Đề 1: Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành khởi kiện
vụ án dân sự, thực tiễn áp dụng và đề xuất, kiến nghị?
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1
NỘI DUNG......................................................................................................................1
1. Một số vấn đề lý luận về khởi kiện vụ án dân sự ..................................................... 2
1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự ..................................................................... 2
1.2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án dân sự ................................................................ 2
2. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về khởi kiện vụ án dân sự .......... 3
2.1. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự ...................................................................... 3
2.2. Phạm vi khởi kiện vụ án dân sự ......................................................................... 5
2.3. Hình thức và thủ tục khởi kiện .......................................................................... 5
3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự và một số kiến nghị .......... 6
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự .................................... 6
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về khởi kiện vụ án dân sự
.................................................................................................................................. 8
KẾT LUẬN.....................................................................................................................6
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................7
MỞ ĐẦU
Trong quá trình tham gia các quan hệ dân sự, quyền lợi hợp pháp của các chủ
thể có thể bị xâm phạm. Để bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể, pháp luật đã quy
định về những biện pháp bảo đảm quyền của chủ thể, trong đó biện pháp khởi kiện
vụ án dân sự. Việc nghiên cứu các quy định về khởi kiện vụ án dân sư theo Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015 hết sức cần thiết. Do đó, bài viết đã lựa chọn đề tài: Phân tích,
đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành khởi kiện vụ án n
sự, thực tiễn áp dụng và đề xuất, kiến nghị?”.
NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về khởi kiện vụ án dân sự
1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự
Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác
theo quy đính của pháp luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền
lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác, bảo vệ lợi ích công cộng và lợi ích của
Nhà nước trong trường hợp lợi ích đó bị xâm phạm hay tranh chấp với chủ thể khác
1
.
Khởi kiện vụ án dân sự là hành vi tố tụng đầu tiên của chủ thể có quyền lợi hoặc người
đại diện của họ làm phát sinh các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
1.2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án dân sự
Thứ nhất, khởi kiện sở làm phát sinh thủ tục thẩm giải quyết vụ án
dân sự tại a án. Khởi kiện vụ án dân sự được thực hiện thông qua hành vi nộp đơn
khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền của chủ thể có quyền và lợi ích bị xâm phạm hoặc
thông qua người đại diện hợp pháp của họ. Nếu không hoạt động này sẽ không
vụ án dân sự được giải quyết tại Tòa án. Việc làm đơn khởi kiện là bước đầu tiên trong
hoạt động khởi kiện, làm tiền đề cho các hoạt động tố tụng tiếp theo.
1
Bùi Thị Quế Anh (2018), Khởi kiện vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Điện Biên, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.10.
Thứ hai, khởi kiện vụ án dân sự hoạt động do các chủ thể quyền thực
hiện theo quy định của pháp luật. Khởi kiện vụ án dân sự được pháp luật ghi nhận
hoạt động bảo vệ quyền dân sự của chủ thể quyền hay lợi ích hợp pháp bị xâm phạm,
cụ thể tại Điều 186 BLTTDS 2015. Các chủ thể quyền khởi kiện muốn thực hiện
quyền khởi kiện của mình thì phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Thứ ba, khởi kiện vụ án dân sự hoạt động tố tụng các đương sự tự do
định đoạt trong việc bảo vệ quyền lợi của mình. Về bản chất, khởi kiện vụ án dân sự
một trong những phương thức để giải quyết những tranh chấp, xung đột về lợi ích.
Cá nhân, quan, tổ chức khi quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm quyền thực
hiện hoặc không thực hiện việc yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp phát sinh, buộc
người có hành vi xâm phạm quyền dân sự chấm dứt hành vi, bồi thường thiệt hại hoặc
theo thỏa thuận các bên.
Thứ tư, đối tượng của khởi kiện vụ án dân sự là những vụ án chưa được giải
quyết bằng bản án, quyết định đãhiệu lực của Tòa án hay quyết định đã hiệu
lực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định khác.
Khởi kiện vụ án dân sự là một trong những thủ tục tố tụng TTDS quan trọng, giúp các
chủ thể bị xâm phạm về quyền lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ thông qua
hoạt động xét xử của quan Tòa án. Tuy nhiên, để đảm bảo tính nhanh chóng của
TTDS và tính ổn định của bản án, quyết định thì chỉ những vụ án dân sự chưa được giải
quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án hay quyết định đã có hiệu lực
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mới được Tòa án xem xét giải quyết; trừ trường
hợp do pháp luật quy định.
Thứ năm, khởi kiện vụ án dân sự được thực hiện theo một trình tự, thủ tục do
pháp luật tố tụng dân sự quy định. Để thực hiện quyền khởi kiện của mình, các chủ
thể có quyền khởi kiện đều phải tuân theo đầy đủ, chính xác mọi quy định của pháp luật
TTDS. Mọi trường hợp vi phạm quy định của pháp luật TTDS về khởi kiện vụ án dân
sự đều không được chấp nhận.
2. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về khởi kiện vụ án dân sự
2.1. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự
* Về chủ thể khởi kiện:
Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự là các chủ thể theo quy định của pháp luật được
tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, bao gồm cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức
đáp ứng điều kiện do pháp luật quy định. Đthực hiện quyền khởi kiện của mình, các
chủ thể phải đáp ứng những yêu cầu sau:
Thứ nhất, chủ thể đó phải năng lực chthể pháp luật TTDS, bao gồm ng
lực pháp luật tố tụng dân sự năng lực hành vi tố tụng dân sự. Năng lực pháp luật tố
tụng dân sự là khả năng do pháp luật quy định cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có những
quyền và nghĩa vụ trong TTDS
2
. Năng lực hành vi tố tụng dân sự khả năng tự mình
thực hiện quyền, nghĩa vụ TTDS hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia TTDS
3
.
Thứ hai, chủ thể khởi kiện vụ án dân sự phải quyền, lợi ích bị xâm phạm hoặc
khởi kiện để bảo vệ lợi ích của người khác, lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng. Điều
186, 187 BLTTDS 2015 đã quy định quan, tổ chức, nhân quyền khởi kiện vụ
án dân sự để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc bảo vệ
lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng.
* Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Chủ thể chỉ được quyền u cầu
giải quyết nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Thẩm quyền giải quyết
vụ án dân sự của Tòa án bao gồm thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền theo cấp xét
xử thẩm quyền theo lãnh thổ. Về thẩm quyền theo loại việc, Tòa án thẩm quyền
giải quyết các vụ án phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh thương mại, lao động theo quy định tại Điều 26, 28, 30, 32 BLTTDS 2015. Về
thẩm quyền theo cấp xét xử, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục
thẩm gồm Tòa án nhân dân cấp huyện Tòa án nhân dân cấp tỉnh; được quy định
cụ thể tại Điều 35, 36, 37, 38 BLTTDS 2015.
Về thẩm quyền theo nh thổ, đối với tranh chấp đối tượng tranh chấp bất động
sản, Tòa án thẩm quyền giải quyết Tòa án nơi bất động sản
4
. Nếu các tranh
chấp không phải là bất động sản, Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi bị đơn
cư trú, làm việc hoặc nơi bị đơn có trụ sở.
2
Khoản 1 Điều 69 BLTTDS 2015.
3
Khoản 2 Điều 69 BLTTDS 2015.
4
Điều 39 BLTTDS 2015.
* Sự việc chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định đã hiệulực
pháp luật của Tòa án hoặc quyết định của quan nhà nước thẩm quyền, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác: Điều 192, Điều 217 BLTTDS 2015 quy định
nếu một vụ án đã được Tòa án giải quyết bằng một bản án, quyết định đã hiệu lực
pháp luật thì đương sự không được khởi kiện đối với vụ án đó nữa. Tuy nhiên, để đảm
bảo quyền lợi ích hợp pháp cho các chủ thể, BLTTDS 2015 cũng quy định những
trường hợp đương sự được khởi kiện lại tại Khoản 3 Điều 192, Điểm c Khoản 1 Điều
217 BTTTDS 2015.
2.2. Phạm vi khởi kiện vụ án dân sự
Theo quy định tại Điều 188 BLTTDS 2015, quan, tổ chức, nhân thể
khởi kiện một hoặc nhiều quan, tổ chức, cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc
nhiều quan hệ pháp luật liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án; nhiều
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể cùng khởi kiện một cơ quan, một tổ chức, một nhân
khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau đ
giải quyết trong cùng một vụ án; quan, tổ chức, nhân quy định tại Điều 187 Bộ
luật này thể khởi kiện một hoặc nhiều quan, tổ chức, nhân khác về một quan
hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật liên quan với nhau để giải quyết trong
cùng một vụ án. Để được coi là nhiều quan hệ pháp luật liên quan đến nhau để giải
quyết trong cùng một vụ án”, phải thuộc một trong các trường hợp: Việc giải quyết quan
hệ pháp luật này đòi hỏi phải giải quyết đồng thời quan hệ pháp luật khác
;
việc giải
quyết các quan hệ pháp luật cùng đương sự về cùng loại tranh chấp quy định trong
một điều luật tương ứng
5
.
2.3. Hình thức và thủ tục khởi kiện
* Về hình thức khởi kiện tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi
kiện:Điều 189 BLTTDS 2015 chỉ thừa nhận một hình thức khởi kiện duy nhất đơn
khởi kiện thể hiện bằng chữ viết tiếng Việt, không thừa nhận việc khởi kiện bằng lời
nói hoặc hình thức khác không phải là văn bản và thể hiện bằng các ký hiệu, ngôn ngữ
khác không phải tiếng Việt. Theo Khoản 5 Điều 189 BLTTDS, về nguyên tắc, khi gửi
5
Điều 4 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP.
