










Preview text:
lOMoAR cPSD| 61572994
Đề tài 6. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Vận dụng trong công cuộc đổi mới ở nước ta. A. MỞ ĐẦU
Ngày nay, những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn, phương pháp biện chứng...
luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã
hội. Lý luận luôn phải gắn liền với thực tiễn, như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận mà
không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng”.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý
luận nhận thức, vấn để cải tạo thực tiễn luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng. Trên cơ
sở nền tảng triết học Mác Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ,
xác định mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn đề xây dựng và phát triển xã
hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, em đã lựa chọn đề tài tiểu luận Triết học Mác
Lênin: “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và sự vận dụng quan điểm dó vào quá
trình đổi mới ở Việt Nam".
Bài tiểu luận còn nhiều thiếu sót, em mong sẽ nhận được sự góp ý, nhận xét để sửa đổi và hoàn thiện hơn từ thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn! B. NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận
1. Nguồn gốc, bản chất của nhận thức
Triết học Mác - Lênin thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới và cho rằng thế giới khách
quan là đối tượng của nhận thức. Không phải ý thức của con người sản sinh ra thế giới mà thế
giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người là nguồn gốc "duy nhất và cuối lOMoAR cPSD| 61572994
cùng" của nhận thức. Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người;
là quá trình tạo thành tri thức về thế giới khách quan trong bộ óc con người. Điều này thể hiện
quan niệm duy vật về nhận thức, chống lại quan niệm duy tâm về nhận thức.
Nhận thức là một quá trình phức tạp, quá trình nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn chứ không
phải quá trình máy móc giản đơn, thụ động và nhất thời. Nhận thức là một quá trình biện chứng
có vận động và phát triển, là quá trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều hơn, từ
biết chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn. Đây là một quá trình, không phải nhận thức một lần là xong,
mà có phát triển, có bổ sung và hoàn thiện: "Trong lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả
những lĩnh vực khác của khoa học, cần suy luận một cách biện chứng, nghĩa là đừng giả định
rằng nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn, mà phải phân tích xem sự hiểu biết
này sinh ra từ sự không hiểu biết như thế nào, sự hiểu biết không đầy đủ và không chính xác
trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn như thế nào.”
Trong quá trình nhận thức của con người luôn luôn nảy sinh quan hệ biện chứng giữa nhận
thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận; nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Nhận
thức kinh nghiệm là nhận thức dựa trên sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng hay các thí
nghiệm thực nghiệm khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh
nghiệm thông thường hoặc tri thức thực nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm đóng vai trò
quan trọng trong đời sống thường ngày của con người. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm còn hạn
chế vì nó mới đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng lẻ, bề ngoài của sự vật và còn rời rạc.” Tri
thức kinh nghiệm chưa chỉ ra được tính tất yếu, mối quan hệ bản chất của các sự vật, hiện
tượng. Do vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao
giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu”. Nhận thức lý luận là nhận thức sự vật, hiện
tượng một cách gián tiếp dựa trên các hình thức tư duy trừu tượng như khái niệm, phán đoán,
suy luận các sự vật, hiện tượng. Nhận thức thông thường là nhận thức được hình thành một
cách tự phát, trực tiếp trong hoạt động hàng ngày và trong của con người. Nhận thức khoa học
là nhân thức được hình thành chủ động, tự giác của chủ thể nhằm phản ánh những mối liên hệ
bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của đối tượng nghiên cứu.
