Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường đại học Điện Lực

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường đại học Điện Lực được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Trường:

Đại học Điện lực 313 tài liệu

Thông tin:
18 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường đại học Điện Lực

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường đại học Điện Lực được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

160 80 lượt tải Tải xuống
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
BỘ MÔN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
_____________
TIỂU LUẬN MÔN
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Tên đề tài: Quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết quốc tế. Vai trò
đoàn kết quốc tế trong công cuộc phòng chống đại dịch Covid 19.
Họ và tên: NGUYỄN THỊ THỦY
Mã sinh viên: 19810230005
Lớp: D14 Logistics2
HÀ NỘI, 07/2021
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
NỘI DUNG................................................................................................................ 2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN...................................................................................... 2
1. Những nhân tố hình thành chiến lược đoàn kết quốc tế của HCM.......... 2
1.1 Tiếp thu đoàn kết dân tộc................................................................... 2
1.2 Thực tiễn bôn ba tìm đường cứu nước khắp châu lục........................ 3
2. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế........................................................... 5
2.1 Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng........................ 5
2.2 Thực hiện đoàn kết quốc tế, nằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực
hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại................................ 5
3. Lực lượng đoàn kết quốc tế và hình thức tổ chức..................................... 6
3.1 Các lực lượng cần đoàn kết................................................................ 6
3.2 Hình thức tổ chức................................................................................ 6
4. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế...................................................................... 7
4.1 Đoạn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình....... 7
4.2 Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự cường...................................... 8
II. VẬN DỤNG............................................................................................. 9
1. Lợi ích của việc thúc đẩy hợp tác quốc tế trong phòng, chống dịch....... 9
1.1 Tăng cường đoàn kết quốc tế, hợp tác đa phương...............................9
1.2 Chia sẻ thông tin, kinh nghiệm chống dịch và cung ứng vaccine...... 10
1.3 Nâng cao sức kháng cự, thích ứng nền kinh tế quốc gia, thực hiện mục
tiêu kép............................................................................................... 12
KẾT LUẬN.................................................................................................................. 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................ 16
MỞ ĐẦU
Trong hệ thống di sản tinh thần vô giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho muôn
đời sau, tư tưởng của Người về đoàn kết, hợp tác quốc tế là định hướng chiến lược
quan trọng cho đường lối, chính sách đối ngoại nói riêng, cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc Việt Nam nói chung.
Sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước
ta, trong bối cảnh mở của hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu với thế giới hiện đại, tạo
nên tổng hợp lực lượng để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với những
nỗ lực chủ quan, sự tăng cường, mở rộng đại đoàn kết hợp tác với tất cả các nước theo
nguyên tắc tôn trọng đọc lập, chủ quyền các bên cùng có lợi, đã tạo cho Việt Nam
những nhân tố mới để phát triển. Việt Nam là tahnhf viên trong cộng đồng quốc tế, đề
tăng cường sức mạnh của mình, một trong những vấn đề quab trọng là phải mở rộng
đoàn kết, hợp tác theo tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới. Để thực hiện được mục đích trên ta cần có sự đoàn kết thống nhất
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhận thấy được tầm quan trọng và lợi ích của việc đoàn kết quốc tế. Chính vì vậy
em xin chọn đề tài. “Quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết quốc tế. Vai trò
đoàn kết quốc tế trong công cuộc phòng chống đại dịch Covid 19.” Để làm chủ đề tiểu
luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh. Mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
1
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận.
1. Những nhân tố hình thành chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh.
1.1.Tiếp thu truyền thống đoàn kết của dân tộc.
Vào thế kỉ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thống trị ở Anh,Pháp, Đức
và một số nước khác ở Tây Âu. Giai cấp tư sản tăng cường áp bức, bốc lột giai cấp
công nhân làm cho mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trở lên
gay gắt, dẫn đến cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và vô sản. Chủ nghĩa Mác ra đời
với “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, khẳng định quy luật diệt vong của chủ nghĩa tư
bản, khẳng định sự thắng thế của chủ nghĩa cộng sản, đồng thời chỉ rõ sứ mệnh lịch sử
thế giới của giai cấp, vô sản nêu lên khẩu hiệu chiến lược: Vô sản của tất cả các nước,
đoàn kết lại!.
Đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc tranh giành
nhau thuộc địa vả căn bản đã hoàn thành công việc phân chia thế giới khắp các châu
lục, Từ đó các nước thuộc địa bị các nước đế quốc áp bức, bóc lột với chế độ cai trị hà
khắc, Vấn đề đặt ra cho các nước thuộc địa là làm thế nào để giải phóng, thế giới hình
thành mâu thuẫn mới; mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc thực
dân, trở thành điều kiện khách quan cho phép phong trào cách mạng mở thuộc địa gắn
bó với phong trào cách mạng ở chính quốc.
Sang thế kỷ XX, nhiều sự kiện lịch sử diễn ra, dẫn đến những chuyển biến trong
tình hình quốc tế, dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914 - 1918), làm cho
mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa đế quốc trở nên gay gắt, giả phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa bùng lên mạnh mẽ.
Trong tình hình đó, Lênin đã phân tích tình hình cụ thể, tiếp tục phát triển chủ
nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đề ra lý luận cách mạng vô sản có thể
thành công ở một số nước, đồng thời nêu lên nguyên lý về cách mạng giải phong dân
tộc thuộc địa, về sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản ở các nước đế quốc và các dân tộc
thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc.
Trong bôis cảnh chung của thế giới, Việt Nam cũng bị chi phối bởi những điều
kiện lịch sử đó, Vào giữa thế kỷ XIX, đế quốc Pháp nổ súng đánh chiếm nước ta.
Trước hành động của kẻ thù, chế độ phong kiến mà đại biểu là triều đình nhà Nguyễn
đã hèn nhát, dâng nước ta cho Pháp. Thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa, bóc
lột nhân dân ta. Dưới chế độ cai trị của đế quốc Pháp, xã hội Việt Nam có nhiều biến
đổi sâu sắc, Trước tình hình đó, phong traof yêu nước của nhân dân Việt Nam chống
Pháp phát triển mạnh mẽ theo hai khuynh hướng, khuynh hướng phong kiến và dân
chủ tư sản. Nhưng sau một thồi gian phát triển rầm rộ, các phong trào cũng nối tiếp
nhau tan rã trước sự đàn áp của thực dân Pháp.
Trong bối cảnh quốc tế và trong nước như vậy, giải phóng dân tộc là yêu cầu căn
bản của xã hội Việt Nam, là nguyện vọng thiết tha của dân tộc ta. Từ cuối thế kỷ XIX
2
đến đàu thế kỷ XX, sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam ở trong “Tình hình đen tối
không có đường ra”.
Vượt qua sự hạn chế của lịch sử, cùng với những đòi hỏi cấp bách của cách mạng
Việt Nam lúc đó, Hồ Chí Minh đã tìm ra giải pháp mới cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc không chỉ ở Việt Nam mà cho cả các dân tộc thuộc địa.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, chứng kiến tận mắt Cuộc sống
lầm than của dân ta ta dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, bà và sự thất bại của phong
trào chống Pháp của các bậc tiền bối. Điều đó, giúp cho Người nhận rõ hơn bản chất
dã man của bọn thực dân và cũng làm cho anh sớm nhận thấy được sức mạnh đoàn kết
đấu tranh của nhân dân khi được tổ chức lại. Từ đó, Người suy nghĩ và cân nhắc đến
con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã quyết định chọn cho
mình hướng đi mới, đến các nước phương Tây, nơi của trào lưu “ tự do, bình đẳng,
bác ái” , để tìm cách mới rồi về giúp đồng bào mình.
Trước lúc ra đi tìm chân lý cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu truyền thống
yêu nước, đoàn kết của dân tộc, am hiểu vốn văn hóa phương Đông, một phần văn hóa
phương Tây. Đó là vốn quý, là cơ sở ở quan trọng để tiếp thu chân lý cách mạng, là
nhân tố đầu tiên của quá trình hình thành chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí
Minh
1.2 Thực tiễn quá trình bôn ba tìm đường cứu nước khắp các châu lục.
Trước bối cảnh thế giới đầy biến động và những đòi hỏi cấp bách của cách mạng
Việt Nam thì năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước, tìm bạn đồng
minh. Động cơ thúc đẩy anh ra đi là tìm một giải pháp mới cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc Việt Nam. Ý nghĩa này xuất hiện ở anh từ rất sớm: “ Khi tôi độ tuổi mười ba,
lần đầu tiên tôi được nghê ba chữ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Đối với chúng tôi,
người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thủa ấy, tôi rất
muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những
chữ ấy”. Đó là mục tiêu của người, muốn “trở về giúp đồng bào”, thì trước hết phải
hiểu đẩy đù kẻ thù đang áp bức dân tộc mình, nhất là từ trên mảnh đất đã sản sinh ra
nó. Đây là sự khác biệt giữa Hồ Chí Minh với những người sang Pháp hồi đó.
Trong khoảng thời gian từ năm 1911 - 1920 , trải qua quá trình gần 10 năm bôn
ba ở nhiều nước khác nhau , được chứng kiến tận mắt cuộc sống lâm than của nhân
dân ngay trên chính mảnh đất giàu có và ở ngay cả “ Mẫu quốc ” . Từ đó Người nhận
thức rõ hơn về bộ mặt thật của chủ nghĩa đế quốc , ở Pháp Người nhận ra rằng “ ở đó
cũng có những người nghèo như ở bên ta ” , và Người tự hỏi : “ Tại sao người Pháp
không “ khai hoá ” đồng bào của họ trước khi đi “ khai hoá ” chúng ta ” 2 . Những
nhận xét đó dẫn Người tới cảm nhận về lực lượng xã hội là bạn đồng minh của các dân
tộc thuộc địa , là cơ sở quan trọng trong việc hình thành tư tưởng về sự đoàn kết của
nhân dân Việt Nam, các nước thuộc địa với nhân dân lao động, giai cấp công dân Pháp
và các nước chính quốc trong đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
3
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã dừng chân lâu ở
ba nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh, Pháp , có điều kiện tìm hiểu nghiên cứu
cuộc cách mạng Mỹ năm 1776, cuộc cách mạng Pháp năm 1789 và cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân. Tuy anh khâm phục ý
chí giành tự do của nhân dân Mỹ, khâm phục tinh thần đấu tranh của nhân dân Pháp,
nhưng, Người đã nhận xét ng : “ Cách mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ nghĩa là
cách mạng tư bản , cách mạng không đến nơi , tiếng là cộng hoà và dân chủ , kì thực
trong thi nó bóc lột công nhân , ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mạng bốn lần rồi
mà nay công nhân Pháp vẫn phải mu cầu cách mạng lần nữa , mới thoát khỏi vòng áp
bức làm cách mạng tư sản ”. Nhận xét đó của Nguyễn Ái Quốc xuất phát từ thực tiễn
khảo sát , nghiên cứu , từ lập trường giai cấp vô sản . Người đã đặt mình vào chỗ đứng
của giai cấp cần lao chiếm sổ đông ở khắp các châu lục đối lập với số ít bọn người bóc
lột tập trung ở chính quốc . Quá trình trải nghiệm thực tế lâu dài ở các nước Châu Á ,
Âu , Phi ... Người nhận thức sâu sắc bộ mặt thật và bản chất của chủ nghĩa tư bản , Hồ
Chí Minh nhấn mạnh : “ Chế độ thực dân là ăn cướp ” , “ là hiếp dân và giết người ”,
chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của nhân dân lao khổ trên toàn thế giới . Do đó ,
nhân dân các nước thuộc địa phải đoàn kết với nhau , tạo nên sức mạnh tổng hợp để
đánh bại kẻ thù chung . Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ
phận của cách mạng vô sản , giải phóng dân phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao
động , giải phóng giai cấp công nhân : “ Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải
phóng được dân tộc , cả hai cuộc giải phóng này chỉ Có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản và của cách mạng thế giới ”
Bên cạnh đó Người cũng nhận định rằng , “ dù màu da có khác nhau , trên thế
giới chỉ có hai giống người : giống người bóc lột và giống người bị bóc lột . Mà cũng
chỉ một tình hữu ái là thật mà thôi tình hữu ái vô sản ” . Đến đây , vấn đề bạn , thù ở
Nguyễn Ái Quốc đã được xác định dứt khoát , rằng áp bắc giai cấp và áp bức dân tộc
có chung một nguồn gốc là chủ nghĩa đế quốc
Như vậy , cuộc hành trình gần mười năm khắp các châu lục là cơ sở thực tiễn
quan trọng trong quá trình hình thành chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh.
