân cơ bản…
Trong lĩnh vực đối ngoại cũng như hợp tác quốc tế, Việt Nam là thành viên của
Công ước quốc tế về quyền con người và luôn nỗ lực để thực hiện các quy định
trong Công ước nhằm bảo vệ quyền con người.
2. Một số hạn chế
Bên cạnh các thành tựu kể trên, việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người ở Việt
Nam hiện nay vẫn còn một số tồn tại, hạn chế sau:
Thứ nhất, hệ thống thể chế pháp lý bảo đảm quyền con người ở Việt Nam
hiện nay trong một số trường hợp chưa phù hợp và chưa đầy đủ so với các
Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam tham gia.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) là một trong những
điều ước quốc tế quan trọng nhất về quyền con người đã được Đại hội đồng Liên
Hợp quốc thông qua cùng với Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa (ICESCR) theo Nghị quyết số 2200 A (XXI) ngày 16/2/1966. Việt Nam
đã gia nhập ICCPR và ICESCR ngày 24/9/1982. Là thành viên của cả hai công
ước, Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ những quyền con người được ghi lOMoAR cPSD| 46342985
nhận trong các công ước này và phải “nội luật hóa” vào các quy định pháp luật quốc gia.
Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn chưa có quy định về một số quyền
con người đã được ghi nhận trong hai công ước trên. Đó là các quyền không bị
bắt làm nô lệ và nô dịch (Điều 8 ICCPR); quyền không bị bỏ tù vì không hoàn
thành nghĩa vụ theo hợp đồng (Điều 11 ICCPR); quyền được thừa nhận là thể
nhân trước pháp luật ở mọi nơi (Điều 16 ICCPR); quyền đình công (Điều 8.1
ICECSR); quyền thành lập, gia nhập công đoàn (Điều 22 ICCPR, Điều 8.1
ICESCR); tự do tư tưởng (Điều 18.1 ICCPR); quyền được giữ quan điểm riêng
mà không bị can thiệp (Điều 19.1 ICCPR). Bên cạnh đó, trong cả hai công ước
trên các quyền như tự do đi lại, cư trú; quyền tự do lập hội, biểu tình; quyền có
nơi ở hợp pháp… đều được thừa nhận là quyền con người và tất cả mọi người
không phân biệt đều được hưởng. Tuy nhiên, tại Hiến pháp năm 2013 mới chỉ
thừa nhận các quyền trên dành cho “công dân” và đó được xem là quyền công
dân. Thiết nghĩ, trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, các nhà lập pháp, cơ quan có thẩm quyền cần
nghiên cứu, xem xét để chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với các công ước quốc
tế về quyền con người mà Việt Nam tham gia.
Thứ hai, hoạt động của một số thiết chế ở Việt Nam chưa thực sự hiệu
quả, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm quyền con người hiện
nay, một số quyền con người mới dừng ở mức độ công nhận, việc tôn trọng
và bảo đảm quyền con người trong thực tiễn gặp những khó khăn nhất
định, hiệu quả chưa cao.
Trong thời gian vừa qua, các thiết chế bảo đảm và thúc đẩy quyền con người ở
Việt Nam về cơ bản hoạt động hiệu quả, phát huy vai trò tích cực trong việc bảo
vệ quyền con người ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng một số thiết
chế chưa thực hiện đúng, đủ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình; thậm
chí hiện tượng tham ô, tham nhũng, trục lợi xảy ra ở một số cơ quan nhà nước
trong lĩnh vực cơ bản của đời sống gây ra những hậu quả nghiêm trọng, ảnh
hưởng lớn đến lợi ích của xã hội, của Nhà nước, quyền và lợi ích của cá nhân,
công dân bị xâm phạm. Những vụ việc xảy ra gần đây như vụ việc Công ty Việt
Á; những hành vi thao túng thị trường chứng khoán của cá nhân tại các tập đoàn lOMoAR cPSD| 46342985
lớn như FLC hay Tân Hoàng Minh… gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc bảo
đảm và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam hiện nay.
• Bên cạnh đó, sự tham gia của các tổ chức - với tư cách là các thiết chế khác
trong xã hội để cùng bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt
Nam cũng chưa thực sự chủ động và hiệu quả. Sự phối hợp giữa Nhà nước
và các tổ chức khác trong xã hội trong việc bảo đảm và thúc đẩy quyền
con người trong một số trường hợp còn hạn chế, ảnh hưởng nhất định đến
kết quả của việc bảo vệ quyền con người.