lOMoARcPSD| 58728417
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TIỂU LUẬN
N
XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
Chủ đề
Phân tích nội dung biện pháp “Tăng cường vai trò, trách nhiệm
của các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng pháp luật” nhằm
bảo đảm nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng pháp luật ở
nước ta hiện nay, cho ví cụ thể trong xây dựng pháp luật hình
sự.
Hà Nội, 05/2025
lOMoARcPSD| 58728417
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
PHẦN MỞ ĐẦU 2
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 2
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 3
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3
PHẦN NỘI DUNG 3
1. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT 3
1.1. Khái niệm về hoạt động xây dựng pháp luật 3
1.2. Các quá trình xây dựng pháp luật và vai trò của các chủ thể tham gia 5
2. BIỆN PHÁP “TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CHỦ
THỂ THAM GIA HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT” 6
2.1. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong hoạt động xây dựng pháp luật 6
2.2. do cần tăng ờng vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong thực tiễn hiện nay
8
3. VÍ DỤ CỤ THỂ TRONG LĨNH VỰC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ 10
KẾT LUẬN 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 13
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, việc nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng pháp luật nhiệm vụ quan trọng,
lOMoARcPSD| 58728417
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, cũng như đến quyền và lợi
ích hợp pháp của người dân. Pháp luật muốn phát huy tốt vai trò điều chỉnh hội thì cần
được xây dựng một cách chặt chẽ, khách quan, phù hợp với thực tiễn và phản ánh đúng nhu
cầu phát triển của đất nước trong từng giai đoạn. Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho
thấy, chất lượng của một số văn bản pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế, nội dung chưa đồng
bộ, còn tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn hoặc thiếu tính khả thi khi triển khai thực hiện.
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này việc tchức phối
hợp trong quá trình y dựng pháp luật chưa thực sự hiệu quả. Nhiều chủ thể tham gia
nhưng chưa xác định vai trò, trách nhiệm, hoặc thực hiện chưa đầy đủ chức năng của
mình. một số quan, việc lấy ý kiến n mang tính nh thức, thiếu chiều sâu; vai trò
phản biện của các tổ chức hội, chuyên gia chưa được phát huy đúng mức; sự phối hợp
giữa các cơ quan liên quan còn thiếu chặt chẽ. Điều này khiến cho một số quy định được
ban hành chưa gắn với thực tế cuộc sống, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước và
nguyện vọng của người dân.
Đặc biệt, trong lĩnh vực pháp luật hình sự nơi ảnh hưởng lớn đến quyền con
người, công trật thội thì yêu cầu về tính chính xác, công bằng hợp của
từng quy phạm pháp luật lại càng được đặt lên hàng đầu. Nếu pháp luật hình sự được xây
dựng mà thiếu sự tham gia đầy đủ, có trách nhiệm của các chủ thể liên quan thì dễ dẫn đến
việc quy định không rõ ràng, thiếu nhất quán, ảnh hưởng đến quyền lợi của cá nhân và gây
khó khăn trong áp dụng pháp luật. Thực tế sửa đổi Bộ luật Hình sự năm 2015 là một ví dụ
cho thấy quá trình xây dựng pháp luật hình sự cần sự tham gia nghiêm túc, hiệu quả của
nhiều chủ thể, từ cơ quan lập pháp, hành pháp đến đội ngũ chuyên gia và xã hội.
Do đó, nghiên cứu nội dung biện pháp “tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ
thể tham gia hoạt động xây dựng pháp luật” là cần thiết để góp phần khắc phục những hạn
chế hiện nay, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói
riêng. Đề tài ý nghĩa không chỉ về mặt luận, còn mang tính thực tiễn nét, phù
hợp với định hướng cải cách lập pháp của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và tương lai.
2. Mục đích nghiên cứu
Bài tiểu luận này nhằm mục đích nghiên cứu, phân tích nội dung biện pháp “tăng
cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng pháp luật”. Trên
sở đó, bài viết tập trung làm vai trò, trách nhiệm của từng nhóm chủ thể trong thực
tiễn xây dựng pháp luật nước ta hiện nay. Đồng thời, thông qua việc phân tích một số ví
lOMoARcPSD| 58728417
dụ cụ thể trong lĩnh vực xây dựng pháp luật hình sự, bài viết góp phần làm sáng tỏ ý nghĩa
tính cần thiết của biện pháp này trong việc bảo đảm chất ợng hiệu quả của hoạt
động xây dựng pháp luật.
3. Phạm vi nghiên cứu
Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu biện pháp “tăng cường vai trò, trách nhiệm của
các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng pháp luật” trong khuôn khổ hệ thống pháp luật
Việt Nam hiện nay. c chủ thể được đề cập bao gồm: quan, tổ chức, người thẩm
quyền trình, soạn thảo dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; các cơ quan thẩm định,
thẩm tra tổ chức tham gia đóng góp ý kiến; các quan ban hành văn bản quy phạm
pháp luật như: Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cơ quan khác. Trong phạm vi nghiên
cứu, bài viết không đi sâu vào toàn bộ hệ thống pháp luật mà chủ yếu làm rõ nội dung biện
pháp thông qua việc phân tích một số dụ trong lĩnh vực xây dựng pháp luật hình sự. Về
mặt thời gian, bài viết tập trung vào giai đoạn từ khi ban hành Hiến pháp m 2013 đến
nay, là giai đoạn có nhiều chuyển biến trong hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta.
PHẦN NỘI DUNG
1. Khái quát về hoạt động xây dựng pháp luật
1.1. Khái niệm về hoạt động xây dựng pháp luật
Xây dựng pháp luật một trong những hoạt động cơ bản, quan trọng không thể
thiếu của bất kỳ nhà nước nào. Để có thể tổ chức và quản lý hiệu quả các lĩnh vực trong
lOMoARcPSD| 58728417
đời sống xã hội, Nhà nước cần xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và đồng
bộ. Hệ thống pháp luật này đóng vai trò làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ quan
nhà nước, các tổ chức hội cũng như của từng nhân trong toàn hội. Hoạt động xây
dựng pháp luật luôn thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong
Luật học và Xã hội học pháp luật.
Hoạt động xây dựng pháp luật hoạt động soạn thảo, ban hành các luật, văn bản
pháp luật, bao gồm từ khâu nghiên cứu, soạn thảo, thông qua công bố văn bản
1
. Mặt
khác, có quan điểm khác cho rằng: “Nếu nói về hoạt động xây dựng pháp luật thì thực chất
là đề cập việc xây dựng và ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật của các quan
nhà nước có thẩm quyền và cá nhân có thẩm quyền ở trung ương và địa phương”
2
.
Ngoài ra, theo cách tiếp cận củaluận chung về Nhà nước và Pháp luật, về nghĩa
hẹp, xây dựng pháp luật chủ yếu được hiểu hoạt động thông qua, ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật
3
. Về nghĩa rộng, xây dựng pháp luật một quá trình bao gồm nhiều
hoạt động nối tiếp nhau một cách logic và có mối liên hệ chặt chẽ. hoạt động của tất cả
tổ chức nhân (các quan nhà nước, nchức trách có thẩm quyền, các tổ chức
hội các nhân trong hội) vào quá trình tạo lập pháp luật
4
. Quá trình này bắt đầu từ
việc đề xuất sáng kiến pháp luật, đến khâu chuẩn bị, soạn thảo dự án văn bản quy phạm
pháp luật, tiếp theo thẩm định, thẩm tra, thảo luận, thông qua, ban hành công bố n
bản.
Từ các quan điểm về khái niệm “xây dựng pháp luật, thể đúc kết rút ra được
khái niệm về “hoạt động xây dựng pháp luật” như sau: Hoạt động xây dựng pháp luật
quá trình pháp lý – xã hội có tổ chức, trong đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, với sự
tham gia của tổ chức, cá nhân trong xã hội, tiến hành các bước liên quan đến việc đề xuất,
soạn thảo, thẩm định, thảo luận, thông qua ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đây
là một hoạt động mang tính chủ động của Nhà nước nhằm tạo lập hoặc hoàn thiện hệ thống
1
Giáo trình Xã hội học Pháp luật (2020), NXB, Tư Pháp, Hà Nội, tr. 226
2
Nguyễn Văn Động, “Hoạt động xây dựng pháp luật trước yêu cầu pháp triển bền vững của Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Luật
học, số 3(118)/2010, tr. 12
3
Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật (2019), NXB. Tư Pháp, Hà Nội. tr. 361
4
Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật (2019), NXB. Tư Pháp, Hà Nội. tr. 361
lOMoARcPSD| 58728417
pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội một cách công bằng, hiệu quả, phục vụ yêu cầu
quản lý xã hội, bảo đảm quyền con người và phát triển bền vững.