đơn khởi kiện cho Tòa án, người khởi kiện phải gửi kèm theo các tài liệu, chứng cứ để
chứng minh họ là người có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hoặc tranh chấp.
* Về phương thức nộp đơn khởi kiện vụ án dân sự: Theo Điều 190
BLTTDS 2015, ngoài gửi đơn khởi kiện, tài liệu chứng cứ kèm theo bằng phương
thức nộp trực tiếp, người khởi kiện có thể gửi qua đường dịch vụ bưu chính và gửi trực
tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Việc ghi
nhận chủ thể khởi kiện có thể gửi đơn khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án
là điểm mới so với BLTTDS 2004; tuy nhiên, để việc áp dụng quy định này được thực
sự phổ biến thì vẫn cần thời gian.
3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự và một số kiến nghị
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự
Trong những năm qua, Tòa án luôn nlực thgiải quyết các tranh chấp
dân sự một cách nhanh chóng, toàn diện, kịp thời đảm bảo quyền khởi kiện, quyền tiếp
cận công lý của người dân. Trong năm 2020, các Tòa án nhân dân đã thụ lý 602.252 vụ
việc, đã giải quyết được 544.604 vụ việc (đạt tỷ lệ 90,4%) tất cả c lĩnh vực; trong
đó số lượng vụ việc n sự chiếm tỷ lệ cao nhất trong ba lĩnh vực hình sự, dân sự
hành chính. Cụ thể, ngành Tòa án đã thụ lý 471.581 vụ việc, đã giải quyết, xét xử được
419.793 vụ việc (đạt tỷ lệ 89,02%)
6
. Trong công tác giải quyết, xét xử vụ án dân sự, các
Tòa án đã làm tốt việc hướng dẫn các đương sự thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ,
tài liệu của vụ án; chủ động xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp cần
thiết theo quy định của pháp luật; tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan nhằm
giải quyết tốt vụ án; hạn chế đến mức thấp nhất việc để án quá thời hạn giải quyết theo
quy định của pháp luật hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ án không đúng căn cứ pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn tồn tại một số hạn chế
nhất định. Trước hết, vẫn còn sự chưa tương thích giữa quy định của BLDS 2015
BLTTDS 2015 về chủ thể có quyền khởi kiện. Theo Điều 1 BLDS 2015, Khoản 3 Điều
185 Luật doanh nghiệp 2014, các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là cá nhân, pháp
6
Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2020 và nhiệm kỳ 2016-2020; Phương hướng,
nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2021 của các Tòa án.
nhân. Các chủ thể không phải pháp nhân như tổ hợp tác, hộ gia đình, các tổ chức không
cách pháp nhân sẽ tham gia tố tụng tại Tòa với cách nhân. Tuy nhiên, theo
Điều 186 BLTTDS 2015, chủ thể quyền khởi kiện gồm hnân, quan, tổ chức.
Tổ chức đây gồm tổ chức cách pháp nhân tổ chức không cách pháp
nhân. Sự không ơng thích này đã gây khó khăn cho việc thực hiện quyền khởi kiện
của các chủ thể. Thứ hai, vẫn còn khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện quy định
về thẩm quyền của Tòa án. Việc Tòa án thụ lý sai thẩm quyền đã m ảnh hưởng đến
quyền khởi kiện của các chủ thể. Ngoài ra, việc quy định chưa chặt chẽ, đầy đủ cũng
như chưa thực sự khoa học về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ đã khiến các chủ
thể gặp khó khăn trong việc xác định thẩm quyền giải quyết giữa các Tòa án cùng cấp.
Thứ ba, về phạm vi khởi kiện, pháp luật TTDS chưa quy định cụ thể về thế o
“giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiện” giải quyết không triệt để vụ án”; dẫn tới
một số bản án, quyết định bị hủy theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm
7
. Việc không
có quy định cụ thể, rõ ràng các nội dung trên dẫn đến cách hiểu không thống nhất giữa
những người áp dụng pháp luật, khiến Thẩm phán rơi vào tình trạng hoang mang giữa
giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiệngiải quyết không triệt để vụ án”. Thứ ,
về hình thức, nội dung đơn khởi kiện tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện,
sự chưa thống nhất bất cập về quy định người khởi kiện phải trực tiếp o đơn
khởi kiện quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 189 BLTTDS 2015. Quy định này dường
như sự mâu thuẫn với quy định về quyền khởi kiện tại Điều 186. Bởi lẽ, theo Điều
186 BLTTDS, quan, tổ chức, nhân quyền tự mình hoặc thông qua người đại
diện hợp pháp khởi kiện tại Tòa án thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của mình. Vậy có thể hiểu, người có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm
có thể tự mình thực hiện quyền khởi kiện tại Tòa án hoặc thông qua người đại diện hợp
pháp. Khi đã thiết lập quan hệ ủy quyền, người được ủy quyền hoàn toàn thể đại diện
người ủy quyền thực hiện tất cả hành vi tố tụng tại a án trong phạm vi được ủy quyền,
bao gồm cả việc làm đơn khởi kiện đơn khởi kiện (nếu có). Tuy nhiên, Điểm a
7
Nguyễn Thị Hương (2019), Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án
Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.97.
