Tiểu luận Triết học Mac-Lenin | Đại học Bách Khoa Hà Nội

Tiểu luận Triết học Mac-Lenin | Đại học Bách Khoa Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!

TỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOANỘI
Mục lục
Trang
Mục lục................................................................................1
Lời nói đầu............................................................................2
Nội dung...............................................................................3
Phần 1- Các phép biện chứng trước triết học Mác..........................3
1.1 Phép biện chứng thời cổ đại.................................................... 3
1.1.1 Triết học Ấn Độ cổ đại..................................................3
1.1.2 Triết học Trung hoa cổ đại............ ..... .......... ..... .......4
1.1.3 Triết học Hi Lạp cổ đại...........................................5
1.2 Phép biện chứng Tây Âu thế kỷ XIV - XVIII............................7
1. 3 Phép biện chứng cổ điển Đức................................................8
1.3.1 Triết học Kant..............................................................9
1.3.2 Triết học Hegel ...................................................9
1.3.3 Triết học Feuerbach..............................................9
Phần 2- Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác – xít.....10
2.1 Điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề về lý luận và khoa học tự nhiên
cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật...................................10
2.2 Nội dung chính của phép biện chứng duy vật..........................11
Phần 3- Phép biện chứng duy vật trong sự vận động và phát triển của
nền kinh tế nước ta hiện nay..................................................13
Kết luận..............................................................................16
1
Lời nói đầu
Biện chứng siêu hình hai phương pháp duy trái ngược nhau trong
triết học. Phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái
đứng im, không vận động, tách rời lập tách biệt nhau. Cách xem xét cho
chúng ta nhìn thấy sự tồn tại của sự vật hiện tượng trạng thái đứng im tương
đối, nhưng nếu tuyệt đối hoá phương pháp này sẽ dẫn đến sai lầm phủ nhận sự
phát triển, không nhận thấy mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Trong khi đó
trái lại, phương pháp biện chứng là: phương pháp xem xét những sự vật hiện
tượng và những phản ánh của chúng vào tư duy, chủ yếu là trong mối liên hệ qua
lại của chúng, trong sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng.
Trong lịch sử triết học những thời gian, duy siêu hình chiếm ưu thế
so với duy biện chứng. Nhưng xét trong toàn bộ lịch sử triết học, thì phép
biện chứng luôn chiếm một vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần hội. Phép
biện chứng một khoa học triết học, vậy cũng phát triển từ thấp tới cao
mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật Mác - xít của triết học Mác - Lênin. Chủ
nghĩa Mác - Lênin luôn đánh giá cao phép biện chứng, nhất phép biện chứng
duy vật, coi đó một công cụ duy sắc bén để đấu tranh với thuyết không thể
biết, tư duy siêu hình, củng cố niềm tin vào sức mạnh và khả năng của con người
trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Việc nghiên cứu lịch sử phát triển của phép biện chứng sẽ cho chúng ta
thấy rõ hơn bản chất của phép biện chứng và sự phát triển của tư duy biện chứng
của nhân loại. Xuất phát từ mục đích đó, tôi chọn đề tài tiểu luận về: lịch sử
phát triển của phép biện chứng trong triết học, để nghiên cứu.
2
Nội dung
Phần 1- Các phép biện chứng trước triết học Mác
1.1 Phép biện chứng thời cổ đại
Phép biện chứng thời cổ đại phép biện chứng tự phát, ngây thơmang
tính trực quan được hình thành trên sở những quan sát tự nhiên, hội hoặc
là kinh nghiệm của bản thân. Trung tâm lớn của triết học thời bấy giờ là triết học
trung hoa cổ đại. Do đặc điểm văn hoá cũng như hoàn cảnh lịch s khác nhau
nên sự thể hiện tưởng biện chứng. Trong học thuyết triết học cũng những
đặc điểm. Không giống nhau, nhưng nói chung cả 3 nên triết học lớn đều
những đặc điểm nêu trên.
1.1.1Triết học ấn đô
cổ đại
Đầu tiên phải nói đến nền triết học Ấn Độ cổ đại. Đây hệ thống triết
học sự đan xen hoà đồng giữa triết học tôn giáo giữa các trường phái
khác nhau. Các tư tưởng triết học được thể hiện dưới hình thức một tôn giáo.
Theo cách phân chia truyền thống triết học Ấn Độ cổ đại có 9 trường phái, trong
đó có 6 trường phái là chính thống và 3 trường phái phi chính thống. Trong tất cả
các trường phái đó thì trường phái đạo phật học thuyết mang tính duy vật
biện chứng sâu sắc tiêu biểu của nền triết học Ấn Độ cổ đại.
Phật giáo hình thành từ thế kỷ VI trước công nguyên do Tất Đạt Đa tên
hiệu thích ca Mẫu Ni sáng tạo. Phật giáo cho rằng vạn vật trong thế giới
không do một đấng thần linh nào sáng tạo ra được tạo ra từ hai nguyên tố
sắc danh. Trong đó " " bao gồm tân thức, còn " " bao gồm 4 đại danh sắc
đại địa, đại thuỷ, đại hoả, đại phong. Chính nhờ từ trường này mà phật giáo được
coi tôn giáo duy vật duy nhất chống lại các tôn giáo thần học đương thời.
Đồng thời phật giáo đưa ra tư tưởng " ", " " nghĩa là không có cái gìvô ngã vô biến
là trường tồn bất biến, là vĩnh hằng, không có cái gì tồn tại biệt lập, mà nó tồn tại
trong một mối liên hệ. Đây tưởng biện chứng sâu sắc chống lại đạo La
môn về sự tồn tại của cái tôi bất biến " ". Biến đổi đây là sự biến đổivô thường
3
của vạn vật theo chu kỳ: sinh - trụ - di - diệt đối với sinh vật và thành - trụ - hoại
- diệt đối với con người. Phật giáo cho rằng sự tương tác giữa 2 mặt đối lập nhân
giả hay nhân duyên chính là động lực làm cho thế giới vận động chứ không phải
là một thế lực siêu nhân nào đó nằm ngoài con người, thế giới là vòng nhân quả
cùng tận. Nói khác một sự vật hiện tượng tồn tại được nhờ hội tụ đủ
nhân duyên.
Tuy đạo phật đã những bước phát triển lớn vì biện chứng nhưngvẫn
còn mang tính vô thần không triệt để, bi quan.
1.1.2 Triết học Trung Hoa cổ đại
Triết học trung hoa cổ đại một nền triết học lớn của nhân loại có tới 103
trường phái triết học lớn nhỏ. Do những đặc điểm của hoàn cảnh lịch sử của
cực đạo đức suy đồi nên triết học trung hoa chỉ tập trung vào việc giải quyết các
vấn đề về chính trị - xã hội, những tư tưởng biện chứng thời này rất ít và chỉ xuất
hiện khi các nhà triết học giải những vấn đề về vũ trụ quan.
Học thuyết triết học mang tưởng biện chứng sâu sắc của triết học trung
hoa: học thuyết âm - dương. Đây học thuyết triết học được phát triển trên
sở một bộ sách tên là kinh dịch. Nguyêntriết học cơ bản nhất nhìn nhận
mọi tồn tại không trong tính đồng nhất tuyệt đối, cũng không phải trong sự
loại trừ biệt lập không thể tương đồng. Trái lại tất cả đều bao hàm sự thống nhất
của các mặt đối lập đó âm dương. Âm dương không loại trừ, không biệt
lập, bao hàm lẫn nhau, liên hệ tương tác lẫn nhau. Điều này thể hiện rất
trong kinh dịch cũng như tương tương thôi nhu sinh biến hái: "Sinh sinh chi vi
dịch". Học thuyết này có hai quan điểm thể hiện sâu sắc tưởng biện chứng.
Một là sự tương tác lẫn nhau giữa âm và dương, giữa các mặt đối lập làm cho
trụ biến đổi không ngừng; hai học thuyết này cũng cho rằng chu trình vận
động, biến dịch của vạn vật trong trụ diễn ra theo nguyên phân đôi cái
thống nhất như thái cực (thể thống nhất) phân đôi thành lưỡng nghi (âm dương).
Sau đó âm dương lại tiến hành phân thành tự tượng thái âm - thiếu, âm, thái
dương - thiếu dương, từ tượng lại sinh ra bát quái, trì đã bát quái sinh ra vạn
vật.
Tuy vậy, học thuyết âm dương vẫn còn những hạn chế.
4
Một là, học thuyết âm - dương phủ nhận sự phát triển biện chứng theo
hướng đi lên học thuyết âm dương cho rằng sự vận động của vạn vật diễn ra
theo chu kỳ lặp đi lặp lại được đảm bảo bởi nguyên tắc cân bằng âm - dương
cho rằng sự vận động của các hiện tượng chỉ dừng lại khi đạt được trạng thái cân
bằng âm dương. Hai là, trong học thuyết âm - dương còn nhiều yếu tố duy tân
thần như quan điểm " " cho rằng trật tự sang hèn trong hộithiên tôn địa
bắt nguồn từ trật tự của trời đất, học đem trật tự của xã hội gán cho giới tự nhiên,
rõ lại dựng hình thức bịa đặt để chứng minh cho sự hợp lý vĩnh viễn của chế độ
đẳng cấp xã hội. Điều này phản khoa học.