4
Bản chất của hoạt động này thể hiện qua hai phương diện: một mặt, xây dựng pháp
luật là hoạt động thể hiện và thực hiện quyền lực Nhà nước, quyền lực nhân dân; mặt khác,
hoạt động này cũng là quá trình nhận thức và thể hiện các lợi ích trong xã hội, nhận thức và
thể hiện các quy luật của xã hội
4
.
1.2. Các quá trình xây dựng pháp luật và vai trò của các chủ thể tham gia
Hoạt động xây dựng pháp luật là một quá trình có tính hệ thống, được tiến hành theo
một trình tự chặt chẽ từ khâu đề xuất sáng kiến đến công bố văn bản chính thức. Mỗi giai
đoạn đều sự tham gia của những chủ thể khác nhau, giữ vai trò đặc thù, thể hiện tính
phối hợp và phân công trách nhiệm rõ ràng. Cụ thể, quá trình này gồm bốn giai đoạn chính
như sau:
giai đoạn đầu tiên, đề xuất sáng kiến lập pháp đóng vai trò định hướng cho toàn
bộ quá trình xây dựng pháp luật. Việc đề xuất sáng kiến thể xuất phát từ thực tiễn đời
sống hội, từ yêu cầu của công cuộc cải cách, đổi mới thể chế, hoặc từ những khoảng
trống, bất cập trong hệ thống pháp luật hiện hành. Các nhân, tổ chức, quan thẩm
quyền, theo chức năng nhiệm vụ của mình, đưa ra sáng kiến xây dựng pháp luật, đề xuất
yêu cầu phải xây dựng một văn bản pháp luật mới hoặc sửa đổi một văn bản pháp luật hiện
hành. Sau khi đề xuất được đưa ra, Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc quan thẩm
quyền sẽ xem xét, đánh giá tính cần thiết, tính khả thi và trình lên Quốc hội (hoặc cơ quan
có thẩm quyền khác) thông qua và ra nghị quyết về kế hoạch xây dựng pháp luật.
Giai đoạn thứ hai, soạn thảo dự án văn bản quy phạm pháp luật. Cơ quan được giao
chủ trì soạn thảo sẽ thành lập ban soạn thảo, tổ biên tập với sự tham gia của đại diện các
quan, tổ chức liên quan các chuyên gia pháp lý, nhà khoa học. Trong giai đoạn này,
4
Bùi Thị Đào, Xã hội học hoạt động xây dựng pháp luật, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 1998.
lOMoARcPSD| 58728417
nhiều hoạt động nhỏ nhưng quan trọng được triển khai để đi tới kết quả chất lượng cao của
dự thảo văn bản pháp luật: nghiên cứu cơ sở lý luận thực tiễn; khảo sát tình hình áp dụng
pháp luật; tổng kết kinh nghiệm; đánh giá tác động chính sách; lấy ý kiến đóng góp từ các
tổ chức, cá nhân, chuyên gia, người dân; tổ chức hội thảo, tọa đàm, phản biện xã hội. Đây
là giai đoạn thể hiện tính dân chủ, công khai và minh bạch của quy trình lập pháp. Chất
lượng của dự thảo phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên tham gia, năng
lực chuyên môn của ban soạn thảo cũng như mức độ tham gia thực chất của các tổ chức
chính trị - xã hội.
Tiếp theo đó giai đoạn ba, thẩm tra, thảo luận thông qua. Sau khi hoàn thiện
dự thảo, dự án luật sẽ được chuyển đến quan thẩm quyền để xem xét, thảo luận
thông qua. Giai đoạn này bảo đảm tính minh bạch, dân chủ phản biện trong lập pháp.
Tại đây, các đại biểu thể đóng góp ý kiến, kiến nghị sửa đổi nội dung dự thảo nhằm hoàn
thiện dự án trước khi thông qua. Kết quả sự ra đời chính thức của bộ luật, luật hoặc các
văn bản dưới luật mới hoặc sửa đổi.
Cuối cùng giai đoạn thứ trong hoạt động xây dựng pháp luật, công bố văn
bản quy phạm pháp luật mới được ban hành. Đây giai đoạn cuối cùng trong chu trình y
dựng pháp luật, đóng vai trò xác lập hiệu lực pháp lý của văn bản. Đối với văn bản luật, thủ
tục công bố được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 và thuộc
thẩm quyền của Chủ tịch nước. Còn đối với các văn bản dưới luật thì thủ tục cũng đơn giản
hơn. Nhìn chung thì ciệc công bố phải tuân thủ đúng hình thức, trình tự, thời hạn được luật
định và phải được công khai nhằm đảm bảo tính minh bạch và tiếp cận cho toàn xã hội.
Hoạt động xây dựng pháp luật là quá trình sự tham gia của nhiều chủ thể với vai
trò trách nhiệm khác nhau. Bên cạnh các quan nhà ớc thẩm quyền như Quốc
hội, Chính phủ, Chủ tịch nước, các bộ, ngành và chính quyền địa phương, các tổ chức chính
trị hội, đặc biệt Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cũng đóng vai trò phản biện, góp ý
nhằm bảo đảm tính minh bạch đại diện cho tiếng nói của nhân n. Ngoài ra, nhân dân
với cách chủ thể rộng lớn còn tham gia xây dựng pháp luật thông qua việc p ý, đề
xuất giám sát chính sách. Để hoạt động y dựng pháp luật bảo đảm được thể chế hóa
đúng chủ trương, đường lối của Đảng, đáp ứng yêu cầu hợp pháp, hợp với thực tiễn… thì
hoạt động xây dựng pháp luật phải tuân theo các nguyên tắc sau: Nguyên tắc khách quan;
Nguyên tắc đảm bảo được sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; Nguyên tắc khoa học;
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc dân chủ hội chủ nghĩa; Nguyên tắc
lOMoARcPSD| 58728417
bảo đảm sự hài hoà đồng thuận về lợi ích giữa các lực lượng hội; Nguyên tắc đảm
bảo tính khả thi của các quy định pháp luật
5
.
2. Biện pháp “tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt
động xây dựng pháp luật”
2.1. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong hoạt động xây dựng
pháp luật
Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng pháp
luật một trong những giải pháp then chốt nhằm nâng cao chất ợng văn bản quy phạm
pháp luật. Việc xác định rõ và đẩy mạnh chức năng, trách nhiệm của từng chủ thể giúp quy
trình xây dựng pháp luật trở nên minh bạch, hiệu quả, phản ánh đúng nhu cầu thực tiễn
xã hội. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020),
tại Điều 7, đã quy định các chủ thể trách nhiệm trong quy trình xây dựng pháp luật.
Có thể chia thành ba nhóm chính: cơ quan đề xuất, soạn thảo; cơ quan thẩm tra, thẩm định;
tổ chức phản biện, góp ý; và cơ quan ban hành.
Thứ nhất, quan, tổ chức, người có thẩm quyền trình dự án, dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật đóng vai trò khởi đầu. Họ không chỉ đề xuất chính sách, còn có
trách nhiệm lập hồ đề nghị, trình cấp có thẩm quyền quyết định việc đưa dự án vào
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, bên cạnh đó còn chịu trách nhiệm về tiến độ và chất
lượng dự án, dthảo văn bản do mình trình. Đây khâu “đặt nền móng” cho toàn bộ văn
bản, nên nếu quá trình này được thực hiện một cách sài, thiếu đánh giá tác động chính
sách, hoặc lập luận không chặt chẽ thì sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ quy trình sau đó. Vì vậy,
cần tăng ờng trách nhiệm giải trình, năng lực lập pháp và cơ chế kiểm tra sớm chất ợng
hồ sơ đề xuất ngay từ đầu, tránh tình trạng hình thức hoặc chạy theo tiến độ.
Tiếp theo, các quan thẩm định, thẩm tra các tchức tham gia góp ý kiến
giữ vai trò kiểm tra, giám sátphản biện độc lập trong quy trình xây dựng pháp luật.
quan thẩm định có trách nhiệm đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp, sự thống nhất và đồng bộ
của dự thảo với hệ thống pháp luật, đồng thời chịu trách nhiệm trước cơ quan trình hoặc
quan ban hành về kết quả thẩm định. quan thẩm tra (như Ủy ban Pháp luật của Quốc
hội) xem xét nội dung, chính sách trong dự thảo chịu trách nhiệm trước quan ban
5
hps://lsvn.vn/cac-nguyen-tac-trong-hoat-dong-xay-dung-phap-luat1610529428-a99287.html
lOMoARcPSD| 58728417
hành về kết quả thẩm tra. Bên cạnh đó, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức nghề nghiệp,
chuyên gia, nhà khoa học người dân được đề nghị tham gia góp ý kiến cũng phải chịu
trách nhiệm về nội dung thời hạn phản hồi. Việc tham vấn rộng rãi ý kiến hội góp
phần bảo đảm tính khách quan, thực tiễn dân chủ của dự thảo. Tuy nhiên, trên thực tế,
việc lấy ý kiến nhiều khi còn hình thức, chưa đi vào chiều sâu. Cần thiết lập chế tổng
hợp, phản hồi, phản ánh ý kiến phản biện một cách đầy đủ, đồng thời tăng ờng tính
bắt buộc trong việc tiếp thu, giải trình đối với các góp ý hợp lý.