Trong quá trình đi tới các châu lục tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc , có
một sự kiện nổi bật, đó là thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.
Nhưng thời gian này Người đang sống và hoạt động ở Pháp, bọn đế quốc bng bít tin
tức , cho nên nhiều người bạn Pháp, Anh chưa biết rõ và càng chưa hiểu được ý nghĩa
thời đại của cuộc cách mạng ấy. Nhưng với sự nhạy bén chính trị và nhiệt tình giai cấp
, Nguyễn Ái Quốc biết đó là cuộc cách mạng tiến bộ , cuộc cách mạng của số đông
người lao động và Người có ý định đi sang Nga , mặc dù lúc đó chưa hiểu biết ý nghĩa
cực kỳ to lớn của cách mạng Ngay. Chỉ thông qua những hoạt động thực tiễn , Người
mới có nhận thức “ cảm tính ” về Cách mạng Tháng Mười Nga, về nước Nga Xô viết
và về Lênin, ngày càng được củng cố và nâng cao.
4
Tham gia vào những hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc tìm thấy vũ khí sắc
bén để đấu tranh, đó là viết bào, tham gia các buổi mít tinh, thảo luận. Trong đó,
Người đều đề cập đến vấn đề đoàn kết quốc tế. Người nói : “ Trong các cuộc bàn cãi ,
người ta rất ít nói đến sự đoàn kết với các dân tộc thuộc địa . Nhưng đó lại là vấn đề
mà người ta quan tâm hơn cả ”
2. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế.
2.1. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng.
Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của thế giới, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới. Cùng với quá trình phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong quan
hệ với tình hình quốc tế, tư tưởng đoàn kết đã được Hồ Chí Minh phát triển ngày càng
đầy đủ rõ ràng và cụ thể hơn.
Đối tượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn. Đó là đoàn
kết với phong trao đấu tranh giải phong dân tộc, phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và ở các nước tư bản chủ nghĩa nói
chung; đoàn kết với nước Nga Xô viết, với Liên Xô và sau này mở rộng tất cả các
nước xã hội chủ nghĩa; đoàn kết đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội của nhân dân thế giới; đặc biệt là nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, hai
nước cùng cảnh ngộ với Việt Nam trên bán đảo Đông Dương đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc thực dân dành độc lập tự do và hạnh phúc cho nhân dân mỗi nước.
2.2. Thực hiện đoàn kết quốc tế, nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới
thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với
đoàn kết quốc tế; thực hiện đoàn kết quốc tế không chỉ vì thắng lợi của cách mạng mỗi
nước mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong quộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời
đại.
- Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì
mục tiêu chung, các đảng cộng sản phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng sai lầm
của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sôvanh… những khuynh
hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất các lực lượng cách mạng thế giới.
Nói cách khác, các đảng cộng sản phải tiến hành có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa
yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản cho giai cấp công nhân và
nhân dân lao động.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt
chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản là nhằm góp phần cùng nhân dân
thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời đại. Bởi lẽ,
5
chúng ta không chỉ chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước mình mà còn vì độc lập, tự
do của các nước khác, không chỉ bảo vệ lợi ích sống còn của dân tộc mình mà còn vì
những mục tiêu cao cả của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội. Để thực hiện được mục tiêu đó, phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu
hiện của chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chống lại chủ nghĩa sôvanh và mọi thứ chủ nghĩa cơ
hội khác.
3. Lực lượng đoàn kết và các hình thức tổ chức.
3.1. Các lực lượng cần đoàn kết.
Lực lượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: Phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào
hoà bình, dân chủ thế giới, trước hết là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các
nước đang xâm lược Việt Nam.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân thế giới, Hồ Chí Minh cho rằng, sự
đoàn kết giữa giai cấp vô sản quốc tế là một bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của chủ
nghĩa cộng sản. Chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa các đảng
cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai cấp
vô sản trong thời đại ngày nay. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa tư bản là một lực
lượng phản động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Trong
hoàn cảnh đó, chỉ có sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ lẫn
nhau của lao động toàn thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em” mới
có thể chống lại được những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Đối với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hoà bình, dân chủ, tự do
và công lý, Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết. Trong xu thế mới
của thời đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn liền với sự thức tỉnh giai cấp, Hồ Chí Minh đã
gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hòa bình, tự do, công lý
và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Gắn cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc với mục tiêu hòa bình, tự do và công lý,
Hồ Chí Minh đã khơi gợi lương tri của loài người tiến bộ tạo nên những tiếng nói ủng
hộ mạnh mẽ của các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng con người trên
hành tinh. Thật hiếm có những cuộc đấu tranh giành được sự đồng tình, ủng hộ rộng
rãi và lớn lao như vậy. Đã nhiều lần, Hồ Chí Minh khẳng định: Chính vì đã biết kết
hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân
và của các dân tộc bị áp bức, mà Đảng đã vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp
công nhân và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ vang như ngày nay.
3.2. Hình thức tổ chức.
Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề sách lược, một
thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính nguyên tắc, một đòi hỏi khách quan
của cách mạng Việt Nam. Từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành
lập “Mặt trận thống nhất của nhân dân chính quốc và thuộc địa” chống chủ nghĩa đế
6
quốc, đồng thời kiến nghị Quốc tế Cộng sản cần có giải pháp cụ thể để quan điểm này
trở thành sự thật.
Đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc
biệt. Cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi của nhau, có nhiều điểm tương đồng về
lịch sử, văn hoá và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp. Năm 1941, để khơi dậy
sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, theo đúng quan điểm của Hồ Chí Minh
về tập hợp lực lượng cách mạng, Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh ; giúp
Lào và Campuchia lập mặt trận yêu nước. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc hình thành Mặt trận nhân dân ba
nước Đông Dương.
Hồ Chí Minh chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, hợp tác nhiều mặt
theo tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em” với Trung Quốc, nước láng giềng có
quan hệ lịch sử văn hoá lâu đời với Việt Nam; thực hiện đoàn kết với các dân tộc châu
Á và châu Phi đấu tranh giành độc lập. Với các dân tộc châu Á, Người chỉ rõ, các dân
tộc châu Á có độc lập thì nền hoà bình thế giới mới thực hiện. Vận mệnh dân tộc châu
Á có quan hệ mật thiết với vận mệnh dân tộc Việt Nam. Do vậy, từ những năm 20 của
thế kỷ XX, cùng với việc sáng lậpHội Liên hiệp thuộc địa tại Pháp, Hồ Chí Minh đã
tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức tại Trung Quốc. Đây là hình
thức sơ khai của mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức theo xu hướng vô sản, lần
đầu tiên xuất hiện trong lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Với việc tham
gia sáng lập các tổ chức này, Hồ Chí Minh đã góp phần đặt cơ sở cho sự ra đời của mặt
trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam.
Những năm đấu tranh giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh tìm mọi cách xây dựng
các quan hệ với mặt trận dân chủ và lực lượng đồng minh chống phátxít, nhằm tạo thế
cho cách mạng Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, bằng hoạt
động ngoại giao không mệt mỏi, Hồ Chí Minh đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa,
của bạn bè quốc tế và nhân loại tiến bộ, trong đó có cả nhân dân Pháp trong kháng
chiến chống Pháp và cả nhân dân Mỹ trong kháng chiến chống Mỹ, hình thành mặt
trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Như vậy, tư tưởng đoàn kết vì thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã định hướng
cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn
kết Việt - Miên - Lào; Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam; Mặt trận nhân
dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát
triển rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết.
4. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế.
4.1. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên
7
nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình. Là một
chiến sĩ cách mạng quốc tế kiên định, Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu tranh cho sự
nghiệp củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong cách mạng thế giới, trước hết là phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, lực lượng tiên phong của cách mạng thế giới trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội.
Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập, tự do
và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Hồ Chí Minh không chỉ suốt đời đấu tranh cho
độc lập, tự do của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập, tự do cho các dân tộc
khác. Trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, Hồ Chí Minh thực hiện
nhất quán quan điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế
giới, đồng thời mong muốn các quốc gia, dân tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu
nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đó.
. Đối với các dân tộc tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hoà
bình, chống chiến tranh xâm lược. Tư tưởng đó bắt nguồn từ truyền thống hoà hiếu của
dân tộc Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản và những giá trị nhân văn
nhân loại. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ hoà bình,
đấu tranh cho hoà bình, một nền hoà bình thật sự cho tất cả các dân tộc - “hoà bình
trong độc lập tự do”.Nền hòa bình đó không phải là một nền hoà bình trừu tượng, mà
là “một nền hoà bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân chủ”, chống chiến
tranh xâm lược vì các quyền dân tộc cơ bản của các quốc gia.
4.2. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường.
Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng
quốc tế nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách
mạng đã đặt ra. Để đoàn kết tốt phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết định, còn
nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Chính
vì vậy, trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: “Tự lực cánh
sinh, dựa vào sức mình là chính”, “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự
giúp lấy mình đã”. Trong đấu tranh giành chính quyền, Người chủ trương “đem sức ta
mà tự giải phóng cho ta”. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người chỉ rõ: “Một
dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng
đáng được độc lập”. Trong quan hệ quốc tế, Người nhấn mạnh: phải có thực lực, thực
lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn...
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường
lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Trả lời một phóng viên nước ngoài, Người nói: “Độc
lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can
thiệp ở ngoài vào” 12 1 . Trong quan hệ giữa các Đảng thuộc phong trào cộng sản,
8
công nhân quốc tế, Người xác định: “Các Đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và bình
đẳng, đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”.
II. Vận dụng
1. Lợi ích của việc thúc đẩy hợp tác quốc tế trong phòng, chống dịch
Covid 19.
1.1. Tăng cường đoàn kết quốc tế, hợp tác đa phương.
Trong bài phát biểu tại Phiên thảo luận mở cấp cao trực tuyến của Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc với chủ đề "Ðại dịch và các thách thức đối với hòa bình bền vững",
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh nhấn mạnh vai trò quan trọng
của các tổ chức khu vực cũng như vai trò trung tâm của Liên hợp quốc và Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO) trong cuộc chiến chống COVID-19; các cam kết của Việt Nam và
kêu gọi tăng cường hợp tác, đoàn kết quốc tế cùng ứng phó thành công đại dịch.