Khoản 1 Điều 189 BLTTDS 2015 lại quy định người khởi kiện phải tên hoặc điểm
chỉ vào đơn khởi kiện; được hiểu là pháp luật không chấp nhận việc y quyền khởi kiện
của chủ thể có quyền
8
.
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về khởi kiện vụ
ándân sự
Thứ nhất, cần quy định cụ thể việc xác định chủ thể có quyền khởi kiện và chủ
thể khi bị xâm phạm về quyền và lợi ích có thể ủy quyền cho người khác khởi kiện
thay. Cần tránh việc áp dụng không đúng quy định tại các Điều 186, 189 của BLTTDS
2015 theo hướng bắt buộc người có quyền và lợi ích bị xâm hại phải ký hoặc điểm chỉ
vào đơn khởi kiện. Cần có hướng dẫn cụ thể về ủy quyền thực hiện việc khởi kiện của
cá nhân, chẳng hạn như sau: Cá nhân là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, có
quyền và lợi ích bị xâm hại trực tiếp ký hoặc điểm chỉ đơn khởi kiện; hoặc người đại
diện hợp pháp của họ ký hoặc điểm chỉ đơn khởi kiện; trừ trường hợp pháp luật
không cho phép.
Thứ hai, cần sửa đổi quy định pháp luật về xác định thẩm quyền của Tòa án theo
lãnh thổ. Điều 39 Điều 40 của BLTTDS 2015 đều nhằm xác định thẩm quyền của
Tòa án theo lãnh thổ; song hai Điều luật này lại có tiêu đề khác nhau. Điều 39 được đặt
tên Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh th”; còn Điều 40 được đặt tên Thẩm
quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu”. Vậy phải chăng
quy định tại Điều 40 BLTTDS 2015 không phải quy định về thẩm quyền theo lãnh
thổ
9
. Ngoài ra, để xác định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án một cách chính xác,
thứ tự áp dụng sẽ (1) Điểm c Khoản 1 Điều 39, (2) Điểm b Khoản 1 Điều 39, (3)
Điều 40 (4) Điểm a Khoản 1 Điều 39
10
; như vậy sẽ gây khó khăn cho các chthể
muốn khởi kiện ra Tòa án khi xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ. Chính vì
vậy, sẽ hợp lý hơn nếu quy định của Điều 40 BLTTDS 2015 được thể hiện trong Điều
39 và sắp xếp các điều khoản theo thứ tự.
8
Nguyễn Thị Hương (2019), tlđd chú thích 8, tr.99.
9
Trần Anh Tuấn (2018), Kỷ yếu hội thảo “Những quy định chung của BLTTDS năm 2015, Nội, tháng
6/2018, tr.55.
10
Phan Thanh Dương (2018), Khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.73.
Thứ ba, cần bổ sung quy định cho phép người khởi kiện được trực tiếp đến Tòa
án trình bày yêu cầu khởi kiện. Trên thực tế, vẫn còn nhiều trường hợp người khởi kiện
gặp khó khăn trong việc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện. Do đó, BLTTDS 2015
nên bổ sung quy định cho phép người khởi kiện trực tiếp đến trụ sở Tòa án trình bày
các yêu cầu khởi kiện, yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện trong trường hợp họ
không biết chữ hoặc tàn tật. Đối với những trường hợp này, Tòa án sẽ trách nhiệm
cử cán bộ lập biên bản ghi lại yêu cầu của người dân, sau đó hướng dẫn họ ký tên hoặc
điểm chỉ vào biên bản, sau đó cán bộ Tòa án có thể giúp họ làm đơn khởi kiện, sửa đổi
bổ sung đơn khởi kiện để họ có thể thực hiện quyền khởi kiện của mình.
KẾT LUẬN
Khởi kiện vụ án dân sự là một trong những quyền cơ bản của con người, là công
cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hoặc tranh chấp. Do đó,
cần tích cực tăng cường triển khai áp dụng các quy định pháp luật, tiếp tục triển khai
và hoàn thiện pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự; từ đó đảm bảo cho quyền con người,
quyền công dân được bảo vệ một cách hiệu quả nhất.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
2. Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP Luận văn, sách
3. Bùi Thị Quế Anh (2018), Khởi kiện vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện tại tỉnh
Điện Biên, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
4. Phan Thanh Dương (2018), Khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Hà Nội.
5. Trần Anh Tuấn (2018), Kỷ yếu hội thảo “Những quy định chung của BLTTDS
năm 2015”, Hà Nội, tháng 6/2018.