Cuối cùng, quan ban hành văn bản, gồm các quan: Quốc hội, Hội đồng nhân
dân quan khác; không chỉ thực hiện quyền biểu quyết thông qua còn phải chịu
trách nhiệm giám sát việc thực thi và đánh giá hậu kiểm pháp luật; chịu trách nhiệm về chất
lượng văn bản do mình ban hành. Để bảo đảm chất lượng văn bản, các đại biểu dân cử cần
chủ động nghiên cứu, tham gia phản biện thể hiện vai trò đại diện cho nguyện vọng
của cử tri.
Như vậy, trong mỗi giai đoạn của quy trình xây dựng pháp luật, các chủ thể đều đóng
vai trò không thể thay thế. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế trong việc
phát huy đầy đủ vai trò và trách nhiệm của các chủ thể này. Đó cũng chính là lý do cần đặt
ra yêu cầu tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong thực tiễn xây dựng pháp
luật hiện nay.
2.2. Lý do cần tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong thực tiễn
hiện nay
Thực tiễn gần đây cho thấy hệ thống pháp luật vẫn vướng năm hạn chế chủ yếu. Thứ
nhất, thiếu toàn diện: nhiều quyền hiến định chưa được luật hóa kịp thời; văn bản ớng
dẫn còn “nợ”, trong khi các lĩnh vực mới (kinh tế số, FTZ…) chưa khung thể chế đầy
đủ. Thứ hai, thiếu đồng bộ: vẫn tồn tại quy định mâu thuẫn, chồng chéo đã pháp điển
hóa; việc hợp nhất văn bản chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Thứ ba, thiếu phù hợp khả
thi: nhiều quy định, đặc biệt về kinh tế công nghệ mới, chậm thích ứng, nhanh phải sửa
đổi hoặc “treo” hiệu lực vì thiếu nguồn lực thi hành. Thứ tư, công khai, minh bạch còn hạn
chế; việc lấy ý kiến giải trình tiếp thu chưa khai thác tốt công nghệ, dẫn tới cách hiểu,
áp dụng văn bản thiếu thống nhất. Thứ năm, chậm thể chế hoá chủ trương của Đảng; một
số chính sách lớn chưa được luật hóa kịp thời hoặc thể chế nhưng khó thực thi, khiến thể
chế tiếp tục “điểm nghẽn” phát triển. Chỉ số “Chất lượng quy định pháp luật” của Việt
lOMoARcPSD| 58728417
Nam trong GII giảm từ hạng 83/132 (2022) xuống 95/133 (2024), cho thấy nhu cầu bức
thiết phải nâng cao vai trò và trách nhiệm của mọi chủ thể trong quá trình lập pháp
6
.
Những hạn chế này kéo theo các hậu quả trực tiếp. Văn bản quy phạm pháp luật thiếu
ổn định, nhiều đạo luật phải sửa chỉ sau một thời gian ngắn có hiệu lực. Quá trình thi hành
lúng túng khiến niềm tin của người dân và doanh nghiệp suy giảm. Hoạt động đổi mới sáng
tạo, thu hút đầu tư, hội nhập quốc tế cũng bị cản trở. Trong lĩnh vực hình sự, sự lạc hậu của
quy phạm pháp luật gây khó khăn cho việc xử lý các tội phạm mới, điển hình như tội phạm
sử dụng tiền ảo rửa tiền hoặc xâm nhập dữ liệu nhân – những sai t lập pháp có thể xâm
hại trực tiếp quyền con người và trật tự an toàn xã hội.
Chính vậy, tăng cường vai trò trách nhiệm của các chủ thể tham gia quá trình
lập pháp trở thành yêu cầu cấp thiết để chuyển hệ thống pháp luật “từ hiện diện trên giấy”
sang “thực thi hiệu quả”. Việc này không chỉ nhằm đáp ứng các cam kết cải cách thể chế,
nâng thứ hạng chỉ số quốc tế, mà còn bảo đảm thực chất quyền con người lợi ích quốc
gia. Để làm được điều đó, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ các Ủy ban chuyên trách cần
siết trách nhiệm giải trình của quan trình dự án. Các bộ, ban, ngành trung ương đặc
biệt là Bộ Tư pháp, Tài chính, Nội vụ, Ngoại giao – cùng với sở, phòng, ban và UBND các
cấp phải chuẩn hóa hồ đề xuất bảo đảm kịp thời ban hành văn bản chi tiết. Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và cơ quan thi hành án cần phối hợp chặt
chẽ trong soạn thảo, thẩm tra các dự án sửa đổi bộ luật tố tụng nh sự, đồng thời đẩy
mạnh công bố án lệ. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị hội, Hội Luật
gia và Đoàn Luật sư cần được trao cơ chế phản biện ràng buộc, bắt buộc cơ quan soạn thảo
phải công khai việc tiếp thu giải trình. Các viện nghiên cứu, trung tâm khoa học pháp
cùng đội ngũ học giả, chuyên gia luật học hội học cần tham gia sâu vào đánh giá chính
sách, nhất trong lĩnh vực tội phạm mới. Đại biểu dân cử nhân dân, với tư cách là kênh
giám sát và góp ý, phải được kết nối thông qua các nền tảng lấy ý kiến trực tuyến, để tiếng
nói thực tiễn kịp thời lọt vào văn bản luật. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Dân chúng
biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ những người tài
giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”
7
– cho thấy vai trò không thể thay thế của
tiếng nói nhân dân trong việc hình thành chính sách.
6
hps://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/1013502/hoan-thien-he-
thongphap-luat-dap-ung-muc-eu-xay-dung%2C-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-
trong-kynguyen-vuon-minh-cua-dan-toc.aspx
7
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, NXB. Chính trị quốc gia, Hà nội, tr. 295
lOMoARcPSD| 58728417
Chính vậy, tăng cường vai trò trách nhiệm của các chủ thể tham gia quá trình
lập pháp trở thành yêu cầu cấp thiết. Điều này không chỉ nhằm đáp ứng các cam kết cải
cách thể chế, nâng thứ hạng chỉ số quốc tế, mà còn bảo đảm thực chất quyền con người và
lợi ích quốc gia. Để làm được điều đó, cần siết trách nhiệm giải trình của các cơ quan trình
dự án, đồng thời tạo điều kiện cho các bộ, ban ngành trung ương phối hợp hiệu quả hơn
trong việc soạn thảo và ban hành văn bản chi tiết. Tòa án, Viện kiểm sát, quan thi hành
án, Mặt trận Tổ quốc các tổ chức chính trhội cần phát huy vai trò phản biện
giám sát, bảo đảm tính minh bạch trong quá trình xây dựng pháp luật.
Những hạn chế trong việc xây dựng pháp luật, đặc biệt trong việc xử các vấn
đề pháp lý mới, đòi hỏi sự tăng cường vai trò trách nhiệm của các chủ thể tham gia quá
trình lập pháp. Những vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến tính toàn diện, đồng bộ của hệ
thống pháp luật mà n gây ra những hậu qucụ thể trong thực tiễn. Một dụ điển hình
trong lĩnh vực pháp luật hình sự sự chậm trễ trong việc ban hành hành lang pháp cho
tiền điện tử các tội phạm liên quan, cho thấy sự thiếu sót trong quá trình xây dựng
pháp luật.
3. Ví dụ cụ thể trong lĩnh vực xây dựng pháp luật hình sự
dụ cụ thể trong lĩnh vực pháp luật hình sự thể thấy việc chậm ban hành
khung pháp lý cho tiền điện tử/tiền ảo. Mặc tiền điện tử/tiền ảo đã xuất hiện phát triển
mạnh mẽ trong vài năm qua, tính đến năm 2024, Việt Nam xếp thứ 5 thế giới vmức độ
quan tâm đến i sản số (theo: Chainalysis), đứng thứ 3 toàn cầu về sử dụng các nền tảng
giao dịch quốc tế, hiện 17 triệu người Việt Nam sở hữu tài sản số tổng giá trị thị
trường vượt 100 tỉ USD, giao dịch tài sản số không chính thức đang tạo ra một nền kinh tế
ngầm khổng lồ nhưng Viêt Nam  ại chưa có khung pháp lý chính thức cho tiền điên  ử, tài
sản số
8
. Nhưng cho đến nay, hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn chưa có quy định rõ ràng và
đầy đủ để xử lý các hành vi liên quan đến lĩnh vực này, đặc biệt là các hành vi rửa tiền qua
tiền ảo. Điều này hậu quả của sự thiếu phối hợp chặt chẽ giữa các quan như B
pháp, Bộ Công an Ủy ban pháp của Quốc hội. Trong khi đó, các chuyên gia công
nghệ và giới luật sư ng chưa tham gia đủ sớm trong quá trình xây dựng các quy định này,
8
hps://lsvn.vn/hoan-thien-khung-phap-ly-de-en-dien-tu-tai-san-so-som-co-gia-tri-phap-ly-tai-viet-
nama154695.html
lOMoARcPSD| 58728417
dẫn đến việc thiếu sự hiểu biết sở pháp vững chắc để đối phó với các vấn đề phát
sinh.
