


















Preview text:
lOMoAR cPSD| 23136115
VAI TRÒ CỦA NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA TRONG SỰ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN ĐỒNG BỘ CÁC LOẠI THỊ TRƯỜNG Phần mở đầu
1. Sự cần thiết của đề tài
Sản xuất hàng hoá đã từng tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế - xã hội .Trong
các hình thái xã hội trước Chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hoá chưa phát triển. Đến
thời kỳ Tư bản chủ nghĩa, nó đã phát triển tới đỉnh cao nhất, trở thành quan hệ
thống trị, phổ biển trong xã hội.
Cho đến xã hội xã hội chủ nghĩa, sản xuất hàng hoá vẫn còn, quy luật giá trị - quy
luật kinh tế của sản xuất hàng hoá vẫn còn hoạt động, mặc dù mục đích của sản
xuất xã hội chủ nghĩa là nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá của mọi thành
viên trong xã hội, chứ không phải để buôn bán nhằm thu lợi nhuận.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sản xuất hàng hóa được
ví như một mắt xích quan trọng trong guồng máy của nền kinh tế, đóng vai trò quan
trọng, nhất là trong xu thế hội nhập và phát triển như hiện nay, không những góp
phần đắc lực vào quá trình thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển mà còn mở rộng
quan hệ giao lưu, hợp tác quốc tế về lĩnh vực khác.
Trong thời đại nền kinh tế mở và cạnh tranh như hiện nay, mỗi quốc gia phải tìm
ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện kinh tế, hoàn cảnh đất
nước. Chính vì vậy, nghiên cứu về vai trò của nền sản xuất hàng hóa trong thị trường
là đặc biệt quan trọng.
Đề tài này nghiên cứu lý luận và thực tiễn về “Vai trò của nền sản xuất hàng hóa
trong sự tăng trưởng kinh tế và phát triển đồng bộ các loại thị trường” để từ đó
tìm ra những kết luận mới phục vụ cho nền kinh tế đất nước.
2. Đối tượng nghiên cứu
Nền sản xuất hàng hóa trong sự tăng trưởng kinh tế và phát triển đồng bộ các loại thị trường. 3. Phạm vi nghiên cứu
Nền sản xuất hàng hóa ở thị trường Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp thu thập, nghiên cứu tài liệu Phương pháp thống kê, tổng hợp
Phương pháp phân tích, đánh giá, so sánh lOMoAR cPSD| 23136115
5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và tài liệu tham khảo thì đề tài gồm có ba chương:
Chương 1: Khái quát lý luận về nền sản xuất hàng hóa và thị trường
Chương 2: Vai trò và tác dụng của tiến trình đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa
Chương 3: Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của nền sản xuất hàng hóa.
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VỀ NỀN SẢN XUẤT HÀNG
HÓA VÀ THỊ TRƯỜNG
1.1 Nền sản xuất hàng hóa
Lịch sử phát triển của nền sản xuất đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế,
đó là sản xuất tự cung tự cấp và sản xuất hàng hóa.
Hàng hóa: Hàng hóa là sản phẩm của người lao động có thể thỏa mãn nhu cầu
nào đó của con người và dùng để trao đổi với nhau.
Sản xuất hàng hóa: Là sản xuất ra sản phẩm để bán. Hay nói cách khác, sản xuất
hàng hóa là cách thức tổ chức sản xuất mà trong đó, sản phẩm làm ra không phải
để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác thông qua trao đổi, mua bán.
*Sản xuất hàng hóa ra đời, tồn tại dựa trên hai điều kiện:
Thứ nhất: Phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động
xã hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.Do sự phân công lao
động xã hội nên việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu.
Khi có phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc một vài thứ
sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi họ phải có nhiều loại
sản phẩm khác nhau, do đó, họ cần đến sản phẩm của nhau, buộc phải trao đổi với nhau.
Phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất đồng thời làm cho năng suất
lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao đổi sản phẩm.
Thứ hai: Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất lOMoAR cPSD| 23136115
Những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với
nhau. Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế, người
này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất: Sự tách biệt
này là do quan hệ sở hữu khác nhau và sự phát triển xã hội hóa khác nhau về tư
liệu sản xuất quy định. Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ và do
họ chi phối, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán.