Tóm lại, học thuyết âm dương đã phản ánh khuynh hướng duy vật
biện chứng à ra chỉ tự phát. Nhưng thiếu số hạn chỉ của nó chỉ do ở thời kỳ
này khoa học tự nhiên chưa triết học chỉ kết quả của quá trình khái
quát hoá những kinh nghiệm thực tiễn lâu dài của nhân dân trung hoa.
1.1.3 Triết học Hy Lạp cổ đại
Trong thời cổ đại thì nền triết học Hy lạp nền triết học những phát
hiện mới đối với phép biện chứng. Chính thời kỳ này của triết học Hy lạp thuật
ngữ " " ra đời. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế trong thờibiện chứng
kỳ chiếm hữu lệ Hi lạp cổ đại những thành tựu to lớn trong khoa học tự
nhiên, văn hoá, nghệ thuật. Đặc biệt là khoa học tự nhiên như thiên văn học, vật
cổ điển, toán học đã làm sở cho sự phát triển nền tảng cho sự phát
triển của triết học phương tây sau này.
Nhà triết học điển hình cho nền triết học Hi lạp tưởng biện chứng là:
Heraclit (540-980 TCN). Theo sự đánh giá của Mác, Lênin thì Heraclit là người
đã sáng tạo ra phép biện chứng. Ông cũng người đầu tiên xây dựng phép biện
chứng trên lập trường duy vật. Phép biện chứng của ông chưa được trình bày
dưới dạng một hệ thống các luận điểm khoa học mà hai như các luận điểm quan
trọng của ông về phép biện chứng được đề cập dưới dạng các câu danh ngôn
mang tính thi ca triết lý. tưởng biện chứng của Heraclic thể thiếu trong 3
vấn đề sau:
Một quan niệm về sự vận động vĩnh cửu của vật chất. Theo ông thì
khiông sự vật, hiện tượng nào của thế giới đứng yên tuyệt đối, trái lại tất
5
cả đều trong trạng thái biến đổi về chuyển hoá không ngừng. Tư tưởng này được
thể hiện rõ trong hai câu danh ngôn:
Chúng ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông nước mới không
ngừng chảy." "Ngay cả mặt trời cũng mỗi ngày một mốt. "
(Heraclit - giáo trình triết học Mác-Lênin - NXB CTQG)
Heraclit lại đưa ra quan điểm là lửa chính bản nguyên của thế giới, là
sở duy nhất phổ biến nhất của tất cả mọi sự vật hiện tượng. Đồng thời cũng
chính gốc của vận động, tất cả các dạng khác nhau của vật chất chỉ trạng
thái chuyển hoá của lửa thôi. Đây một hạn chế của Heraclit bản chất
của vật chất vận động nhưng cũng chính nhờ quan điểm ấy Heraclit đã
nhấn mạnh được tính vĩnh viễn và bất diệt của thế giới.
Hai là, Heraclit nêu lên tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn
trong mọi sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong phỏng đoán về vai trò của
những mặt đối lập trong biến đổi phổ biến của tự nhiên về "sự trao đổi của
những mặt đối lập sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập", về “ ”. Điều này
thể hiện qua câu nói của ông: "cùng một cái trong chúng ta sống chết,
thức ngủ, trẻ già rằng cái này biến đổi thành cái kia ngược lại, cái
kia ngược lại, cái kia biến đổi thành cái này." Heraclit cũng đã những
phỏng đoán đúng về sự đấu tranh và thống nhất của những mặt đối lập. Đánh giá
về quan điểm thứ hai của Heraclit Lênin đã từng viết "phân đôi cái thống nhất
của phép biện chứng". Điều này chúng ta đã thấy xuất hiện ngay từ nhà biện
chứng Heraclit.
Ba theo Heraclit thì sự vận động phát biến không ngừng của thế giới do
quy luật khách quan quy định, quy luật khách quan trật tự khách quan mọi
cái đang diễn ra trong trị, quy luật chủ quan từ ngữ học thuyết của con
người quy luật chủ quan phải phù hợp với quy luật khách quan. Người nào càng
tiếp cận được quy luật khách quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu.
luận nhận thức của Heraclit mang tính biện chứng và duy vật sơ khai như cơ bản
là đúng đắn.
Trong suốt thời kỳ cổ đại ta thấy rằng không có hệ thống triết học nào có tư
tưởng biến chứng sau như của Heraclit. Do vậy tưởng triết học của ông
được nhà biện chứng cơ Điêu Đức và các nhà sáng lập nên chủ nghĩa Mác-Lênin
6
đánh giá cao, như Các Mác Ph Ăng ghen đã nói "Quan niệm về thế giới mới
của nguyên thuỷ, ngây thơ nhưng căn bản đó cũng là quan điệm của các nhà Hy
Lạp thời cổ và người trên diễn đạt được rằng quan niệm ấy là Heraclit.
Các nhà triết học sau Heraclit tiếp tục kế thừa tưởng biện chứng của ông
và phát triển nhưng thực sự chưa giải quyết được vấn đề bản chất của sự vận
động và của vận động và của vật chất.
Trong học thuyết về nguyên tử của mình, Đêmôcrit (Democritos, 460 - 370
TCN) đã kế thừa quan điểm của Heraclit về vận động. Ông cho rằng vận động
của nguyên tử vĩnh cửu ông đã cố gắng giải thích nguyên nhân vận động
của nguyên tử bản thân nguyên tử, nội lực bên trong. Ông cho rằng còn
khoảng trống hay còn " " trong nguyên tử điều kiện vận động củachân không
nó. Tuy nhiên Đêmôcrit đã không lý giải được nguồn gốc của vận động.
Sau Đêmôcrit Arixtốt (Aristoteles, 384 - 322 TCN) ông cho rằngvận
động gắn liền với các vật thể với mọi sự vật, hiện tượng của giới tự nhiên. Ông
cũng khẳng định vận động là không thể bị tiêu diệt "Đã có vận động và mãi mãi
sẽ vận động". Arixtốt người đầu tiên đã hệ thống hoá các hình thức vận
động thành 6 dạng: Phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển
vị trí .
Tuy nhiên qiam điểm của ông lại hơi lấn sang trường phái duy tâm khi cho
rằng thần thánh là nguồn gốc của mọi vận động.
Tóm lại, phép biện chứng thời cổ đại về căn bản đúng nhưng chủ yếu
mới dựa trên những phỏng đoán những trực kiến thiên tài. Phép biện chứng tự
pháp thời cổ đại đã nhìn thấy bức tranh chung của thế giới trong sự tác động của
nó. Vì vậy không thể tránh khỏi bị phủ định bởi các nền triết học về sau.
1.2 Phép biện chứng Tây Âu thế kỷ XIV - XVIII
Suốt trong 4 thế kỷ (từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII), sự trưởng thành của
tưởng biện chứng Tây Âu mang nhiều ý nghĩa độc đáo. Phép biện chứng
trong thời kỳ này phát triển trong thời kỳ thống trị của tư duy siêu hình.
Sau đêm trường Trung cổ, triết học thứ triết học kinh viện giáo điều gắn
với đạo Thiên chúa. Đến thời kỳ Phục hưng, triết học thời kỳ này đã khôi phục
7
lại những tưởng duy vật cổ đại nhưng vẫn còn mang tính phiếm thần, duy vật
xen lẫn duy tâm. Tuy nhiên phép biện chứng thời kỳ này vẫn bước phát triển
như tưởng về " " của Gioocdanơ Brunô (1548sự phù hợp của các mặt đối lập
-1600). Theo G.Brunô mọi cái đều liên hệ với nhau đều vận động, kể từ các
hạt vật chất nhỏ nhất - nguyên tử đến số thế giới của trụ tận, cái này
tiêu diệt cái kia ra đời. Nếu không theo nguyên tắc "các mặt đối lập phù hợp với
nhau" thì nhà toán học, nhà vật lý, cả nhà triết học cũng không làm việc
được.
Một trong những đại biểu của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại là Ph.Bêcơn
(1561 - 1626). Ph.Bêcơn khẳnh định vật chất không tách rời vận động, nhận thức
bản chất của sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Ông đã tiến hành phân
vận động thành 19 loại. Tuy nhiên tính chất siêu hình của ông thể hiện: Ông quy
mọi loại vận động về vận động học. Song cống hiến của ông chỗ coi
đứng yên là một hình thức của vận động, coi vận động là đặc tính cố hữu của vật
chất, ông là người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới.
