Tiểu luận môn Giới thiệu và trải nghiệm nghề nghiệp | Trường Đại học Kinh Bắc
Tiểu luận môn Giới thiệu và trải nghiệm nghề nghiệp | Trường Đại học Kinh Bắc. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 21 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Giới thiệu và trải nghiệm nghề nghiệp (KB01)
Trường: Đại học Kinh Bắc
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH BẮC BÀI TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
GIỚI THIỆU VÀ TRẢI NGHIỆM NGHỀ NGHIỆP
Tên bài: Lịch sử ngành y khoa
Họ và tên sinh viên: Đào Văn Đạt Lớp: 12D.YK01
Ngày tháng năm sinh: 04/04/1993 Mã sinh viên: 12D7720008
PHẦN 1: LỊCH SỬ NGÀNH Y KHOA
Y học là một lĩnh vực khoa học ứng dụng liên quan đến nghệ thuật chữa bệnh,
bao gồm nhiều phương pháp chăm sóc sức khỏe nhằm duy trì, hồi phục cơ thể từ
việc phòng ngừa và chữa bệnh.
A. LỊCH SỬ Y HỌC THẾ GIỚI
Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng lịch sử y học có thể đã ra đời cùng với
lịch sử phát sinh bệnh tật và lịch sử người thầy thuốc. Trong hang Ba anh em (La
Grotte des Trois Frères) người ta đã tìm được bức vẽ cách đây khoảng 17 ngàn năm
mô tả một phù thủy đầu hưu đang chữa bệnh.
Y học phát triển theo năm tháng và theo vùng, nhanh hay chậm tùy theo sự phát
triển của nền văn hóa, kinh tế, văn minh và đặc điểm của từng dân tộc.
Có nhiều cách phân tích lịch sử y học thế giới: phân tích theo vùng, phân tích theo
thời gian, phân tích dựa theo sự tiến bộ của các phương pháp tiếp cận và nghiên cứu
phát triển của ngành Y Học. Phương pháp cuối này đơn giản và rõ ràng hơn. Theo
phương pháp phân tích này, các nhà nghiên cứu phân tích lịch sử y học thế giới thành 4 giai đoạn:
1- Giai đoạn Y Học Tâm Linh (Spiritism Medicine)
Vào đầu thời La Mã cổ đại, người Hy Lạp cổ tin rằng bệnh tật là "sự trừng phạt của
thánh thần" và chữa bệnh là một "món
quà từ các vị thần". Người ta nhận ra rằng tâm
trí đóng một vai trò quan trọng trong chữa bệnh và nó cũng có thể là căn nguyên duy nhất của bệnh.
Vào thời kỳ xa xưa đó, nền y học La-Hy mang nhiều tính chất thần thoại. Mỗi khi
mắc bệnh, người La Mã đến đền thờ cầu khẩn các vị thần linh: Minerva, Diana, Hygiea...
Tại vùng Lưỡng Hà và Ai Cập, vào thời kỳ cổ đại, trong khoảng thời gian 3500 –
1500 năm trước CN đã phát triển nền y học sơ khai. Trong nền y học sơ khai này, siêu
nhiên có mặt trong tất cả các khía cạnh bệnh tật và chữa bệnh: Bệnh tật và tai họa đều
được gán cho các tác nhân siêu nhiên: thần thánh, ma quỷ… Trong thời kỳ này việc
chẩn đoán, phòng ngừa, điều trị bệnh đều cần đến ma thuật, cúng kiến, cầu khẩn…
Nguyên nhân của bệnh tật đều được cho là do ma quỷ, thần thánh, thần linh… Các phù
thủy, shaman(người lên đồng), thầy pháp...là những người đứng ra phù phép, cúng
kiến…để “chữa bệnh’ cho mọi người trong vùng.
Ở phương đông: Vùng Ấn Độ có rất ít tài liệu ghi lại. Kinh Vệ Đà có ghi lại những
tài liệu được soạn ra trong khoảng 1500 – 1000 trước CN cho thấy những thầy thuốc,
được xem như thần thánh, chiến dấu chống lại ma quỷ, cử hành những nghi thức thần
bí chống lại bệnh tật, dịch bệnh. Tại Trung Quốc, các nhà nghiên cứu không tìm thấy 1
lài liệu nào về sự phát triển y học trong giai đoạn này. Họ chỉ tìm được các dấu vết rất
nhạt nhòa trong các câu chuyện được truyền tụng trong dân gian.
Y thuật tâm linh (YTTL) là hiện tượng chữa bệnh dựa vào các quyền lực thần bí.
Trong thời kỳ này, người ta tin rằng bệnh là do sự quở phạt của thần linh. Khi có bệnh
người ta nhờ cậy vào “thầy Mo”,“thầy cúng” cầu thần linh cho khỏi bệnh.
Lịch sử y học trong giai đoạn này được ghi lại rất ít, mơ hồ. Những tiến bộ về y học
trong thời kỳ này phát triển tại những vùng cách nhau và biệt lập. Do không có nhiều
trao đổi thông tin, không có trường dạy về y học nên trong thời gian dài sự tiến bộ
không nhiều và không đồng bộ.
Ngày nay vẫn còn nhiều nơi trên thế giới tồn tại giai đoạn y học này, trong đó có Việt Nam.
Y học trong giai đoạn này kém hiệu quả do dựa trên cơ sở mê tín nên trong thời
gian dài không có tiến bộ đáng kể. Dần dần nó được thay thế bởi nền y học tến bộ hơn,
hiệu quả hơn, đó là Giai đoạn Y Học kinh nghiệm. Sự thay thế này diễn ra trên những
vùng riêng biệt và nhờ vào một số nhân vật xuất chúng, tự phát ở mỗi nơi.
2- Giai đoạn Y Học Kinh Nghiệm (Empiric Medicine)
Đây là giai đoạn mà các thầy thuốc thông minh xuất chúng ở rải rác nhiều nơi trên
thế giới tự mình tích lũy kinh nghiệm, đưa các kinh nghiệm ấy vào việc khám, chữa
bệnh làm cho việc điều trị có hiệu quả hơn. Họ quan sát, tích lũy kinh nghiệm và chữa
bệnh dựa vào kinh nghiệm cá nhân hay được truyền lại. Giai đoạn này phát triển mạnh mẻ ở vùng Trung - Ấn.
Trong giai đoạn này người ta chỉ thuần túy dựa vào kinh nghiệm để chẩn đoán và
điều trị. Các thầy thuốc ghi nhận: Người bệnh đau gan thì bị vàng da. Khi bị vàng da
(đau gan) thì uống thuốc A sẽ giảm. Thầy thuốc không lý giải được vì sao đau gan lại
vàng da, hoặc một số thầy thuốc tìm cách giải thích theo suy nghĩ của mình (không
chắc là đúng hay không). Và lại đây chỉ là kinh nghiệm cá nhân trên một số trường
hợp nên dễ chủ quan và sai lệch.
Y Học kinh nghiệm được ghi nhận từ lâu, trong nhiều nền văn minh cổ như Ấn Độ,
Ai Cập, Hy Lạp hay Trung Hoa.
- Y học thời cổ Ai Cập: Kim
tự tháp được xây dựng trong giai đoạn này với thời
gian kéo dài hàng trăm năm và hơn chục vạn nô lệ làm việc. Lúc đó xẩy ra tai nạn
thường xuyên nên các kỹ thuật điều trị chấn thương được hình thành từ đó. Trong thời
kỳ này ngành y học Ai Cập đã tổ chức thành các chuyên khoa theo các bộ phận cơ thể
như: Khoa mắt, khoa chấn thương, ướp xác … và đã có những tiến bộ đáng kể. 2
- Y học cổ vùng Lưỡng Hà: Ở thời kỳ này người ta đã biết một số bệnh do muỗi
truyền. Dược phẩm được dùng ở thời kỳ này là tỏi, hạt cải, mướp đắng, lưu huỳnh và cà độc dược.