Bản chất của nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo thế giới vật chất khách quan
bởi con người. Vì thể, chủ thể nhận thức chính là con người. Nhưng đó là con người hiện thực,
đang sống, đang hoạt động thực tiễn và đang nhận thức trong những điều kiện lịch sử xã hội
cụ thể nhất định, tức là con người đó phải thuộc về một giai cấp, một dân tộc nhất định, có ý
thức, lợi ích, nhu cầu, cá tính, tình cảm,... Các yếu tố đó gián tiếp hay trực tiếp đều tham gia lOMoAR cPSD| 61572994
vào quá trình nhận thức của chủ thể. Con người là chủ thể nhận thức cũng bị giới hạn bởi điều
kiện lịch sử có tính chất lịch sử - xã hội. Theo triết học Mác - Lênin, con người chỉ trở thành
chủ thể nhận thức, khi con người đó là thành viên của xã hội, tham gia vào hoạt động của cộng
đồng nhằm cải tạo khách thể. Vì thế, chủ thể nhận thức không chỉ là những cá nhân con người
(với tư cách là thành viên của xã hội) mà còn là những tập đoàn người cụ thể, một dân tộc cụ
thể, là loài người nói chung. Khách thể nhận thức không chỉ là thế giới vật chất mà có thể còn
là tư duy, tâm lý, tư tưởng, tinh thần, tình cảm, v.v.. Khách thể nhận thức cũng có tính lịch sử -
xã hội, cũng bị chế ước bởi điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Bởi lẽ, do điều kiện lịch sử - xã
hội mà một bộ phận nào đó của hiện thực khách quan mới trở thành khách thể nhận thức. Khách
thể nhận thức luôn luôn thay đổi trong lịch sử cùng với sự phát triển của hoạt động thực tiễn
cũng như sự mở rộng năng lực nhận thức của con người. Khách thể nhận thức cũng không
đồng nhất với đối tượng nhận thức. Đối tượng nhận thức là một khía cạnh, một phương diện,
một mặt nào đó của hiện thực khách quan mà chủ thể nhận thức tập trung vào nghiên cứu, tìm
hiểu. Như vậy, khách thể nhận thức rộng hơn đối tượng nhận thức.
Hoạt động thực tiễn của con người chính là là cơ sở của mối quan hệ giữa chủ thể nhận thức
và khách thể nhận thức. Chính vì vậy, hoạt động thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của
nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Từ trên chúng ta có thể thấy, nhận thức là quá
trình phản ánh hiện thực khách quan một cách tích cực, chủ động, sáng tạo bởi con người trên
cơ sở thực tiễn mang tính lịch sử cụ thể.
2. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Các nhà triết học duy tâm cho hoạt động nhận thức, hoạt động của ý thức, hoạt động của tinh
thần nói chung là hoạt động thực tiễn. Các nhà triết học tôn giáo thì cho hoạt động sáng tạo ra
vũ trụ của thượng đế là hoạt động thực tiễn. Các nhà triết học duy vật trước triết học duy vật
biện chứng có nhiều đóng góp cho quan điểm duy vật về nhận thức, nhưng chưa một đại biểu
nào hiểu đúng được bản chất của thực tiễn cũng như vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Trong luan để số 1 của Luận cương về Feuerbach (Phoiơbắc), C.Mác viết: “Khuyết điểm chủ
yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay - kể cả chủ nghĩa duy vật của Feuerbach là
sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình
thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn.
Thực tiễn gồm những đặc trưng sau: lOMoAR cPSD| 61572994
Thứ nhất, thực tiễn không phải toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là hoạt động vật chất
- cảm tính. Đó là những hoạt động mà con người phải sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật
chất tác động vào các đối tượng vật chất để làm biến đổi chúng.
Thứ hai, hoạt động thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử - xã hội của con người.
Nghĩa là thực tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo người
trong xã hội. Trong hoạt động thực tiễn con người truyền lại cho nhau những kinh nghiệm từ
thế hệ này qua thế hệ khác. Cũng vì vậy, hoạt động thực tiễn luôn bị giới hạn bởi những điều
kiện lịch sử xã hội cụ thể. Đồng thời, thực tiễn có trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể của nó.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ con người.
Con người chủ động tác động cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình. Vì vậy, thực tiễn
là hoạt động có tính tự giác cao, khác với hoạt động bản năng thụ động thích nghi của động vật.
Thực tiễn là hoạt động thể hiện tính mục đích, tính tự giác cao của con người. Rõ ràng hoạt
động thực tiễn là hoạt động cơ bản phổ biến của con người và xã hội loài người, là phương
thức cơ bản của mối quan hệ giữa con người với thế giới. Nghĩa là, con người có quan hệ với
thế giới bằng và thông qua hoạt động thực tiễn. Không có hoạt động thực tiễn thì bản thân con
người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển.
Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những lĩnh vực khác nhau nhưng gồm
những hình thức cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội, và hoạt động
thực nghiệm khoa học. Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn quan trọng
nhất. Sản xuất vật chất biểu thị mối quan hệ của con người với tự nhiên và là phương thức tồn
tại cơ bản của con người và xã hội loài người. Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tồn tại của
các hình thức thực tiễn khác. Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động thực tiễn thể hiện tính tự
giác cao của con người bao gồm các hoạt động như đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng
dân tộc, đấu tranh cho hòa bình dân chủ, tiến bộ xã hội, đấu tranh cải tạo các quan hệ chính trị
xã hội nhằm tạo ra môi trường xã hội dân chủ, lành mạnh, thuận lợi cho con người phát triển.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn. Con người chủ
động tạo ra những điều kiện không có sẵn trong tự nhiên cũng như xã hội để tiến hành thực
nghiệm khoa học theo mục đích mà mình đã đề ra. Trên cơ sở đó, vận dụng những thành tựu lOMoAR cPSD| 61572994
khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất vật chất, cải tạo chính trị xã hội, cải tạo các quan
hệ chính trị xã hội phục vụ con người.
Ba hình thức thực tiễn này có quan hệ biện chứng tác động ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, trong
đó sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng, quyết định hai hình thức thực tiễn kia. Tuy nhiên,
hai hình thức thực tiễn kia cũng có ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất vật chất.
Thực tiễn đóng vai trò không thể thiếu trong quá trình nhận thức.
Đầu tiên, thực tiễn là cơ sở động lực của nhận thức. Bằng và thông qua hoạt động thực tiễn con
người tác động vào thế giới khách quan, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những quy
luật để con người nhận thức. Thực tiễn luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát
triển của nhận thức, vì thế nó luôn thúc đẩy cho sự ra đời của các ngành khoa học. Hoạt động
thực tiễn còn là cơ sở chế tạo ra các công cụ, phương tiện, máy móc mới hỗ trợ con người trong
quá trình nhận thức mở rộng khả năng nhận thức của con người.
Thứ hai, thực tiễn là mục đích của nhận thức. Chính nhu cầu sản xuất vật chất và cải tạo tự
nhiên, xã hội, buộc con người phải nhận thức thế giới xung quanh. Nhận thức của con người
là nhằm phục vụ thực tiễn, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn chứ không phải để trang trí
hay phục vụ cho những ý tưởng viển vông. Mọi tri thức của nhận thức chỉ có ý nghĩa khi nó
được áp dụng vào đời sống thực tiễn để phục vụ con người.
Thứ ba, thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Tri thức của con người là kết quả của quá
trình nhận thức. Tri thức đó có thể phản ánh đúng hoặc không đúng hiện thực khách quan.
Không thể lấy tri thức để kiểm tra trí thức, cũng không thể lấy sự hiển nhiên hay sự tán thành
của số đông hoặc sự có lợi, có ích để kiểm tra sự đúng sai của trí thức. Theo triết học MácLênin,
thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra chân lý bác bỏ sai lầm. Dựa vào thực
tiễn, người ta có thể chứng minh, kiểm nghiệm chân lý. Bởi lẽ chỉ có thực hiện mới có thể vật
chất hóa được tri thức, hiện thực hóa được tư tưởng, qua đó mới khẳng định được chân lý hoặc
phủ định một sai lầm nào đó.
3. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn bao gồm hai nội dung chính:
Một là, thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận. Thực tiễn là cơ
sở của nhận thức là do nhu cầu của hoạt động thực tiễn buộc con người phải nhận thức thế giới. lOMoAR cPSD| 61572994
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là vì nhờ hoạt động thực tiễn, các giác quan và bộ não của
con người không ngừng được hoàn thiện và phát triển, tạo ra năng lực tư duy trừu tượng ngày
càng cao. Thông qua lao động, thực tiễn trang bị cho con người công cụ, phương tiện nhận thức
ngày càng tinh vi hơn, giúp con người đẩy nhanh quá trình tìm hiểu bản chất sự vật, hiện tượng,
mở rộng tầm bao quát những quá trình đang diễn ra trong thế giới.
Hoạt động thực tiễn là nguồn gốc để con người hoàn thiện mình và hoàn thiện các mối quan hệ
với tự nhiên, với xã hội. Hoạt động thực tiễn tạo cơ sở để con người khái quát tri thức thành lý
luận, làm lý luận phản ánh hiện thực ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Nhờ vậy,
thực tiễn thúc đẩy sự hình thành khoa học lý luận. Có thể nói thực tiễn là động lực của lý luận.
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận là sự phản ánh phù hợp
của lý luận với hiện thực khách quan mà nó phản ánh và đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Giá
trị của lý luận phải được thực tiễn chứng minh. Không phải mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn của
lý luận, bởi thực tiễn cũng vận động, phát triển và chuyển hoá. Nếu lý luận chỉ phản ánh một
trong những giai đoạn nào đó của thực tiễn, thì lý luận chỉ mới chỉ là tương đối; chỉ có những
lý luận nào phản ánh được thực tiễn trong tính toàn vẹn của nó mới đạt đến chân lý.