6. Nguyễn Thị Hương (2019), Khởi kiện và thụ vụ án dân sự - Những vấn đề
luận thực tiễn, Luận án Tiến Luật học, Trường Đại học Luật Nội,
Nội.
7. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết ng tác năm 2020 và nhiệm kỳ 2016-
2020; Phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2021 của các Tòa án.

Preview text:

Đề 1: Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành khởi kiện
vụ án dân sự, thực tiễn áp dụng và đề xuất, kiến nghị? MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1
NỘI DUNG......................................................................................................................1
1. Một số vấn đề lý luận về khởi kiện vụ án dân sự ..................................................... 2
1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự ..................................................................... 2
1.2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án dân sự ................................................................ 2
2. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về khởi kiện vụ án dân sự .......... 3
2.1. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự ...................................................................... 3
2.2. Phạm vi khởi kiện vụ án dân sự ......................................................................... 5
2.3. Hình thức và thủ tục khởi kiện .......................................................................... 5
3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự và một số kiến nghị .......... 6
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự .................................... 6
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về khởi kiện vụ án dân sự
.................................................................................................................................. 8
KẾT LUẬN.....................................................................................................................6
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................7 MỞ ĐẦU
Trong quá trình tham gia các quan hệ dân sự, quyền lợi hợp pháp của các chủ
thể có thể bị xâm phạm. Để bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể, pháp luật đã có quy
định về những biện pháp bảo đảm quyền của chủ thể, trong đó có biện pháp khởi kiện
vụ án dân sự. Việc nghiên cứu các quy định về khởi kiện vụ án dân sư theo Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015 là hết sức cần thiết. Do đó, bài viết đã lựa chọn đề tài: “Phân tích,
đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành khởi kiện vụ án dân
sự, thực tiễn áp dụng và đề xuất, kiến nghị?”. NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về khởi kiện vụ án dân sự
1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự
Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác
theo quy đính của pháp luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền
lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác, bảo vệ lợi ích công cộng và lợi ích của
Nhà nước trong trường hợp lợi ích đó bị xâm phạm hay có tranh chấp với chủ thể khác1.
Khởi kiện vụ án dân sự là hành vi tố tụng đầu tiên của chủ thể có quyền lợi hoặc người
đại diện của họ làm phát sinh các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
1.2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án dân sự
Thứ nhất, khởi kiện là cơ sở làm phát sinh thủ tục sơ thẩm giải quyết vụ án
dân sự tại Tòa án. Khởi kiện vụ án dân sự được thực hiện thông qua hành vi nộp đơn
khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền của chủ thể có quyền và lợi ích bị xâm phạm hoặc
thông qua người đại diện hợp pháp của họ. Nếu không có hoạt động này sẽ không có
vụ án dân sự được giải quyết tại Tòa án. Việc làm đơn khởi kiện là bước đầu tiên trong
hoạt động khởi kiện, làm tiền đề cho các hoạt động tố tụng tiếp theo.
1 Bùi Thị Quế Anh (2018), Khởi kiện vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Điện Biên, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.10.
Thứ hai, khởi kiện vụ án dân sự là hoạt động do các chủ thể có quyền thực
hiện theo quy định của pháp luật. Khởi kiện vụ án dân sự được pháp luật ghi nhận là
hoạt động bảo vệ quyền dân sự của chủ thể có quyền hay lợi ích hợp pháp bị xâm phạm,
cụ thể tại Điều 186 BLTTDS 2015. Các chủ thể có quyền khởi kiện muốn thực hiện
quyền khởi kiện của mình thì phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Thứ ba, khởi kiện vụ án dân sự là hoạt động tố tụng mà các đương sự tự do
định đoạt trong việc bảo vệ quyền lợi của mình. Về bản chất, khởi kiện vụ án dân sự
là một trong những phương thức để giải quyết những tranh chấp, xung đột về lợi ích.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức khi có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền thực
hiện hoặc không thực hiện việc yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp phát sinh, buộc
người có hành vi xâm phạm quyền dân sự chấm dứt hành vi, bồi thường thiệt hại hoặc
theo thỏa thuận các bên.
Thứ tư, đối tượng của khởi kiện vụ án dân sự là những vụ án chưa được giải
quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án hay quyết định đã có hiệu
lực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định khác.
Khởi kiện vụ án dân sự là một trong những thủ tục tố tụng TTDS quan trọng, giúp các
chủ thể bị xâm phạm về quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ thông qua
hoạt động xét xử của cơ quan Tòa án. Tuy nhiên, để đảm bảo tính nhanh chóng của
TTDS và tính ổn định của bản án, quyết định thì chỉ những vụ án dân sự chưa được giải
quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án hay quyết định đã có hiệu lực
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mới được Tòa án xem xét giải quyết; trừ trường
hợp do pháp luật quy định.