- Y học cổ Trung Quốc: Châm cứu đã được hình thành và phát triển với sự ra đời
của thuyết âm dương, ngũ hành. Nhiều tác phẩm y học nổi tiếng như Thần nông bản
thảo và Hoàng đế nội kinh ra đời trong giai đoạn này. Nội kinh là cuốn sách liệt kê các
lý luận và thực hành y học. Các danh y đời Hán thời đầu công nguyên cho ra đời cuốn
sách Thần nông bản thảo kinh. Sách tổng hợp các loại dược liệu, gồm 365 vị thuốc bổ
và thuốc chữa bệnh như ma hoàng chữa bệnh hen, thuỷ ngân chữa bệnh ngoài da...
Hoa Đà (145-208), là một thầy thuốc nổi tiếng cuối thời Đông Hán và đầu thời Tam
Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông được xưng tụng như một Thần y nổi tiếng không
chỉ trong Trung Quốc mà cả trong các nước đồng văn hóa như Việt Nam, Nhật Bản và
Hàn Quốc, được xem là một trong những ông tổ của Đông Y. Ông cùng Đổng Phụng
và Trương Trọng Cảnh được xưng tụng là Kiến An tam Thần y. Biển Thước, là một
thầy thuốc trứ danh thời Chiến Quốc và được xem là một trong những danh y đầu tiên
được ghi chép sớm nhất trong các thư tịch của lịch sử Trung Quốc. Tương truyền ông
chính là người khai sinh ra phương pháp bắt mạch, là người đặt tiền đề quan trọng cho
Đông y. Do tiếng tăm và các điển tích thần kỳ, về sau Biển Thước cùng Hoa Đà,
Trương Trọng Cảnh và Lý Thời Trân được hậu thế xưng tụng “Trung Quốc cổ đại Tứ
đại danh y”. Tác phẩm của ông còn có “Biển Thước nội kinh”, “Biển Thước ngoại kinh” và “Nạn kinh”. Danh Y Hoa Đà
Châm cứu cũng đã bắt đầu phát triển. Thế kỷ XI có ông Vương Duy Nhất đã đúc
tượng đồng để khắc các huyệt vào đó. Y học thời Tống, từ thế kỷ XIII, xuất hiện cuốn 3
“Tây Oan lục” là cuốn sách đầu tiên nói về pháp y. Thế kỷ XVI người Trung Quốc đã biết cách chủng đậu.
Y học cổ La Mã, Hy Lạp xuất hiện:
Claudius Galenus (129–200/217), hay còn gọi là Galen là một thầy thuốc và nhà
triết học nổi tiếng người La Mã gốc Hy Lạp và có lẽ là nhà nghiên cứu y học tài ba
nhất của thời La Mã. Các học thuyết của ông đã chi phối và ảnh hưởng đến y
họcphương tây hơn một thiên niên kỷ. Giải thích của ông về y học giải phẫu được thực
hiện trên khỉ (do việc giải phẫu người không được phép thực hiện vào thời đó), nhưng
nó không được chú ý nhiều cho đến khi những bản in miêu tả và minh họa về giải
phẫu người được Andreas Vesalius xuất bản năm 1543. Giải thích của ông về các hoạt
động của tim, động mạch và tĩnh mạch kéo dài cho đến khi William Harvey đưa ra
năm 1628 rằng máu tuần hoàn trong cơ thể với tim hoạt động như một máy bơm. Đến
thế kỷ 19 các sinh viên y học vẫn tìm hiểu về Galen để học tập một số quan điểm của
ông. Galen đã thực hiện một số thí nghiệm thắt dây thần kinh để lý giải cho học thuyết
rằng não điều khiển mọi chuyển động của cơ liên quan đến hệ thần kinh ngoại biên và sọ.
Galien (131-205) có nhiều đóng góp cho nghiên cứu giải phẫu hệ cơ, xương, khớp, thần kinh.
Giai đoạn Y Học kinh nghiệm phát triển khắp nơi trên thế giới, mạnh nhất là ở
phương đông, vùng Trung-Ấn, nên thường được gọi là Đông Y.
Vì nhiều lý do khác nhau: Dựa vào kinh nghiệm cá nhân của một số thấy thuốc, các
vấn đề y học không được giải thích bởi các luận lý khoa học nên những kiến thức y
học trong giai đoạn này không đáp ứng được nhu cầu thực tế chữa bệnh cho con người
và giúp cho ngành y tế phát triển xa hơn. Diễn ra trong thời kỳ phong kiến nên nền y
học này nhằm phục vụ vua chúa và những người của giai cấp thượng lưu, những người
trong triều đình nên sự phát triển bị hạn chế.
Sự phát triển kinh tế ở phương đông sau một thời gian dài bùng nổ đã bắt đầu chững
lại nhường chổ cho sự phát triển công nghiệp, khoa học phát triển ở phương tây.
Ngành Y Học cũng theo đó rẽ sang một hướng khác: Y Học khoa học, giai đoạn y học
được soi sáng bởi ánh sáng khoa học.
3- Giai đoạn Y Học Khoa Học (Scientific Medicine) hay Y Học Thực Nghiệm
(Experimental Medicine):
- Hyppocrate (460-377 TCN) được xem là tổ sư của ngành y mà kế thừa ngày nay
là y học phương Tây hay Tây y. Ông là một trong những người có công lao về y học
và có thể coi là người sáng lập ra y học thực nghiệm. Ông cũng được ghi nhận như
người đầu tiên thành lập trường y khoa, cũng là người soạn ra lời thề Hippocrates (về 4
sau được Celsus bổ sung). Galen đã đặt nền tảng phát triển cho lý luận y khoa. Sau khi
đế chế La Mã sụp đổ và bắt đầu thời Trung Cổ, các lương y trong thế giới đạo Hồi đã
kế tục và tạo nên bước đột phá lớn cho ngành y nhờ được hỗ trợ từ bản dịch sang tiếng
A rập các công trình của Hippocrates và Galen. Nhiều lương y tiên phong nổi tiếng là
người A Rập, như ông Avicenna được gọi là "tổ sư y học hiện đại", ông Abulcasis là
tổ sư ngành phẫu thuật, ông Avenzoar là tổ sư ngành phẫu thuật thực nghiệm, ông Ibn
al-Nafis và ông Averroes là tổ sư ngành sinh lý học tuần hoàn (circulatory
physiology), ông Rhazes sáng lập ngành nhi khoa. Họ vẫn còn để lại ảnh hưởng cho y
học phương Tây đến thời Trung đại.
Ông tổ ngành Y - Hyppocrate
Những quan điểm và thực tiễn cơ bản của Hyppocrate về y học như sau:
Tách rời tôn giáo và y học, xây dựng y học trên cơ sở vật chất, dựa vào quan sát cụ
thể những dấu hiệu của bệnh. Bệnh tật là một hiện tượng tự nhiên của cơ thể, không có
ma lực huyền bí gì gây nên.
Nguyên tắc cơ bản để chữa bệnh chủ yếu là trợ lực cho sức đề kháng tự nhiên của
cơ thể, phải tránh tất cả những gì cản trở khả năng tự chữa và sức khỏe tự nhiên của
bệnh nhân. Cách điều trị của Hyppocrate rất thận trọng "Không được làm bất cứ điều
gì một cách táo bạo. Thầy thuốc dù không làm được gì cho bệnh nhân, nhưng không
được gây tác hại gì cho họ".
Ông đề ra thuyết môi trường, con người sống không cô lập mà dù muốn hay không
vẫn phải tuân theo các quy luật tự nhiên. Vai trò của người thầy thuốc là không được
đối lập tự nhiên mà phải tạo điều kiện thuận lợi cho tự nhiên, cho cơ thể chống lại
bệnh tật. Việc ăn uống đã được ông nghiên cứu rất kỹ, các chế độ ăn uống được ghi rõ
ràng. Ông còn là một nhà tiết chế dinh dưỡng, nhà vệ sinh học. 5
Hyppocrate và các học trò đã biết bệnh lao, ung thư, thiếu máu, bướu cổ, “bệnh
xanh mét của phụ nữ”, sỏi mật, ứ máu, động kinh, các chứng liệt, hysteria, rối loạn tâm
thần, bệnh đường hô hấp, tiêu hóa, gan, lách, thận, tiết niệu, sinh dục, xương, da, tai
mũi họng, dị ứng do thức ăn.