Trong thời kỳ cận đại, khoa học tự nhiên đã phát triển và đi sâu mổ xẻ phân
tích giới tự nhiên thành những bộ phận nhỏ để nghiên cứu. Những phương pháp
đó đã tạo ra thói quen nghiên cứu xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tách rời
bất biến. Từ khi Ph.Bêcơn Lốccơ đem phương pháp trong khoa học tự
nhiên áp dụng vào triết học thì phương pháp siêu hình trở thành phương pháp
thống trị trong triết học.
Phương pháp siêu hình đó đóng một vai trò tích cực nhất định trong quá
trình nhận thức giới tự nhiên, phương pháp đó chỉ thích ứng với trình độ sưu tập,
tả giới tự nhiên. Do đó khi khoa học chuyển sang nghiên cứu các quá trình
phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng thì bộc lộ những hạn chế.
vậy không tránh khỏi bị phủ định bởi phép biện chứng của triết học cổ điển
Đức với đỉnh cao là phép biện chứng Hêghen.
1.3. Phép biện chứng cổ điển Đức
Vào thế kỷ XVIII, cả châu Âu đang sôi sục trong những ngày của thời kỳ
Khai sáng. Lúc này, giai cấp tư sản đang có những thắng thế nhất định trước giai
cấp phong kiến. Ở Anh, cuộc cách mạng công nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ với
tốc độ đáng kinh ngạc. Pháp, cuộc Cách mạng sản năm 1789 nổ ra, báo
8
hiệu hồi chuông khai tử của giai cấp phong kiến. Thế những, khác với hai ông
lớn của châu Âu lúc đó, nước Đức vẫn còn duy trì chế độ phong kiến. Nước Đức
của thế kỷ XVIII vẫn bị chia rẽ thành nhiều vương quốc khác nhau, tổng cộng
360 chính quyền như thế. ràng nếu so sánh thì nước Đức lúc đó còn xa mới
bắt kịp hai ông lớn kia. Friedrich Engels đã coi thời kỳ này "thời kỳ nhục nhã
về mặt chính trị và xã hội". Thậm chí, ông còn nói rằng:
Mọi thứ đều nát bét và lung lay, xem chừng sắp sụp đổ, thậm chí chẳng
còn tới một tia hy vọng chuyển biến tốt lên dân tộc, thậm chí không còn đủ
sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của một chế độ đã chết rồi . ”
Nhưng, cũng theo Engels, đây thời kỳ nở rộ nhiều nhân tài, những người
luôn phê phán sự thối nát của chế độ phong kiến đương thời. Đó một thời kỳ
đầy tự hào trong lịch sử văn học, tư tưởng của Đức. Và như thế một trào lưu triết
học đã ra đời, triết học cổ điển Đức.
1.3.1 Triết học Kant
Immanuel Kant triết học (1724-1804) một trong những gia quan trọng
nhất của triết học cổ điển Đức, của thời kỳ Khai sáng của lịch sử thế giới.
Ông là người đã có định nghĩa đầy đủ về vật tự thể, một trong những khái niệm
triết học nổi tiếng nhất. Ôngmột trong những người đi đầu về chủ nghĩa duy
tâm, bản chất của triết học cổ điển Đức.
1.3.2 Triết học Hegel
Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831) cũng một trong những nhà
triết học lớn nhất của Đức. Ông người đã phát triển phưng pháp luận biện
chứng, một trong những yếu tố quan trọng của chủ nghĩa Marx-Lenin sau này.
Tuy nhiên, ông lại sử dụng thế giới quan duy tâm để giải quyết câu hỏi: Khởi
thủy của vũ trụ là gì?”.
1.3.3 Triết học Feuerbach
Ludwig Andreas Feuerbach (1804-1872) là nhà triết học lớn cuối cùng của
triết học cổ điển Đức. Ông đã vượt qua cái bóng của những người đàn anh,
những người khổng lồ của triết học Đức như Kant và Hegel để đến với thế giới
quan duy vật - một trong các yếu tố quan trọng nhất của chủ nghĩa Marx-Lenin
9
sau này. Tuy nhiên, ông lại cho rằng lịch sử loài người không hề phát triển
chỉ là bức tranh đầy màu sắc được tạo ra bởi sự khác nhau về tôn giáo. Rõ rằng
qua quan điểm này, Feuerbach đã nhìn nhận bằng phương pháp luận siêu hình.
Phần 2- Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác – xít
Đây là phương pháp nhận thức khoa học do Mác và Ăng- ghen sáng tạo, về
sau do nin Xta lin phát triển trong những điều kiện lịch sử mới. Phép
biện chứng duy vật khoa học về các quy luật chung nhất của sự phát triển của
tự nhiên, của xã hội và của tư duy, là một bộ phận khăng khít của triết học mác –
xít, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và là kim chỉ nam
cho hành động cách mạng của đảng vô sản.
2.1 Điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề về lý luận và khoa học tự nhiên
cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất
bản chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển mạnh mẽ này đã chứng
minh phương thức sản xuất bản ưu việt hơn hẳn phương thức sản xuất phong
kiến. Song, những mâu thuẫn giai cấp xã hội vốnnhất là mâu thuẫn giữa
sản sản đã tạo nên các cuộc đấu tranh của giai cấp sản. Các cuộc đấu
tranh này đã thu hút được sự chú ý của tầng lớp trí thức tư sản tiến bộ, trước hết
là C.Mác và Ph.Ănghen tới vấn đề nguyên nhân, bản chất của các cuộc đấu tranh
giai cấp. Rõ ràng các cuộc đấu tranh này là nhân tố khách quan chứng tỏ rằng đã
những tiền đề hội giai cấp những điều kiện nhất định để xuất hiện
phép biện chứng duy vật.
Vào thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt tới những thành tựu đỉnh cao trong khoa
học tự nhiên. Khoa học tự nhiên đã những bước phát triển vượt bậc, chuyển
từ trình độ thực nghiệm lên trình độ luận, đặc biệt xuất hiện nhiều phát
minh khoa học vạch thời đại, ảnh hưởng to lớn đến sự ra đời của triết học
Mác. , Học thuyết về bảo toàn chuyển hóa năng lượng Thuyết tế bào
Thuyết tiến hóa đã làm thay đổi quan niệm siêu hình về thế giới tự nhiên vốn
được phổ biến rộng rãi ở các thời kỳ trước đó. Đây chính là tiền đề cho sự ra đời
của phép biện chứng duy vật cũng như đặt sở cho thế giới quan phương
pháp luận trong việc nhận thức thế giới khách quan.
10
Tiền đề luận của phép biện chứng duy vật chính là phép biện chứng duy
tâm của Hêghen. Kế thừa công lao của ghen trong việc trình bày những
tưởng cơ bản nhất của phép biện chứng một cách có hệ thống, các ông đã tách ra
cái hạt nhân hợp vốn có của phép biện chứng ghen là lý luận về sự phát
triển vứt bỏ cách giải thích hiện tượng tự nhiên hội duy một cách
thần của ghen để tạo ra một phép biện chứng hoàn toàn mới. Nói cách
khác, các ông đã cải tạo một cách duy vật phép biện chứng duy tâm của
ghen.
1.2 Nội dung chính của phép biện chứng duy vật
Theo C.Mác: Biện chứng khách quan cái trước, còn biện chứng chủ
quan (tư duy biện chứng) cái sau phản ánh của biện chứng khách
quan, đây sự khác nhau giữa phép biện chứng duy vật của ông với phép biện
chứng duy tâm của Hêghen. C.Mác cho rằng ông chỉ làm cái công việc đặt
phép biện chứng duy tâm của Hêghen " " tức đứng trên hai chân của mình
đứng trên nền tảng duy vật.
Theo C.Mác thì phép biện chứng chính "khoa học về mối liên hệ phổ
biến trong tự nhiên hội tự nhiên, trong duy". Theo Lênin thì phép biện
chứng "học thuyết về sự phát triển đầy đủ, sâu sắc toàn diện nhất, học
thuyết về tính tương đối của sự vật".
Ba mối liên hệ chủ yếu trong phép biện chứng duy vật là: 1. Mối liên hệ
cùng tồn tại và phát triển; 2. Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau tuy có sự khác nhau
nhưng vẫn sự giống nhau; 3. Mối liên hệ về sự chuyển hoá vận động phát
triển. Các mối liên hệ được khái quát thành các cặp phạm trù như (phần tử - hệ
thống, nguyên nhân - kết quả, lượng - chất) các quy luật (quy luật lượng -
chất, quy luật đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập, quy luật phủ định của
phủ định).
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã công khai tính giai cấp của để
bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân toàn thể nhân dân lao động. Trong khi
các nền triết học trước Mác che dấu lợi ích của nhằm bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị, của một nhóm người thiểu số trong xã hội.
Triết học C.Mác một hệ thống sáng tạo, một hệ thống mở, không
ngừng được bổ sung, được làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn phát
11
triển. Cùng với chính sự phát triển thực tiễn, học thuyết của C.Mác kim chỉ
nam cho hành động.