Thực tế cho thấy, ngay từ những ngày đầu tiên cũng như giai đoạn căng thẳng nhất
khi đại dịch bùng phát trên toàn cầu (cuối năm 2019-đầu năm 2020), Việt Nam đã chủ
động, trách nhiệm, chia sẻ khó khăn và đóng góp thiết thực vào nỗ lực chống lại đại
dịch. Trong khả năng của mình, Việt Nam đã và đang sẵn sàng cung cấp các vật tư,
thiết bị y tế "Made in Viet Nam".
Với tinh thần quốc tế cao cả được kế thừa từ truyền thống lịch sử, Chính phủ và
nhân dân Việt Nam mặc dù đang còn nhiều khó khăn, nhưng đã có nhiều hoạt động hỗ
trợ, hợp tác, chia sẻ với 20 quốc gia, tổ chức quốc tế. Thực hiện phương châm "Giúp
bạn là tự giúp mình", Việt Nam đã tặng "hai nước Lào, Campuchia các trang thiết bị y
tế gồm quần áo bảo hộ, khẩu trang y tế, khẩu trang kháng khuẩn, hệ thống xét nghiệm
cùng bộ xét nghiệm virus SARS-CoV-2, trị giá hơn 7 tỷ đồng cho mỗi nước"; tặng
Indonesia 500 dụng cụ xét nghiệm, Myanmar 50.000 USD để chung sức phòng,
chống COVID-19; dành tặng Đảng, Nhà nước và nhân dân Cuba 5.000 tấn gạo.
Ngay khi dịch COVID-19 diễn biến phức tạp tại Trung Quốc, Việt Nam đã tặng
Trung Quốc vật tư, trang thiết bị y tế gồm máy thở, quần áo sát khuẩn, găng tay, khẩu
trang y tế với tổng trị giá 500.000 USD. Hội Chữ thập đỏ Việt Nam vận động các tổ
chức, cá nhân quyên góp hỗ trợ nhân dân Trung Quốc số vật tư y tế trị giá 100.000
USD để phòng, chống dịch.
Đối với các đối tác chiến lược, bạn bè truyền thống, Việt Nam đã dành một phần
nguồn lực của mình giúp đỡ Chính phủ các nước Nhật Bản, Nga, Pháp, Đức, Italy, Tây
Ban Nha và Anh, Hoa Kỳ, Thụy Điển… phòng, chống dịch COVID-19. Số hàng hỗ trợ
gồm khẩu trang, vải kháng khuẩn chống giọt bắn, quần áo bảo hộ DuPont do Việt Nam
tự sản xuất, giúp các nước có thêm phương tiện bảo vệ sức khỏe cho người dân. Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc tặng Văn phòng Tổng thống Liên bang Nga, Văn phòng Nội
các Nhật Bản, Văn phòng Nhà Trắng (Hoa Kỳ) mỗi nơi 50.000 khẩu trang y tế.
9
"Tôi muốn bày tỏ lòng cảm ơn chân thành vì sự ủng hộ của Chính phủ và nhân
dân Việt Nam trong cuộc chiến chống lại sự lây lan của dịch COVID-19 ở Italy. Trong
thời điểm nhiều thách thức này, tinh thần đoàn kết rộng mở đã được thể hiện ở nhiều
cấp độ bởi Chính phủ và các tổ chức xã hội và là minh chứng cho mối quan hệ sâu sắc
giữa hai nước chúng ta", Ngoại trưởng Italy Luigi Di Maio viết trong thư cảm ơn
Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã hỗ trợ nước này trong cuộc chiến chống COVID-
19. Ngoại trưởng Italy nhấn mạnh: "Người dân Italy sẽ luôn ghi nhớ sự nghĩa hiệp và
tinh thần đoàn kết mà Việt Nam đã thể hiện trong lúc cần thiết. Cùng đoàn kết, chúng
ta sát cánh bên nhau. Cùng đoàn kết, chúng ta sẽ thành công".
Bên cạnh đó bạn bè quốc tế cũng đã hỗ trợ Việt Nam rất nhiều trong công tác
phòng chống dịch. Tính đến nay, Nhật Bản đã hỗ trợ 200 triệu yen cho Việt Nam (1,9
triệu USD thông qua Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc - UNICEF) nhằm cung cấp trang
thiết bị và hỗ trợ nâng cao năng lực liên quan tới dây chuyền lạnh cần thiết trong việc
bảo quản và vận chuyển vắc xin.
Bản thân Nhật Bản cũng thông báo đóng góp tổng cộng 200 triệu USD cho cơ chế
tiếp cận công bằng với vắc xin COVID-19 trên toàn cầu, mà Việt Nam là một trong
các quốc gia hưởng lợi.
Tương tự, hồi tháng 4 vừa qua, Úc và UNICEF cũng công bố chương trình đối tác
trị giá 13,5 triệu đôla Úc (AUD, tương đương 10 triệu USD) nhằm hỗ trợ công tác
chuẩn bị và thực hiện chương trình tiêm chủng COVID-19 của Việt Nam.
Vào cuối tháng 5, Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) đã cung cấp
hơn 1.500 bộ sinh phẩm xét nghiệm RT PCR cho Bộ Y tế Việt Nam, nhằm hỗ trợ nỗ
lực xét nghiệm khẩn cấp tại các điểm bùng phát dịch.
Những bộ sinh phẩm xét nghiệm này được sản xuất tại Việt Nam theo tiêu chuẩn
kỹ thuật của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), và được mua sắm với nguồn kinh phí do
Quỹ JSB của Nhật Bản và nhóm sản xuất Ghen CoVy tài trợ.
Về vấn đề xét nghiệm COVID-19 bằng công nghệ PCR cũng như điều trị bệnh
này, Nhật Bản cũng là bên tiếp tục hỗ trợ Việt Nam bằng việc hợp tác kỹ thuật thông
qua Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA).
1.2. Chia sẻ thông tin, kinh nghiệm chống dịch và cung ứng vaccine
COVID-19.
Trong cuộc chiến chống lại đại dịch toàn cầu, Việt Nam xác định không thể "tự
đốt đuốc, dò đường" đi một mình mà cần phải có sự chia sẻ, phối hợp, cập nhật thông
tin, kinh nghiệm chống dịch, kết quả nghiên cứu vaccine với các nước trên thế giới.
Trên tinh thần đó, Việt Nam đã cùng các nước như Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Pháp, Ấn Độ, Australia, New Zealand… tiến hành nhiều cuộc điện đàm ở các
cấp khác nhau, với số lượng kỷ lục chưa từng có trong hoạt động ngoại giao của nước
10
ta. Trong đó, Việt Nam cùng các nước tập trung cập nhật tình hình dịch bệnh trong
nước, tại khu vực và trên thế giới; chia sẻ kinh nghiệm và biện pháp phòng, chống dịch
bệnh cũng như các hình thức hợp tác hiệu quả trong công tác bảo hộ công dân, cung
ứng trang thiết bị y tế, phối hợp trong các hình thức viện trợ nhân đạo, duy trì giao
thông và giao thương cũng như việc tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mở cửa và hồi
phục nền kinh tế hậu COVID-19.
Tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao, Người Phát ngôn Lê Thị Thu
Hằng cho biết, bên cạnh công tác phòng, chống dịch bệnh, Chính phủ Việt Nam hết
sức quan tâm và luôn chỉ đạo các cơ quan chức năng liên quan khẩn trương thực hiện
các nghiên cứu để sản xuất vaccine trong nước, đồng thời đẩy mạnh phối hợp với các
công ty, các đối tác sản xuất và cung cấp vaccine có uy tín trên thế giới nhằm có
vaccine COVID-19 trong thời gian sớm nhất. Hiện nay, Việt Nam vẫn thường xuyên
trao đổi, cập nhật tình hình với các đối tác, mong muốn sớm có vaccine, thuốc và phác
đồ điều trị, tiến tới kiểm soát và đẩy lùi dịch bệnh nguy hiểm này.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang xây dựng các chính sách và quy định để hỗ trợ
việc tiếp nhận, vận chuyển, bảo quản, phân phối và sử dụng vaccine được thực hiện
một cách nhanh chóng ngay khi có vaccine COVID-19.
Trước đó, vào tháng 4, trong cuộc cuộc điện đàm lần thứ 3 với lãnh đạo ngoại giao
các nước Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và New Zealand về tình
hình dịch COVID-19, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn đã
đề nghị Chính phủ các nước tiếp tục có các cam kết chính trị để bảo đảm rằng các
nước được tiếp cận và đáp ứng nhu cầu sử dụng vaccine và thuốc chữa trị COVID-19
nếu nghiên cứu thành công.
Trong vai trò là nước Chủ tịch ASEAN 2020, Ủy viên không thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam đã đề xuất nhiều ý tưởng, sáng kiến trong
khuôn khổ Liên hợp quốc và tích cực phối hợp với các quốc gia thành viên khác thảo
luận, thông qua nhiều Nghị quyết, văn kiện nhằm tăng cường hợp tác quốc tế trong
ứng phó với COVID-19; kêu gọi chấm dứt các hành vi cường quyền, đơn phương trái
với luật pháp quốc tế; ủng hộ lời kêu gọi của Tổng Thư ký Liên hợp quốc về ngừng
bắn trên toàn cầu và gỡ bỏ các biện pháp trừng phạt làm suy yếu khả năng ứng phó với
đại dịch của các quốc gia.
Đặc biệt, ngày 7/12/2020, tại phiên họp toàn thể ở New York (Hoa Kỳ), Đại hội
đồng Liên hợp quốc khóa 75 đã thông qua bằng đồng thuận Nghị quyết do Việt Nam
chủ trì đề xuất, thương lượng và thúc đẩy thông qua, lấy ngày 27/12 hàng năm là
"Ngày Quốc tế sẵn sàng chống dịch bệnh". Đề xuất của Việt Nam đã được 5 nước
tham gia đồng tác giả (Canada, Niger, Saint Vincent & Grenadines, Senegal, Tây Ban
Nha) và 107 nước đồng bảo trợ.
Theo Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Hoài Trung, việc Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua Nghị quyết này có ý nghĩa rất quan trọng khi đây là lần đầu tiên Việt Nam
11
chủ trì đề xuất thương lượng và thúc đẩy thông qua thành công một nghị quyết tại Đại
hội đồng Liên hợp quốc, thể hiện vai trò, vị thế của Việt Nam trong việc tham gia có
trách nhiệm vào công việc chung của Liên hợp quốc và thúc đẩy các vấn đề mà cộng
đồng quốc tế quan tâm.
Đây cũng là Nghị quyết đầu tiên của Đại hội đồng về chủ đề này trong bối cảnh
đại dịch COVID-19 đang tiếp tục diễn biến phức tạp, tác động sâu rộng tới mọi mặt
của đời sống chính trị-an ninh, kinh tế-xã hội của tất cả các quốc gia, đồng thời sẽ góp
phần nâng cao nhận thức của tất cả các quốc gia, người dân và cộng đồng quốc tế cũng
như tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng chống, ứng phó với các loại dịch bệnh,
trong đó có đại dịch COVID-19
1.3. Nâng cao sức kháng cự, thích ứng của nền kinh tế quốc gia, thực
hiện mục tiêu kép.
Đại dịch COVID-19 với tốc độ lây lan rất nhanh, diễn biến khó lường và mức độ
nguy hiểm chưa từng có trong lịch sử đã tác động mạnh mẽ, toàn diện và sâu rộng đến
mọi mặt của đời sống kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Ví dụ rõ ràng nhất là sụt
giảm đột ngột tăng trưởng GDP của Việt Nam từ 7% năm 2019, xuống còn ước đạt
trên 2%.