Hyppocrate là một nhà phẫu thuật, đã mổ và chữa gẫy xương, nắn sai khớp, chữa
vết thương đầu. Dụng cụ phẫu thuật rất phong phú: dao mổ, que thăm dò, muổng nạo...
Về thuốc: dùng thuốc phiện, cà độc dược, thuốc ngủ, an thần, muối chì, muối acid,
muối đồng, thuốc mỡ để điều trị.
- Claude Bemard (1813-1873) sáng lập y học thực nghiệm, thống nhất sinh lý học,
bệnh học và điều trị học. Ông đã nghiên cứu thần kinh giao cảm, chức phận tạo đường
của gan, vai trò của dịch tụy trong tiêu hóa. Về quan điểm và phương pháp của mình,
ông viết: "Biết và chưa biết là 2 thái cực khoa học cần thiết". Ông cũng đã nhấn mạnh
mối liên quan giữa cơ thể và môi trường.
- Louis Pasteur (1822-1895) nhà hóa học, nhà vi khuẩn học đầu tiên. Năm 1879,
Pasteur cô lập và nuôi cấy liên cầu khuẩn. Pasteur thấy rằng bệnh dại lây nhiễm nhờ
một tác nhân nhỏ không tìm thấy dưới kính hiển vi, nhờ đó mở ra thế giới phát hiện ra
virus. Kết quả là ông đã triển khai được kỹ thuật tiêm vaccin cho chó chống bệnh dại
và điều trị cho người bị chó dại cắn.
- Davaine (1812-1882) và Rayet (1793-1863) năm 1850 tìm ra trực khuẩn than.
- Năm 1880 Eberth tìm ra trực khuẩn thương hàn.
- Robert Koch (1843-1910) năm 1884 tìm ra trực khuẩn lao.
- Calmette (1863-1933) và Guérin năm 1921 tìm ra vaccin BCG chủng lao.
- Louis Pasteur (1822) phát hiện ra tụ cầu và liên cầu năm 1890.
- Năm 1865 Mendel (1822-1884) thí nghiệm về lai thực vật. - …
Trong giai đoạn này các thầy thuốc nghiên cứu giải thích các hiện tượng y học theo
khoa học. Người ta giải đáp được các thắc mắc: vì sao bệnh nhân đau gan bị vàng da?
Một loại thuốc tác dụng chữa bệnh như thế nào? Các thầy thuốc cũng là nhà khoa học
tìm ra và chứng minh được các tác nhân gây bệnh, các cơ chế sinh bệnh (mechanism
of disease), chế được các thuốc chữa bệnh có tác dụng thực sự vào các chuyển biến
sinh lý bệnh gúp cho việc chữa bệnh có hiệu quả hơn. Từ nền tảng đó các nhà khoa
học tìm hiểu ngày càng sâu xa hơn các nguồn gốc gây ra bệnh tật và phát triển những
phương pháp điều trị phù hợp.
Giai đoạn Y Học Khoa Học hay Y Học Thực Chứng phát triển mạnh mẻ ở các nước
phương tây nên thường được gọi là Tây Y. 6
4- Giai đoạn Y Học Hiện Đại:
Y học hiện đại là một trào lưu mới có mục đích thiết lập quy trình chẩn đoán và
điều trị hiệu quả nhất bằng phương pháp "xét duyệt có hệ thống" (systematic review)
và "phân tích gộp" (meta-analysis) theo thống kê. Nó phát triển nhờ tiến bộ của khoa
học thông tin hiện đại giúp thu thập và phân tích khối lượng dữ liệu, bằng chứng rất
lớn theo quy chuẩn, sau đó phổ biến cho các nơi làm dịch vụ chăm sóc sức khỏe hay
phòng trị bệnh. Một nan đề cho phương pháp "tối ưu" này là nó có thể bị xem là cách
tiếp cận có kịch tính (dramatic), nghĩa là sẽ tạo ra nhiều đánh giá khác nhau. Báo cáo
của chương trình hợp tác Cochrane là phong trào chủ trương ý kiến này năm 2001 cho
biết trong 160 bản "xét duyệt có hệ thống" của Cochrane, căn cứ vào ít nhất hai người
nhận xét, thì có 21,3% bằng chứng không đầy đủ, 20% không công hiệu và 22,55%
bằng chứng là dương tính. Từ đó Y Học phát triển sang giai đoạn:
- Y Học Chứng Cứ (YHCC - Evidence Based Medicine-EBM):
Là một khái niệm được đề cập lần đầu tiên năm 1972 bởi Giáo sư Archie Cochrane
trong quyển sách của ông “Effectiveness and Efficiency: Random Reflections on
Health Services”. Theo Nhóm Làm việc về Y học Chứng cứ, Viện Đại học Illinois,
Mỹ thì YHCC là một cách tiếp cận trong thực hành y khoa trong đó người thầy thuốc
lâm sàng quan tâm đến những chứng cứ hỗ trợ cho việc thực hành lâm sàng và giá trị
của những chứng cứ đó.
Y học được mệnh danh là một khoa học tức là dựa trên những chứng cứ vậy thì tại
sao lại có y học chứng cứ? Thật sự thì dù là một khoa học, việc thực hành y học không
bao giờ mang tính hệ thống và nhất quán một cách tuyệt đối khi mà việc chẩn đoán,
tiên lượng và điều trị chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố từ tâm lý đến văn hóa, kinh
tế, xã hội. Thầy thuốc không phải là một cái máy mà là một con người, cũng có lúc
mệt mỏi, căng thẳng hoặc buồn bực, giận hờn… Ngoài ra người thầy thuốc còn chịu
ảnh hưởng bởi thái độ, cách xử sự của bệnh nhân. Về những yếu tố văn hóa, ngoài
những tập quán, chuẩn mực, giá trị thuộc về văn hóa địa phương, người hầy thuốc còn
chịu ảnh hưởng của trường phái, của ý kiến của những người có uy tín hoặc ở vị trí cao
tại cơ sở thực hành v.v… Những yếu tố kinh tế, xã hội cũng ảnh hưởng đến thực hành
của người thầy thuốc chẳng hạn như cơ sở vật chất, điều kiện, quy định làm việc, tình
trạng kinh tế của bệnh nhân, của bản thân thầy thuốc v.v…
Từ khi internet phát triển, có quá nhiều các thông tin, trong đó có các thông tin về y
học. Trong số những thông tin đó có những thông tin có giá trị, có thông tin ít giá trị
thậm chí có những thông tin sai lệch, chủ quan (vô tình hay cố ý). Vì vậy phải đặt ra
một hệ thống lọc, giúp nhà nghiên cứu chân chính chọn được những thông tin quý giá,
loại ra những thông tin sai lệch, chủ quan thậm chí lừa bịp vì những mục đích xấu. 7
Y học chứng cứ (Evidence-based medicine) được định nghĩa như là một phương
pháp thực hành y khoa dựa vào các dữ liệu y học một cách sáng suốt và có ý thức,
nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhân.
Bằng chứng khoa học mang tính chính thống là những dữ liệu được công bố trên
các tập san khoa học được cộng đồng khoa học công nhận. Hiện nay, chỉ trong ngành
y sinh học, đã có ít nhất 30.000 tập san (nhưng chỉ khoảng 10% nằm trong danh sách
của Viện thông tin khoa học -- Institute of Scientific Information). Với một lượng
thông tin khổng lồ như thế, không một bác sĩ nào có thể cập nhật hóa kiến thức một cách đầy đủ.