Những nội dung chính của phép biện chứng được C.Mác Ph.Ănghen
luận chứng trong tác phẩm: " " (1873 1883), "Biện chứng của tự nhiên Chống
Đuy - rinh Lút - vich Phoi - ơ Bắc và sự cáo chung của triết học" (1876 -1878), "
cổ điển Đức Chủ nghĩa duy vật chủ" và một số tác phẩm do Lênin viết như: "
nghĩa kinh nghiệm phê phán Bút ký triết học" (1908 -1909), " ".
Tóm lại, phép biện chứng duy vật Mác - xít là kết quả của sự chín muồi về
mặt lịch sử của nhận thức khoa học và của thực tiễn xã hội. Sự ra đời của nó đáp
ứng nhu cầu về mặt luận của giai cấp công nhân. Giai đoạn mới trong sự phát
triển của phép biện chứng gắn với tên tuổi của V.I.Lênin đã vận dụng thành công
phép biện chứng Mác-xít trong cuộc cách mạng hội chủ nghĩa tháng Mười
Nga năm 1917. Sự phát triển của V.I.Lênin về phép biện chứng duy vật thể hiện
trong lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa như một công cụ sắc bén để cải tạo
thế giới một cách cách mạng nhất.
12
Phần 3- Phép biện chứng duy vật trong sự vận động và phát triển
của nền kinh tế nước ta hiện nay.
Trong quá trình quá độ đi lên chủ nghĩa hội (CNXH), Việt Nam đã
bỏ qua sự phát triển của CNTB, xuất phát điểm là một nền kinh tế lạc hậu, chậm
phát triển do đó cả quá trình con đường quá độ lâu dài, thể nói mâu
thuẫn cơ bản của thời kỳ nàymâu thuẫn giữa xu hướng tự phát lên chủ nghĩa
tư bản với xu hướng tự giác lên chủ nghĩa xã hội. Trước những khó khăn mà lịch
sử đặt ra, quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bản trên đây của cách
mạng nước ta phải sự kế thừa những mặt cần thiết hợp của chủ nghĩa
bản để phát triển lực lượng sản xuất theo kịp những yêu cầu của xã hội đồng thời
phải đấu tranh loại bỏ những mặt tiêu cực, mất nhân tính của chủ nghĩa bản.
Con đường quá độ lên CNXH nước ta đòi hỏi phải chủ động tự giác phát
triển và sử dụng CNTB làm khâu trung gian, làm phương tiện để đi lên CNXH,
nhất hướng bản đi vào con đường bản Nhà nước. Đó chính sự thống
nhất của các mặt đối lập thông qua các biện pháp trung gian và quá độ.
Trong công cuộc xây dựng CNXH, chúng ta không thể phủ định hoàn
toàn CNTB những thành tựu của nó, không thể cho rằng cái đó trong
CNTB thì không được xuất hiện trong CNXH, càng không thể áp dụng nguyên
vẹn mô hình CNXH nước khác để xây dựng nước ta. Chúng ta phải nhận thức
được tính tất yếu của sự phát triển. Do đó, để xây dựng thành công CNXH,
chúng ta phải lấy luận của C.Mác - Lênin làm kim chi nam cho hành động,
tuy nhiên vẫn phải học hỏi, nghiên cứu tình hình thực tế của các XHCN, TBCN
trên thế giới để áp dụng có chọn lọc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Trong quá trình vận hành nền kinh tế theo chế thị trường, chúng ta
lại gặp phải một mâu thuẫn cần phải giải quyết đó là: Mâu thuẫn giữa phát triển
kinh tế phát triển hội. Nền kinh tế thị trường nền kinh tế hàng hoá hoạt
động theo chế thị trường. chế thị trường chế tự điều tiết của thị
trường thông qua hoạt động của các quy luật kinh tế vốn của nó. chế thị
trường có ưu điểm ở chỗ phát huy được tính năng động sáng tạo của mọi chủ
thể kinh tế trong việc đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của hội. Tuy
13
nhiên cơ chế thị trường lại là nguyên nhân của hiện tượng kích thích đầu cơ, dẫn
đến sai lệch các quan hệ thị trường, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, ô nhiễm
môi trường, tệ nạn hội. Điều đó trái với đặc điểm của nền kinh tế XHCN
xây dựng một Nhà nước " ", xây dựng một hội "của dân, do dân, dân công
bằng, văn minh". Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt
Nam lần thứ VIII đã khẳng định: "Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ
nghĩa hội, thành tựu của nền văn minh nhân loại tồn tại khách quan,
cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội và ngay cả khi chủ nghĩa
hội đã được xây dựng"
1
. Yêu cầu cấp thiết nhất là phải giữ vững được bản chất
CNXH trong phát triển kinh tế, cần Nhà nước sử dụng các công cụ của mình để
tiến hành điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo mọi thành viên
trong hội được hưởng thành quả trong phát triển kinh tế như thuế thu nhập
cao, trợ cấp, bảo hiểm để tiến hành phân phối lại thu nhập hội; xây dựng kế
hoạch phát triển kinh tế đi liền với xây dựng kế hoạch phát triển hội. Đây
chính là công cụ, phương tiện quan trọng để tác động giải quyết mâu thuẫn trên
làm cho nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng XHCN.
Tổng kết 30 năm qua đổi mới, Đảng ta đã nhận thức và giải quyết 8 mối
quan hệ lớn, đó là: quan hệ đổi mới, ổn địnhphát triển; quan hệ giữa đổi mới
kinh tế đổi mới chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất xây dựng, hoàn
thiện từng bước quan hệ sản xuất hội chủ nghĩa; quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ công bằng hội; quan hệ
giữa xây dựng chủ nghĩa hội bảo vệ Tổ quốc hội chủ nghĩa; quan hệ
giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ. Điều đó cho thấy, trên sở vận dụng phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam,
Đảng ta đã bước đầu xác định được mối quan hệ hữu cơ, mối liên hệ nội tại giữa
tám mối quan hệ lớn, đáp ứng yêu cầu của phát triển đất nước với sự chi phối và
thúc đẩy lẫn nhau giữa các quan hệ. Trong từng mối quan hệ đều hai mặt
thống nhất và mâu thuẫn. Các mối quan hệ không chỉ tác động, chi phối lẫn nhau
theo tương tác nhân - quả, mà còn thâm nhập, giao thoa, quy định lẫn nhau. Điều
quan trọng trong nhận thức các mối quan hệ chỗ, tất cả các quan hệ đều
1
Văn kiện Đại hội lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 1997, tr25
14
thống nhất ở mục tiêu phát triển, đều tất yếu thông qua đổi mới, đều phục vụ cho
lợi ích cao nhất: phát triển đất nước, vì lợi ích của nhân dân và của dân tộc.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc nghiên cứu, quán triệt vận
dụng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào giải quyết những
vấn đề thực tiễn cách mạng đặt ra vừa một khoa học, đồng thời một nghệ
thuật. Để triển khai một cách hiệu quả, đòi hỏi các thế hệ cách mạng hiện nay
phải nắm được bản chất của phép biện chứng duy vật, không ngừng học tập
rèn luyện mới thể vận dụng một cách đúng đắn phương pháp biện chứng duy
vật vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra không rơi vào ngụy
biện, chiết trung… để thực hiện thắng lợi mục tiêudân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
15
Kết luận
Bằng việc trình bày lịch sử phát triển của phép biện chứng trong triết học,
có thể khẳng định: Xuyên suốt chiều dài lịch sử nhiều thế kỷ hình thành phát
triển từ phép biện chứng tự phát, thô sơ cổ đại cho đến phép biện chứng duy tâm
Hêghen của triết học cổ điển Đức đạt đến đỉnh cao phép biện chứng duy
vật mác - xít thì phép biện chứng luôn là công cụ sắc bén, là chìa khoá giúp con
người nhận thức cải tạo thế giới để phục vụ nhu cầu chính bản thân con
người.
Hiện nay, đất nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành
công nghiệp hoá - hiện đại hoá, thì việc nghiên cứu phép biện chứng một cách
hệ thống, nhất việc nắm vững các nguyên tắc vận dụng những nguyên
tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật là một yêu cầu bức thiết để đổi mới
duy, là định hướng tư tưởng và mang lại cho chúng ta công cụ duy sắc bén để
đấu tranh chống lại duy siêu hình, bảo thủ lạc hậu và thực hiện thắng lợi mục
tiêu XHCN của cách mạng nước ta.