Trong bối cảnh đó, ngoại giao Việt Nam xác định thực hiện "mục tiêu kép" vừa
đẩy lùi dịch bệnh vừa phát triển kinh tế là mục tiêu mà tất cả các nước bị tác động của
đại dịch Covid đặt ra, điểm chung nhất là tập trung sớm khống chế được dịch và từng
bước mở cửa nền kinh tế. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện của mỗi nước mà bước đi và
giải pháp cụ thể khác nhau. Nhưng thực tiễn của nhiều nước và cả của Việt Nam cho
thấy, nếu khống chế dịch không chắc chắn, chủ quan và vội vã mở cửa nền kinh tế
(như du lịch, dịch vụ lưu trú, giao thông công cộng, dịch vụ ẩm thực công cộng…) thì
dịch sẽ bùng phát trở lại; khi đó cái giá phải trả sẽ rất đắt. Trên thực tế, xét về bản chất,
các giải pháp không chế dịch mâu thuẫn với mở cửa và phát triển kinh tế; việc lựa
chọn các giải pháp để đồng thời đáp ứng “mục tiêu kép” này là không dễ dàng, phải có
sự ưu tiên trong từng bối cảnh cụ thể. Có thể khái quát thành ba giai đoạn sau :
- Giai đoạn một : Chống dịch và đảm bảo các hoạt động kinh tế thiết yếu trong khi
dịch vẫn đang bùng phát.
- Giai đoạn hai : Về cơ bản đã khống chế được dịch ở trong nước; nhưng dịch ở
các nước đối tác kinh tế chủ yếu vẫn đang tác động và chưa khống chế được chắc
chắn.
- Giai đoạn ba : đã dập tắt được dịch trong nước và các nước đối tác kinh tế đã
khống chế và đẩy lui được dịch.
Tương quan giữa các giải pháp chống dịch và giải pháp đảm bảo các hoạt động
kinh tế trong giai đoạn một là phải ưu tiên cao hơn các giải pháp chống dịch, dù phải
chịu thiệt hại về kinh tế, mục đích là sớm khống chế và đẩy lui được dịch. Sang giai
12
đoạn hai, vẫn phải rất coi trọng các giải pháp chống dịch, song từng bước mở cửa trở
lại nền kinh tế với các điều kiện và giải pháp đi kèm đảm bảo chống dịch hiệu quả,
không để dịch lây lan trở lại; trong trường hợp dịch bùng phát trở lại cần thực hiện
ngay các giải pháp đồng bộ để truy vết, khoanh vùng, không chế và dập tắt theo khu
vực, không để lan rộng. Gian đoạn 3, đẩy mạnh hơn các giải pháp phục hồi nền kinh tế
trong nước; từng bước mở cửa hoạt động kinh tế với nước ngoài; song, do chưa có
vacxin và thuốc đặc hiệu chống Covid, nên vẫn phải thực hiện các giải pháp kiểm soát
chặt chẽ bệnh dịch và chống lây nhiễm dịch, nhất là từ nước ngoài, làm cơ sở cho việc
thực hiện các giải pháp phục hồi và phát triển kinh tế hiệu quả, bền vững.
Trên bình diện chung của thế giới cũng như ở Việt Nam thường sử dụng hai gói hỗ
trợ chủ yếu để khắc phục các tác động tiêu cực của đại dịch Covid - 19 : gói hỗ trợ an
sinh xã hội (cho các đối tượng bị mất hoặc giảm việc làm, giảm mạnh thu nhập, các
đối tượng nghèo, đối tượng yếu thế…), và gói hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các chủ
thể sản xuất kinh doanh khác bị dừng, giảm sản xuất kinh doanh, hay bị phá sản. Tuy
nhiên, mục tiêu, quy mô, phạm vi, đối tượng hỗ trợ của các nước cũng khác nhau. Có
hai phương thưc hỗ trợ: hỗ trợ mang tính chất bình quân và hỗ trợ có trọng tâm, trọng
điểm. Một vấn đề đặt ra là sự tác động của đại dịch Covid đối với các loại doanh
nghiệp là khác nhau, và vai trò của các loại doanh nghiệp đối với sự phục hồi và tái
cấu trúc nền kinh tế “hậu Covid” cũng khác nhau; có những doanh nghiệp không hoặc
ít có có hội phục hồi, hoặc phục hồi rồi nhưng tác động thúc đẩy đổi mới và phát triển
“hậu Covid” kém, thì sự hỗ trợ từ phía nhà nước và các nguồn lực khác để phục hồi
loại doanh nghiệp này theo hướng cũ là không hiệu quả; cần hỗ trợ cao hơn cho các
loại doanh nghiệp có khả năng phục hồi và thúc đẩy cơ cấu lại - đổi mới sản xuất kinh
doanh. Cần nhất quán quan điểm: tác động của đại dịch Covid còn là cơ hội để cơ cấu
lại nền kinh tế, hệ thống doanh nghiệp theo hướng hiện đại, hiệu quả hơn. Vì vậy, cần
phải nghiên cứu kỹ lưỡng vai trò và tác động thực tế của các loại doanh nghiệp (doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp lớn, doanh
nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế hộ gia đình) trong từng lĩnh vực để có cơ chế, chính sách
hỗ trợ phù hợp, nhất là việc giữ lại lao động và thị trường để tạo cơ sở cho bước phát
triển “hậu Covid”.
Bên cạnh phòng chống dịch hiệu quả, Chính phủ nhất quán chủ trương đẩy mạnh
phát triển kinh tế-xã hội để củng cố nền tảng, nâng cao sức kháng chịu và thích ứng
của nền kinh tế.
Với chủ trương này, Việt Nam đã và đang triển khai đồng bộ nhiều chính sách,
biện pháp, phối hợp quốc tế nhằm phục hồi kinh tế trong và sau khủng hoảng COVID-
19 như: bảo đảm duy trì chuỗi cung ứng, giao thương hàng hóa, dịch vụ trong nước
cũng như giữa Việt Nam với bên ngoài; tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư
kinh doanh, cắt giảm thủ tục, chi phí cho doanh nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng,
logistics…; tích cực triển khai các hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác;
hỗ trợ các doanh nghiệp, nhà đầu tư tháo gỡ khó khăn do dịch COVID-19 gây ra để
13
tiếp tục triển khai các dự án đầu tư tại Việt Nam, trong đó tạo điều kiện cho chuyên
gia, lao động trình độ cao vào Việt Nam làm việc nhưng vẫn bảo đảm phòng chống
dịch.
Trên cương vị Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam đã cùng các nước thành viên nhất
trí nhiều sáng kiến và hợp tác ứng phó COVID-19 như: Quỹ ASEAN ứng phó
COVID-19; kho dự phòng vật tư y tế khẩn cấp khu vực; khung chiến lược ứng phó các
tình huống y tế khẩn cấp của ASEAN và trung tâm y tế ASEAN ứng phó với các tình
huống y tế công cộng khẩn cấp và dịch bệnh mới nổi; Khung phục hồi tổng thể
ASEAN và Kế hoạch triển khai đồng bộ trên cả 3 trụ cột của Cộng đồng nhằm hỗ trợ
người dân và doanh nghiệp sớm khắc phục hậu quả dịch bệnh, ổn định đời sống.
Bên cạnh đó, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 37 và các hội nghị cấp cao liên
quan, Lễ ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) giữa 15 nền
kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, góp phần hỗ trợ quá trình phục hồi kinh tế sau đại
dịch COVID-19 và đem lại thịnh vượng chung cho người dân, doanh nghiệp của tất cả
các nước thành viên.
Với những nỗ lực và thành quả đã đạt được trên mặt trận ngoại giao, hợp tác quốc
tế phòng, chống đại dịch COVID-19, Việt Nam tin tưởng, trước thách thức nghiêm
trọng nhất kể từ khi thành lập Liên hợp quốc, cộng đồng quốc tế sẽ phát huy ý chí và
sức mạnh của mỗi dân tộc, cũng như tinh thần đoàn kết, hợp tác quốc tế mạnh mẽ đ
cùng nhau vượt qua đại dịch COVID-19 và xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho
mỗi quốc gia và mọi người dân.
14
KẾT LUẬN
Chiến lược đoàn kết quốc tế là một bộ phận quan trọng của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đã có nhiều người trong nước và trên thế giới nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ
những tư tưởng và giá trị nhân văn vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó tư
tưởng về đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế được khẳng định là nội dung thống nhất và
đặc sắc trong suốt cả cuộc đời hoạt động của người. Trong thực tế, chiến lược đoàn kết
quốc tế đã trở thành tài sản tinh thần quý giá của Đảng ta, dân tộc ta và nhân loại tiến
bộ trong thời đại ngày nay.
Thế giới ngày nay đã có những thay đổi to lớn song vẫn chưa mất đi bất công và
bạo lực. Các nước đang thực thi những thủ đoạn tinh vi, dùng sức mạnh tài chính,
thương mại, công nghệ, những phương tiện thông tin đại chúng cực mạnh để chi phối
về chính trị , xâm nhập về kinh tế, văn hoá, tư tưởng đối với đa số các nước phát triển
và các nước nghèo. Độc lập dân tộc thực sự, tự do dân chủ cho nhân dân, công bằng,
hạnh phúc cho mọi người, hoà bình hữu nghị cho các dân tộc còn đang là mục tiêu của
loài người. Không có con đường nào khác là các nước phải đoàn kết dân tộc thành một
khối vững chắc và đoàn kết với tất cả các nước trên thế giới, vừa đấu tranh cho mục
tiêu trên, vừa mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu những thành tựu khoa học và văn hoá
của nền văn minh trí tuệ. Đồng thời khẳng định những quyền dân tộc cơ bản của mình,
giữ gìn bản sắc và cốt cách tốt đẹp của dân tộc mình. Là cầu nối tình đoàn kết, hữu
nghị giữa các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh cất cao tiếng nói đoàn kết hữu nghị
giữa các dân tộc, nhân dân các nước trên thế giới đều coi Người là vị lãnh tự vĩ đại của
mình, thực hiện chiến lược đoàn kết quốc tế, Người đã gieo hạt giống đoàn kết và giải
phóng khắp thế giới, là hiện thân của tình đoàn kết giữa các dân tộc.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình quốc tế và trong nước hiện nay có những
chuyển biến nhanh chóng và sâu sắc, đặt ra những điều kiện mới đối hỏi phải biết vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoán kết quốc tế cho phu Chợp. Cần làm rõ đoàn kết
để hiện mục tiêu cách mạng giai đoạn hiện nay là xây dựng “ dân giau , nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh ” ; Mơ cửa, hội nhập quốc tế, là bạn của tất cả các
nước, phấn đấu vì hòa bình, tích cực tham gia vào giải quyết những vấn đề toàn cầu
hiện nay, Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế để đẩy nhanh công nghiệp
hóa, hiện đại hoa đất nước, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới; Xây dựng
đang trong sạch và vững mạnh là hạt nhân cốt lõi đoạn kết quốc tế và đoàn kết dân tộc.
Nhưng quan điểm cơ bản cùng những giá trị thực tiễn của chiến lược đoán kết
quốc tế của Hồ Chí Minh là những bài học rất sâu sắc cần được nhận thức và vận dụng
một cách sáng tạo, phù hợp với cách mạng Việt Nam và thế giới tiến bộ trong giai
đoạn hiện nay .
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu môn học tư tưởng Hồ Chí Minh trường Đại Học Điện Lực.