Y học chứng cứ đòi hỏi bác sĩ phải sử dụng dữ liệu y học một cách “sáng suốt và có
ý thức”. Nói cách khác, không chỉ là tiếp nhận dữ liệu, người thầy thuốc phải hiểu dữ
liệu đó có ý nghĩa gì, và có đáng tin cậy hay không, để từ đó đi đến những so sánh
khách quan hơn và quyết định tốt hơn.
Nghiên cứu y học được công bố trên các tập san nghiên cứu y khoa thường rất đa
dạng, và xuất hiện với nhiều danh từ, thuật ngữ không mấy quen thuộc. Một số nghiên
cứu thường thấy là meta-analysis (phân tích tổng hợp), randomized controlled clinical
trial (RCT, nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên), prospective (longitudinal)
study (nghiên cứu theo thời gian), cross-sectional study (nghiên cứu tiêu biểu một thời
điểm), và case-control study (nghiên cứu bệnh chứng). Giá trị khoa học của những
nghiên cứu này không giống nhau. Theo y học thực chứng, các nghiên cứu sau đây có
giá trị khoa học xếp theo tứ tự cao nhất đến thấp nhất: 1. Textbook
2. Phân tích tổng hợp hay phân tích gộp (Meta-analysis).
3. Nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled clinical trial -
RCT). Nghiên cứu HOPE: một nghiên cứu RCT tiêu biểu
4. Nghiên cứu theo thời gian (longitudinal studies hay prospective study)
5. Nghiên cứu tiêu biểu một thời điểm (cross-sectional studies)
6. Nghiên cứu bệnh chứng (case-control study)
7. Báo cáo trường hợp lâm sàng (case reports)
8. Nghiên cứu cơ bản (basic research)
9. Ý kiến cá nhân và điểm báo, xã luận
Nói một cách khác làm việc theo cách tiếp cận y học chứng cứ chính là một tiến
trình học tập dựa trên vấn đề, không phải chỉ diễn ra ở một giai đoạn nào mà liên tục suốt đời người.
- Y Học Cá Thể Hóa (Personalized Medicine) hay Y Học Chính Xác (Precision Medicine): 8
Trong thập kỷ đầu của thế kỷ 21, những tiến bộ đáng kinh ngạc của di truyền học
hiện đại, đặc biệt là thành quả nghiên cứu tế bào gốc và bản đồ gen người đã giúp các
nhà khoa học dự đoán được phản ứng của cơ thể nhờ phân tích bộ gen của chính người
bệnh. Xu hướng “cá thể hóa” trong y học phương Tây đang được đánh thức để hình
thành mô hình mới đầy hấp dẫn: Y học chính xác.
Y học chính xác hay y học cá thể hóa (PM) được hiểu một cách đơn giản là điều trị
đúng bệnh nhân với đúng thuốc, đúng liều, và vào đúng thời điểm. Nói rộng hơn, PM
có thể được coi là công tác y tế chăm sóc phù hợp với các đặc điểm cá nhân, nhu cầu
và sở thích của mỗi bệnh nhân trong tất cả các khâu bao gồm: phòng ngừa, chẩn đoán, điều trị và theo dõi.
Thực ra, ý tưởng này có nguồn gốc từ thời cổ đại: Hipprocrates - “cha đẻ của nghề
y”- đã từng kê đơn “người nào thuốc ấy”, không ai giống ai, dựa trên đặc thù bệnh mà
mỗi người mắc phải. Ngày nay, y học hiện đại cũng đang sử dụng các nguyên tắc trên
nhờ sự hỗ trợ mạnh mẽ từ thành tựu của công nghệ gene.
PM là mô hình y tế đề xuất phương pháp chăm sóc sức khỏe tùy biến, với các quyết
định (chẩn đoán, dự phòng, chăm sóc, điều trị) và các sản phẩm (thuốc, thực phẩm…)
được thiết kế riêng cho từng bệnh nhân dựa trên thông tin di truyền của chính họ và đặc thù căn bệnh.
Căn cứ vào bản đồ gene của mỗi người, PM sử dụng những chẩn đoán phức tạp và
tinh tế để đưa ra phác đồ điều trị chính xác, phù hợp với đặc điểm di truyền của từng
người ở cấp độ phân tử. Hiện nay, PM mới dừng lại ở mức độ phân nhỏ nhóm bệnh
nhân để đưa ra phương pháp điều trị, nhưng khi bản đồ gen người hoàn toàn được giải
mã, PM sẽ càng thêm hoàn thiện. Khi đó, các bác sĩ có thể thiết kế những mô hình
chăm sóc sức khỏe “vừa khít” và hoàn hảo cho từng bệnh nhân.
Cơ sở khoa học của PM là các thành tựu vượt bậc trong lĩnh vực công nghệ gene, cụ
thể là sử dụng dữ liệu từ dự án bộ gene người và các kỹ thuật di truyền. Năm 1990, dự
án sinh học hợp tác toàn cầu có tên gọi là Human Genome Project - HGP được triển
khai với sự tài trợ và quản lý của Bộ Năng lượng và Viện Sức khỏe quốc gia Hoa Kỳ.
Dự án hệ gene người kết thúc cũng là lúc bắt đầu nền y học hệ gene, bản đồ gene
người đang được nghiên cứu ứng dụng thường ngày trong y khoa. Bác sĩ Collins, Viện
trưởng Viện Nghiên cứu hệ gene người của Mỹ cho rằng, bản đồ gene người như
quyển sách giáo khoa về y học, đưa ra vô số phương cách mới hỗ trợ điều trị và phòng
bệnh cho từng cá thể. Sự hiểu biết về hệ gene người giúp tạo nên các công cụ chẩn
đoán mới, phát hiện sớm hơn các bệnh như ung thư, đái tháo đường, tăng cholesterol
máu... Các bác sĩ có thể xác định đặc điểm hệ gene của tế bào ác tính, từ đó đưa ra liệu
pháp điều trị dựa trên các đột biến gene. Cách tiếp cận này hứa hẹn mang lại hiệu quả
điều trị cao và hạn chế tối đa tác dụng phụ. Với trình tự gene có được, cùng với các kỹ 9
thuật di truyền hiện đại, hoàn toàn có thể xác định được nguy cơ mắc bệnh ngay khi cơ
thể đang khỏe mạnh. Đây chính là một trong những tiền đề cho sự phát triển của PM,
xu hướng phát triển tất yếu của y học.
Như vậy, lịch sử phát triển của Y Học thế giới từ thời kỳ cổ đại đến nay đã trải qua
nhiều giai đoạn phát triển. Sự phát triển của Y Học chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố:
tập quán vùng miền, tâm - sinh lý của dân tộc, chế độ chính trị, sự biến đổi của lịch sử,
kinh tế, sự phát triển của khoa học, công nghệ … Một số nhà nghiên cứu lịch sử phân
chia lịch sử y học theo vùng miền: Y Học Hy Lạp – La Mã – Ai cập, Y Học Trung –
Cận đông, Đông Y, Tây Y hoặc theo thời gian: Y Học cổ đại, Y Học Trung cổ, Y Học
cận đại … Tuy nhiên, theo chúng tôi phân chia lịch sử phát triển của Y Học theo
phương pháp tiếp cận bệnh và hướng chữa bệnh cũng như những thành tựu mà ngành
Y Học đạt được trong công cuộc chữa bệnh một cách có hiệu quả, đem lại sự sống, sức
khỏe và hạnh phúc cho con người là cách nhìn hợp lý và dễ hiểu nhất. Theo khuynh
hướng này có thể xếp lịch sử phát triển y học thế giới thành 4 giai đoạn:
1- Giai đoạn Y Học Tâm Linh (Spiritism Medicine)
2- Giai đoạn Y Học Kinh Nghiệm (Empiric Medicine)
3- Giai đoạn Y Học Khoa Học (Scientific Medicine) hay Y Học Thực Nghiệm (Experimental Medicine)
4- Giai đoạn Y Học Hiện Đại
a- Y Học Chứng Cứ (Evidence Based Medicine).
b- Y Học Cá Thể Hóa (Personalized Medicine) hay Y Học Chính Xác (Precision Medicine)
Sự đánh giá đúng đắn này sẽ thúc đẩy Y Học tiến bộ nhanh hơn, phục vụ vụ con người tốt hơn.