Phép biện chứng một phát hiện lớn của nhân loại trong quá trình nhận
thức tự nhiên, hội duy. Nghiên cứu lịch sử của phép biện chứng trong
triết học một vấn đề rất lớn trong triết học, đòi hỏi nhiều công sức của các
nhà triết học với nhiều công trình khảo cứu sâu sắc. Trong khuôn khổ một bài
viết nhỏ không thể đề cập được hết các khía cạnh của một vấn đề lớn đặc biệt
phép biện chứng duy vật mác-xít, do đó tôi rất mong sự đóng góp ý kiến khoa
học của các thầy cô giáo và các bạn học viên để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
16
| 1/17

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI Mục lục Trang
Mục lục................................................................................1
Lời nói đầu............................................................................2
Nội dung...............................................................................3
Phần 1- Các phép biện chứng trước triết học Mác..........................3
1.1 Phép biện chứng thời cổ đại....................................................3
1.1.1 Triết học Ấn Độ cổ đại..................................................3
1.1.2 Triết học Trung hoa cổ đại.......................................4
1.1.3 Triết học Hi Lạp cổ đại...........................................5
1.2 Phép biện chứng Tây Âu thế kỷ XIV - XVIII............................7
1. 3 Phép biện chứng cổ điển Đức................................................8
1.3.1 Triết học Kant..............................................................9
1.3.2 Triết học Hegel ...................................................9
1.3.3 Triết học Feuerbach..............................................9
Phần 2- Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác – xít.....10
2.1 Điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề về lý luận và khoa học tự nhiên
cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật...................................10
2.2 Nội dung chính của phép biện chứng duy vật..........................11
Phần 3- Phép biện chứng duy vật trong sự vận động và phát triển của
nền kinh tế nước ta hiện nay..................................................13
Kết luận..............................................................................16 1 Lời nói đầu
Biện chứng và siêu hình là hai phương pháp tư duy trái ngược nhau trong
triết học. Phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái
đứng im, không vận động, tách rời cô lập và tách biệt nhau. Cách xem xét cho
chúng ta nhìn thấy sự tồn tại của sự vật hiện tượng ở trạng thái đứng im tương
đối, nhưng nếu tuyệt đối hoá phương pháp này sẽ dẫn đến sai lầm phủ nhận sự
phát triển, không nhận thấy mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Trong khi đó
trái lại, phương pháp biện chứng là: là phương pháp xem xét những sự vật hiện
tượng và những phản ánh của chúng vào tư duy, chủ yếu là trong mối liên hệ qua
lại của chúng, trong sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng.
Trong lịch sử triết học có những thời gian, tư duy siêu hình chiếm ưu thế
so với tư duy biện chứng. Nhưng xét trong toàn bộ lịch sử triết học, thì phép
biện chứng luôn chiếm một vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần xã hội. Phép
biện chứng là một khoa học triết học, vì vậy nó cũng phát triển từ thấp tới cao
mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật Mác - xít của triết học Mác - Lênin. Chủ
nghĩa Mác - Lênin luôn đánh giá cao phép biện chứng, nhất là phép biện chứng
duy vật, coi đó là một công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh với thuyết không thể
biết, tư duy siêu hình, củng cố niềm tin vào sức mạnh và khả năng của con người
trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Việc nghiên cứu lịch sử phát triển của phép biện chứng sẽ cho chúng ta
thấy rõ hơn bản chất của phép biện chứng và sự phát triển của tư duy biện chứng
của nhân loại. Xuất phát từ mục đích đó, tôi chọn đề tài tiểu luận về: lịch sử
phát triển của phép biện chứng trong triết học,
để nghiên cứu. 2 Nội dung
Phần 1- Các phép biện chứng trước triết học Mác
1.1 Phép biện chứng thời cổ đại
Phép biện chứng thời cổ đại là phép biện chứng tự phát, ngây thơ và mang
tính trực quan được hình thành trên cơ sở những quan sát tự nhiên, xã hội hoặc
là kinh nghiệm của bản thân. Trung tâm lớn của triết học thời bấy giờ là triết học
trung hoa cổ đại. Do đặc điểm văn hoá cũng như hoàn cảnh lịch sử khác nhau
nên sự thể hiện tư tưởng biện chứng. Trong học thuyết triết học cũng có những
đặc điểm. Không giống nhau, nhưng nói chung cả 3 nên triết học lớn đều có
những đặc điểm nêu trên.
1.1.1Triết học ấn đô  cổ đại
Đầu tiên phải nói đến là nền triết học Ấn Độ cổ đại. Đây là hệ thống triết
học có sự đan xen hoà đồng giữa triết học và tôn giáo và giữa các trường phái
khác nhau. Các tư tưởng triết học được thể hiện dưới hình thức là một tôn giáo.
Theo cách phân chia truyền thống triết học Ấn Độ cổ đại có 9 trường phái, trong
đó có 6 trường phái là chính thống và 3 trường phái phi chính thống. Trong tất cả
các trường phái đó thì trường phái đạo phật là có học thuyết mang tính duy vật
biện chứng sâu sắc tiêu biểu của nền triết học Ấn Độ cổ đại.
Phật giáo hình thành từ thế kỷ VI trước công nguyên do Tất Đạt Đa tên
hiệu là thích ca Mẫu Ni sáng tạo. Phật giáo cho rằng vạn vật trong thế giới
không do một đấng thần linh nào sáng tạo ra mà được tạo ra từ hai nguyên tố là sắc và danh. Trong đó " "
danh bao gồm tân và thức, còn "sắc" bao gồm 4 đại là
đại địa, đại thuỷ, đại hoả, đại phong. Chính nhờ từ trường này mà phật giáo được
coi là tôn giáo duy vật duy nhất chống lại các tôn giáo thần học đương thời.
Đồng thời phật giáo đưa ra tư tưởng "vô ngã", "vô biến" nghĩa là không có cái gì
là trường tồn bất biến, là vĩnh hằng, không có cái gì tồn tại biệt lập, mà nó tồn tại
trong một mối liên hệ. Đây là tư tưởng biện chứng sâu sắc chống lại đạo Bà La
môn về sự tồn tại của cái tôi bất biến "vô thường". Biến đổi ở đây là sự biến đổi 3
của vạn vật theo chu kỳ: sinh - trụ - di - diệt đối với sinh vật và thành - trụ - hoại
- diệt đối với con người. Phật giáo cho rằng sự tương tác giữa 2 mặt đối lập nhân
giả hay nhân duyên chính là động lực làm cho thế giới vận động chứ không phải
là một thế lực siêu nhân nào đó nằm ngoài con người, thế giới là vòng nhân quả
vô cùng vô tận. Nói khác một sự vật hiện tượng tồn tại được là nhờ hội tụ đủ nhân duyên.
Tuy đạo phật đã có những bước phát triển lớn vì biện chứng nhưng nó vẫn
còn mang tính vô thần không triệt để, bi quan.
1.1.2 Triết học Trung Hoa cổ đại
Triết học trung hoa cổ đại là một nền triết học lớn của nhân loại có tới 103
trường phái triết học lớn nhỏ. Do những đặc điểm của hoàn cảnh lịch sử của cơ
cực đạo đức suy đồi nên triết học trung hoa chỉ tập trung vào việc giải quyết các
vấn đề về chính trị - xã hội, những tư tưởng biện chứng thời này rất ít và chỉ xuất
hiện khi các nhà triết học giải những vấn đề về vũ trụ quan.
Học thuyết triết học mang tư tưởng biện chứng sâu sắc của triết học trung
hoa: học thuyết âm - dương. Đây là học thuyết triết học được phát triển trên cơ
sở một bộ sách có tên là kinh dịch. Nguyên lý triết học cơ bản nhất là nhìn nhận
mọi tồn tại không trong tính đồng nhất tuyệt đối, mà cũng không phải trong sự
loại trừ biệt lập không thể tương đồng. Trái lại tất cả đều bao hàm sự thống nhất
của các mặt đối lập đó là âm và dương. Âm dương không loại trừ, không biệt
lập, mà bao hàm lẫn nhau, liên hệ tương tác lẫn nhau. Điều này thể hiện rất rõ
trong kinh dịch cũng như tương tương thôi nhu sinh biến hái: "Sinh sinh chi vi
dịch
". Học thuyết này có hai quan điểm thể hiện sâu sắc tư tưởng biện chứng.
Một là sự tương tác lẫn nhau giữa âm và dương, giữa các mặt đối lập làm cho vũ
trụ biến đổi không ngừng; hai là học thuyết này cũng cho rằng chu trình vận
động, biến dịch của vạn vật trong vũ trụ diễn ra theo nguyên lý phân đôi cái
thống nhất như thái cực (thể thống nhất) phân đôi thành lưỡng nghi (âm dương).
Sau đó âm dương lại tiến hành phân thành tự tượng là thái âm - thiếu, âm, thái
dương - thiếu dương, từ tượng lại sinh ra bát quái, và trì đã bát quái sinh ra vạn vật.
Tuy vậy, học thuyết âm dương vẫn còn những hạn chế. 4
Một là, học thuyết âm - dương phủ nhận sự phát triển biện chứng theo
hướng đi lên vì học thuyết âm dương cho rằng sự vận động của vạn vật diễn ra
theo chu kỳ lặp đi lặp lại và được đảm bảo bởi nguyên tắc cân bằng âm - dương
cho rằng sự vận động của các hiện tượng chỉ dừng lại khi đạt được trạng thái cân
bằng âm dương. Hai là, trong học thuyết âm - dương còn nhiều yếu tố duy tân
thần bí như quan điểm "thiên tôn địa lý" cho rằng trật tự sang hèn trong xã hội
bắt nguồn từ trật tự của trời đất, học đem trật tự của xã hội gán cho giới tự nhiên,
rõ lại dựng hình thức bịa đặt để chứng minh cho sự hợp lý vĩnh viễn của chế độ
đẳng cấp xã hội. Điều này phản khoa học.