2. Văn Yên: Hồ Chí Minh với chiến lược đoàn kết quốc tế trong cách mạng
giải phóng dân tộc, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
3. Báo dân tộc.vn
4. Ncov.moh.gov.vn
5. Trang thông tin điện tử hộ đồng lý luận trung ương.
16
| 1/18

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
BỘ MÔN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ _____________ TIỂU LUẬN MÔN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Tên đề tài: Quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết quốc tế. Vai trò
đoàn kết quốc tế trong công cuộc phòng chống đại dịch Covid 19.
Họ và tên: NGUYỄN THỊ THỦY
Mã sinh viên: 19810230005 Lớp: D14 Logistics2 HÀ NỘI, 07/2021 MỤC LỤC Trang
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
NỘI DUNG................................................................................................................ 2 I.
CƠ SỞ LÝ LUẬN...................................................................................... 2
1. Những nhân tố hình thành chiến lược đoàn kết quốc tế của HCM.......... 2
1.1 Tiếp thu đoàn kết dân tộc................................................................... 2
1.2 Thực tiễn bôn ba tìm đường cứu nước khắp châu lục........................ 3
2. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế........................................................... 5
2.1 Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng........................ 5
2.2 Thực hiện đoàn kết quốc tế, nằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực
hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại................................ 5
3. Lực lượng đoàn kết quốc tế và hình thức tổ chức..................................... 6
3.1 Các lực lượng cần đoàn kết................................................................ 6
3.2 Hình thức tổ chức................................................................................ 6
4. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế...................................................................... 7
4.1 Đoạn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình....... 7
4.2 Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự cường...................................... 8
II. VẬN DỤNG............................................................................................. 9
1. Lợi ích của việc thúc đẩy hợp tác quốc tế trong phòng, chống dịch....... 9
1.1 Tăng cường đoàn kết quốc tế, hợp tác đa phương...............................9
1.2 Chia sẻ thông tin, kinh nghiệm chống dịch và cung ứng vaccine...... 10
1.3 Nâng cao sức kháng cự, thích ứng nền kinh tế quốc gia, thực hiện mục
tiêu kép............................................................................................... 12
KẾT LUẬN.................................................................................................................. 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................ 16 MỞ ĐẦU
Trong hệ thống di sản tinh thần vô giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho muôn
đời sau, tư tưởng của Người về đoàn kết, hợp tác quốc tế là định hướng chiến lược
quan trọng cho đường lối, chính sách đối ngoại nói riêng, cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc Việt Nam nói chung.
Sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước
ta, trong bối cảnh mở của hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu với thế giới hiện đại, tạo
nên tổng hợp lực lượng để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với những
nỗ lực chủ quan, sự tăng cường, mở rộng đại đoàn kết hợp tác với tất cả các nước theo
nguyên tắc tôn trọng đọc lập, chủ quyền các bên cùng có lợi, đã tạo cho Việt Nam
những nhân tố mới để phát triển. Việt Nam là tahnhf viên trong cộng đồng quốc tế, đề
tăng cường sức mạnh của mình, một trong những vấn đề quab trọng là phải mở rộng
đoàn kết, hợp tác theo tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới. Để thực hiện được mục đích trên ta cần có sự đoàn kết thống nhất
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhận thấy được tầm quan trọng và lợi ích của việc đoàn kết quốc tế. Chính vì vậy
em xin chọn đề tài. “Quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết quốc tế. Vai trò
đoàn kết quốc tế trong công cuộc phòng chống đại dịch Covid 19.” Để làm chủ đề tiểu
luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh. Mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn. 1 NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận.
1. Những nhân tố hình thành chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh.
1.1.Tiếp thu truyền thống đoàn kết của dân tộc.
Vào thế kỉ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thống trị ở Anh,Pháp, Đức
và một số nước khác ở Tây Âu. Giai cấp tư sản tăng cường áp bức, bốc lột giai cấp
công nhân làm cho mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trở lên
gay gắt, dẫn đến cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và vô sản. Chủ nghĩa Mác ra đời
với “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, khẳng định quy luật diệt vong của chủ nghĩa tư
bản, khẳng định sự thắng thế của chủ nghĩa cộng sản, đồng thời chỉ rõ sứ mệnh lịch sử
thế giới của giai cấp, vô sản nêu lên khẩu hiệu chiến lược: Vô sản của tất cả các nước, đoàn kết lại!.
Đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc tranh giành
nhau thuộc địa vả căn bản đã hoàn thành công việc phân chia thế giới khắp các châu
lục, Từ đó các nước thuộc địa bị các nước đế quốc áp bức, bóc lột với chế độ cai trị hà
khắc, Vấn đề đặt ra cho các nước thuộc địa là làm thế nào để giải phóng, thế giới hình
thành mâu thuẫn mới; mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc thực
dân, trở thành điều kiện khách quan cho phép phong trào cách mạng mở thuộc địa gắn
bó với phong trào cách mạng ở chính quốc.
Sang thế kỷ XX, nhiều sự kiện lịch sử diễn ra, dẫn đến những chuyển biến trong
tình hình quốc tế, dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914 - 1918), làm cho
mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa đế quốc trở nên gay gắt, giả phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa bùng lên mạnh mẽ.
Trong tình hình đó, Lênin đã phân tích tình hình cụ thể, tiếp tục phát triển chủ
nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đề ra lý luận cách mạng vô sản có thể
thành công ở một số nước, đồng thời nêu lên nguyên lý về cách mạng giải phong dân
tộc thuộc địa, về sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản ở các nước đế quốc và các dân tộc
thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc.
Trong bôis cảnh chung của thế giới, Việt Nam cũng bị chi phối bởi những điều
kiện lịch sử đó, Vào giữa thế kỷ XIX, đế quốc Pháp nổ súng đánh chiếm nước ta.
Trước hành động của kẻ thù, chế độ phong kiến mà đại biểu là triều đình nhà Nguyễn
đã hèn nhát, dâng nước ta cho Pháp. Thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa, bóc
lột nhân dân ta. Dưới chế độ cai trị của đế quốc Pháp, xã hội Việt Nam có nhiều biến
đổi sâu sắc, Trước tình hình đó, phong traof yêu nước của nhân dân Việt Nam chống
Pháp phát triển mạnh mẽ theo hai khuynh hướng, khuynh hướng phong kiến và dân
chủ tư sản. Nhưng sau một thồi gian phát triển rầm rộ, các phong trào cũng nối tiếp
nhau tan rã trước sự đàn áp của thực dân Pháp.
Trong bối cảnh quốc tế và trong nước như vậy, giải phóng dân tộc là yêu cầu căn
bản của xã hội Việt Nam, là nguyện vọng thiết tha của dân tộc ta. Từ cuối thế kỷ XIX 2
đến đàu thế kỷ XX, sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam ở trong “Tình hình đen tối không có đường ra”.
Vượt qua sự hạn chế của lịch sử, cùng với những đòi hỏi cấp bách của cách mạng
Việt Nam lúc đó, Hồ Chí Minh đã tìm ra giải pháp mới cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc không chỉ ở Việt Nam mà cho cả các dân tộc thuộc địa.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, chứng kiến tận mắt Cuộc sống
lầm than của dân ta ta dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, bà và sự thất bại của phong
trào chống Pháp của các bậc tiền bối. Điều đó, giúp cho Người nhận rõ hơn bản chất
dã man của bọn thực dân và cũng làm cho anh sớm nhận thấy được sức mạnh đoàn kết
đấu tranh của nhân dân khi được tổ chức lại. Từ đó, Người suy nghĩ và cân nhắc đến
con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã quyết định chọn cho
mình hướng đi mới, đến các nước phương Tây, nơi của trào lưu “ tự do, bình đẳng,
bác ái” , để tìm cách mới rồi về giúp đồng bào mình.
Trước lúc ra đi tìm chân lý cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu truyền thống
yêu nước, đoàn kết của dân tộc, am hiểu vốn văn hóa phương Đông, một phần văn hóa
phương Tây. Đó là vốn quý, là cơ sở ở quan trọng để tiếp thu chân lý cách mạng, là
nhân tố đầu tiên của quá trình hình thành chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh
1.2 Thực tiễn quá trình bôn ba tìm đường cứu nước khắp các châu lục.
Trước bối cảnh thế giới đầy biến động và những đòi hỏi cấp bách của cách mạng
Việt Nam thì năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước, tìm bạn đồng
minh. Động cơ thúc đẩy anh ra đi là tìm một giải pháp mới cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc Việt Nam. Ý nghĩa này xuất hiện ở anh từ rất sớm: “ Khi tôi độ tuổi mười ba,
lần đầu tiên tôi được nghê ba chữ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Đối với chúng tôi,
người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thủa ấy, tôi rất
muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những
chữ ấy”. Đó là mục tiêu của người, muốn “trở về giúp đồng bào”, thì trước hết phải
hiểu đẩy đù kẻ thù đang áp bức dân tộc mình, nhất là từ trên mảnh đất đã sản sinh ra
nó. Đây là sự khác biệt giữa Hồ Chí Minh với những người sang Pháp hồi đó.
Trong khoảng thời gian từ năm 1911 - 1920 , trải qua quá trình gần 10 năm bôn
ba ở nhiều nước khác nhau , được chứng kiến tận mắt cuộc sống lâm than của nhân
dân ngay trên chính mảnh đất giàu có và ở ngay cả “ Mẫu quốc ” . Từ đó Người nhận
thức rõ hơn về bộ mặt thật của chủ nghĩa đế quốc , ở Pháp Người nhận ra rằng “ ở đó
cũng có những người nghèo như ở bên ta ” , và Người tự hỏi : “ Tại sao người Pháp
không “ khai hoá ” đồng bào của họ trước khi đi “ khai hoá ” chúng ta ” 2 . Những
nhận xét đó dẫn Người tới cảm nhận về lực lượng xã hội là bạn đồng minh của các dân
tộc thuộc địa , là cơ sở quan trọng trong việc hình thành tư tưởng về sự đoàn kết của
nhân dân Việt Nam, các nước thuộc địa với nhân dân lao động, giai cấp công dân Pháp
và các nước chính quốc trong đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. 3
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã dừng chân lâu ở
ba nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh, Pháp , có điều kiện tìm hiểu nghiên cứu
cuộc cách mạng Mỹ năm 1776, cuộc cách mạng Pháp năm 1789 và cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân. Tuy anh khâm phục ý
chí giành tự do của nhân dân Mỹ, khâm phục tinh thần đấu tranh của nhân dân Pháp,
nhưng, Người đã nhận xét ng : “ Cách mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ nghĩa là
cách mạng tư bản , cách mạng không đến nơi , tiếng là cộng hoà và dân chủ , kì thực
trong thi nó bóc lột công nhân , ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mạng bốn lần rồi
mà nay công nhân Pháp vẫn phải mu cầu cách mạng lần nữa , mới thoát khỏi vòng áp
bức làm cách mạng tư sản ”. Nhận xét đó của Nguyễn Ái Quốc xuất phát từ thực tiễn
khảo sát , nghiên cứu , từ lập trường giai cấp vô sản . Người đã đặt mình vào chỗ đứng
của giai cấp cần lao chiếm sổ đông ở khắp các châu lục đối lập với số ít bọn người bóc
lột tập trung ở chính quốc . Quá trình trải nghiệm thực tế lâu dài ở các nước Châu Á ,
Âu , Phi ... Người nhận thức sâu sắc bộ mặt thật và bản chất của chủ nghĩa tư bản , Hồ
Chí Minh nhấn mạnh : “ Chế độ thực dân là ăn cướp ” , “ là hiếp dân và giết người ”,
chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của nhân dân lao khổ trên toàn thế giới . Do đó ,
nhân dân các nước thuộc địa phải đoàn kết với nhau , tạo nên sức mạnh tổng hợp để
đánh bại kẻ thù chung . Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ
phận của cách mạng vô sản , giải phóng dân phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao
động , giải phóng giai cấp công nhân : “ Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải
phóng được dân tộc , cả hai cuộc giải phóng này chỉ Có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản và của cách mạng thế giới ”
Bên cạnh đó Người cũng nhận định rằng , “ dù màu da có khác nhau , trên thế
giới chỉ có hai giống người : giống người bóc lột và giống người bị bóc lột . Mà cũng
chỉ một tình hữu ái là thật mà thôi tình hữu ái vô sản ” . Đến đây , vấn đề bạn , thù ở
Nguyễn Ái Quốc đã được xác định dứt khoát , rằng áp bắc giai cấp và áp bức dân tộc
có chung một nguồn gốc là chủ nghĩa đế quốc
Như vậy , cuộc hành trình gần mười năm khắp các châu lục là cơ sở thực tiễn
quan trọng trong quá trình hình thành chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh.