Thực tế này đã dẫn đến nhiều hệ quả nghiêm trọng. Các đối ợng tội phạm xu
hướng lợi dụng đặc tính ẩn danh, giao dịch xuyên biên giới, khó truy vết của tiền ảo để thực
hiện hành vi lừa đảo, rửa tiền hoặc thậm chí tài trợ khủng bố. Các loại tiền hóa (Ví dụ
như: Monero, Zcash, Dash) đang bị sử dụng để huy động vốn trái phép, rửa tiền hoặc chuyển
tiền bất hợp pháp xuyên quốc gia, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử. Trên
thực tiễn xét xử, một số vụ án đã đưa ra xét xử nhưng tòa án buộc phải tuyên trả tự do cho
người phạm tội do không có quy định pháp luật cụ thể để xử lý. Đây là ví dụ điển hình cho
thấy sự cần thiết phải tăng cường vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia trong quá
trình xây dựng pháp luật, đảm bảo các quy định được xây dựng đồng bộ và kịp thời, đáp
ứng nhu cầu thực tế của xã hội.
Nguyên nhân của thực trạng này chính sự thiếu đồng bộ, thiếu trách nhiệm
thiếu phối hợp hiệu quả giữa các chủ thể tham gia quá trình xây dựng pháp luật. Cụ thể, Bộ
Tư pháp chưa chủ động đề xuất điều chỉnh luật để điều tiết lĩnh vực tài sản số, Bộ Công an,
Cục An ninh mạng Nội địa, và các cơ quan/chủ thể có thẩm quyền khác chưa tham mưu cụ
thể hóa các hành vi phạm tội phát sinh từ tiền ảo, trong khi Ủy ban Tư pháp của Quốc hội
chưa động thái thúc đẩy sửa đổi kịp thời Bộ luật Hình sự. Sự vắng mặt của các tổ chức
phản biện như Hội Luật gia, Đoàn Luật , các viện nghiên cứu giới chuyên gia công
nghệ trong giai đoạn đầu của quy trình lập pháp cũng khiến dự thảo nếu có sẽ khó phản ánh
sát thực tiễn. Hơn nữa, người dân những người bị ảnh hưởng trực tiếp từ hoạt động lừa
đảo tiền ảo – chưa có kênh phản ánh hay tham gia góp ý vào quy trình xây dựng pháp luật
hình sự liên quan.
Từ góc độ xã hội học pháp luật, điều này phản ánh rõ sự mất kết nối giữa quyền lực
lập pháp và nhu cầu xã hội. Khi các chủ thể không được xác định rõ trách nhiệm, không có
chế ràng buộc phối hợp, không chịu giám sát công khai minh bạch, thì pháp luật dễ
trở thành “công cụ giấy”, không theo kịp tốc độ biến đổi của đời sống xã hội. Trong khi đó,
lĩnh vực hình sự lại là nơi cần nhanh chóng thể chế hóa để kịp thời bảo vệ quyền con người,
đảm bảo trật tự an toàn xã hội, và giữ gìn kỷ cương pháp luật.
Để khắc phục những hạn chế trong hoạt động xây dựng pháp luật, đặc biệt đối với
các lĩnh vực mới như tài sản số, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp cụ thể. Trước hết,
cần thiết lập tổ công c liên ngành gồm Bộ Công an, Bpháp, Ngân hàng Nhà nước,
lOMoARcPSD| 58728417
Bộ Tài chính Hiệp hội Blockchain Việt Nam nhằm y dựng khung pháp tiên phong
cho tài sản số, đồng thời đóng vai trò điều phối và phản ứng kịp thời trước các vấn đề phát
sinh từ thực tiễn. Bên cạnh đó, cần ứng dụng các công nghệ giám sát truy vết tài chính
tiên tiến như Chainalysis hoặc Elliptic
9
vào công tác quản nhà nước, điều tra phòng
ngừa tội phạm công nghệ cao, nhằm đảm bảo các quy định pháp luật không bị tụt hậu so
với tốc độ phát triển của thực tiễn. Một giải pháp quan trọng khác là xây dựng cơ chế phản
biện xã hội có tính ràng buộc pháp lý, theo đó cơ quan chủ trì soạn thảo phải có trách nhiệm
giải trình công khai việc tiếp thu hay không tiếp thu các ý kiến đóng góp từ tổ chức xã hội
– nghề nghiệp, giới luật sư, chuyên gia công nghệ và nhân dân, nhằm tăng tính minh bạch
hạn chế tình trạng áp đặt ý chí chủ quan. Cuối cùng, cần xác định trách nhiệm giải
trình của từng cơ quan chủ trì trong quy trình xây dựng pháp luật, nhất các lĩnh vực
công nghệ cao vốn có nhiều biến động và tiềm ẩn rủi ro pháp lý, qua đó nâng cao hiệu quả
phối hợp liên ngành và trách nhiệm chính trị – pháp lý trong hoạt động lập pháp.
Từ dụ về tiền điện tử, thể thấy: khi từng chủ thể trong quá trình lập pháp không
thực hiện đầy đủ vai tròtrách nhiệm, thì hậu quả là hệ thống pháp luật bị bỏ lại phía sau,
không đủ khả năng kiểm soát điều chỉnh thực tiễn. Điều này càng nhấn mạnh tính cấp
thiết của việc tăng cường vai trò, trách nhiệm sự phối hợp hiệu quả giữa các chủ thể
trong hoạt động xây dựng pháp luật – đặc biệt trong lĩnh vực hình sự, nơi pháp luật không
chỉ điều chỉnh hành vi mà còn bảo vệ trực tiếp quyền con người và an ninh quốc gia.
KẾT LUẬN
Tăng cường vai trò trách nhiệm của các chủ thể trong hoạt động xây dựng pháp
luật không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là điều kiện tiên quyết để bảo đảm chất lượng,
tính khả thi và hiệu lực của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Đặc biệt trong lĩnh vực
pháp luật hình sự, sự tham gia tích cực, trách nhiệm và có cơ sở khoa học của các quan
như Quốc hội, Chính phủ, Bộ Công an, các tổ chức chính trị - xã hội và giới học giả sẽ góp
phần hoàn thiện pháp luật theo ớng dân chủ, công bằng phù hợp với thực tiễn cuộc
sống.
9
hps://vietnamnet.vn/phai-chan-nguy-co-toi-pham-loi-dung-en-ao-de-lua-dao-rua-en-2385445.html
lOMoARcPSD| 58728417
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.
2. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi bổ sung 2020
3. Trường Đại học Luật Nội. (2020). Giáo trình hội học pháp luật. NXB
pháp, Hà Nội
4. Nguyễn Văn Động. (2010). Hoạt động xây dựng pháp luật trước yêu cầu phát triển
bền vững của Việt Nam hiện nay. Tạp chí Luật học, số 3(118)
5. Trường Đại học Luật Nội. (2019). Giáo trình luận chung về Nhà nước và
Pháp luật. NXB Tư pháp, Hà Nội
6. Bùi Thị Đào. (1998). hội học hoạt động xây dựng pháp luật (Luận án Tiến Luật
học). Hà Nội
7. Hồ Chí Minh. (1995). Toàn tập (Tập 5). NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
Link các bài viết tạp chí:
1. https://lsvn.vn/cac-nguyen-tac-trong-hoat-dong-xay-dung-phap-luat1610529428-
a99287.html
2. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/
2018/1013502/hoan-thien-he-thong-phap-luat-dap-ung-muc-tieu-xay-
dung%2Choan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-trong-ky-
nguyenvuon-minh-cua-dan-toc.aspx
3. https://lsvn.vn/hoan-thien-khung-phap-ly-de-tien-dien-tu-tai-san-so-som-co-gia-tri-
phap-ly-tai-viet-nam-a154695.html
4. https://vietnamnet.vn/phai-chan-nguy-co-toi-pham-loi-dung-tien-ao-de-lua-dao-
rua-tien-2385445.html

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58728417 BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TIỂU LUẬN MÔ N
XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT Chủ đề :
Phân tích nội dung biện pháp “Tăng cường vai trò, trách nhiệm
của các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng pháp luật” nhằm
bảo đảm nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng pháp luật ở
nước ta hiện nay, cho ví cụ thể trong xây dựng pháp luật hình sự.