Hai là, lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn.
Lý luận có khả năng soi đường cho thực tiễn bằng các chức năng định hướng mục đích; xác
định lực lượng, phương pháp và biện pháp thực hiện mục đích; cụ thể. Lý luận định hướng
mục đích. Ban đầu, hoạt động chỉ để đáp ứng nhu cầu tồn tại và thông qua đó, khái quát thành
lý luận; về sau hoạt động muốn có hiệu quả cần có lý luận soi đường, hoạt động từ bản năng
chuyển sang tự giác. Lý luận có khả năng xác định lực lượng, phương pháp và biện pháp thực
hiện mục đích. Lý luận dự báo khả năng phát triển, những khả năng có thể xảy ra trong quá
trình hoạt động, bởi vậy lý luận không những giúp hoạt động hiệu quả, mà còn là cơ sở để khắc
phục những hạn chế và tăng cường năng lực hoạt động của con người. Lý luận có vai trò giác
ngộ mục tiêu, lý tưởng; liên kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo ra sức mạnh trong cải tạo tự
nhiên, xã hội. Lý luận phải trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, kiểm nghiệm trong thực tiễn và
tiếp tục bổ sung, phát triển trong thực tiễn; chống lý luận suông và sự lạc hậu của lý luận so với thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận nguyên tắc giữa lý luận với thực tiễn hiện nay: lOMoAR cPSD| 61572994
Lý luận phải luôn bám sát thực tiễn; phản ánh được yêu cầu của thực tiễn; khái quát được
những kinh nghiệm của thực tiễn, cụ thể: Thực tiễn luôn vận động, phát triển và biến đổi nên
nhận thức phải bám sát để phản ánh quá trình đó; so sánh, đối chiếu, phân tích để chọn lọc
những thực tiễn có tính quy luật làm cơ sở cho quá trình hình thành lý luận. Lý luận phải khái
quát được kinh nghiệm của nhân loại; tổng kết được thực tiễn mới có tính khoa học và đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn. Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo; khi vận dụng lý luận
phải phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể. Lý luận là sự tổng kết thực tiễn và là mục đích cho hoạt động thực tiễn. II. Vận dụng
1. Lý luận về đường lối đổi mới của Đảng ta
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: Tổng kết lý luận để nhận thức chân giá trị khoa học trong lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; dùng kết quả của tổng kết lý luận đó làm công cụ định hướng
cho tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của Đảng; dùng kết quả đó để định ra đường lối, phương
châm... trong lãnh đạo của Đảng.
Từ nắm bắt chân giá trị khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tổng kết thực tiễn cách mạng,
Đảng ta nhận thức rõ hơn về mô hình và con đường xây dựng CNXH ở Việt Nam. Đảng đã ban
hành nhiều chủ trương và Nhà nước ban hành những chính sách, pháp luật để chuyển đổi mô
hình quản lý nhà nước về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, phân phối mang nặng tính bình quân sang quan hệ hàng hóa, xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, vừa phân phối theo lao động, theo vốn, hiệu quả kinh
doanh, vừa theo hướng bảo đảm phúc lợi xã hội và thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
Chuyển đổi mô hình quản lý kinh tế của Nhà nước với hai thành phần kinh tế là kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể sang quản lý nhà nước về kinh tế với nhiều thành phần kinh tế, đa dạng
hình thức sở hữu. Chuyển đổi mô hình quản lý nhà nước về kinh tế thích ứng với hội nhập kinh
tế quốc tế. Ban hành những chủ trương xây dựng bộ máy nhà nước và ban hành pháp luật để
dần hình thành Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, có nhiều
những chủ trương, chính sách hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; mở rộng dân chủ cho
nhân dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội mà vẫn giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam và quản lý của Nhà nước; xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -
xã hội với những hình thức phong phú, đa dạng, hài hòa các lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân.
2. Thực tiễn công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng lOMoAR cPSD| 61572994 a. Thành tựu
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới ở Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn
và rất quan trọng, đã làm biến đổi và phát triển đất nước cả về chính trị, kinh tế, xã hội, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nâng cao và khẳng định vị thế của
đất nước trong đời sống chính trị, kinh tế của thế giới.