Thứ năm, khởi kiện vụ án dân sự được thực hiện theo một trình tự, thủ tục do
pháp luật tố tụng dân sự quy định. Để thực hiện quyền khởi kiện của mình, các chủ
thể có quyền khởi kiện đều phải tuân theo đầy đủ, chính xác mọi quy định của pháp luật
TTDS. Mọi trường hợp vi phạm quy định của pháp luật TTDS về khởi kiện vụ án dân
sự đều không được chấp nhận.
2. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về khởi kiện vụ án dân sự
2.1. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự *
Về chủ thể khởi kiện:
Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự là các chủ thể theo quy định của pháp luật được
tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, bao gồm cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức
đáp ứng điều kiện do pháp luật quy định. Để thực hiện quyền khởi kiện của mình, các
chủ thể phải đáp ứng những yêu cầu sau:
Thứ nhất, chủ thể đó phải có năng lực chủ thể pháp luật TTDS, bao gồm năng
lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự. Năng lực pháp luật tố
tụng dân sự là khả năng do pháp luật quy định cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có những
quyền và nghĩa vụ trong TTDS2. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình
thực hiện quyền, nghĩa vụ TTDS hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia TTDS3.
Thứ hai, chủ thể khởi kiện vụ án dân sự phải có quyền, lợi ích bị xâm phạm hoặc
khởi kiện để bảo vệ lợi ích của người khác, lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng. Điều
186, 187 BLTTDS 2015 đã quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ
án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc bảo vệ
lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng. *
Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Chủ thể chỉ được quyền yêu cầu
giải quyết nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Thẩm quyền giải quyết
vụ án dân sự của Tòa án bao gồm thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền theo cấp xét
xử và thẩm quyền theo lãnh thổ. Về thẩm quyền theo loại việc, Tòa án có thẩm quyền
giải quyết các vụ án phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh thương mại, lao động theo quy định tại Điều 26, 28, 30, 32 BLTTDS 2015. Về
thẩm quyền theo cấp xét xử, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục
sơ thẩm gồm Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp tỉnh; được quy định
cụ thể tại Điều 35, 36, 37, 38 BLTTDS 2015.
Về thẩm quyền theo lãnh thổ, đối với tranh chấp mà đối tượng tranh chấp là bất động
sản, Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi có bất động sản4. Nếu các tranh
chấp không phải là bất động sản, Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi bị đơn
cư trú, làm việc hoặc nơi bị đơn có trụ sở.
2 Khoản 1 Điều 69 BLTTDS 2015.
3 Khoản 2 Điều 69 BLTTDS 2015. 4 Điều 39 BLTTDS 2015. *
Sự việc chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định đã có hiệulực
pháp luật của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác: Điều 192, Điều 217 BLTTDS 2015 quy định
nếu một vụ án đã được Tòa án giải quyết bằng một bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật thì đương sự không được khởi kiện đối với vụ án đó nữa. Tuy nhiên, để đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể, BLTTDS 2015 cũng quy định những
trường hợp đương sự được khởi kiện lại tại Khoản 3 Điều 192, Điểm c Khoản 1 Điều 217 BTTTDS 2015.
2.2. Phạm vi khởi kiện vụ án dân sự
Theo quy định tại Điều 188 BLTTDS 2015, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể
khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc
nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án; nhiều
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể cùng khởi kiện một cơ quan, một tổ chức, một cá nhân
khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để
giải quyết trong cùng một vụ án; cơ quan, tổ chức, cá nhân quy định tại Điều 187 Bộ
luật này có thể khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác về một quan
hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong
cùng một vụ án. Để được coi là “có nhiều quan hệ pháp luật liên quan đến nhau để giải
quyết trong cùng một vụ án”, phải thuộc một trong các trường hợp: Việc giải quyết quan
hệ pháp luật này đòi hỏi phải giải quyết đồng thời quan hệ pháp luật khác; việc giải
quyết các quan hệ pháp luật có cùng đương sự và về cùng loại tranh chấp quy định trong
một điều luật tương ứng5.
2.3. Hình thức và thủ tục khởi kiện *
Về hình thức khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi
kiện:Điều 189 BLTTDS 2015 chỉ thừa nhận một hình thức khởi kiện duy nhất là đơn
khởi kiện thể hiện bằng chữ viết tiếng Việt, không thừa nhận việc khởi kiện bằng lời
nói hoặc hình thức khác không phải là văn bản và thể hiện bằng các ký hiệu, ngôn ngữ
khác không phải tiếng Việt. Theo Khoản 5 Điều 189 BLTTDS, về nguyên tắc, khi gửi
5 Điều 4 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP.