Tóm lại, học thuyết âm dương đã phản ánh rõ khuynh hướng duy vật và
biện chứng à ra chỉ là tự phát. Nhưng thiếu số hạn chỉ của nó chỉ là do ở thời kỳ
này khoa học vì tự nhiên chưa có và triết học chỉ là kết quả của quá trình khái
quát hoá những kinh nghiệm thực tiễn lâu dài của nhân dân trung hoa.
1.1.3 Triết học Hy Lạp cổ đại
Trong thời cổ đại thì nền triết học Hy lạp là nền triết học có những phát
hiện mới đối với phép biện chứng. Chính thời kỳ này của triết học Hy lạp thuật
ngữ "biện chứng" ra đời. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế trong thời
kỳ chiếm hữu nô lệ Hi lạp cổ đại là những thành tựu to lớn trong khoa học tự
nhiên, văn hoá, nghệ thuật. Đặc biệt là khoa học tự nhiên như thiên văn học, vật
lý cổ điển, toán học đã làm cơ sở cho sự phát triển và là nền tảng cho sự phát
triển của triết học phương tây sau này.
Nhà triết học điển hình cho nền triết học Hi lạp có tư tưởng biện chứng là:
Heraclit (540-980 TCN). Theo sự đánh giá của Mác, Lênin thì Heraclit là người
đã sáng tạo ra phép biện chứng. Ông cũng là người đầu tiên xây dựng phép biện
chứng trên lập trường duy vật. Phép biện chứng của ông chưa được trình bày
dưới dạng một hệ thống các luận điểm khoa học mà hai như các luận điểm quan
trọng của ông về phép biện chứng được đề cập dưới dạng các câu danh ngôn
mang tính thi ca và triết lý. Tư tưởng biện chứng của Heraclic thể thiếu trong 3 vấn đề sau:
Một là quan niệm về sự vận động vĩnh cửu của vật chất. Theo ông thì
khiông có sự vật, hiện tượng nào của thế giới đứng yên tuyệt đối, mà trái lại tất 5
cả đều trong trạng thái biến đổi về chuyển hoá không ngừng. Tư tưởng này được
thể hiện rõ trong hai câu danh ngôn:
Chúng ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông vì nước mới không
ngừng chảy." "Ngay cả mặt trời cũng mỗi ngày một mốt."
(Heraclit - giáo trình triết học Mác-Lênin - NXB CTQG)
Heraclit lại đưa ra quan điểm là lửa chính là bản nguyên của thế giới, là cơ
sở duy nhất và phổ biến nhất của tất cả mọi sự vật hiện tượng. Đồng thời cũng
chính là gốc của vận động, tất cả các dạng khác nhau của vật chất chỉ là trạng
thái chuyển hoá của lửa mà thôi. Đây là một hạn chế của Heraclit và bản chất
của vật chất và vận động nhưng cũng chính nhờ quan điểm ấy mà Heraclit đã
nhấn mạnh được tính vĩnh viễn và bất diệt của thế giới.
Hai là, Heraclit nêu lên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn
trong mọi sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong phỏng đoán về vai trò của
những mặt đối lập trong biến đổi phổ biến của tự nhiên về "sự trao đổi của
những mặt đối lập
", về “sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập”. Điều này
thể hiện rõ qua câu nói của ông: "cùng một cái ở trong chúng ta sống và chết,
thức và ngủ, trẻ và già vì rằng cái này biến đổi thành cái kia và ngược lại, cái
kia và ngược lại, cái kia biến đổi thành cái này.
" Heraclit cũng đã có những
phỏng đoán đúng về sự đấu tranh và thống nhất của những mặt đối lập. Đánh giá
về quan điểm thứ hai của Heraclit Lênin đã từng viết "phân đôi cái thống nhất
của phép biện chứng
". Điều này chúng ta đã thấy xuất hiện ngay từ nhà biện chứng Heraclit.
Ba là theo Heraclit thì sự vận động phát biến không ngừng của thế giới do
quy luật khách quan quy định, quy luật khách quan là trật tự khách quan là mọi
cái đang diễn ra trong vũ trị, quy luật chủ quan là từ ngữ học thuyết của con
người quy luật chủ quan phải phù hợp với quy luật khách quan. Người nào càng
tiếp cận được quy luật khách quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu. Lý
luận nhận thức của Heraclit mang tính biện chứng và duy vật sơ khai như cơ bản là đúng đắn.
Trong suốt thời kỳ cổ đại ta thấy rằng không có hệ thống triết học nào có tư
tưởng biến chứng sau như của Heraclit. Do vậy mà tư tưởng triết học của ông
được nhà biện chứng cơ Điêu Đức và các nhà sáng lập nên chủ nghĩa Mác-Lênin 6
đánh giá cao, như Các Mác và Ph Ăng ghen đã nói "Quan niệm về thế giới mới
của nguyên thuỷ, ngây thơ nhưng căn bản đó cũng là quan điệm của các nhà Hy
Lạp thời cổ và người trên diễn đạt được rằng quan niệm ấy là Heraclit.
Các nhà triết học sau Heraclit tiếp tục kế thừa tư tưởng biện chứng của ông
và phát triển nó nhưng thực sự chưa giải quyết được vấn đề bản chất của sự vận
động và của vận động và của vật chất.
Trong học thuyết về nguyên tử của mình, Đêmôcrit (Democritos, 460 - 370
TCN) đã kế thừa quan điểm của Heraclit về vận động. Ông cho rằng vận động
của nguyên tử là vĩnh cửu và ông đã cố gắng giải thích nguyên nhân vận động
của nguyên tử là ở bản thân nguyên tử, ở nội lực bên trong. Ông cho rằng còn
khoảng trống hay còn "chân không" trong nguyên tử là điều kiện vận động của
nó. Tuy nhiên Đêmôcrit đã không lý giải được nguồn gốc của vận động.
Sau Đêmôcrit là Arixtốt (Aristoteles, 384 - 322 TCN) ông cho rằngvận
động gắn liền với các vật thể với mọi sự vật, hiện tượng của giới tự nhiên. Ông
cũng khẳng định vận động là không thể bị tiêu diệt "Đã có vận động và mãi mãi
sẽ có vận động
". Arixtốt là người đầu tiên đã hệ thống hoá các hình thức vận
động thành 6 dạng: Phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển vị trí .
Tuy nhiên qiam điểm của ông lại hơi lấn sang trường phái duy tâm khi cho
rằng thần thánh là nguồn gốc của mọi vận động.
Tóm lại, phép biện chứng thời cổ đại về căn bản là đúng nhưng chủ yếu
mới dựa trên những phỏng đoán những trực kiến thiên tài. Phép biện chứng tự
pháp thời cổ đại đã nhìn thấy bức tranh chung của thế giới trong sự tác động của
nó. Vì vậy không thể tránh khỏi bị phủ định bởi các nền triết học về sau.
1.2 Phép biện chứng Tây Âu thế kỷ XIV - XVIII
Suốt trong 4 thế kỷ (từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII), sự trưởng thành của
tư tưởng biện chứng Tây Âu mang nhiều ý nghĩa độc đáo. Phép biện chứng
trong thời kỳ này phát triển trong thời kỳ thống trị của tư duy siêu hình.
Sau đêm trường Trung cổ, triết học là thứ triết học kinh viện giáo điều gắn
với đạo Thiên chúa. Đến thời kỳ Phục hưng, triết học thời kỳ này đã khôi phục 7
lại những tư tưởng duy vật cổ đại nhưng vẫn còn mang tính phiếm thần, duy vật
xen lẫn duy tâm. Tuy nhiên phép biện chứng thời kỳ này vẫn có bước phát triển
như tư tưởng về "sự phù hợp của các mặt đối lập" của Gioocdanơ Brunô (1548
-1600). Theo G.Brunô mọi cái đều liên hệ với nhau và đều vận động, kể từ các
hạt vật chất nhỏ nhất - nguyên tử đến vô số thế giới của vũ trụ vô tận, cái này
tiêu diệt cái kia ra đời. Nếu không theo nguyên tắc "các mặt đối lập phù hợp với
nhau
" thì dù là nhà toán học, nhà vật lý, cả nhà triết học cũng không làm việc được.
Một trong những đại biểu của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại là Ph.Bêcơn
(1561 - 1626). Ph.Bêcơn khẳnh định vật chất không tách rời vận động, nhận thức
bản chất của sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Ông đã tiến hành phân
vận động thành 19 loại. Tuy nhiên tính chất siêu hình của ông thể hiện: Ông quy
mọi loại vận động về vận động cơ học. Song cống hiến của ông là ở chỗ coi
đứng yên là một hình thức của vận động, coi vận động là đặc tính cố hữu của vật
chất, ông là người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới.