2. LỊCH SỬ Y HỌC VIỆT NAM
Nhìn một cách tổng quát, y tế Việt Nam đã biến đổi một cách sâu sắc ở tất cả các
mặt từ nhận thức tư tưởng, bộ máy tổ chức, phương thức hoạt động, chiến lược phát triển.
2.1. Y học cổ Việt Nam
Vệ sinh và phòng bệnh cũng đã xuất hiện tuy còn rất thô sơ tương tự như cộng đồng
dân tộc khác trên thế giới. Một số tục lệ liên quan đến sức khoẻ như: cắt tóc, xăm
mình, mặc áo chui đầu, nhuộm răng, ăn trầu... Trong ăn uống họ biết ăn gừng với cá
cho khối tanh và dễ tiêu; uống nước lá vối, nụ vối và chè xanh để giải khát và giúp tiêu hoá.
Y dược học Việt Nam đã bắt đầu giao lưu với với y học Trung Quốc: đó là những
người Trung Quốc thường sang lấy thuốc ở Việt Nam cũng như đưa cả giống thuốc 10
Việt Nam về trồng (như quả vải, quả nhãn, quả ý dĩ) và truyền thụ cho ta một số kiến
thức về y học. Đến thế kỷ II TCN có hàng trăm vị thuốc được phát hiện, nhiều phương
thuốc được áp dụng để chữa bệnh. Ngoài ra còn dùng cách xoa bóp, ấn huyệt để điều trị bệnh.
2.2. Y học Việt Nam trong xã hội phong kiến
Trong giai đoạn này y học Việt Nam chưa thực sự phát triển mặc dù đã hình thành
các tổ chức có liên quan đến y tế. Chủ yếu chữa bệnh bằng thuốc nam và đông y. Y
học dự phòng chưa được quan tâm, ngoại trừ Lê Hữu Trác có viết tài liệu liên quan
đến vệ sinh phòng bệnh.
- Thời nhà Lý: Năm 1010 - 1026, Triều đình nhà Lý thành lập Ty thái y. Nhà Lý mở
khoa thi đầu tiên năm 1075 tại Quốc Tử Giám. Trong nước đã có thầy thuốc chuyên
nghiệp và có nhiều nhà sư kiêm thầy thuốc
- Thời nhà Trần: Từ năm 1226 - 1339 Nhà Trần đã nâng Ty thái y lên Viện thái y và
mở khoa thi để tuyển lương y.
- 1304 Chu Văn An đỗ tiến sỹ và được cử làm hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám,
sau đó ông về làm thuốc và có viết cuốn sách Y học diễn giải tập chú dịch biên, cuốn
này nói lên một số bệnh tật.
- Thời nhà Lê: Hải Thượng Lãn ông (tên thật là Lê Hữu Trác (1720 - 1791)) là một
nhà y học có học vấn uyên bác, nhà dược học nổi tiếng. Về học thuật ông viết cuốn Y
tông tâm tĩnh gồm 28 tập, 66 quyển. Tập sách nói về đạo đức y học, vệ sinh phòng
bệnh, về chẩn đoán và dược học; các loại bệnh án nội, ngoại, sản, nhi. Ông luôn chú ý
đến mối quan hệ giữa cơ thể với môi trường bên ngoài. Về đạo đức ông luôn thể hiện
là một người thầy thuốc mẫu mực, tận tuỵ và nhiệt tình với mọi người.
Hải thượng lãn ông - Lê Hữu Trác 11
2.3. Y học Việt Nam từ khi Pháp vào Đông Dương
Năm 1888 Pháp lập ra sở y tế ở Đông Dương là cơ quan chỉ đạo công tác y tế gồm y
tế quân đội viễn chinh, các bệnh viện, thanh tra y tế - dịch tễ...
Ngày 27/2/1902 toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã lập trường thuốc ở Hà
Nội. Trường thuốc chỉ có một thư viện và một bệnh viện 40 giường bệnh. Hiệu trưởng
đầu tiên của trường là Yersin. Trường này được gọi là trường y sỹ. Khung chương
trình xây dựng đào tạo y sĩ bản địa với thời gian 3 năm. Đến năm 1914 đổi tên thành
trường y dược. Các bệnh viện thực tập của trường là bệnh viện Bạch Mai, Viện Giải
phẫu, Viện Phủ Doãn (Việt Đức ngày nay).
Chính quyền Pháp đã quan tâm đến tình hình bệnh ở vùng nhiệt đới nên đã thành
lập Viện Pasteur với các cơ sở ở Hà Nội, Nha Trang, Đà Lạt, TP Hồ Chí Minh; chủ
yếu là để nghiên cứu vi khuẩn, vaccin (bạch hầu, dại...) và sản xuất vaccin; đánh dấu
bước đầu tiên trong việc phát triển công tác dự phòng trong ngành y học Việt Nam.
Tuy vậy, trong giai đoạn này vẫn nhấn mạnh việc điều trị, phòng bệnh không được coi trọng.
Kết quả: Trong thời kỳ Pháp chiếm đóng nước ta có 51 bác sĩ, 152 y sỹ, 21 dược sỹ
đại học, 1227 y tá, 215 nữ hộ sinh. Các bệnh dịch bệnh lúc này cũng phát triển mạnh,
tỷ lệ tử vong trẻ mới đẻ là 13 - 20%, tỷ lệ chết chung là 2,6%, tuổi thọ trung bình là 32 tuổi.
2.4. Y học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám
Ngày 15/11/1945 Trường Đại học Y Hà Nội khai giảng do Giáo sư Hồ Đắc Di làm
hiệu trưởng đã đánh dấu sự phát triển của ngành y tế. Bác sĩ Tôn Thất Tùng giữ chức
giám đốc bệnh viện Phủ Doãn, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch giữ chức bộ Trưởng Bộ Y tế
đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Cuối năm 1953 đầu năm 1954 Bộ y tế đã sắp xếp lại tổ chức và Vụ Phòng bệnh -
chữa bệnh ra đời, đến năm 1956 tách ra thành Vụ Chữa bệnh và Vụ Vệ sinh phòng
dịch. Năm 1963 thành lập các trạm vệ sinh phòng dịch ở các xã, phường. Đội phòng
chống sốt rét đã ra đời vào năm 1957 ở các quận, huyện. Y học gắn liền với cuộc
kháng chiến, hoạt động của ngành hướng về nơi sinh sống của 90% dân số trong vùng
dịch, Bộ y tế thành lập ban chống dịch có sự hỗ trợ của viện Pasteur, động viên nhân
dân tham gia vào các phong trào vệ sinh phòng bệnh, sử dụng nhiều hình thức thích
hợp để tuyên truyền cho nhân dân những kiến thức trong giữ gìn sức khoẻ. Các viện vi
trùng học tiếp tục sản xuất vaccin phòng bệnh tả, đậu mùa, thương hàn, dại... đảm bảo
tiêm chủng cho toàn dân các vùng tự do. Trong 10 năm, 1954 - 1964 ngành y tế đã tập
trung xây dựng và phát triển y tế ở nông thôn để giải quyết vấn đề phân, nước, rác. 12
Nhiều loại hố xí, giếng nước, nhà tắm được xây dựng tại mỗi hộ gia đình, loại hố xí
hai ngăn ủ phân tại chỗ cũng được chấp nhận, giải quyết nhiều vụ dịch.
Năm 1961 nước ta lần đầu tiên sản xuất được váccin Sa bin phòng bệnh bại hệt,
BCG. Thời kỳ này được gọi là nền móng có sự phát triển của y học dự phòng, vệ sinh
phòng bệnh đã có điều kiện phát triển tương đối toàn diện.