đơn khởi kiện cho Tòa án, người khởi kiện phải gửi kèm theo các tài liệu, chứng cứ để
chứng minh họ là người có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hoặc tranh chấp. *
Về phương thức nộp đơn khởi kiện vụ án dân sự: Theo Điều 190
BLTTDS 2015, ngoài gửi đơn khởi kiện, tài liệu và chứng cứ kèm theo bằng phương
thức nộp trực tiếp, người khởi kiện có thể gửi qua đường dịch vụ bưu chính và gửi trực
tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Việc ghi
nhận chủ thể khởi kiện có thể gửi đơn khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án
là điểm mới so với BLTTDS 2004; tuy nhiên, để việc áp dụng quy định này được thực
sự phổ biến thì vẫn cần thời gian.
3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự và một số kiến nghị
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự
Trong những năm qua, Tòa án luôn nỗ lực thụ lý và giải quyết các tranh chấp
dân sự một cách nhanh chóng, toàn diện, kịp thời đảm bảo quyền khởi kiện, quyền tiếp
cận công lý của người dân. Trong năm 2020, các Tòa án nhân dân đã thụ lý 602.252 vụ
việc, đã giải quyết được 544.604 vụ việc (đạt tỷ lệ 90,4%) ở tất cả các lĩnh vực; trong
đó số lượng vụ việc dân sự chiếm tỷ lệ cao nhất trong ba lĩnh vực hình sự, dân sự và
hành chính. Cụ thể, ngành Tòa án đã thụ lý 471.581 vụ việc, đã giải quyết, xét xử được
419.793 vụ việc (đạt tỷ lệ 89,02%)6. Trong công tác giải quyết, xét xử vụ án dân sự, các
Tòa án đã làm tốt việc hướng dẫn các đương sự thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ,
tài liệu của vụ án; chủ động xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp cần
thiết theo quy định của pháp luật; tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan nhằm
giải quyết tốt vụ án; hạn chế đến mức thấp nhất việc để án quá thời hạn giải quyết theo
quy định của pháp luật hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ án không đúng căn cứ pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn tồn tại một số hạn chế
nhất định. Trước hết, vẫn còn sự chưa tương thích giữa quy định của BLDS 2015 và
BLTTDS 2015 về chủ thể có quyền khởi kiện. Theo Điều 1 BLDS 2015, Khoản 3 Điều
185 Luật doanh nghiệp 2014, các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là cá nhân, pháp
6 Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2020 và nhiệm kỳ 2016-2020; Phương hướng,
nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2021 của các Tòa án
.
nhân. Các chủ thể không phải pháp nhân như tổ hợp tác, hộ gia đình, các tổ chức không
có tư cách pháp nhân sẽ tham gia tố tụng tại Tòa với tư cách cá nhân. Tuy nhiên, theo
Điều 186 BLTTDS 2015, chủ thể có quyền khởi kiện gồm cá hnân, cơ quan, tổ chức.
Tổ chức ở đây gồm tổ chức có tư cách pháp nhân và tổ chức không có tư cách pháp
nhân. Sự không tương thích này đã gây khó khăn cho việc thực hiện quyền khởi kiện
của các chủ thể. Thứ hai, vẫn còn khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện quy định
về thẩm quyền của Tòa án. Việc Tòa án thụ lý sai thẩm quyền đã làm ảnh hưởng đến
quyền khởi kiện của các chủ thể. Ngoài ra, việc quy định chưa chặt chẽ, đầy đủ cũng
như chưa thực sự khoa học về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ đã khiến các chủ
thể gặp khó khăn trong việc xác định thẩm quyền giải quyết giữa các Tòa án cùng cấp.
Thứ ba, về phạm vi khởi kiện, pháp luật TTDS chưa có quy định cụ thể về thế nào là
“giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiện” và “giải quyết không triệt để vụ án”; dẫn tới
một số bản án, quyết định bị hủy theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm7. Việc không
có quy định cụ thể, rõ ràng các nội dung trên dẫn đến cách hiểu không thống nhất giữa
những người áp dụng pháp luật, khiến Thẩm phán rơi vào tình trạng hoang mang giữa
giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiện” và “giải quyết không triệt để vụ án”. Thứ tư,
về hình thức, nội dung đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện, có
sự chưa thống nhất và bất cập về quy định người khởi kiện phải trực tiếp ký vào đơn
khởi kiện quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 189 BLTTDS 2015. Quy định này dường
như có sự mâu thuẫn với quy định về quyền khởi kiện tại Điều 186. Bởi lẽ, theo Điều
186 BLTTDS, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại
diện hợp pháp khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Vậy có thể hiểu, người có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm
có thể tự mình thực hiện quyền khởi kiện tại Tòa án hoặc thông qua người đại diện hợp
pháp. Khi đã thiết lập quan hệ ủy quyền, người được ủy quyền hoàn toàn có thể đại diện
người ủy quyền thực hiện tất cả hành vi tố tụng tại Tòa án trong phạm vi được ủy quyền,
bao gồm cả việc làm đơn khởi kiện và ký đơn khởi kiện (nếu có). Tuy nhiên, Điểm a
7 Nguyễn Thị Hương (2019), Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án
Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.97.