Đó là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa, nếu thiếu một trong hai
điều kiện thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hóa.
* So với sản xuất tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hóa có những ưu thế hơn hẳn:
a.Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội, chuyên môn
hóa sản xuất. Do đó, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kĩ thuật
của từng người, từng cơ sở sản xuất cũng như từng vùng, từng địa phương.
Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại có tác động trở lại, thúc đẩy
sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hóa lao động
ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc.
Từ đó, nó phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi
địa phương làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của
xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa mở rộng giữa
các quốc gia, thì nó còn khai thác được lợi thế của các quốc gia với nhau. b.
Trong nền sản xuất hàng hóa, qui mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nhu
cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi
vùng, mỗi địa phương, mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn
lực của xã hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng những thành
tựu khoa học - kĩ thuật vào sản xuất... thúc đẩy sản xuất phát triển. c.
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của qui luật vốn có của sản xuất
và trao đổi hàng hóa là qui luật giá trị, cung - cầu, cạnh tranh... buộc người sản
xuất hàng hóa phải luôn luôn năng động, nhạy bén, biết tính toán, cải tiến kĩ
thuật, hợp lí hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, cải
tiến hình thức, qui cách và chủng loại hàng hóa, làm cho chi phí sản xuất hạ xuống
đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao hơn lOMoAR cPSD| 23136115 d.
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và
giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước... không chỉ làm
cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn,
phong phú hơn, đa dạng hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt trái của
nó như phân hóa giàu - nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa, tiềm ẩn
những khả năng khủng hoảng, phá hoại môi trường sinh thái, xã hội, v.v..
Trong nền sản xuất hàng hoá, giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu
thuẫn với nhau. Mâu thuẫn đó là mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất hàng hoá
giản đơn. Mâu thuẫn này biểu hiện ra khi :
+ Sản xuất của người sản xuất hàng hoá nhỏ và nhu cầu của xã hội không ăn
khớp với nhau. Hoặc sản xuất không đủ cung cấp cho xã hội, hoặc sản xuất vượt
quá khả năng tiêu thụ của xã hội.Trong trường hợp sản xuất vượt quá khả năng
tiêu thụ của xã hội thì sẽ có một số hàng hoá không bán được, tức là không thực
hiện được giá trị. Sở dĩ có tình hình đó là do sản xuất dựa trên chế độ tư hữu làm
cho người sản xuất không thể biết được xã hội cần những gì và cần bao nhiêu
.+ Mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hoá không phù hợp với
mức tiêu hao lao động mà xã hội có thể chấp nhận được. Nếu tiêu hao quá mức,
xã hội không có khả năng thanh toán, tất nhiên hàng hoá sẽ không bán được.Mâu
thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội chứa đựng khả năng sản xuất
"thừa" và là mầm mống của mọi mâu thuẫn của kinh tế hàng hoá trong tiến trình
phát triển của lịch sử. 1.2. Thị trường: -
Khái niệm thị trường: Thị trường là tổng hòa những quan hệ kinh tế
trong đó nhu cầu của các chủ thể được đáp ứng thông qua việc trao đổi, mua
bán với sự xác định giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ tương ứng với trình độ
phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội.
Như vậy, thị trường có thể được nhận diện ở cấp độ cụ thể, quan sát được
như chợ, cửa hàng, quầy hàng lưu động, phòng giao dịch hay siêu thị và nhiều
hình thức tổ chức giao dịch, mua bán khác.
Ở cấp độ trừu tượng hơn, thị trường cũng có thể được nhận diện thông
qua các mối quan hệ liên quan đến trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ trong xã
hội, được hình thành do những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội nhất định. Theo
nghĩa này, thị trường là tổng thể các mối quan hệ kinh tế gồm cung, cầu, giá cả;
quan hệ hàng – tiền; quan hệ giá trị, giá trị sử dụng; quan hệ hợp tác, cạnh tranh;
quan hệ trong nước, ngoài nước,… Đây cũng là các yếu tố của thị trường. lOMoAR cPSD| 23136115
(Theo David Begg, Stanley Fisher, Rudiger Dornbusch, Kinh tế học, tập 2,
Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội 1992: Thị trường là sự biểu hiện thu gọn của quá
trình mà thông qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng các mặt hàng
nào, các quyết định của các công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và các
quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu cho ai đều được dung hòa
bằng sự điều chỉnh giá cả.) - Phân loại thị trường:
Căn cứ theo đối tượng trao đổi, mua bán cụ thể, có các loại thị trường như: thị
trường hàng hóa, thị trường dịch vụ. Trong mỗi loại thị trường này lại có thể cụ
thể ra thành các thị trường theo các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau rất phong phú.