Hà Nội, 05/2025 lOMoAR cPSD| 58728417 MỤC LỤC MỤC LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 2
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 2
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 3
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3 PHẦN NỘI DUNG 3
1. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT 3
1.1. Khái niệm về hoạt động xây dựng pháp luật 3
1.2. Các quá trình xây dựng pháp luật và vai trò của các chủ thể tham gia 5 2.
BIỆN PHÁP “TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CHỦ
THỂ THAM GIA HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT” 6
2.1. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong hoạt động xây dựng pháp luật 6
2.2. Lý do cần tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong thực tiễn hiện nay 8
3. VÍ DỤ CỤ THỂ TRONG LĨNH VỰC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ 10 KẾT LUẬN 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 13 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, việc nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng pháp luật là nhiệm vụ quan trọng, có lOMoAR cPSD| 58728417
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, cũng như đến quyền và lợi
ích hợp pháp của người dân. Pháp luật muốn phát huy tốt vai trò điều chỉnh xã hội thì cần
được xây dựng một cách chặt chẽ, khách quan, phù hợp với thực tiễn và phản ánh đúng nhu
cầu phát triển của đất nước trong từng giai đoạn. Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho
thấy, chất lượng của một số văn bản pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế, nội dung chưa đồng
bộ, còn tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn hoặc thiếu tính khả thi khi triển khai thực hiện.
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là việc tổ chức và phối
hợp trong quá trình xây dựng pháp luật chưa thực sự hiệu quả. Nhiều chủ thể tham gia
nhưng chưa xác định rõ vai trò, trách nhiệm, hoặc thực hiện chưa đầy đủ chức năng của
mình. Ở một số cơ quan, việc lấy ý kiến còn mang tính hình thức, thiếu chiều sâu; vai trò
phản biện của các tổ chức xã hội, chuyên gia chưa được phát huy đúng mức; sự phối hợp
giữa các cơ quan có liên quan còn thiếu chặt chẽ. Điều này khiến cho một số quy định được
ban hành chưa gắn với thực tế cuộc sống, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước và
nguyện vọng của người dân.
Đặc biệt, trong lĩnh vực pháp luật hình sự – nơi có ảnh hưởng lớn đến quyền con
người, công lý và trật tự xã hội – thì yêu cầu về tính chính xác, công bằng và hợp lý của
từng quy phạm pháp luật lại càng được đặt lên hàng đầu. Nếu pháp luật hình sự được xây
dựng mà thiếu sự tham gia đầy đủ, có trách nhiệm của các chủ thể liên quan thì dễ dẫn đến
việc quy định không rõ ràng, thiếu nhất quán, ảnh hưởng đến quyền lợi của cá nhân và gây
khó khăn trong áp dụng pháp luật. Thực tế sửa đổi Bộ luật Hình sự năm 2015 là một ví dụ
cho thấy quá trình xây dựng pháp luật hình sự cần sự tham gia nghiêm túc, hiệu quả của
nhiều chủ thể, từ cơ quan lập pháp, hành pháp đến đội ngũ chuyên gia và xã hội.
Do đó, nghiên cứu nội dung biện pháp “tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ
thể tham gia hoạt động xây dựng pháp luật” là cần thiết để góp phần khắc phục những hạn
chế hiện nay, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật nói chung, và pháp luật hình sự nói
riêng. Đề tài có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận, mà còn mang tính thực tiễn rõ nét, phù
hợp với định hướng cải cách lập pháp của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và tương lai.
2. Mục đích nghiên cứu
Bài tiểu luận này nhằm mục đích nghiên cứu, phân tích nội dung biện pháp “tăng
cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng pháp luật”. Trên
cơ sở đó, bài viết tập trung làm rõ vai trò, trách nhiệm của từng nhóm chủ thể trong thực
tiễn xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay. Đồng thời, thông qua việc phân tích một số ví lOMoAR cPSD| 58728417
dụ cụ thể trong lĩnh vực xây dựng pháp luật hình sự, bài viết góp phần làm sáng tỏ ý nghĩa
và tính cần thiết của biện pháp này trong việc bảo đảm chất lượng và hiệu quả của hoạt
động xây dựng pháp luật.
3. Phạm vi nghiên cứu
Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu biện pháp “tăng cường vai trò, trách nhiệm của
các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng pháp luật” trong khuôn khổ hệ thống pháp luật
Việt Nam hiện nay. Các chủ thể được đề cập bao gồm: cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền trình, soạn thảo dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; các cơ quan thẩm định,
thẩm tra và tổ chức tham gia đóng góp ý kiến; các cơ quan ban hành văn bản quy phạm
pháp luật như: Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác. Trong phạm vi nghiên
cứu, bài viết không đi sâu vào toàn bộ hệ thống pháp luật mà chủ yếu làm rõ nội dung biện
pháp thông qua việc phân tích một số ví dụ trong lĩnh vực xây dựng pháp luật hình sự. Về
mặt thời gian, bài viết tập trung vào giai đoạn từ khi ban hành Hiến pháp năm 2013 đến
nay, là giai đoạn có nhiều chuyển biến trong hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta. PHẦN NỘI DUNG
1. Khái quát về hoạt động xây dựng pháp luật
1.1. Khái niệm về hoạt động xây dựng pháp luật
Xây dựng pháp luật là một trong những hoạt động cơ bản, quan trọng và không thể
thiếu của bất kỳ nhà nước nào. Để có thể tổ chức và quản lý hiệu quả các lĩnh vực trong lOMoAR cPSD| 58728417
đời sống xã hội, Nhà nước cần xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và đồng
bộ. Hệ thống pháp luật này đóng vai trò làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ quan
nhà nước, các tổ chức xã hội cũng như của từng cá nhân trong toàn xã hội. Hoạt động xây
dựng pháp luật luôn thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong
Luật học và Xã hội học pháp luật.
Hoạt động xây dựng pháp luật là hoạt động soạn thảo, ban hành các luật, văn bản
pháp luật, bao gồm từ khâu nghiên cứu, soạn thảo, thông qua và công bố văn bản1. Mặt
khác, có quan điểm khác cho rằng: “Nếu nói về hoạt động xây dựng pháp luật thì thực chất
là đề cập việc xây dựng và ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và cá nhân có thẩm quyền ở trung ương và địa phương”2.
Ngoài ra, theo cách tiếp cận của Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, về nghĩa
hẹp, xây dựng pháp luật chủ yếu được hiểu là hoạt động thông qua, ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật3. Về nghĩa rộng, xây dựng pháp luật là một quá trình bao gồm nhiều
hoạt động nối tiếp nhau một cách logic và có mối liên hệ chặt chẽ. Là hoạt động của tất cả
tổ chức và cá nhân (các cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền, các tổ chức xã
hội và các cá nhân trong xã hội) vào quá trình tạo lập pháp luật4. Quá trình này bắt đầu từ
việc đề xuất sáng kiến pháp luật, đến khâu chuẩn bị, soạn thảo dự án văn bản quy phạm
pháp luật, tiếp theo là thẩm định, thẩm tra, thảo luận, thông qua, ban hành và công bố văn bản.
Từ các quan điểm về khái niệm “xây dựng pháp luật, có thể đúc kết và rút ra được
khái niệm về “hoạt động xây dựng pháp luật” như sau: Hoạt động xây dựng pháp luật
quá trình pháp lý – xã hội có tổ chức, trong đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, với sự
tham gia của tổ chức, cá nhân trong xã hội, tiến hành các bước liên quan đến việc đề xuất,
soạn thảo, thẩm định, thảo luận, thông qua và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đây
là một hoạt động mang tính chủ động của Nhà nước nhằm tạo lập hoặc hoàn thiện hệ thống
1 Giáo trình Xã hội học Pháp luật (2020), NXB, Tư Pháp, Hà Nội, tr. 226
2 Nguyễn Văn Động, “Hoạt động xây dựng pháp luật trước yêu cầu pháp triển bền vững của Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Luật
học, số 3(118)/2010, tr. 12
3 Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật (2019), NXB. Tư Pháp, Hà Nội. tr. 361
4 Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật (2019), NXB. Tư Pháp, Hà Nội. tr. 361 lOMoAR cPSD| 58728417
pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội một cách công bằng, hiệu quả, phục vụ yêu cầu
quản lý xã hội, bảo đảm quyền con người và phát triển bền vững. 4
Bản chất của hoạt động này thể hiện qua hai phương diện: một mặt, xây dựng pháp
luật là hoạt động thể hiện và thực hiện quyền lực Nhà nước, quyền lực nhân dân; mặt khác,
hoạt động này cũng là quá trình nhận thức và thể hiện các lợi ích trong xã hội, nhận thức và
thể hiện các quy luật của xã hội4.