Trong giai đoạn này ngành ngoại khoa phát triển mạnh phục vụ cho chiến đấu. Các
phòng bào chế vẫn tiếp tục sản xuất thuốc thông thường bằng nguyên liệu tại chỗ và
các loại thuốc tê góp phần đáng kể vào việc xử lý vết thương chiến tranh. Năm 1950
lần đầu tiên những lọ Penixilin được sản xuất từ phòng bào chế của Trường Đại học Y
khoa Việt Bắc đã góp phần phục vụ cho cuộc kháng chiến.
2.5.Y học Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Phương châm hoạt động hiện nay là đa dạng hoá các hoạt động của ngành, xã hội
hoá công tác y tế nên ngành y tế cũng đã đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của
nhân dân với số lượng và chất lượng ngày càng tăng. Hệ thống y tế cả nhà nước và tư
nhân đều phát triển mạnh. Thành tựu có ý nghĩa nhất là xây dựng được mạng lưới y tế
cơ sở rộng khắp cả nước từ trung ương đến các xã, không còn xã trắng về y tế Phương
pháp quản lý khám chữa bệnh Nhà nước cũng được thay đổi bằng cách thu một phần
viện phí, xây đựng hệ thống bảo hiểm y tế, cho phép mở rộng bệnh viện tư, phòng
khám tư, hiệu thuốc tư. Chính sách chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo cũng được quan tâm.
Ngành y tế dự phòng ngày càng phát triển. Ngày 15/5/2003 Cục Y tế dự phòng và
phòng chống HIV/AIDS đã ra đời trên cơ sở sát nhập Văn phòng Thường trực phòng
chống HIV/AIDS vào Cục Y tế dự phòng. Hiện nay toàn quốc có 64 trung tâm y tế dự
phòng, 31 trung tâm phòng chống sốt rét, 13 trung tâm sức khoẻ lao động và môi
trường, 20 trung tâm phòng chống bệnh xã hội và 7 trung tâm phòng chống dịch quốc
tế. Tính đến năm 2000 trong cả nước đã có 14 viện thuộc hệ y tế dự phòng, trong đó có
2 viện vệ sinh dịch tễ, 2 viện Pasteur, 2 viện và một phân viện Sốt rét - Ký sinh trùng -
Côn trùng, Viện Y học Lao động và Vệ sinh trường, Viện Dinh dưỡng, Viện Vệ sinh y
tế công cộng, Viện Vaccin, Trung tâm Kiểm định vaccin và sinh phẩm y học, Trung
tâm Nghiên cứu và sản xuất vaccin Sabin và 1 Công ty vaccin.
Công tác xã hội hoá y tế hệ thống y học dự phòng đã phát triển đến tận thôn bản:
sáu bệnh truyền nhiễm trước đây đứng đầu danh sách các bệnh có tỷ lệ tử vong cao
nhất; nhờ công tác tiêm chủng rộng rãi đã thanh toán được bệnh bại liệt, khống chế
được uốn ván sơ sinh, bạch hầu, ho gà. Từ việc tiêm phòng 6 loại vaccin do ta tự sản
xuất viêm gan siêu vi trùng và viêm não Nhật Bản, các chương trình phòng chống
bệnh Sốt rét, Lao, Bướu cổ do thiếu I-ốt, nhiễm HIV/AIDS, thanh toán bệnh Phong đạt
được những kết quả đáng kể. 13
Công tác khám chữa bệnh phát triển không ngừng. Tính đến nay cả nước đã có 876
bệnh viện, 75 khu điều dưỡng và phục hồi chức năng, trên 1.000 phòng khám đa khoa
và nhà hộ sinh khu vực, số giương bệnh/100.000 dân không ngừng tăng lên. Hệ thống
trang thiết bị trong bệnh viện ngày càng hiện đại như máy cộng hưởng từ, máy CT
Scan máy chụp mạch máu, máy tán sỏi ngoài cơ thể, máy coban... Các công nghệ mũi
nhọn của y học thế giới cũng được áp dụng vào Việt Nam như ghép tạng, mổ nội soi,
mổ tim mạch, mổ tách trẻ song sinh, thụ tinh nhân tạo... các nhà khoa học Việt Nam đã
được nhận giải thưởng y học thế giới như phương pháp cắt gan khô của giáo sư Tôn
Thất Tùng, giải thưởng Kovalexpkaia cho tập thể nữ bệnh viện Phụ Sản Từ Dù, Viện
Vệ sinh dịch tễ trung ương...
Các tấm gương tiêu biểu ngành y tế Việt Nam
1. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (1909 - 1968): đã có công rất lớn trong việc vạch ra
phương hướng của nền y tế nhân dân, xây dựng đội ngũ y tế cách mạng, góp phần đặc
biệt vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nổi bật là công tác chữa và phòng
bệnh lao. Từ 1954 ông nhận nhiệm vụ Trưởng ban Y tế của Đảng, rồi sau đó giữ chức
Bộ trưởng Bộ Y tế. Ông mất tại chiến trường miền Nam ngày 7 - 11 - 1968.Giữa lúc
còn đang ấp ủ bao nhiều hoài bão lớn đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, đối với
sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành y tế nhân dân thì đau xót biết bao ngày
7/11/1968 BS Phạm Ngọc Thạch đã hy sinh.
2. Giáo sư Đặng Văn Ngữ (1910 - 1967): đã có nhiều cống hiến lớn chẳng những
riêng cho nền y học Việt Nam mà cả cho nền y học chung của thế giới. Ông phát hiện
được những loại muỗi mới như Anopheles tonkinensis, xác định được chu kỳ ngược
chiều của giun lươn, phân lập được loại Penicillium có tác dụng kháng sinh cao.
3. Giáo sư Tôn Thất Tùng (1912 - 1982): với các nghiên cứu khoa học đã đưa đến
phương pháp phẫu thuật cắt gan mà nhiều nhà phẫu thuật trên thế giới thừa nhận và áp
dụng. Ngoài ra giáo sư cũng đã nghiên cứu ảnh hưởng của chất độc hóa học Dioxin
đến sức khỏe con người và tác hại đến thế hệ sau.
4.Bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm (1942 - 1970): đại diện cho những con người có tinh
thần cách mạng, tinh thần kháng chiến chống Mỹ, vượt qua mọi khó khăn để làm tròn
nhiệm vụ. Chị làm công việc của người phụ nữ trong chiến tranh là phụ trách một bệnh
viện huyện phục vụ cho việc chống chiến tranh.
5.Giáo sư Hồ Đắc Di (1900 -1984): sinh nǎm1900, sang Pháp du học (1918-
1932), đỗ bác sĩ nội trú. Ở đây Hồ Đắc Di làm phẫu thuật một thời gian ở bệnh viện
Tenon, rồi về nước. … Trong luận án tốt nghiệp bác sĩ y khoa làm tại Paris, Giáo sư
Hồ Đắc Di là người đầu tiên sáng tạo một phương pháp mổ dạ dày (nối thông dạ dày-
tá tràng) để điều trị chứng hẹp môn vị do bệnh loét dạ dày- tá tràng gây ra, thay thế
cho phương pháp cắt bỏ dạ dày vẫn dùng trước đó, được nhiều sách giáo khoa, nhiều 14
công tình nhắc đến và thừa nhận giá trị trong suốt 30-40 nǎm. Ông là nhà phẫu thuật
đầu tiên, xứng đáng được hội đồng giáo sư(toàn người Pháp) đánh giá cao và được bầu
chọn là giáo sư người Việt đầu tiên.