Khoản 1 Điều 189 BLTTDS 2015 lại quy định người khởi kiện phải ký tên hoặc điểm
chỉ vào đơn khởi kiện; được hiểu là pháp luật không chấp nhận việc ủy quyền khởi kiện
của chủ thể có quyền8.
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về khởi kiện vụ ándân sự
Thứ nhất, cần quy định cụ thể việc xác định chủ thể có quyền khởi kiện và chủ
thể khi bị xâm phạm về quyền và lợi ích có thể ủy quyền cho người khác khởi kiện
thay. Cần tránh việc áp dụng không đúng quy định tại các Điều 186, 189 của BLTTDS
2015 theo hướng bắt buộc người có quyền và lợi ích bị xâm hại phải ký hoặc điểm chỉ
vào đơn khởi kiện. Cần có hướng dẫn cụ thể về ủy quyền thực hiện việc khởi kiện của
cá nhân, chẳng hạn như sau: Cá nhân là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, có
quyền và lợi ích bị xâm hại trực tiếp ký hoặc điểm chỉ đơn khởi kiện; hoặc người đại
diện hợp pháp của họ ký hoặc điểm chỉ đơn khởi kiện; trừ trường hợp pháp luật không cho phép.
Thứ hai, cần sửa đổi quy định pháp luật về xác định thẩm quyền của Tòa án theo
lãnh thổ. Điều 39 và Điều 40 của BLTTDS 2015 đều nhằm xác định thẩm quyền của
Tòa án theo lãnh thổ; song hai Điều luật này lại có tiêu đề khác nhau. Điều 39 được đặt
tên là “Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ”; còn Điều 40 được đặt tên là “Thẩm
quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu”. Vậy phải chăng
quy định tại Điều 40 BLTTDS 2015 không phải là quy định về thẩm quyền theo lãnh
thổ9. Ngoài ra, để xác định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án một cách chính xác,
thứ tự áp dụng sẽ là (1) Điểm c Khoản 1 Điều 39, (2) Điểm b Khoản 1 Điều 39, (3)
Điều 40 và (4) Điểm a Khoản 1 Điều 3910; như vậy sẽ gây khó khăn cho các chủ thể
muốn khởi kiện ra Tòa án khi xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ. Chính vì
vậy, sẽ hợp lý hơn nếu quy định của Điều 40 BLTTDS 2015 được thể hiện trong Điều
39 và sắp xếp các điều khoản theo thứ tự.
8 Nguyễn Thị Hương (2019), tlđd chú thích 8, tr.99.
9 Trần Anh Tuấn (2018), Kỷ yếu hội thảo “Những quy định chung của BLTTDS năm 2015”, Hà Nội, tháng 6/2018, tr.55.
10 Phan Thanh Dương (2018), Khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.73.
Thứ ba, cần bổ sung quy định cho phép người khởi kiện được trực tiếp đến Tòa
án trình bày yêu cầu khởi kiện. Trên thực tế, vẫn còn nhiều trường hợp người khởi kiện
gặp khó khăn trong việc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện. Do đó, BLTTDS 2015
nên bổ sung quy định cho phép người khởi kiện trực tiếp đến trụ sở Tòa án trình bày
các yêu cầu khởi kiện, yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện trong trường hợp họ
không biết chữ hoặc tàn tật. Đối với những trường hợp này, Tòa án sẽ có trách nhiệm
cử cán bộ lập biên bản ghi lại yêu cầu của người dân, sau đó hướng dẫn họ ký tên hoặc
điểm chỉ vào biên bản, sau đó cán bộ Tòa án có thể giúp họ làm đơn khởi kiện, sửa đổi
bổ sung đơn khởi kiện để họ có thể thực hiện quyền khởi kiện của mình. KẾT LUẬN
Khởi kiện vụ án dân sự là một trong những quyền cơ bản của con người, là công
cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hoặc tranh chấp. Do đó,
cần tích cực tăng cường triển khai áp dụng các quy định pháp luật, tiếp tục triển khai
và hoàn thiện pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự; từ đó đảm bảo cho quyền con người,
quyền công dân được bảo vệ một cách hiệu quả nhất.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
2. Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP Luận văn, sách
3. Bùi Thị Quế Anh (2018), Khởi kiện vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện tại tỉnh
Điện Biên, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
4. Phan Thanh Dương (2018), Khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
5. Trần Anh Tuấn (2018), Kỷ yếu hội thảo “Những quy định chung của BLTTDS
năm 2015”, Hà Nội, tháng 6/2018.
6. Nguyễn Thị Hương (2019), Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
7. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2020 và nhiệm kỳ 2016-
2020; Phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2021 của các Tòa án.