Căn cứ vào phạm vi các quan hệ, có các loại thị trường trong nước, thị trường thế giới.
Căn cứ vào vai trò của các yếu tố được trao đổi, mua bán, có thị trường tư liệu
tiêu dùng, thị trường tư liệu sản xuất.
Căn cứ vào tính chất và cơ chế vận hành, chia ra thị trường tự do, thị trường có
điều tiết, thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo (độc quyền).
Ngày nay, các nền kinh tế phát triển ngày càng nhanh và phức tạp hơn, do đó hệ
thống thị trường cũng biến đổi phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của nền
kinh tế. Vì vậy, để tổ chức có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi phải
hiểu rõ về bản chất hệ thống thị trường, những quy luật kinh tế cơ bản của thị
trường và các vấn đề liên quan khác. -
Các chủ thể chính tham gia thị trường: + Người sản xuất:
Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch
vụ ra thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Người sản xuất bao
gồm các nhà sản xuất, đầu tư, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ,… Họ là những người
trực tiếp tạo ra của cải vật chất, sản phẩm cho xã hội để phục vụ tiêu dùng.
Người sản xuất là những người sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất, kinh
doanh và thu lợi nhuận. Nhiệm vụ của họ không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu hiện tại
của xã hội, mà còn tạo ra và phục vụ cho những nhu cầu trong tương lai với mục
tiêu đạt lợi nhuận tối đa trong điều kiện nguồn lực có hạn. Vì vậy, người sản xuất
luôn phải quan tâm đến việc lựa chọn sản xuất hàng hóa nào, số lượng bao nhiêu,
sản xuất với các yếu tố nào sao cho có lợi nhất.
Ngoài mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, người sản xuất cần phải có trách nhiệm đối
với con người, trách nhiệm cung cấp những hàng hóa và dịch vụ không làm tổn hại
tới sức khỏe và lợi ích của con người trong xã hội. + Người tiêu dùng: lOMoAR cPSD| 23136115
Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường để thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng. Sức mua của người tiêu dùng là yếu tố quyết định sự phát
triển bền vững của người sản xuất. Sự phát triển đa dạng về nhu cầu của người
tiêu dùng là động lực quan trọng của sự phát triển sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất.
Người tiêu dùng có vai trò rất quan trọng trong định hướng sản xuất. Do đó,
trong điều kiện nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng ngoài việc thỏa mãn nhu
cầu của mình, cần phải có trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững của xã hội.
Lưu ý, việc phân chia người sản xuất, người tiêu dùng chỉ có tính chất tương đối
để thấy được chức năng chính của các chủ thể này khi tham gia thị trường. Trên
thực tế, doanh nghiệp luôn đóng vai trò vừa là người mua cũng vừa là người bán.
+ Các chủ thể trung gian trong thị trường:
Chủ thể trung gian là những cá nhân, tổ chức đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa
các chủ thể sản xuất, tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
Do sự phát triển của sản xuất và trao đổi dưới tác động của phân công lao động
xã hội, làm cho sự tách biệt tương đối giữa sản xuất và trao đổi ngày càng sâu sắc.
Trên cơ sở đó xuất hiện những chủ thể trung gian trong thị trường. Những chủ thể
này có vai trò ngày càng quan trọng để kết nối, thông tin trong các quan hệ mua, bán.
Nhờ vai trò của các trung gian này mà nền kinh tế thị trường trở nên sống động,
linh hoạt hơn. Hoạt động của các trung gian trong thị trường làm tăng cơ hội thực
hiện giá trị của hàng hóa cũng như thỏa mãn nhu cầu mua của người tiêu dùng.