Trong thời kỳ cận đại, khoa học tự nhiên đã phát triển và đi sâu mổ xẻ phân
tích giới tự nhiên thành những bộ phận nhỏ để nghiên cứu. Những phương pháp
đó đã tạo ra thói quen nghiên cứu xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tách rời
và bất biến. Từ khi Ph.Bêcơn và Lốccơ đem phương pháp trong khoa học tự
nhiên áp dụng vào triết học thì phương pháp siêu hình trở thành phương pháp
thống trị trong triết học.
Phương pháp siêu hình đó đóng một vai trò tích cực nhất định trong quá
trình nhận thức giới tự nhiên, phương pháp đó chỉ thích ứng với trình độ sưu tập,
mô tả giới tự nhiên. Do đó khi khoa học chuyển sang nghiên cứu các quá trình
phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng thì nó bộc lộ rõ những hạn chế. Vì
vậy nó không tránh khỏi bị phủ định bởi phép biện chứng của triết học cổ điển
Đức với đỉnh cao là phép biện chứng Hêghen.
1.3. Phép biện chứng cổ điển Đức
Vào thế kỷ XVIII, cả châu Âu đang sôi sục trong những ngày của thời kỳ
Khai sáng. Lúc này, giai cấp tư sản đang có những thắng thế nhất định trước giai
cấp phong kiến. Ở Anh, cuộc cách mạng công nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ với
tốc độ đáng kinh ngạc. Ở Pháp, cuộc Cách mạng tư sản năm 1789 nổ ra, báo 8
hiệu hồi chuông khai tử của giai cấp phong kiến. Thế những, khác với hai ông
lớn của châu Âu lúc đó, nước Đức vẫn còn duy trì chế độ phong kiến. Nước Đức
của thế kỷ XVIII vẫn bị chia rẽ thành nhiều vương quốc khác nhau, tổng cộng là
360 chính quyền như thế. Rõ ràng nếu so sánh thì nước Đức lúc đó còn xa mới
bắt kịp hai ông lớn kia. Friedrich Engels đã coi thời kỳ này là "thời kỳ nhục nhã
về mặt chính trị và xã hội
". Thậm chí, ông còn nói rằng:
“ Mọi thứ đều nát bét và lung lay, xem chừng sắp sụp đổ, thậm chí chẳng
còn tới một tia hy vọng chuyển biến tốt lên vì dân tộc, thậm chí không còn đủ
sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của một chế độ đã chết rồi . ”

Nhưng, cũng theo Engels, đây là thời kỳ nở rộ nhiều nhân tài, những người
luôn phê phán sự thối nát của chế độ phong kiến đương thời. Đó là một thời kỳ
đầy tự hào trong lịch sử văn học, tư tưởng của Đức. Và như thế một trào lưu triết
học đã ra đời, triết học cổ điển Đức. 1.3.1 Triết học Kant
Immanuel Kant (1724-1804) là một trong những triết học gia quan trọng
nhất của triết học cổ điển Đức, của thời kỳ Khai sáng và của lịch sử thế giới.
Ông là người đã có định nghĩa đầy đủ về vật tự thể, một trong những khái niệm
triết học nổi tiếng nhất. Ông là một trong những người đi đầu về chủ nghĩa duy
tâm, bản chất của triết học cổ điển Đức. 1.3.2 T riết học Hegel
Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831) cũng là một trong những nhà
triết học lớn nhất của Đức. Ông là người đã phát triển phưng pháp luận biện
chứng, một trong những yếu tố quan trọng của chủ nghĩa Marx-Lenin sau này.
Tuy nhiên, ông lại sử dụng thế giới quan duy tâm để giải quyết câu hỏi: “Khởi
thủy của vũ trụ là gì?
”. 1.3.3 T riết học Feuerbach
Ludwig Andreas Feuerbach (1804-1872) là nhà triết học lớn cuối cùng của
triết học cổ điển Đức. Ông đã vượt qua cái bóng của những người đàn anh,
những người khổng lồ của triết học Đức như Kant và Hegel để đến với thế giới
quan duy vật - một trong các yếu tố quan trọng nhất của chủ nghĩa Marx-Lenin 9
sau này. Tuy nhiên, ông lại cho rằng lịch sử loài người không hề phát triển mà
chỉ là bức tranh đầy màu sắc được tạo ra bởi sự khác nhau về tôn giáo. Rõ rằng
qua quan điểm này, Feuerbach đã nhìn nhận bằng phương pháp luận siêu hình.
Phần 2- Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác – xít
Đây là phương pháp nhận thức khoa học do Mác và Ăng- ghen sáng tạo, về
sau do Lê nin và Xta – lin phát triển trong những điều kiện lịch sử mới. Phép
biện chứng duy vật là khoa học về các quy luật chung nhất của sự phát triển của
tự nhiên, của xã hội và của tư duy, là một bộ phận khăng khít của triết học mác –
xít, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và là kim chỉ nam
cho hành động cách mạng của đảng vô sản.
2.1 Điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề về lý luận và khoa học tự nhiên
cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật

Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển mạnh mẽ này đã chứng
minh phương thức sản xuất tư bản ưu việt hơn hẳn phương thức sản xuất phong
kiến. Song, những mâu thuẫn giai cấp xã hội vốn có – nhất là mâu thuẫn giữa tư
sản và vô sản đã tạo nên các cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Các cuộc đấu
tranh này đã thu hút được sự chú ý của tầng lớp trí thức tư sản tiến bộ, trước hết
là C.Mác và Ph.Ănghen tới vấn đề nguyên nhân, bản chất của các cuộc đấu tranh
giai cấp. Rõ ràng các cuộc đấu tranh này là nhân tố khách quan chứng tỏ rằng đã
có những tiền đề xã hội – giai cấp và những điều kiện nhất định để xuất hiện
phép biện chứng duy vật.
Vào thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt tới những thành tựu đỉnh cao trong khoa
học tự nhiên. Khoa học tự nhiên đã có những bước phát triển vượt bậc, chuyển
từ trình độ thực nghiệm lên trình độ lý luận, đặc biệt là xuất hiện nhiều phát
minh khoa học vạch thời đại, có ảnh hưởng to lớn đến sự ra đời của triết học
Mác. Học thuyết về bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, Thuyết tế bào
Thuyết tiến hóa đã làm thay đổi quan niệm siêu hình về thế giới tự nhiên vốn
được phổ biến rộng rãi ở các thời kỳ trước đó. Đây chính là tiền đề cho sự ra đời
của phép biện chứng duy vật cũng như đặt cơ sở cho thế giới quan và phương
pháp luận trong việc nhận thức thế giới khách quan. 10
Tiền đề lý luận của phép biện chứng duy vật chính là phép biện chứng duy
tâm của Hêghen. Kế thừa công lao của Hê – ghen trong việc trình bày những tư
tưởng cơ bản nhất của phép biện chứng một cách có hệ thống, các ông đã tách ra
cái hạt nhân hợp lý vốn có của phép biện chứng Hê – ghen là lý luận về sự phát
triển và vứt bỏ cách giải thích hiện tượng tự nhiên xã hội và tư duy một cách
thần bí của Hê – ghen để tạo ra một phép biện chứng hoàn toàn mới. Nói cách
khác, các ông đã cải tạo một cách duy vật phép biện chứng duy tâm của Hê – ghen.
1.2 Nội dung chính của phép biện chứng duy vật
Theo C.Mác: Biện chứng khách quan là cái có trước, còn biện chứng chủ
quan (tư duy biện chứng) là cái có sau và là phản ánh của biện chứng khách
quan, đây là sự khác nhau giữa phép biện chứng duy vật của ông với phép biện
chứng duy tâm của Hêghen. C.Mác cho rằng ông chỉ làm cái công việc là đặt
phép biện chứng duy tâm của Hêghen "đứng trên hai chân của mình" tức là
đứng trên nền tảng duy vật.
Theo C.Mác thì phép biện chứng chính là "khoa học về mối liên hệ phổ
biến trong tự nhiên xã hội và tự nhiên, trong tư duy". Theo Lênin thì phép biện
chứng là "học thuyết về sự phát triển đầy đủ, sâu sắc và toàn diện nhất, học
thuyết về tính tương đối của sự vật
".
Ba mối liên hệ chủ yếu trong phép biện chứng duy vật là: 1. Mối liên hệ
cùng tồn tại và phát triển; 2. Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau tuy có sự khác nhau
nhưng vẫn có sự giống nhau; 3. Mối liên hệ về sự chuyển hoá vận động và phát
triển. Các mối liên hệ được khái quát thành các cặp phạm trù như (phần tử - hệ
thống, nguyên nhân - kết quả, lượng - chất) và các quy luật (quy luật lượng -
chất, quy luật đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định).
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã công khai tính giai cấp của để
bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong khi
các nền triết học trước Mác che dấu lợi ích của nó nhằm bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị, của một nhóm người thiểu số trong xã hội.