1.2. Các quá trình xây dựng pháp luật và vai trò của các chủ thể tham gia
Hoạt động xây dựng pháp luật là một quá trình có tính hệ thống, được tiến hành theo
một trình tự chặt chẽ từ khâu đề xuất sáng kiến đến công bố văn bản chính thức. Mỗi giai
đoạn đều có sự tham gia của những chủ thể khác nhau, giữ vai trò đặc thù, thể hiện tính
phối hợp và phân công trách nhiệm rõ ràng. Cụ thể, quá trình này gồm bốn giai đoạn chính như sau:
giai đoạn đầu tiên, đề xuất sáng kiến lập pháp đóng vai trò định hướng cho toàn
bộ quá trình xây dựng pháp luật. Việc đề xuất sáng kiến có thể xuất phát từ thực tiễn đời
sống xã hội, từ yêu cầu của công cuộc cải cách, đổi mới thể chế, hoặc từ những khoảng
trống, bất cập trong hệ thống pháp luật hiện hành. Các cá nhân, tổ chức, cơ quan có thẩm
quyền, theo chức năng nhiệm vụ của mình, đưa ra sáng kiến xây dựng pháp luật, đề xuất
yêu cầu phải xây dựng một văn bản pháp luật mới hoặc sửa đổi một văn bản pháp luật hiện
hành. Sau khi đề xuất được đưa ra, Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc cơ quan có thẩm
quyền sẽ xem xét, đánh giá tính cần thiết, tính khả thi và trình lên Quốc hội (hoặc cơ quan
có thẩm quyền khác) thông qua và ra nghị quyết về kế hoạch xây dựng pháp luật.
Giai đoạn thứ hai, soạn thảo dự án văn bản quy phạm pháp luật. Cơ quan được giao
chủ trì soạn thảo sẽ thành lập ban soạn thảo, tổ biên tập với sự tham gia của đại diện các cơ
quan, tổ chức có liên quan và các chuyên gia pháp lý, nhà khoa học. Trong giai đoạn này,
4 Bùi Thị Đào, Xã hội học hoạt động xây dựng pháp luật, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 1998. lOMoAR cPSD| 58728417
nhiều hoạt động nhỏ nhưng quan trọng được triển khai để đi tới kết quả chất lượng cao của
dự thảo văn bản pháp luật: nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn; khảo sát tình hình áp dụng
pháp luật; tổng kết kinh nghiệm; đánh giá tác động chính sách; lấy ý kiến đóng góp từ các
tổ chức, cá nhân, chuyên gia, người dân; tổ chức hội thảo, tọa đàm, phản biện xã hội. Đây
là giai đoạn thể hiện rõ tính dân chủ, công khai và minh bạch của quy trình lập pháp. Chất
lượng của dự thảo phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên tham gia, năng
lực chuyên môn của ban soạn thảo cũng như mức độ tham gia thực chất của các tổ chức chính trị - xã hội.
Tiếp theo đó là giai đoạn ba, thẩm tra, thảo luận và thông qua. Sau khi hoàn thiện
dự thảo, dự án luật sẽ được chuyển đến cơ quan có thẩm quyền để xem xét, thảo luận và
thông qua. Giai đoạn này bảo đảm tính minh bạch, dân chủ và phản biện trong lập pháp.
Tại đây, các đại biểu có thể đóng góp ý kiến, kiến nghị sửa đổi nội dung dự thảo nhằm hoàn
thiện dự án trước khi thông qua. Kết quả là sự ra đời chính thức của bộ luật, luật hoặc các
văn bản dưới luật mới hoặc sửa đổi.
Cuối cùng là giai đoạn thứ tư trong hoạt động xây dựng pháp luật, là công bố văn
bản quy phạm pháp luật mới được ban hành. Đây là giai đoạn cuối cùng trong chu trình xây
dựng pháp luật, đóng vai trò xác lập hiệu lực pháp lý của văn bản. Đối với văn bản luật, thủ
tục công bố được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 và thuộc
thẩm quyền của Chủ tịch nước. Còn đối với các văn bản dưới luật thì thủ tục cũng đơn giản
hơn. Nhìn chung thì ciệc công bố phải tuân thủ đúng hình thức, trình tự, thời hạn được luật
định và phải được công khai nhằm đảm bảo tính minh bạch và tiếp cận cho toàn xã hội.
Hoạt động xây dựng pháp luật là quá trình có sự tham gia của nhiều chủ thể với vai
trò và trách nhiệm khác nhau. Bên cạnh các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Quốc
hội, Chính phủ, Chủ tịch nước, các bộ, ngành và chính quyền địa phương, các tổ chức chính
trị – xã hội, đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cũng đóng vai trò phản biện, góp ý
nhằm bảo đảm tính minh bạch và đại diện cho tiếng nói của nhân dân. Ngoài ra, nhân dân
với tư cách là chủ thể rộng lớn còn tham gia xây dựng pháp luật thông qua việc góp ý, đề
xuất và giám sát chính sách. Để hoạt động xây dựng pháp luật bảo đảm được thể chế hóa
đúng chủ trương, đường lối của Đảng, đáp ứng yêu cầu hợp pháp, hợp với thực tiễn… thì
hoạt động xây dựng pháp luật phải tuân theo các nguyên tắc sau: Nguyên tắc khách quan;
Nguyên tắc đảm bảo được sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; Nguyên tắc khoa học;
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc lOMoAR cPSD| 58728417
bảo đảm sự hài hoà và đồng thuận về lợi ích giữa các lực lượng xã hội; Nguyên tắc đảm
bảo tính khả thi của các quy định pháp luật5.
2. Biện pháp “tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt
động xây dựng pháp luật”
2.1. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong hoạt động xây dựng pháp luật
Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng pháp
luật là một trong những giải pháp then chốt nhằm nâng cao chất lượng văn bản quy phạm
pháp luật. Việc xác định rõ và đẩy mạnh chức năng, trách nhiệm của từng chủ thể giúp quy
trình xây dựng pháp luật trở nên minh bạch, hiệu quả, và phản ánh đúng nhu cầu thực tiễn
xã hội. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020),
tại Điều 7, đã quy định rõ các chủ thể có trách nhiệm trong quy trình xây dựng pháp luật.
Có thể chia thành ba nhóm chính: cơ quan đề xuất, soạn thảo; cơ quan thẩm tra, thẩm định;
tổ chức phản biện, góp ý; và cơ quan ban hành.
Thứ nhất, cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trình dự án, dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật đóng vai trò khởi đầu. Họ không chỉ đề xuất chính sách, mà còn có
trách nhiệm lập hồ sơ đề nghị, trình cấp có thẩm quyền quyết định việc đưa dự án vào
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, bên cạnh đó còn chịu trách nhiệm về tiến độ và chất
lượng dự án, dự thảo văn bản do mình trình. Đây là khâu “đặt nền móng” cho toàn bộ văn
bản, nên nếu quá trình này được thực hiện một cách sơ sài, thiếu đánh giá tác động chính
sách, hoặc lập luận không chặt chẽ thì sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ quy trình sau đó. Vì vậy,
cần tăng cường trách nhiệm giải trình, năng lực lập pháp và cơ chế kiểm tra sớm chất lượng
hồ sơ đề xuất ngay từ đầu, tránh tình trạng hình thức hoặc chạy theo tiến độ.
Tiếp theo, các cơ quan thẩm định, thẩm tra và các tổ chức tham gia góp ý kiến
giữ vai trò kiểm tra, giám sát và phản biện độc lập trong quy trình xây dựng pháp luật. Cơ
quan thẩm định có trách nhiệm đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp, sự thống nhất và đồng bộ
của dự thảo với hệ thống pháp luật, đồng thời chịu trách nhiệm trước cơ quan trình hoặc cơ
quan ban hành về kết quả thẩm định. Cơ quan thẩm tra (như Ủy ban Pháp luật của Quốc
hội) xem xét nội dung, chính sách trong dự thảo và chịu trách nhiệm trước cơ quan ban
5 https://lsvn.vn/cac-nguyen-tac-trong-hoat-dong-xay-dung-phap-luat1610529428-a99287.html lOMoAR cPSD| 58728417
hành về kết quả thẩm tra. Bên cạnh đó, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức nghề nghiệp,
chuyên gia, nhà khoa học và người dân được đề nghị tham gia góp ý kiến cũng phải chịu
trách nhiệm về nội dung và thời hạn phản hồi. Việc tham vấn rộng rãi ý kiến xã hội góp
phần bảo đảm tính khách quan, thực tiễn và dân chủ của dự thảo. Tuy nhiên, trên thực tế,
việc lấy ý kiến nhiều khi còn hình thức, chưa đi vào chiều sâu. Cần thiết lập cơ chế tổng
hợp, phản hồi, và phản ánh ý kiến phản biện một cách đầy đủ, đồng thời tăng cường tính
bắt buộc trong việc tiếp thu, giải trình đối với các góp ý hợp lý.