6. Giáo sư Đặng Văn Chung (1913 - 1999): sinh năm 1913 tại Sa Đéc, tỉnh Đồng
Tháp. Năm 1933, ông thi đỗ vào Trường đại học Y Dược khoa Đông Dương; năm
1937, thi đỗ trong kỳ thi tuyển bác sĩ nội trú làm việc tại Bệnh viện Bạch Mai. Đến
ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ (19/12/1946), ông đã lên chiến khu cùng GS.Hồ
Đắc Di xây dựng Trường Y giữa núi rừng Việt Bắc. Ngày 24/2/1999 GS Đặng Văn
Chung đã qua đời vì bệnh nan y, để lại niềm tiếc thương khôn nguôi cho gia đình, các
thế hệ học trò và người bệnh. Năm 2000, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký Quyết
định số 392 KT/CTN truy tặng GS.Đặng Văn Chung Giải thưởng Hồ Chí Minh về
“Cụm công trình nghiên cứu nội khoa”.
PHẦN 2: CẢM NHẬN VỀ NGÀNH Y
Người làm nghề Y nắm trong tay sinh mạng của con người nên họ luôn nhận thức
được sự quan tâm đặc biệt của xã hội. Chính vì thế, họ luôn phải đối diện với áp lực từ nhiều phía.
Nghề Y luôn được xem là nghề cao quý được xã hội kính trọng, vì nó liên quan đến
“sức khoẻ tính mạng con người”. Thật vậy, người làm trong lĩnh vực Y tế, đòi hỏi cần
phải có đôi bàn tay khéo léo, cũng như cần có tính cẩn trọng, tỉ mỉ, trung thực. Bởi đối
tượng phục vụ là người bệnh, chỉ một sơ suất nhỏ trong kĩ thuật cũng có thể dẫn đến
những kết quả khó lường.
Bên cạnh đó, tay nghề cao, chuyên môn vững vàng, trình độ tốt, cũng không thể
giúp trở thành một người hành nghê Y giỏi. Nếu thiếu đi những đức tính quý báu khi
theo ngành Y. Hải Thượng Lãn Ông từng nói: “người làm nghề Y phải biết nỗi lo của
người, vui cái vui của người”. Theo đó, lòng nhân ái, tính thương người cũng như lòng
yêu quý nghề sâu sắc. Là tố chất hàng đầu mà người làm trong lĩnh vực Y tế phải chấp
nhận hi sinh lợi ích bản thân. Họ phải đối mặt và vượt qua những rủi ro nghề nghiệp
hay thậm chí những tai nạn trong nghề nghiệp.
Người làm nghề Y luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của xã hội vì thế áp lực
công việc cũng rất nặng nề. Áp lực ngay từ đầu khâu thi tuyển, cho đến học tập trên
giảng đường, thời gian đào tạo gấp đôi so với các ngành học khác, kiến thức vô tận và
phải học tập trau dồi suốt đời. Bên cạnh đó, còn chịu áp lực rất lớn từ bệnh nhân và
thân nhân người bệnh. Những người làm trong līnh vực Y tế phải đối mặt hằng ngày, 15
hằng giờ, thậm chí từng giây, từng phút, nhất là khi gặp các ca bệnh khó và nguy hiểm.
Đồng thời, hiện nay tình trạng bạo lực đối với những người làm trong līnh vực y tế ngày càng gia tăng.
Nghề Y cūng rất đặc biệt hơn những nghành nghề khác trong sự vận hành của cơ
chế thị trường. Mọi người ai cũng đi làm vì cơm áo gạo tiền, nhưng riêng những người
làm nghề Y thì “phải sạch”, không được coi cái nghề Y là nghề “kiếm tiền” làm giàu.
Mà phải làm vì cái tâm, vì sức khỏe hàng đầu của con người. Tuy vất vả nhưng cũng
có nhiều niềm vui, nhưng có lẽ chữa bệnh cứu người là niềm vui thiêng liêng nhất và
hạnh phúc nhất của những người làm nghề trong lĩnh vực Y tế.
Có lē chọn nghành nghề là cột mốc quan trọng nhất của cuộc đời học sinh. Cái nghề
không gắn bó một thời, một lúc mà nó gắn bó cả đời. Mà tất nhiên cái nghề ấy không
phải chợt ùa về trong suy nghī mà phải là niềm đam mê không giới hạn. Trong mỗi
chúng ta, ai cũng có những ước mơ cho riêng mình, dù là to lớn vĩ đại hay nhỏ bé. Để
thực hiện được ước mơ đó, ta phải phấn đấu quyết tâm hết mình.
Còn tôi, ngành y dược là ngành mà tôi đam mê vì nó là một ngành mang tính chất
nhân đạo, được cảm nhận sự hạnh phúc trong ánh mắt và nụ cười rạng ngời, đầy lòng biết ơn của bệnh nhân.
Cuộc sống ngày càng phát triển hiện đại thì càng xuất hiện nhiều ngành nghề hơn.
Mỗi người sẽ tìm được cho mình những mơ ước riêng. Chúng ta có một câu nói rất
hay đó là: “Nhất Y - Nhì Dược". Bởi vì ngành Y là ngành gắn liền với sức khỏe và
tính mạng của con người. Những con người ngành Y còn được mệnh danh là “những
thiên thần áo trắng". Không phải đơn giản mọi người nói rằng “Nhất Y - Nhì Dược",
như chúng ta đã biết ngành Y là một ngành nắm giữ mạng sống của con người. "Nhất
Y - nhì Dược” ý muốn nói đến sự quan trọng của ngành y và dược trong cuộc sống.
Do cuộc sống ngày nay nhu cầu quá cao, quá đầy đủ đồ ăn thức uống, con người ta
lạm dụng khá nhiều hóa chất và từ đó hình thành các loại bệnh nghiêm trọng như: tai
biến, tiểu đường, ung thư, thậm chí còn nhiều người còn bệnh nguy hiểm hơn nữa... Vì
thế một số người phải thường xuyên đến bệnh viện để khám và điều trị. Bên cạnh đó
ngành y dược cūng là một ngành giúp mọi người giảm các cơn đau đớn nhiều khi chỉ
cần vài viên thuốc người bệnh sẽ giảm bớt cơn đau. Ngành y dược rất quan trọng, nên
chúng ta phải thật kī càng, tỉ mỉ và thận trọng không được sai sót bất cứ thứ gì. Nếu
chúng ta muốn trở thành một người bác sī giỏi bản thân phải tôn trọng những người
bệnh đến với mình, phải đề cao sức khỏe của họ trên hết, phải ăn nói nhẹ nhàng và ân
cần, luôn mỉm cười, lắng nghe và giữ bí mật những gì người bệnh chia sẻ về vấn đề
sức khỏe mà người bệnh chỉ biết tin tưởng và tìm đến mình.
Với tôi ngay từ lúc mới chập chững bước vào đời tôi thấy nghề nào cũng có cái hay
của nghề đó, đến bây giờ tôi đã thật sự cảm nhận được ngành y dược là ngành mà 16
mình yêu thích nhất vì nó là một ngành mang tính chất nhân đạo, có thể cứu sống được mọi người.
Tôi luôn xem câu nói “lương y như từ mẫu” là kim chỉ nam trong suốt quá trình
theo đuổi ngành nghề. Và tôi luôn nghī, cái hạnh phúc, sung sướng nhất khi trông thấy
ánh mắt và nụ cười rạng ngời, đầy lòng biết ơn của bệnh nhân và thân nhân của họ.
Niềm hạnh phúc khi đã cứu sống và mang lại niềm tin cho người khác thật to lớn biết
chừng nào! Tôi luôn mơ ước chính hai bàn tay tôi sē mang về niềm vui sống cho nhiều
người bệnh nhân hơn nữa.
Vâng, có lẽ không chỉ riêng tôi mà tất cả những người thầy thuốc đều có chung một
suy nghĩ luôn coi mình là người đầy tớ của nhân dân, người thầy thuốc của nhân dân,
hết lòng phục vụ nhân dân, mang tình thương trực tiếp đến cho bệnh nhân hay gián
tiếp thông qua đồng nghiệp để góp phần chăm lo bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho
nhân dân ngày một tốthơn. Và bàn thân tôi cūng nhận ra rằng: Nghề Y không đơn
thuần chỉ là nghề để kiếm sống, mưu sinh mà là nghề thực hiện sứ mệnh thiêng liêng
là trị bệnh cứu người.