Trong quá trình đi tới các châu lục tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc , có
một sự kiện nổi bật, đó là thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.
Nhưng thời gian này Người đang sống và hoạt động ở Pháp, bọn đế quốc bng bít tin
tức , cho nên nhiều người bạn Pháp, Anh chưa biết rõ và càng chưa hiểu được ý nghĩa
thời đại của cuộc cách mạng ấy. Nhưng với sự nhạy bén chính trị và nhiệt tình giai cấp
, Nguyễn Ái Quốc biết đó là cuộc cách mạng tiến bộ , cuộc cách mạng của số đông
người lao động và Người có ý định đi sang Nga , mặc dù lúc đó chưa hiểu biết ý nghĩa
cực kỳ to lớn của cách mạng Ngay. Chỉ thông qua những hoạt động thực tiễn , Người
mới có nhận thức “ cảm tính ” về Cách mạng Tháng Mười Nga, về nước Nga Xô viết
và về Lênin, ngày càng được củng cố và nâng cao. 4
Tham gia vào những hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc tìm thấy vũ khí sắc
bén để đấu tranh, đó là viết bào, tham gia các buổi mít tinh, thảo luận. Trong đó,
Người đều đề cập đến vấn đề đoàn kết quốc tế. Người nói : “ Trong các cuộc bàn cãi ,
người ta rất ít nói đến sự đoàn kết với các dân tộc thuộc địa . Nhưng đó lại là vấn đề
mà người ta quan tâm hơn cả ”
2. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế. 2.1.
Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng.

Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của thế giới, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới. Cùng với quá trình phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong quan
hệ với tình hình quốc tế, tư tưởng đoàn kết đã được Hồ Chí Minh phát triển ngày càng
đầy đủ rõ ràng và cụ thể hơn.
Đối tượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn. Đó là đoàn
kết với phong trao đấu tranh giải phong dân tộc, phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và ở các nước tư bản chủ nghĩa nói
chung; đoàn kết với nước Nga Xô viết, với Liên Xô và sau này mở rộng tất cả các
nước xã hội chủ nghĩa; đoàn kết đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội của nhân dân thế giới; đặc biệt là nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, hai
nước cùng cảnh ngộ với Việt Nam trên bán đảo Đông Dương đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc thực dân dành độc lập tự do và hạnh phúc cho nhân dân mỗi nước. 2.2.
Thực hiện đoàn kết quốc tế, nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới
thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại.

Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với
đoàn kết quốc tế; thực hiện đoàn kết quốc tế không chỉ vì thắng lợi của cách mạng mỗi
nước mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong quộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời đại.
- Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì
mục tiêu chung, các đảng cộng sản phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng sai lầm
của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sôvanh… những khuynh
hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất các lực lượng cách mạng thế giới.
Nói cách khác, các đảng cộng sản phải tiến hành có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa
yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt
chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản là nhằm góp phần cùng nhân dân
thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời đại. Bởi lẽ, 5
chúng ta không chỉ chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước mình mà còn vì độc lập, tự
do của các nước khác, không chỉ bảo vệ lợi ích sống còn của dân tộc mình mà còn vì
những mục tiêu cao cả của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội. Để thực hiện được mục tiêu đó, phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu
hiện của chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chống lại chủ nghĩa sôvanh và mọi thứ chủ nghĩa cơ hội khác.
3. Lực lượng đoàn kết và các hình thức tổ chức. 3.1.
Các lực lượng cần đoàn kết.
Lực lượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: Phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào
hoà bình, dân chủ thế giới, trước hết là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các
nước đang xâm lược Việt Nam.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân thế giới, Hồ Chí Minh cho rằng, sự
đoàn kết giữa giai cấp vô sản quốc tế là một bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của chủ
nghĩa cộng sản. Chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa các đảng
cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai cấp
vô sản trong thời đại ngày nay. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa tư bản là một lực
lượng phản động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Trong
hoàn cảnh đó, chỉ có sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ lẫn
nhau của lao động toàn thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em” mới
có thể chống lại được những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Đối với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hoà bình, dân chủ, tự do
và công lý, Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết. Trong xu thế mới
của thời đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn liền với sự thức tỉnh giai cấp, Hồ Chí Minh đã
gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hòa bình, tự do, công lý
và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Gắn cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc với mục tiêu hòa bình, tự do và công lý,
Hồ Chí Minh đã khơi gợi lương tri của loài người tiến bộ tạo nên những tiếng nói ủng
hộ mạnh mẽ của các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng con người trên
hành tinh. Thật hiếm có những cuộc đấu tranh giành được sự đồng tình, ủng hộ rộng
rãi và lớn lao như vậy. Đã nhiều lần, Hồ Chí Minh khẳng định: Chính vì đã biết kết
hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân
và của các dân tộc bị áp bức, mà Đảng đã vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp
công nhân và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ vang như ngày nay. 3.2.
Hình thức tổ chức.
Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề sách lược, một
thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính nguyên tắc, một đòi hỏi khách quan
của cách mạng Việt Nam. Từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành
lập “Mặt trận thống nhất của nhân dân chính quốc và thuộc địa” chống chủ nghĩa đế 6
quốc, đồng thời kiến nghị Quốc tế Cộng sản cần có giải pháp cụ thể để quan điểm này trở thành sự thật.
Đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc
biệt. Cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi của nhau, có nhiều điểm tương đồng về
lịch sử, văn hoá và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp. Năm 1941, để khơi dậy
sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, theo đúng quan điểm của Hồ Chí Minh
về tập hợp lực lượng cách mạng, Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh ; giúp
Lào và Campuchia lập mặt trận yêu nước. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc hình thành Mặt trận nhân dân ba nước Đông Dương.
Hồ Chí Minh chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, hợp tác nhiều mặt
theo tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em” với Trung Quốc, nước láng giềng có
quan hệ lịch sử văn hoá lâu đời với Việt Nam; thực hiện đoàn kết với các dân tộc châu
Á và châu Phi đấu tranh giành độc lập. Với các dân tộc châu Á, Người chỉ rõ, các dân
tộc châu Á có độc lập thì nền hoà bình thế giới mới thực hiện. Vận mệnh dân tộc châu
Á có quan hệ mật thiết với vận mệnh dân tộc Việt Nam. Do vậy, từ những năm 20 của
thế kỷ XX, cùng với việc sáng lậpHội Liên hiệp thuộc địa tại Pháp, Hồ Chí Minh đã
tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức tại Trung Quốc. Đây là hình
thức sơ khai của mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức theo xu hướng vô sản, lần
đầu tiên xuất hiện trong lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Với việc tham
gia sáng lập các tổ chức này, Hồ Chí Minh đã góp phần đặt cơ sở cho sự ra đời của mặt
trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam.
Những năm đấu tranh giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh tìm mọi cách xây dựng
các quan hệ với mặt trận dân chủ và lực lượng đồng minh chống phátxít, nhằm tạo thế
cho cách mạng Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, bằng hoạt
động ngoại giao không mệt mỏi, Hồ Chí Minh đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa,
của bạn bè quốc tế và nhân loại tiến bộ, trong đó có cả nhân dân Pháp trong kháng
chiến chống Pháp và cả nhân dân Mỹ trong kháng chiến chống Mỹ, hình thành mặt
trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Như vậy, tư tưởng đoàn kết vì thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã định hướng
cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn
kết Việt - Miên - Lào; Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam; Mặt trận nhân
dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát
triển rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết.
4. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế. 4.1.
Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên 7
nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình. Là một
chiến sĩ cách mạng quốc tế kiên định, Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu tranh cho sự
nghiệp củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong cách mạng thế giới, trước hết là phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, lực lượng tiên phong của cách mạng thế giới trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập, tự do
và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Hồ Chí Minh không chỉ suốt đời đấu tranh cho
độc lập, tự do của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập, tự do cho các dân tộc
khác. Trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, Hồ Chí Minh thực hiện
nhất quán quan điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế
giới, đồng thời mong muốn các quốc gia, dân tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu
nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đó.
. Đối với các dân tộc tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hoà
bình, chống chiến tranh xâm lược. Tư tưởng đó bắt nguồn từ truyền thống hoà hiếu của
dân tộc Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản và những giá trị nhân văn
nhân loại. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ hoà bình,
đấu tranh cho hoà bình, một nền hoà bình thật sự cho tất cả các dân tộc - “hoà bình
trong độc lập tự do”.Nền hòa bình đó không phải là một nền hoà bình trừu tượng, mà
là “một nền hoà bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân chủ”, chống chiến
tranh xâm lược vì các quyền dân tộc cơ bản của các quốc gia. 4.2.
Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường.
Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng
quốc tế nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách
mạng đã đặt ra. Để đoàn kết tốt phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết định, còn
nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Chính
vì vậy, trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: “Tự lực cánh
sinh, dựa vào sức mình là chính”, “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự
giúp lấy mình đã”. Trong đấu tranh giành chính quyền, Người chủ trương “đem sức ta
mà tự giải phóng cho ta”. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người chỉ rõ: “Một
dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng
đáng được độc lập”. Trong quan hệ quốc tế, Người nhấn mạnh: phải có thực lực, thực
lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn...
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường
lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Trả lời một phóng viên nước ngoài, Người nói: “Độc
lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can
thiệp ở ngoài vào” 12 1 . Trong quan hệ giữa các Đảng thuộc phong trào cộng sản, 8
công nhân quốc tế, Người xác định: “Các Đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và bình
đẳng, đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”. II. Vận dụng
1. Lợi ích của việc thúc đẩy hợp tác quốc tế trong phòng, chống dịch Covid 19. 1.1.
Tăng cường đoàn kết quốc tế, hợp tác đa phương.
Trong bài phát biểu tại Phiên thảo luận mở cấp cao trực tuyến của Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc với chủ đề "Ðại dịch và các thách thức đối với hòa bình bền vững",
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh nhấn mạnh vai trò quan trọng
của các tổ chức khu vực cũng như vai trò trung tâm của Liên hợp quốc và Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO) trong cuộc chiến chống COVID-19; các cam kết của Việt Nam và
kêu gọi tăng cường hợp tác, đoàn kết quốc tế cùng ứng phó thành công đại dịch.