Sau 30 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng, đạt được tốc độ tăng trưởng
nhanh, tăng cường cơ sở vật chất và tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới, công nghiệp hóa
- hiện đại hóa đất nước. Việt Nam từ một nước trì trệ, tăng trưởng thấp, tích lũy phần lớn nhờ
vào vay mượn bên ngoài đến nay đã trở thành một nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu
vực. Hệ thống pháp luật, chính sách được sửa đổi dựa vào thực dựa vào thực tiễn thị trường,
xã hội. Không còn nền kinh tế bao cấp mà thay vào đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân phát triển mạnh, xuất khẩu, nhập khẩu tăng rất nhanh về quy mô và tốc độ.
Đảng ta đã đề ra chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách và từng bước phát triển. Phát
triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế; xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực, là nguồn
lực nội sinh của phát triển, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời mở rộng giao lưu văn
hóa thế giới, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú hơn đời sống văn
hóa, con người Việt Nam.
Đảng ta đã quan tâm phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ, coi phát triển giáo
dục, đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu. Phát triển khoa học công
nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững, góp phần tăng
nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong những năm đổi mới, Việt Nam đã rất quan tâm thực hiện các chính sách xã hội vì hạnh
phúc của con người, coi đây là thể hiện tính ưu việt, bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa và
cũng là khắc phục mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường. Chính sách xã hội bảo đảm và không
ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên xã hội về ăn, ở, đi lại, lao động, học tập,
nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến
bộ, hệ thống cơ sở y tế được hình thành rộng khắp trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh
trên một vạn dân tăng nhanh. Hệ thống dịch vụ y tế ngày càng được nâng cao chất lượng. lOMoAR cPSD| 61572994
Từ thành tựu của công cuộc đổi mới mà nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ hơn về mục tiêu và mô hình của xã
hội xã hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây dựng. Những vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hóa, con người và chặng đường bước đi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng được
thực tiễn làm rõ để nhận thức đúng đắn hơn.
Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, hướng tới mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng trưởng thành và có thêm kinh
nghiệm lãnh đạo xây dựng và bảo vệ đất nước trong hoàn cảnh mới. Những thành tựu to lớn
có ý nghĩa lịch sử của đất nước sau 44 năm thống nhất càng khẳng định vai trò lãnh đạo xuất
sắc của Đảng và minh chứng rõ ràng Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. b. Hạn chế
Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, song kinh tế phát triển vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, chưa thật sự bền vững. Chất lượng, hiệu quả, năng suất
lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, hệ thống thị trường hình thành và phát
triển chưa đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng
bộ và hiện đại đang cản trở sự phát triển; việc tạo nền tảng để trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại còn chậm và gặp nhiều khó khăn.
Trên lĩnh vực phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường, còn nhiều
hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn
đề xã hội và quản lý phát triển xã hội chưa được nhận thức và giải quyết có hiệu quả. Đạo đức
xã hội có một số mặt xuống cấp; văn hóa phẩm độc hại, lai căng tác động tiêu cực đến đời sống
tinh thần của xã hội; tài nguyên bị khai thác bừa bãi, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, biến đổi
khí hậu toàn cầu ngày càng tác động đến Việt Nam gây hậu quả nặng nề; trên một số mặt, một
số lĩnh vực, người dân chưa được thực hưởng đầy đủ, công bằng thành quả đổi mới.
Trên lĩnh vực chính trị, hệ thống chính trị, đổi mới chính trị còn chậm, chưa đồng bộ với đổi
mới kinh tế, nhất là đổi mới về tổ chức, thể chế, cơ chế, chính sách. Hệ thống chính trị còn
cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa ngang tầm với nhiệm vụ. lOMoAR cPSD| 61572994
Những hạn chế trên đây làm cho Đảng chưa thật sự vững mạnh, chưa ngang tầm nhiệm vụ, làm
ảnh hưởng đến lòng tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
3. Giải pháp xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay Việt Nam còn là một nước nghèo trên thế giới, vì vậy để thoát khỏi tình trạng này,
Đảng và nhà nước cần nỗ lực hết sức mình để phát triển kinh tế. Cần đẩy mạnh hơn nữa công
cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đổi mới một cách toàn diện mọi lĩnh vực. Sự đổi mới này
phải đồng bộ bên theo quá trình nhận thức và tình hình thực tiễn đất nước. Cụ thể là: tập trung
phát triển kinh tế về chất và lượng, đầu tư có trọng điểm, đầu tư cho xuất khẩu thu lợi nhuận cao,…
Nhà nước cần đẩy mạnh nghiên cứu lý luận- thực tiễn để giải đáp những câu hỏi đó một cách
có căn cứ khoa học thì mới có chính sách cho từng chặng đường và cho cả thời kỳ quá độ,
phòng ngừa và khắc phục tư duy giản đơn, chủ quan nóng vội trong lãnh đạo, quản lý đem mục
tiêu xa áp đặt cho mục tiêu gần.