Cuối cùng, cơ quan ban hành văn bản, gồm các cơ quan: Quốc hội, Hội đồng nhân
dân và cơ quan khác; không chỉ thực hiện quyền biểu quyết thông qua mà còn phải chịu
trách nhiệm giám sát việc thực thi và đánh giá hậu kiểm pháp luật; chịu trách nhiệm về chất
lượng văn bản do mình ban hành. Để bảo đảm chất lượng văn bản, các đại biểu dân cử cần
chủ động nghiên cứu, tham gia phản biện và thể hiện rõ vai trò đại diện cho nguyện vọng của cử tri.
Như vậy, trong mỗi giai đoạn của quy trình xây dựng pháp luật, các chủ thể đều đóng
vai trò không thể thay thế. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế trong việc
phát huy đầy đủ vai trò và trách nhiệm của các chủ thể này. Đó cũng chính là lý do cần đặt
ra yêu cầu tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong thực tiễn xây dựng pháp luật hiện nay.
2.2. Lý do cần tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong thực tiễn hiện nay
Thực tiễn gần đây cho thấy hệ thống pháp luật vẫn vướng năm hạn chế chủ yếu. Thứ
nhất, thiếu toàn diện: nhiều quyền hiến định chưa được luật hóa kịp thời; văn bản hướng
dẫn còn “nợ”, trong khi các lĩnh vực mới (kinh tế số, FTZ…) chưa có khung thể chế đầy
đủ. Thứ hai, thiếu đồng bộ: vẫn tồn tại quy định mâu thuẫn, chồng chéo dù đã pháp điển
hóa; việc hợp nhất văn bản chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Thứ ba, thiếu phù hợp và khả
thi: nhiều quy định, đặc biệt về kinh tế – công nghệ mới, chậm thích ứng, nhanh phải sửa
đổi hoặc “treo” hiệu lực vì thiếu nguồn lực thi hành. Thứ tư, công khai, minh bạch còn hạn
chế; việc lấy ý kiến và giải trình tiếp thu chưa khai thác tốt công nghệ, dẫn tới cách hiểu,
áp dụng văn bản thiếu thống nhất. Thứ năm, chậm thể chế hoá chủ trương của Đảng; một
số chính sách lớn chưa được luật hóa kịp thời hoặc thể chế nhưng khó thực thi, khiến thể
chế tiếp tục là “điểm nghẽn” phát triển. Chỉ số “Chất lượng quy định pháp luật” của Việt lOMoAR cPSD| 58728417
Nam trong GII giảm từ hạng 83/132 (2022) xuống 95/133 (2024), cho thấy nhu cầu bức
thiết phải nâng cao vai trò và trách nhiệm của mọi chủ thể trong quá trình lập pháp6.
Những hạn chế này kéo theo các hậu quả trực tiếp. Văn bản quy phạm pháp luật thiếu
ổn định, nhiều đạo luật phải sửa chỉ sau một thời gian ngắn có hiệu lực. Quá trình thi hành
lúng túng khiến niềm tin của người dân và doanh nghiệp suy giảm. Hoạt động đổi mới sáng
tạo, thu hút đầu tư, hội nhập quốc tế cũng bị cản trở. Trong lĩnh vực hình sự, sự lạc hậu của
quy phạm pháp luật gây khó khăn cho việc xử lý các tội phạm mới, điển hình như tội phạm
sử dụng tiền ảo rửa tiền hoặc xâm nhập dữ liệu cá nhân – những sai sót lập pháp có thể xâm
hại trực tiếp quyền con người và trật tự an toàn xã hội.
Chính vì vậy, tăng cường vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia quá trình
lập pháp trở thành yêu cầu cấp thiết để chuyển hệ thống pháp luật “từ hiện diện trên giấy”
sang “thực thi hiệu quả”. Việc này không chỉ nhằm đáp ứng các cam kết cải cách thể chế,
nâng thứ hạng chỉ số quốc tế, mà còn bảo đảm thực chất quyền con người và lợi ích quốc
gia. Để làm được điều đó, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ và các Ủy ban chuyên trách cần
siết trách nhiệm giải trình của cơ quan trình dự án. Các bộ, ban, ngành trung ương – đặc
biệt là Bộ Tư pháp, Tài chính, Nội vụ, Ngoại giao – cùng với sở, phòng, ban và UBND các
cấp phải chuẩn hóa hồ sơ đề xuất và bảo đảm kịp thời ban hành văn bản chi tiết. Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và cơ quan thi hành án cần phối hợp chặt
chẽ trong soạn thảo, thẩm tra các dự án sửa đổi bộ luật tố tụng và hình sự, đồng thời đẩy
mạnh công bố án lệ. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, Hội Luật
gia và Đoàn Luật sư cần được trao cơ chế phản biện ràng buộc, bắt buộc cơ quan soạn thảo
phải công khai việc tiếp thu – giải trình. Các viện nghiên cứu, trung tâm khoa học pháp lý
cùng đội ngũ học giả, chuyên gia luật học và xã hội học cần tham gia sâu vào đánh giá chính
sách, nhất là trong lĩnh vực tội phạm mới. Đại biểu dân cử và nhân dân, với tư cách là kênh
giám sát và góp ý, phải được kết nối thông qua các nền tảng lấy ý kiến trực tuyến, để tiếng
nói thực tiễn kịp thời lọt vào văn bản luật. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Dân chúng
biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ mà những người tài
giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”7
– cho thấy vai trò không thể thay thế của
tiếng nói nhân dân trong việc hình thành chính sách.
6 https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/1013502/hoan-thien-he-
thongphap-luat-dap-ung-muc-tieu-xay-dung%2C-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-
trong-kynguyen-vuon-minh-cua-dan-toc.aspx
7 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, NXB. Chính trị quốc gia, Hà nội, tr. 295 lOMoAR cPSD| 58728417
Chính vì vậy, tăng cường vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia quá trình
lập pháp trở thành yêu cầu cấp thiết. Điều này không chỉ nhằm đáp ứng các cam kết cải
cách thể chế, nâng thứ hạng chỉ số quốc tế, mà còn bảo đảm thực chất quyền con người và
lợi ích quốc gia. Để làm được điều đó, cần siết trách nhiệm giải trình của các cơ quan trình
dự án, đồng thời tạo điều kiện cho các bộ, ban ngành trung ương phối hợp hiệu quả hơn
trong việc soạn thảo và ban hành văn bản chi tiết. Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành
án, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội cần phát huy vai trò phản biện và
giám sát, bảo đảm tính minh bạch trong quá trình xây dựng pháp luật.
Những hạn chế trong việc xây dựng pháp luật, đặc biệt là trong việc xử lý các vấn
đề pháp lý mới, đòi hỏi sự tăng cường vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia quá
trình lập pháp. Những vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến tính toàn diện, đồng bộ của hệ
thống pháp luật mà còn gây ra những hậu quả cụ thể trong thực tiễn. Một ví dụ điển hình
trong lĩnh vực pháp luật hình sự là sự chậm trễ trong việc ban hành hành lang pháp lý cho
tiền điện tử và các tội phạm liên quan, cho thấy rõ sự thiếu sót trong quá trình xây dựng pháp luật.
3. Ví dụ cụ thể trong lĩnh vực xây dựng pháp luật hình sự
Ví dụ cụ thể trong lĩnh vực pháp luật hình sự có thể thấy rõ ở việc chậm ban hành
khung pháp lý cho tiền điện tử/tiền ảo. Mặc dù tiền điện tử/tiền ảo đã xuất hiện và phát triển
mạnh mẽ trong vài năm qua, tính đến năm 2024, Việt Nam xếp thứ 5 thế giới về mức độ
quan tâm đến tài sản số (theo: Chainalysis), đứng thứ 3 toàn cầu về sử dụng các nền tảng
giao dịch quốc tế, hiện có 17 triệu người Việt Nam sở hữu tài sản số và tổng giá trị thị
trường vượt 100 tỉ USD, giao dịch tài sản số không chính thức đang tạo ra một nền kinh tế
ngầm khổng lồ nhưng Viêt Nam ḷ ại chưa có khung pháp lý chính thức cho tiền điên ṭ ử, tài
sản số8. Nhưng cho đến nay, hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn chưa có quy định rõ ràng và
đầy đủ để xử lý các hành vi liên quan đến lĩnh vực này, đặc biệt là các hành vi rửa tiền qua
tiền ảo. Điều này là hậu quả của sự thiếu phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan như Bộ Tư
pháp, Bộ Công an và Ủy ban Tư pháp của Quốc hội. Trong khi đó, các chuyên gia công
nghệ và giới luật sư cũng chưa tham gia đủ sớm trong quá trình xây dựng các quy định này,
8 https://lsvn.vn/hoan-thien-khung-phap-ly-de-tien-dien-tu-tai-san-so-som-co-gia-tri-phap-ly-tai-viet- nama154695.html lOMoAR cPSD| 58728417
dẫn đến việc thiếu sự hiểu biết và cơ sở pháp lý vững chắc để đối phó với các vấn đề phát sinh.