Các chủ thể trung gian làm tăng sự kết nối giữa sản xuất và tiêu dùng, làm cho sản
xuất và tiêu dùng trở nên ăn khớp với nhau.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, các chủ thể trung gian
thị trường không phải chỉ có các trung gian thương nhân mà còn rất nhiều các chủ
thể trung gian phong phú trên tất cả các quan hệ kinh tế như: trung gian môi giới
chứng khoán, trung gian môi giới nhà đất, trung gian môi giới khoa học công
nghệ,… Các trung gian trong thị trường không những hoạt động trên phạm vi thị
trường trong nước mà còn trên phạm vi quốc tế. Bên cạnh đó cũng có nhiều loại
hình trung gian không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức (lừa đảo, môi giới bất
hợp pháp,...). Những trung gian này cần được loại trừ. + Nhà nước:
Trong nền kinh tế thị trường, xét về vai trò kinh tế, nhà nước thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về kinh tế đồng thời thực hiện những biện pháp để khắc
phục những khuyết tật của thi trường.
Với trách nhiệm như vậy, một mặt, nhà nước thực hiện quản trị phát triển nền
kinh tế thông qua việc tạo lập môi trường kinh tế tốt nhất cho các chủ thể kinh tế
phát huy sức sáng tạo của họ. Việc tạo ra các rào cản đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh từ phía nhà nước sẽ làm kìm hãm động lực sáng tạo của các chủ thể lOMoAR cPSD| 23136115
sản xuất kinh doanh. Các rào cản nhu vậy phải được loại bỏ. Việc này đòi hỏi mỗi
cá nhân có trách nhiệm trong bộ máy quản lý nhà nước phải nhận thức được
trách nhiệm của mình là thúc đẩy phát triển, không gây cản trở sự phát triển của
nền kinh tế thị trường.
Cùng với đó, nhà nước còn sử dụng các công cụ kinh tế để khắc phục các khuyết
tật của nền kinh tế thị trường, làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả.
1.3. Cơ chế thị trường và Kinh tế thị trường:
- Cơ chế thị trường: là hệ thống các quan hệ mang tính tự điều chỉnh
tuân theo yêu cầu của các quy luật kinh tế.
Cơ chế thị trường là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng các
nguồn vốn, tài nguyên, công nghệ, sức lao động, thông tin, trí tuệ,… trong nền
kinh tế thị trường. Đây là một kiểu cơ chế vận hành nền kinh tế mang tính khách
quan, do bản thân nền sản xuất hàng hóa hình thành. Cơ chế thị trường được
A.Smith ví như là một bàn tay vô hình có khả năng tự điều chỉnh các quan hệ kinh tế. - Kinh tế thị trường: + Khái niệm:
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành
theo cơ chế thị trường. Đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan
hệ sản xuất và trao đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết
của các quy luật thị trường
Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong
lịch sử: từ kinh tế tự nhiên, tự túc, kinh tế hàng hóa rồi từ kinh tế hàng hóa phát
triển thành kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường cũng trải qua quá trình phát
triển ở các trình độ khác nhau từ kinh tế thị trường sơ khai đến kinh tế thị trường hiện đại ngày nay.
Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại. + Đặc trưng:
Có sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều hình
thức sở hữu. Các chủ thể kinh tế bình đẳng trước pháp luật.
Thị trường đóng vai trò quyết định trnog việc phân
bổ các nguồn lực xã hội thông qua hoạt động của các thị trường bộ phận như thị
trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ,…
Giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị
trường; cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực thúc đẩy hoạt động sản
xuất kinh doanh; động lực trực tiếp của các chủ thể sản xuất kinh doanh là lợi
nhuận và lợi ích kinh tế - xã hội khác; nhà nước là chủ thể thực hiện chức năng lOMoAR cPSD| 23136115
quản lý, chức năng kinh tế; thực hiện khắc phục những khuyết tật của thị trường,
thúc đẩy những yếu tố tích cực, đảm bảo sự bình đẳng xã hội và sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
Là nền kinh tế mở, thị trường trong nước quan hệ
mật thiết với thị trường quốc tế.