Cần nghiên cứu làm rõ mô hình xã hội Việt Nam hướng đến là mô hình xã hội đoàn kết, đồng
thuân, hài hòa, xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó tầng lớp trung lưu sẽ ngày
càng chiếm số động trong xã hội. Chủ động quản lý phân tầng xã hội, quản trị sự biến đổi xã
hội, có chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa đồng bộ để cải thiện điều kiện sống của nhân dân,
chủ động xây dựng cơ cấu xã hội hợp lý trên cơ sở phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, cần phải phát huy mạnh mẽ các động lực. Muốn vậy
phải nghiên cứu sâu lý luận về động lực và hệ động lực phát triển, đặc biệt nhận thức đúng và
xử lý tốt các động lực như lợi ích, dân chủ, đoàn kết yêu nước, phát huy nhân tố con người…
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa to lớn trong việc chống bệnh giáo
điều, chủ quan, duy ý chí. Nếu không quán triệt tốt nguyên tắc thực tiễn thì dễ mắc phải bệnh
giáo điều, tư tưởng và hành động cường điệu, lý luận coi nhẹ thực tiễn. Theo quan điểm lịch
sử cụ thể, ở nước ta có hai loại giáo điều, đó là giáo điều lý luận và giáo điều kinh nghiệm.
Giáo điều lý luận biểu hiện ở việc học tập lý luận tách rời với thực tiễn, xa rời cuộc sống, rơi
vào bệnh sách vở. Giáo điều kinh nghiệm biểu hiện ở việc áp dụng rập khuôn, máy móc kinh
nghiệm của người khác vào của mình, địa phương khác vào địa phương mình của mình mà
không tính đến những điều kiện thực tiễn lịch sử cụ thể. Để khắc phục và ngăn ngừa có hiệu lOMoAR cPSD| 61572994
quả cả hai loại giáo điều này, chúng ta phải từng bước quán triệt tốt nguyên tắc thực tiễn, tăng
cường tổng kết thực tiễn… C. KẾT LUẬN
Trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác
Lênin đã được nhân dân ta xác định là hệ tư tưởng cốt yếu, là cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho
mọi hành động. Theo đó, gắn lý luận với thực tiễn là một yêu cầu cấp thiết, một bước quan
trọng nhằm có những chính sách, bước đi phù hợp, đáp ứng nhu cầu xây dựng đất nước trong
thời kỳ mới. Trước những thách thức của đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước càng
cần theo sát nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Mỗi công dân đều cần nâng cao nhận thức, rèn dũa phát triển trình độ lý luận từng ngày để
cống hiến cho đất nước, tuy nhiên không được quên rằng lý luận phải luôn bám sát với thực
tiễn, vận dụng lý luận vào thực tiễn, luôn ghi nhớ rằng thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý
luận. Một số cá nhân có hiện tượng coi nhẹ thực tiễn, quá đề cao lý luận, dẫn đến tình trạng
giáo điều, hoặc là chỉ nghe chỉ tin vào sách vở, không có sự trải nghiệm thực tế bên ngoài; hoặc
là rập khuôn của cá nhân, tổ chức khác mà không xét tới sự khác nhau về điều kiện thực tế. Để
tránh hiện tượng này, chúng ta cần rèn luyện cũng như tự nhắc nhở bản thân mỗi ngày, tăng
cường áp dụng nguyên tắc thực tiễn vào cuộc sống.
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác Lênin;
2. Những thành tựu và một số hạn chế, bất cập trong phương thức lãnh đạo, cầm quyền
của Đảng - Tạp chí Cộng sản;
3. Những thành tựu ấn tượng và khó khăn, thách thức của kinh tế Việt Nam sau 35 năm
đổi mới - Tạp chí Xây dựng Đảng;
4. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn - Tạp chí Công dân và Khuyến học.