Thực tế cho thấy, ngay từ những ngày đầu tiên cũng như giai đoạn căng thẳng nhất
khi đại dịch bùng phát trên toàn cầu (cuối năm 2019-đầu năm 2020), Việt Nam đã chủ
động, trách nhiệm, chia sẻ khó khăn và đóng góp thiết thực vào nỗ lực chống lại đại
dịch. Trong khả năng của mình, Việt Nam đã và đang sẵn sàng cung cấp các vật tư,
thiết bị y tế "Made in Viet Nam".
Với tinh thần quốc tế cao cả được kế thừa từ truyền thống lịch sử, Chính phủ và
nhân dân Việt Nam mặc dù đang còn nhiều khó khăn, nhưng đã có nhiều hoạt động hỗ
trợ, hợp tác, chia sẻ với 20 quốc gia, tổ chức quốc tế. Thực hiện phương châm "Giúp
bạn là tự giúp mình", Việt Nam đã tặng "hai nước Lào, Campuchia các trang thiết bị y
tế gồm quần áo bảo hộ, khẩu trang y tế, khẩu trang kháng khuẩn, hệ thống xét nghiệm
cùng bộ xét nghiệm virus SARS-CoV-2, trị giá hơn 7 tỷ đồng cho mỗi nước"; tặng
Indonesia 500 dụng cụ xét nghiệm, Myanmar 50.000 USD để chung sức phòng,
chống COVID-19; dành tặng Đảng, Nhà nước và nhân dân Cuba 5.000 tấn gạo.
Ngay khi dịch COVID-19 diễn biến phức tạp tại Trung Quốc, Việt Nam đã tặng
Trung Quốc vật tư, trang thiết bị y tế gồm máy thở, quần áo sát khuẩn, găng tay, khẩu
trang y tế với tổng trị giá 500.000 USD. Hội Chữ thập đỏ Việt Nam vận động các tổ
chức, cá nhân quyên góp hỗ trợ nhân dân Trung Quốc số vật tư y tế trị giá 100.000
USD để phòng, chống dịch.
Đối với các đối tác chiến lược, bạn bè truyền thống, Việt Nam đã dành một phần
nguồn lực của mình giúp đỡ Chính phủ các nước Nhật Bản, Nga, Pháp, Đức, Italy, Tây
Ban Nha và Anh, Hoa Kỳ, Thụy Điển… phòng, chống dịch COVID-19. Số hàng hỗ trợ
gồm khẩu trang, vải kháng khuẩn chống giọt bắn, quần áo bảo hộ DuPont do Việt Nam
tự sản xuất, giúp các nước có thêm phương tiện bảo vệ sức khỏe cho người dân. Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc tặng Văn phòng Tổng thống Liên bang Nga, Văn phòng Nội
các Nhật Bản, Văn phòng Nhà Trắng (Hoa Kỳ) mỗi nơi 50.000 khẩu trang y tế. 9
"Tôi muốn bày tỏ lòng cảm ơn chân thành vì sự ủng hộ của Chính phủ và nhân
dân Việt Nam trong cuộc chiến chống lại sự lây lan của dịch COVID-19 ở Italy. Trong
thời điểm nhiều thách thức này, tinh thần đoàn kết rộng mở đã được thể hiện ở nhiều
cấp độ bởi Chính phủ và các tổ chức xã hội và là minh chứng cho mối quan hệ sâu sắc
giữa hai nước chúng ta", Ngoại trưởng Italy Luigi Di Maio viết trong thư cảm ơn
Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã hỗ trợ nước này trong cuộc chiến chống COVID-
19. Ngoại trưởng Italy nhấn mạnh: "Người dân Italy sẽ luôn ghi nhớ sự nghĩa hiệp và
tinh thần đoàn kết mà Việt Nam đã thể hiện trong lúc cần thiết. Cùng đoàn kết, chúng
ta sát cánh bên nhau. Cùng đoàn kết, chúng ta sẽ thành công".
Bên cạnh đó bạn bè quốc tế cũng đã hỗ trợ Việt Nam rất nhiều trong công tác
phòng chống dịch. Tính đến nay, Nhật Bản đã hỗ trợ 200 triệu yen cho Việt Nam (1,9
triệu USD thông qua Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc - UNICEF) nhằm cung cấp trang
thiết bị và hỗ trợ nâng cao năng lực liên quan tới dây chuyền lạnh cần thiết trong việc
bảo quản và vận chuyển vắc xin.
Bản thân Nhật Bản cũng thông báo đóng góp tổng cộng 200 triệu USD cho cơ chế
tiếp cận công bằng với vắc xin COVID-19 trên toàn cầu, mà Việt Nam là một trong
các quốc gia hưởng lợi.
Tương tự, hồi tháng 4 vừa qua, Úc và UNICEF cũng công bố chương trình đối tác
trị giá 13,5 triệu đôla Úc (AUD, tương đương 10 triệu USD) nhằm hỗ trợ công tác
chuẩn bị và thực hiện chương trình tiêm chủng COVID-19 của Việt Nam.
Vào cuối tháng 5, Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) đã cung cấp
hơn 1.500 bộ sinh phẩm xét nghiệm RT PCR cho Bộ Y tế Việt Nam, nhằm hỗ trợ nỗ
lực xét nghiệm khẩn cấp tại các điểm bùng phát dịch.
Những bộ sinh phẩm xét nghiệm này được sản xuất tại Việt Nam theo tiêu chuẩn
kỹ thuật của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), và được mua sắm với nguồn kinh phí do
Quỹ JSB của Nhật Bản và nhóm sản xuất Ghen CoVy tài trợ.
Về vấn đề xét nghiệm COVID-19 bằng công nghệ PCR cũng như điều trị bệnh
này, Nhật Bản cũng là bên tiếp tục hỗ trợ Việt Nam bằng việc hợp tác kỹ thuật thông
qua Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA). 1.2.
Chia sẻ thông tin, kinh nghiệm chống dịch và cung ứng vaccine COVID-19.
Trong cuộc chiến chống lại đại dịch toàn cầu, Việt Nam xác định không thể "tự
đốt đuốc, dò đường" đi một mình mà cần phải có sự chia sẻ, phối hợp, cập nhật thông
tin, kinh nghiệm chống dịch, kết quả nghiên cứu vaccine với các nước trên thế giới.
Trên tinh thần đó, Việt Nam đã cùng các nước như Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Pháp, Ấn Độ, Australia, New Zealand… tiến hành nhiều cuộc điện đàm ở các
cấp khác nhau, với số lượng kỷ lục chưa từng có trong hoạt động ngoại giao của nước 10
ta. Trong đó, Việt Nam cùng các nước tập trung cập nhật tình hình dịch bệnh trong
nước, tại khu vực và trên thế giới; chia sẻ kinh nghiệm và biện pháp phòng, chống dịch
bệnh cũng như các hình thức hợp tác hiệu quả trong công tác bảo hộ công dân, cung
ứng trang thiết bị y tế, phối hợp trong các hình thức viện trợ nhân đạo, duy trì giao
thông và giao thương cũng như việc tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mở cửa và hồi
phục nền kinh tế hậu COVID-19.
Tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao, Người Phát ngôn Lê Thị Thu
Hằng cho biết, bên cạnh công tác phòng, chống dịch bệnh, Chính phủ Việt Nam hết
sức quan tâm và luôn chỉ đạo các cơ quan chức năng liên quan khẩn trương thực hiện
các nghiên cứu để sản xuất vaccine trong nước, đồng thời đẩy mạnh phối hợp với các
công ty, các đối tác sản xuất và cung cấp vaccine có uy tín trên thế giới nhằm có
vaccine COVID-19 trong thời gian sớm nhất. Hiện nay, Việt Nam vẫn thường xuyên
trao đổi, cập nhật tình hình với các đối tác, mong muốn sớm có vaccine, thuốc và phác
đồ điều trị, tiến tới kiểm soát và đẩy lùi dịch bệnh nguy hiểm này.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang xây dựng các chính sách và quy định để hỗ trợ
việc tiếp nhận, vận chuyển, bảo quản, phân phối và sử dụng vaccine được thực hiện
một cách nhanh chóng ngay khi có vaccine COVID-19.
Trước đó, vào tháng 4, trong cuộc cuộc điện đàm lần thứ 3 với lãnh đạo ngoại giao
các nước Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và New Zealand về tình
hình dịch COVID-19, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn đã
đề nghị Chính phủ các nước tiếp tục có các cam kết chính trị để bảo đảm rằng các
nước được tiếp cận và đáp ứng nhu cầu sử dụng vaccine và thuốc chữa trị COVID-19
nếu nghiên cứu thành công.
Trong vai trò là nước Chủ tịch ASEAN 2020, Ủy viên không thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam đã đề xuất nhiều ý tưởng, sáng kiến trong
khuôn khổ Liên hợp quốc và tích cực phối hợp với các quốc gia thành viên khác thảo
luận, thông qua nhiều Nghị quyết, văn kiện nhằm tăng cường hợp tác quốc tế trong
ứng phó với COVID-19; kêu gọi chấm dứt các hành vi cường quyền, đơn phương trái
với luật pháp quốc tế; ủng hộ lời kêu gọi của Tổng Thư ký Liên hợp quốc về ngừng
bắn trên toàn cầu và gỡ bỏ các biện pháp trừng phạt làm suy yếu khả năng ứng phó với
đại dịch của các quốc gia.
Đặc biệt, ngày 7/12/2020, tại phiên họp toàn thể ở New York (Hoa Kỳ), Đại hội
đồng Liên hợp quốc khóa 75 đã thông qua bằng đồng thuận Nghị quyết do Việt Nam
chủ trì đề xuất, thương lượng và thúc đẩy thông qua, lấy ngày 27/12 hàng năm là
"Ngày Quốc tế sẵn sàng chống dịch bệnh". Đề xuất của Việt Nam đã được 5 nước
tham gia đồng tác giả (Canada, Niger, Saint Vincent & Grenadines, Senegal, Tây Ban
Nha) và 107 nước đồng bảo trợ.
Theo Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Hoài Trung, việc Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua Nghị quyết này có ý nghĩa rất quan trọng khi đây là lần đầu tiên Việt Nam 11
chủ trì đề xuất thương lượng và thúc đẩy thông qua thành công một nghị quyết tại Đại
hội đồng Liên hợp quốc, thể hiện vai trò, vị thế của Việt Nam trong việc tham gia có
trách nhiệm vào công việc chung của Liên hợp quốc và thúc đẩy các vấn đề mà cộng đồng quốc tế quan tâm.
Đây cũng là Nghị quyết đầu tiên của Đại hội đồng về chủ đề này trong bối cảnh
đại dịch COVID-19 đang tiếp tục diễn biến phức tạp, tác động sâu rộng tới mọi mặt
của đời sống chính trị-an ninh, kinh tế-xã hội của tất cả các quốc gia, đồng thời sẽ góp
phần nâng cao nhận thức của tất cả các quốc gia, người dân và cộng đồng quốc tế cũng
như tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng chống, ứng phó với các loại dịch bệnh,
trong đó có đại dịch COVID-19 1.3.
Nâng cao sức kháng cự, thích ứng của nền kinh tế quốc gia, thực hiện mục tiêu kép.
Đại dịch COVID-19 với tốc độ lây lan rất nhanh, diễn biến khó lường và mức độ
nguy hiểm chưa từng có trong lịch sử đã tác động mạnh mẽ, toàn diện và sâu rộng đến
mọi mặt của đời sống kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Ví dụ rõ ràng nhất là sụt
giảm đột ngột tăng trưởng GDP của Việt Nam từ 7% năm 2019, xuống còn ước đạt trên 2%.