Nghề Y đâu chỉ cần có kiến thức, có chuyên môn là đủ mà cần phải có cả trái tim
nhân hậu, tấm lòng yêu nghề và cả những sự hy sinh thầm lặng.
Nghề Y là nghề của những người luôn trăn trở về sức khoẻ, tính mạng của con
người. Đó là vinh hạnh nhưng đồng thời cũng là thách thức lớn của người làm nghề Y.
Mỗi nghề đều có giá trị to lớn về tinh thần và những đóng góp cho sư phát triển của xã hội.
Nếu được lựa chọn lại giấc mơ nghề nghiệp, tôi vẫn sẽ chọn nghề Y. Vì đơn giản,
với tôi, nghề Y- đó là nghề cao quý nhất
Cầm trên tay giấy báo nhập học khoa Y khoa đại học Kinh Bắc (UKB) cũng là hành
trang đầu đời để tôi thực hiện hóa giấc mơ trở thành người bác sĩ đa khoa. Khi được
học tập và đào tạo tại đây, tôi cảm thấy rất yên tâm và hài lòng về đội ngũ cán bộ,
giảng viên của trường. Các thầy cô có chuyên môn và trình độ cao, cùng với phương
pháp giảng dạy đổi mới, sáng tạo mang đến cho sinh viên những kiến thức đầy đủ
nhất, cập nhật nhất. Không những thế, các thầy cô cũng rất tinh tế, gần gũi, quan tâm
đến đời sống của các bạn sinh viên. Những lời khuyên, lời động viên của các thầy cô
khiến chúng tôi cảm thấy vô cùng ấm áp, chúng là động lực thôi thúc sinh viên ngành
Y chúng tôi tiếp tục chiến đấu trên con đường còn vô vàn gian khổ này. Các bạn sinh
viên thuộc hộ gia đình chính sách cũng được nhà trường quan tâm nhiều hơn với nhiều
học bổng hỗ trợ, khuyến khích học tập, tiếp thêm động lực giúp các bạn vững bước,
phấn đấu học tập. Các bạn sinh viên giỏi, tài năng được nhà trường quan tâm phát triển
thông qua việc tổ chức các cuộc thị nghiên cứu khoa học, chương trình tìm kiếm tài 17
năng...Các CLB đội nhóm ra đời giúp các bạn Sinh viên giải tỏa áp lực trên giảng
đường, tạo môi trường hỗ trợ các bạn cải thiện các kỹ năng mềm, kỹ năng làm việc
nhóm, tổ chức các sự kiện, chương trình, phát triển khả năng sáng tạo và tư duy làm
việc, giúp các bạn sinh viên trở nên gắn kết và xích lại gần nhau hơn…
Học tập luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu tại trường với phương châm Y lớn
hỗ trợ Y nhỏ học tập, tiếp cận kiến thức cập nhật. Thư viện trường luôn luôn cập nhật
đủ các đầu sách từ các môn cơ sở đến chuyên ngành, góp phần đắc lực cho Sinh viên
trong quá trình học tập. Ngoài ra, để tạo ra một môi trường học tập năng động và lành
mạnh, khoa Y khoa tổ chức các chương trình và hoạt động thường niên thu hút sự
tham gia đông đảo và hưởng ứng nhiệt tình từ các bạn sinh viên như Giải bóng đá
khoa Y Dược, Hội thi Văn nghệ chào mừng ngày 20/11, Ngày hội hiến máu nhân đạo,..
Được học tập tại UKB quả thật là một điều vô cùng may mắn với tôi. Dẫu biết
chặng đường phía trước còn nhiều chông gai nhưng tôi vẫn sẽ cố gắng hết mình, vững
bước trên con đường mình đã chọn, cùng với UKB thực hiện hóa ước mơ của đời
mình. Xin cảm ơn mái nhà UKB, chúc UKB ngày càng lớn mạnh và phát triển. Chúc
cho tất các bạn tự tin, bản lĩnh trong học tập và cuộc sống, khẳng định tên tuổi của
UKB trong và ngoài khu vực. LỜI MỞ ĐẦU
Trường Đại học Kinh Bắc là đơn vị sự nghiệp giáo dục tư thục trực thuộc Bộ Giáo
dục và Đào tạo. Trường hiện có trụ sở chính tại thành phố Bắc Ninh. 18
Hơn 10 năm xây dựng và phát triển, Nhà trường đã có 18 ngành đào tạo trình độ đại
học và 2 ngành đào tạo trình độ thạc sĩ. Số ngành đào tạo trên đã khẳng định sự tin
tưởng của Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với năng lực quản lý đào tạo, sự đáp ứng của
đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất của Trường Đại học Kinh Bắc.
Trở thành Bác sĩ Đa khoa là ước mơ của nhiều bạn trẻ hiện nay, tuy nhiên để thực hiện
ước mơ này không dễ dàng bởi Y khoa luôn là ngành đứng đầu về điểm xét tuyển vào
cao, tỷ lệ chọi khốc liệt.
Với mục tiêu phát triển nhanh nguồn nhân lực cho ngành Y tế để phục vụ nhu cầu
chăm sóc sức khoẻ ngày càng cao của người dân, đặcbiệt trong bối cảnh gìa hoá dân
số tại Việt Nam. Bộ Giáo dục & Đào tạo đã cấp phép cho các trường ngoài công lập
mở và đào tạo các ngành khoa học sứckhoẻ.ĐạihọcKinhBắcvinhdựlàmộttrong 30
trườngĐạihọctoànquốcđượcBộGiáodục&Đàotạocấpphépđàotạocácngànhtrongkhốichă
msócsứckhỏe, trongđócóngành Y khoa, mởracơhộichocácemcóthểtheohọcngành Y
khoangaytrênquêhươngKinhBắc.
Khoa Y khoa – TrườngĐạiHọcKinhBắcvớisứmệnhđàotạođộingũBácsĩ Y
khoacótâmđức, giỏichuyênmôn, đủnănglựcđápứngnhucầucủangườiViệt Nam
vàcácchuyêngianướcngoàiđangsinhsống, làmviệctạiViệt Nam
tronglĩnhvựckhámchữabệnh –
Chămsócvàbảovệsứckhỏe. ĐàotạoBácsĩđakhoa ,thờigianđàotạo 6 năm. Khoa Y
khoagồmcácthầycôlànhữngnhàkhoahọcđãcónhiềunămkinhnghiệmtrongquảnlývàgiảng dạyĐạihọc, trongđócónhiềugiáosư, phógiáosưvàtiếnsĩ,
nhiềuthạcsĩđãtừngcókinhnghiệmtrongcôngtácgiảngdạytạicácTrườngđạihọcuytín ở Việt
Nam như: Đạihọc Y khoaHàNội, HọcviệnQuân Y, Đạihọc Y HảiPhòng, Đạihọc Y
TháiBình, Đạihọc Y TháiNguyên …vớitâmhuyếtcủamộtnhàgiáo, mộtthầythuốc,
đểtruyềnđạtchocácsinhviên Y khoanhữngkiếnthứccậpnhậttiêntiếntrongngành y
củathếgiớicũngnhưViệt Nam, truyềncảmhứngchocácemmột y đứccứungườilàcứumình.
TrườngĐạiHọcKinhBắcđangnỗlựctrởthànhđịachỉđàotạoBácsĩ Y
khoauytíncaotrongkhốiĐạihọc Y – DượccủaViệt Nam. Trướckhitheođuổingành Y,
việctốiquantrọngcủasinhviêncầnhiểuvềlịchsửpháttriểncũngnhưthànhtựumàngành Y
đạtđược .Xuấtpháttừmụcđíchđótôichọnđềtài:Lịchsửngành y khoa -----------Hết------------ 19