Triết học C.Mác là một hệ thống sáng tạo, là một hệ thống mở, không
ngừng được bổ sung, được làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn và phát 11
triển. Cùng với chính sự phát triển thực tiễn, học thuyết của C.Mác là kim chỉ nam cho hành động.
Những nội dung chính của phép biện chứng được C.Mác và Ph.Ănghen
luận chứng trong tác phẩm: "Biện chứng của tự nhiên" (1873 – 1883), "Chống
Đuy - rinh
" (1876 -1878), "Lút - vich Phoi - ơ Bắc và sự cáo chung của triết học
cổ điển Đức
" và một số tác phẩm do Lênin viết như: "Chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán
" (1908 -1909), "Bút ký triết học".
Tóm lại, phép biện chứng duy vật Mác - xít là kết quả của sự chín muồi về
mặt lịch sử của nhận thức khoa học và của thực tiễn xã hội. Sự ra đời của nó đáp
ứng nhu cầu về mặt lý luận của giai cấp công nhân. Giai đoạn mới trong sự phát
triển của phép biện chứng gắn với tên tuổi của V.I.Lênin đã vận dụng thành công
phép biện chứng Mác-xít trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười
Nga năm 1917. Sự phát triển của V.I.Lênin về phép biện chứng duy vật thể hiện
trong lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa như là một công cụ sắc bén để cải tạo
thế giới một cách cách mạng nhất. 12
Phần 3- Phép biện chứng duy vật trong sự vận động và phát triển
của nền kinh tế nước ta hiện nay.
Trong quá trình quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), Việt Nam đã
bỏ qua sự phát triển của CNTB, xuất phát điểm là một nền kinh tế lạc hậu, chậm
phát triển do đó cả quá trình là con đường quá độ lâu dài, mà có thể nói mâu
thuẫn cơ bản của thời kỳ này là mâu thuẫn giữa xu hướng tự phát lên chủ nghĩa
tư bản với xu hướng tự giác lên chủ nghĩa xã hội. Trước những khó khăn mà lịch
sử đặt ra, quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn cơ bản trên đây của cách
mạng nước ta phải có sự kế thừa những mặt cần thiết hợp lý của chủ nghĩa tư
bản để phát triển lực lượng sản xuất theo kịp những yêu cầu của xã hội đồng thời
phải đấu tranh loại bỏ những mặt tiêu cực, mất nhân tính của chủ nghĩa tư bản.
Con đường quá độ lên CNXH ở nước ta đòi hỏi phải chủ động và tự giác phát
triển và sử dụng CNTB làm khâu trung gian, làm phương tiện để đi lên CNXH,
nhất là hướng tư bản đi vào con đường tư bản Nhà nước. Đó chính là sự thống
nhất của các mặt đối lập thông qua các biện pháp trung gian và quá độ.
Trong công cuộc xây dựng CNXH, chúng ta không thể phủ định hoàn
toàn CNTB và những thành tựu của nó, không thể cho rằng cái gì đó có trong
CNTB thì không được xuất hiện trong CNXH, càng không thể áp dụng nguyên
vẹn mô hình CNXH ở nước khác để xây dựng nước ta. Chúng ta phải nhận thức
được tính tất yếu của sự phát triển. Do đó, để xây dựng thành công CNXH,
chúng ta phải lấy lý luận của C.Mác - Lênin làm kim chi nam cho hành động,
tuy nhiên vẫn phải học hỏi, nghiên cứu tình hình thực tế của các XHCN, TBCN
trên thế giới để áp dụng có chọn lọc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường, chúng ta
lại gặp phải một mâu thuẫn cần phải giải quyết đó là: Mâu thuẫn giữa phát triển
kinh tế và phát triển xã hội. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá hoạt
động theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của thị
trường thông qua hoạt động của các quy luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế thị
trường có ưu điểm ở chỗ là phát huy được tính năng động sáng tạo của mọi chủ
thể kinh tế trong việc đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của xã hội. Tuy 13
nhiên cơ chế thị trường lại là nguyên nhân của hiện tượng kích thích đầu cơ, dẫn
đến sai lệch các quan hệ thị trường, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, ô nhiễm
môi trường, tệ nạn xã hội. Điều đó trái với đặc điểm của nền kinh tế XHCN là
xây dựng một Nhà nước "của dân, do dân, vì dân", xây dựng một xã hội "công
bằng, văn minh
". Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt
Nam lần thứ VIII đã khẳng định: "Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ
nghĩa xã hội, mà là thành tựu của nền văn minh nhân loại tồn tại khách quan,
cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và ngay cả khi chủ nghĩa xã
hội đã được xây dựng
" 1 . Yêu cầu cấp thiết nhất là phải giữ vững được bản chất
CNXH trong phát triển kinh tế, cần Nhà nước sử dụng các công cụ của mình để
tiến hành điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo mọi thành viên
trong xã hội được hưởng thành quả trong phát triển kinh tế như thuế thu nhập
cao, trợ cấp, bảo hiểm để tiến hành phân phối lại thu nhập xã hội; xây dựng kế
hoạch phát triển kinh tế đi liền với xây dựng kế hoạch phát triển xã hội. Đây
chính là công cụ, phương tiện quan trọng để tác động giải quyết mâu thuẫn trên
làm cho nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng XHCN.
Tổng kết 30 năm qua đổi mới, Đảng ta đã nhận thức và giải quyết 8 mối
quan hệ lớn, đó là: quan hệ đổi mới, ổn định và phát triển; quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã
hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn
thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quan hệ
giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; quan hệ
giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ. Điều đó cho thấy, trên cơ sở vận dụng phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam,
Đảng ta đã bước đầu xác định được mối quan hệ hữu cơ, mối liên hệ nội tại giữa
tám mối quan hệ lớn, đáp ứng yêu cầu của phát triển đất nước với sự chi phối và
thúc đẩy lẫn nhau giữa các quan hệ. Trong từng mối quan hệ đều có hai mặt
thống nhất và mâu thuẫn. Các mối quan hệ không chỉ tác động, chi phối lẫn nhau
theo tương tác nhân - quả, mà còn thâm nhập, giao thoa, quy định lẫn nhau. Điều
quan trọng trong nhận thức các mối quan hệ là ở chỗ, tất cả các quan hệ đều
1 Văn kiện Đại hội lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 1997, tr25 14
thống nhất ở mục tiêu phát triển, đều tất yếu thông qua đổi mới, đều phục vụ cho
lợi ích cao nhất: phát triển đất nước, vì lợi ích của nhân dân và của dân tộc.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc nghiên cứu, quán triệt và vận
dụng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào giải quyết những
vấn đề thực tiễn cách mạng đặt ra vừa là một khoa học, đồng thời là một nghệ
thuật. Để triển khai một cách hiệu quả, đòi hỏi các thế hệ cách mạng hiện nay
phải nắm được bản chất của phép biện chứng duy vật, không ngừng học tập và
rèn luyện mới có thể vận dụng một cách đúng đắn phương pháp biện chứng duy
vật vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra mà không rơi vào ngụy
biện, chiết trung… để thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh
”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. 15 Kết luận
Bằng việc trình bày lịch sử phát triển của phép biện chứng trong triết học,
có thể khẳng định: Xuyên suốt chiều dài lịch sử nhiều thế kỷ hình thành và phát
triển từ phép biện chứng tự phát, thô sơ cổ đại cho đến phép biện chứng duy tâm
Hêghen của triết học cổ điển Đức và đạt đến đỉnh cao là phép biện chứng duy
vật mác - xít thì phép biện chứng luôn là công cụ sắc bén, là chìa khoá giúp con
người nhận thức và cải tạo thế giới để phục vụ nhu cầu chính bản thân con người.

Hiện nay, đất nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành
công nghiệp hoá - hiện đại hoá, thì việc nghiên cứu phép biện chứng một cách
có hệ thống, nhất là việc nắm vững các nguyên tắc và vận dụng những nguyên
tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật là một yêu cầu bức thiết để đổi mới tư
duy, là định hướng tư tưởng và mang lại cho chúng ta công cụ tư duy sắc bén để
đấu tranh chống lại tư duy siêu hình, bảo thủ lạc hậu và thực hiện thắng lợi mục
tiêu XHCN của cách mạng nước ta.
Phép biện chứng là một phát hiện lớn của nhân loại trong quá trình nhận
thức tự nhiên, xã hội và tư duy. Nghiên cứu lịch sử của phép biện chứng trong
triết học là một vấn đề rất lớn trong triết học, đòi hỏi có nhiều công sức của các
nhà triết học với nhiều công trình khảo cứu sâu sắc. Trong khuôn khổ một bài
viết nhỏ không thể đề cập được hết các khía cạnh của một vấn đề lớn đặc biệt là
phép biện chứng duy vật mác-xít, do đó tôi rất mong sự đóng góp ý kiến khoa
học của các thầy cô giáo và các bạn học viên để bài viết được hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành cảm ơn! 16