Thực tế này đã dẫn đến nhiều hệ quả nghiêm trọng. Các đối tượng tội phạm có xu
hướng lợi dụng đặc tính ẩn danh, giao dịch xuyên biên giới, khó truy vết của tiền ảo để thực
hiện hành vi lừa đảo, rửa tiền hoặc thậm chí tài trợ khủng bố. Các loại tiền mã hóa (Ví dụ
như: Monero, Zcash, Dash) đang bị sử dụng để huy động vốn trái phép, rửa tiền hoặc chuyển
tiền bất hợp pháp xuyên quốc gia, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử. Trên
thực tiễn xét xử, một số vụ án đã đưa ra xét xử nhưng tòa án buộc phải tuyên trả tự do cho
người phạm tội do không có quy định pháp luật cụ thể để xử lý. Đây là ví dụ điển hình cho
thấy sự cần thiết phải tăng cường vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia trong quá
trình xây dựng pháp luật, đảm bảo các quy định được xây dựng đồng bộ và kịp thời, đáp
ứng nhu cầu thực tế của xã hội.
Nguyên nhân của thực trạng này chính là sự thiếu đồng bộ, thiếu trách nhiệm và
thiếu phối hợp hiệu quả giữa các chủ thể tham gia quá trình xây dựng pháp luật. Cụ thể, Bộ
Tư pháp chưa chủ động đề xuất điều chỉnh luật để điều tiết lĩnh vực tài sản số, Bộ Công an,
Cục An ninh mạng Nội địa, và các cơ quan/chủ thể có thẩm quyền khác chưa tham mưu cụ
thể hóa các hành vi phạm tội phát sinh từ tiền ảo, trong khi Ủy ban Tư pháp của Quốc hội
chưa có động thái thúc đẩy sửa đổi kịp thời Bộ luật Hình sự. Sự vắng mặt của các tổ chức
phản biện như Hội Luật gia, Đoàn Luật sư, các viện nghiên cứu và giới chuyên gia công
nghệ trong giai đoạn đầu của quy trình lập pháp cũng khiến dự thảo nếu có sẽ khó phản ánh
sát thực tiễn. Hơn nữa, người dân – những người bị ảnh hưởng trực tiếp từ hoạt động lừa
đảo tiền ảo – chưa có kênh phản ánh hay tham gia góp ý vào quy trình xây dựng pháp luật hình sự liên quan.
Từ góc độ xã hội học pháp luật, điều này phản ánh rõ sự mất kết nối giữa quyền lực
lập pháp và nhu cầu xã hội. Khi các chủ thể không được xác định rõ trách nhiệm, không có
cơ chế ràng buộc phối hợp, và không chịu giám sát công khai minh bạch, thì pháp luật dễ
trở thành “công cụ giấy”, không theo kịp tốc độ biến đổi của đời sống xã hội. Trong khi đó,
lĩnh vực hình sự lại là nơi cần nhanh chóng thể chế hóa để kịp thời bảo vệ quyền con người,
đảm bảo trật tự an toàn xã hội, và giữ gìn kỷ cương pháp luật.
Để khắc phục những hạn chế trong hoạt động xây dựng pháp luật, đặc biệt đối với
các lĩnh vực mới như tài sản số, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp cụ thể. Trước hết,
cần thiết lập tổ công tác liên ngành gồm Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước, lOMoAR cPSD| 58728417
Bộ Tài chính và Hiệp hội Blockchain Việt Nam nhằm xây dựng khung pháp lý tiên phong
cho tài sản số, đồng thời đóng vai trò điều phối và phản ứng kịp thời trước các vấn đề phát
sinh từ thực tiễn. Bên cạnh đó, cần ứng dụng các công nghệ giám sát và truy vết tài chính
tiên tiến như Chainalysis hoặc Elliptic9 vào công tác quản lý nhà nước, điều tra và phòng
ngừa tội phạm công nghệ cao, nhằm đảm bảo các quy định pháp luật không bị tụt hậu so
với tốc độ phát triển của thực tiễn. Một giải pháp quan trọng khác là xây dựng cơ chế phản
biện xã hội có tính ràng buộc pháp lý, theo đó cơ quan chủ trì soạn thảo phải có trách nhiệm
giải trình công khai việc tiếp thu hay không tiếp thu các ý kiến đóng góp từ tổ chức xã hội
– nghề nghiệp, giới luật sư, chuyên gia công nghệ và nhân dân, nhằm tăng tính minh bạch
và hạn chế tình trạng áp đặt ý chí chủ quan. Cuối cùng, cần xác định rõ trách nhiệm giải
trình của từng cơ quan chủ trì trong quy trình xây dựng pháp luật, nhất là ở các lĩnh vực
công nghệ cao vốn có nhiều biến động và tiềm ẩn rủi ro pháp lý, qua đó nâng cao hiệu quả
phối hợp liên ngành và trách nhiệm chính trị – pháp lý trong hoạt động lập pháp.
Từ ví dụ về tiền điện tử, có thể thấy: khi từng chủ thể trong quá trình lập pháp không
thực hiện đầy đủ vai trò và trách nhiệm, thì hậu quả là hệ thống pháp luật bị bỏ lại phía sau,
không đủ khả năng kiểm soát và điều chỉnh thực tiễn. Điều này càng nhấn mạnh tính cấp
thiết của việc tăng cường vai trò, trách nhiệm và sự phối hợp hiệu quả giữa các chủ thể
trong hoạt động xây dựng pháp luật – đặc biệt trong lĩnh vực hình sự, nơi pháp luật không
chỉ điều chỉnh hành vi mà còn bảo vệ trực tiếp quyền con người và an ninh quốc gia. KẾT LUẬN
Tăng cường vai trò và trách nhiệm của các chủ thể trong hoạt động xây dựng pháp
luật không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là điều kiện tiên quyết để bảo đảm chất lượng,
tính khả thi và hiệu lực của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Đặc biệt trong lĩnh vực
pháp luật hình sự, sự tham gia tích cực, trách nhiệm và có cơ sở khoa học của các cơ quan
như Quốc hội, Chính phủ, Bộ Công an, các tổ chức chính trị - xã hội và giới học giả sẽ góp
phần hoàn thiện pháp luật theo hướng dân chủ, công bằng và phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
9 https://vietnamnet.vn/phai-chan-nguy-co-toi-pham-loi-dung-tien-ao-de-lua-dao-rua-tien-2385445.html lOMoAR cPSD| 58728417
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.
2. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi bổ sung 2020
3. Trường Đại học Luật Hà Nội. (2020). Giáo trình Xã hội học pháp luật. NXB Tư pháp, Hà Nội
4. Nguyễn Văn Động. (2010). Hoạt động xây dựng pháp luật trước yêu cầu phát triển
bền vững của Việt Nam hiện nay. Tạp chí Luật học, số 3(118)
5. Trường Đại học Luật Hà Nội. (2019). Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và
Pháp luật. NXB Tư pháp, Hà Nội
6. Bùi Thị Đào. (1998). Xã hội học hoạt động xây dựng pháp luật (Luận án Tiến sĩ Luật học). Hà Nội
7. Hồ Chí Minh. (1995). Toàn tập (Tập 5). NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
Link các bài viết tạp chí:
1. https://lsvn.vn/cac-nguyen-tac-trong-hoat-dong-xay-dung-phap-luat1610529428- a99287.html
2. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/
2018/1013502/hoan-thien-he-thong-phap-luat-dap-ung-muc-tieu-xay-
dung%2Choan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-trong-ky-
nguyenvuon-minh-cua-dan-toc.aspx
3. https://lsvn.vn/hoan-thien-khung-phap-ly-de-tien-dien-tu-tai-san-so-som-co-gia-tri-
phap-ly-tai-viet-nam-a154695.html
4. https://vietnamnet.vn/phai-chan-nguy-co-toi-pham-loi-dung-tien-ao-de-lua-dao- rua-tien-2385445.html