Trong bối cảnh đó, ngoại giao Việt Nam xác định thực hiện "mục tiêu kép" vừa
đẩy lùi dịch bệnh vừa phát triển kinh tế là mục tiêu mà tất cả các nước bị tác động của
đại dịch Covid đặt ra, điểm chung nhất là tập trung sớm khống chế được dịch và từng
bước mở cửa nền kinh tế. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện của mỗi nước mà bước đi và
giải pháp cụ thể khác nhau. Nhưng thực tiễn của nhiều nước và cả của Việt Nam cho
thấy, nếu khống chế dịch không chắc chắn, chủ quan và vội vã mở cửa nền kinh tế
(như du lịch, dịch vụ lưu trú, giao thông công cộng, dịch vụ ẩm thực công cộng…) thì
dịch sẽ bùng phát trở lại; khi đó cái giá phải trả sẽ rất đắt. Trên thực tế, xét về bản chất,
các giải pháp không chế dịch mâu thuẫn với mở cửa và phát triển kinh tế; việc lựa
chọn các giải pháp để đồng thời đáp ứng “mục tiêu kép” này là không dễ dàng, phải có
sự ưu tiên trong từng bối cảnh cụ thể. Có thể khái quát thành ba giai đoạn sau :
- Giai đoạn một : Chống dịch và đảm bảo các hoạt động kinh tế thiết yếu trong khi
dịch vẫn đang bùng phát.
- Giai đoạn hai : Về cơ bản đã khống chế được dịch ở trong nước; nhưng dịch ở
các nước đối tác kinh tế chủ yếu vẫn đang tác động và chưa khống chế được chắc chắn.
- Giai đoạn ba : đã dập tắt được dịch trong nước và các nước đối tác kinh tế đã
khống chế và đẩy lui được dịch.
Tương quan giữa các giải pháp chống dịch và giải pháp đảm bảo các hoạt động
kinh tế trong giai đoạn một là phải ưu tiên cao hơn các giải pháp chống dịch, dù phải
chịu thiệt hại về kinh tế, mục đích là sớm khống chế và đẩy lui được dịch. Sang giai 12
đoạn hai, vẫn phải rất coi trọng các giải pháp chống dịch, song từng bước mở cửa trở
lại nền kinh tế với các điều kiện và giải pháp đi kèm đảm bảo chống dịch hiệu quả,
không để dịch lây lan trở lại; trong trường hợp dịch bùng phát trở lại cần thực hiện
ngay các giải pháp đồng bộ để truy vết, khoanh vùng, không chế và dập tắt theo khu
vực, không để lan rộng. Gian đoạn 3, đẩy mạnh hơn các giải pháp phục hồi nền kinh tế
trong nước; từng bước mở cửa hoạt động kinh tế với nước ngoài; song, do chưa có
vacxin và thuốc đặc hiệu chống Covid, nên vẫn phải thực hiện các giải pháp kiểm soát
chặt chẽ bệnh dịch và chống lây nhiễm dịch, nhất là từ nước ngoài, làm cơ sở cho việc
thực hiện các giải pháp phục hồi và phát triển kinh tế hiệu quả, bền vững.
Trên bình diện chung của thế giới cũng như ở Việt Nam thường sử dụng hai gói hỗ
trợ chủ yếu để khắc phục các tác động tiêu cực của đại dịch Covid - 19 : gói hỗ trợ an
sinh xã hội (cho các đối tượng bị mất hoặc giảm việc làm, giảm mạnh thu nhập, các
đối tượng nghèo, đối tượng yếu thế…), và gói hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các chủ
thể sản xuất kinh doanh khác bị dừng, giảm sản xuất kinh doanh, hay bị phá sản. Tuy
nhiên, mục tiêu, quy mô, phạm vi, đối tượng hỗ trợ của các nước cũng khác nhau. Có
hai phương thưc hỗ trợ: hỗ trợ mang tính chất bình quân và hỗ trợ có trọng tâm, trọng
điểm. Một vấn đề đặt ra là sự tác động của đại dịch Covid đối với các loại doanh
nghiệp là khác nhau, và vai trò của các loại doanh nghiệp đối với sự phục hồi và tái
cấu trúc nền kinh tế “hậu Covid” cũng khác nhau; có những doanh nghiệp không hoặc
ít có có hội phục hồi, hoặc phục hồi rồi nhưng tác động thúc đẩy đổi mới và phát triển
“hậu Covid” kém, thì sự hỗ trợ từ phía nhà nước và các nguồn lực khác để phục hồi
loại doanh nghiệp này theo hướng cũ là không hiệu quả; cần hỗ trợ cao hơn cho các
loại doanh nghiệp có khả năng phục hồi và thúc đẩy cơ cấu lại - đổi mới sản xuất kinh
doanh. Cần nhất quán quan điểm: tác động của đại dịch Covid còn là cơ hội để cơ cấu
lại nền kinh tế, hệ thống doanh nghiệp theo hướng hiện đại, hiệu quả hơn. Vì vậy, cần
phải nghiên cứu kỹ lưỡng vai trò và tác động thực tế của các loại doanh nghiệp (doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp lớn, doanh
nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế hộ gia đình) trong từng lĩnh vực để có cơ chế, chính sách
hỗ trợ phù hợp, nhất là việc giữ lại lao động và thị trường để tạo cơ sở cho bước phát triển “hậu Covid”.
Bên cạnh phòng chống dịch hiệu quả, Chính phủ nhất quán chủ trương đẩy mạnh
phát triển kinh tế-xã hội để củng cố nền tảng, nâng cao sức kháng chịu và thích ứng của nền kinh tế.
Với chủ trương này, Việt Nam đã và đang triển khai đồng bộ nhiều chính sách,
biện pháp, phối hợp quốc tế nhằm phục hồi kinh tế trong và sau khủng hoảng COVID-
19 như: bảo đảm duy trì chuỗi cung ứng, giao thương hàng hóa, dịch vụ trong nước
cũng như giữa Việt Nam với bên ngoài; tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư
kinh doanh, cắt giảm thủ tục, chi phí cho doanh nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng,
logistics…; tích cực triển khai các hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác;
hỗ trợ các doanh nghiệp, nhà đầu tư tháo gỡ khó khăn do dịch COVID-19 gây ra để 13
tiếp tục triển khai các dự án đầu tư tại Việt Nam, trong đó tạo điều kiện cho chuyên
gia, lao động trình độ cao vào Việt Nam làm việc nhưng vẫn bảo đảm phòng chống dịch.
Trên cương vị Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam đã cùng các nước thành viên nhất
trí nhiều sáng kiến và hợp tác ứng phó COVID-19 như: Quỹ ASEAN ứng phó
COVID-19; kho dự phòng vật tư y tế khẩn cấp khu vực; khung chiến lược ứng phó các
tình huống y tế khẩn cấp của ASEAN và trung tâm y tế ASEAN ứng phó với các tình
huống y tế công cộng khẩn cấp và dịch bệnh mới nổi; Khung phục hồi tổng thể
ASEAN và Kế hoạch triển khai đồng bộ trên cả 3 trụ cột của Cộng đồng nhằm hỗ trợ
người dân và doanh nghiệp sớm khắc phục hậu quả dịch bệnh, ổn định đời sống.
Bên cạnh đó, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 37 và các hội nghị cấp cao liên
quan, Lễ ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) giữa 15 nền
kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, góp phần hỗ trợ quá trình phục hồi kinh tế sau đại
dịch COVID-19 và đem lại thịnh vượng chung cho người dân, doanh nghiệp của tất cả các nước thành viên.
Với những nỗ lực và thành quả đã đạt được trên mặt trận ngoại giao, hợp tác quốc
tế phòng, chống đại dịch COVID-19, Việt Nam tin tưởng, trước thách thức nghiêm
trọng nhất kể từ khi thành lập Liên hợp quốc, cộng đồng quốc tế sẽ phát huy ý chí và
sức mạnh của mỗi dân tộc, cũng như tinh thần đoàn kết, hợp tác quốc tế mạnh mẽ để
cùng nhau vượt qua đại dịch COVID-19 và xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho
mỗi quốc gia và mọi người dân. 14 KẾT LUẬN
Chiến lược đoàn kết quốc tế là một bộ phận quan trọng của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đã có nhiều người trong nước và trên thế giới nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ
những tư tưởng và giá trị nhân văn vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó tư
tưởng về đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế được khẳng định là nội dung thống nhất và
đặc sắc trong suốt cả cuộc đời hoạt động của người. Trong thực tế, chiến lược đoàn kết
quốc tế đã trở thành tài sản tinh thần quý giá của Đảng ta, dân tộc ta và nhân loại tiến
bộ trong thời đại ngày nay.
Thế giới ngày nay đã có những thay đổi to lớn song vẫn chưa mất đi bất công và
bạo lực. Các nước đang thực thi những thủ đoạn tinh vi, dùng sức mạnh tài chính,
thương mại, công nghệ, những phương tiện thông tin đại chúng cực mạnh để chi phối
về chính trị , xâm nhập về kinh tế, văn hoá, tư tưởng đối với đa số các nước phát triển
và các nước nghèo. Độc lập dân tộc thực sự, tự do dân chủ cho nhân dân, công bằng,
hạnh phúc cho mọi người, hoà bình hữu nghị cho các dân tộc còn đang là mục tiêu của
loài người. Không có con đường nào khác là các nước phải đoàn kết dân tộc thành một
khối vững chắc và đoàn kết với tất cả các nước trên thế giới, vừa đấu tranh cho mục
tiêu trên, vừa mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu những thành tựu khoa học và văn hoá
của nền văn minh trí tuệ. Đồng thời khẳng định những quyền dân tộc cơ bản của mình,
giữ gìn bản sắc và cốt cách tốt đẹp của dân tộc mình. Là cầu nối tình đoàn kết, hữu
nghị giữa các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh cất cao tiếng nói đoàn kết hữu nghị
giữa các dân tộc, nhân dân các nước trên thế giới đều coi Người là vị lãnh tự vĩ đại của
mình, thực hiện chiến lược đoàn kết quốc tế, Người đã gieo hạt giống đoàn kết và giải
phóng khắp thế giới, là hiện thân của tình đoàn kết giữa các dân tộc.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình quốc tế và trong nước hiện nay có những
chuyển biến nhanh chóng và sâu sắc, đặt ra những điều kiện mới đối hỏi phải biết vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoán kết quốc tế cho phu Chợp. Cần làm rõ đoàn kết
để hiện mục tiêu cách mạng giai đoạn hiện nay là xây dựng “ dân giau , nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh ” ; Mơ cửa, hội nhập quốc tế, là bạn của tất cả các
nước, phấn đấu vì hòa bình, tích cực tham gia vào giải quyết những vấn đề toàn cầu
hiện nay, Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế để đẩy nhanh công nghiệp
hóa, hiện đại hoa đất nước, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới; Xây dựng
đang trong sạch và vững mạnh là hạt nhân cốt lõi đoạn kết quốc tế và đoàn kết dân tộc.
Nhưng quan điểm cơ bản cùng những giá trị thực tiễn của chiến lược đoán kết
quốc tế của Hồ Chí Minh là những bài học rất sâu sắc cần được nhận thức và vận dụng
một cách sáng tạo, phù hợp với cách mạng Việt Nam và thế giới tiến bộ trong giai đoạn hiện nay . 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu môn học tư tưởng Hồ Chí Minh trường Đại Học Điện Lực.
2. Lê Văn Yên: Hồ Chí Minh với chiến lược đoàn kết quốc tế trong cách mạng
giải phóng dân tộc, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. 3. Báo dân tộc.vn 4. Ncov.moh.gov.vn
5. Trang thông tin điện tử hộ đồng lý luận trung ương. 16