Chương 2: Vai trò và tác dụng của tiến trình đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa
2.1. Giai đoạn trước đổi mới:
- Đặc điểm mô hình tổ chức kinh tế:
Trước năm 1986, kinh tế Việt Nam là kinh tế bao cấp. Kinh tế bao cấp là nền kinh
tế chỉ bao gồm các thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và cá thể, mà giữ vai
trò chủ đạo là kinh tế quốc doanh. Trong thời kì này, không tồn tại kinh tế tư nhân,
không có các hoạt động thương mại buôn bán tự do trên thị trường. Kinh tế bao
cấp hoạt động theo kiểu toàn dân làm cho nhà nước và nhà nước bao cấp cho
toàn dân, mọi người làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu. Nhà nước quyết
định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn nhiều lần so với giá trị thực
với chúng trên thị trường. Do đó, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
Với nền kinh tế kế hoạch, ngành kinh tế thương nghiệp tư nhận bị loại bỏ hoàn
toàn, được coi là không hợp pháp trong nền kinh tế chính thống. Theo đó, hàng
hóa sẽ phân phối tới người dân theo chế độ tem phiếu do nhà nước điều hành,
nắm toàn quyền. Thời kì này, việc vận chuyển hàng hóa tự do giữa các địa
phương, mua bán trên thị trường bị xóa bỏ hoàn toàn. Hàng hóa do nhà nước
phân phối độc quyền và hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Việc phân phối lương
thực, thực phẩm sẽ dựa theo đầu người, xét theo hộ khẩu. Do đó, chế độ hộ khẩu
được hình thành. Nổi bật nhất là sổ gạo, trong đó có ấn định số lượng và các mặt
hàng được phép mua dựa trên số khẩu trong một gia đình.
- Kết quả hạn chế của nền kinh tế:
Dưới thời bao cấp, do thiếu hàng hóa nên việc phân phối hàng hóa chủ yếu dựa
vào hệ thống tem phiếu. Thị trường chợ đen vẫn tồn tại nhưng không phải kênh
phân phối hàng hóa chính. Mua hàng gì thì có tem phiếu hàng đó. Một phần tiêu
biểu của thời kỳ bao cấp là đồng tiền Việt Nam bị mất giá. Lương công nhân đôi
khi cũng được trả bằng hiện vật vì giá trị đồng tiền cứ sụt dần. Nếu lấy đồng lương
năm 1978 làm chuẩn thì số tiền đó năm 1980 chỉ là 51,1%. Đến năm 1984 thì còn 32,7%. lOMoAR cPSD| 23136115
Giáo sư Trần Văn Thọ viết về tình trạng kinh tế 10 năm đầu sau chiến tranh: "Mười
năm sau 1975 là một trong những giai đoạn tối tăm nhất trong lịch sử Việt Nam.
Chỉ nói về mặt kinh tế, là một nước nông nghiệp (năm 1980, 80% dân số sống ở
nông thôn và 70% lao động là nông dân) nhưng Việt Nam thiếu ăn, nhiều người
phải ăn bo bo trong thời gian dài. Lượng lương thực tính trên đầu người giảm liên
tục từ năm 1976 đến 1979, sau đó tăng trở lại nhưng cho đến năm 1981 vẫn
không hồi phục lại mức năm 1976. Công thương nghiệp cũng đình trệ, sản xuất
đình đốn, vật dụng hằng ngày thiếu thốn, cuộc sống của người dân vô cùng khốn
khó. Ngoài những khó khăn của một đất nước sau chiến tranh và tình hình quốc tế
bất lợi, nguyên nhân chính của tình trạng nói trên là do sai lầm trong chính sách,
chiến lược phát triển, trong đó nổi bật nhất là sự nóng vội trong việc áp dụng mô
hình xã hội chủ nghĩa trong kinh tế ở miền Nam... Nguy cơ thiếu ăn kéo dài và
những khó khăn cùng cực khác làm phát sinh hiện tượng "phá rào" trong nông
nghiệp, trong mậu dịch và trong việc quyết định giá cả lương thực đã cải thiện
tình hình tại một số địa phương. Nhưng phải đợi đến đổi mới (tháng 12/1986)
mới có biến chuyển thực sự. Do tình trạng đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP)
của Việt Nam trong 10 năm trước đổi mới chỉ tăng 35%, trong thời gian đó dân số
tăng 22%. Như vậy, GDP đầu người trung bình tăng chỉ độ 1% (mỗi năm)"
- Sự hạn chế của các loại thị trường:
Thị trường tự do bị xem là bất hợp pháp và bị hạn chế nên hàng hóa lưu thông
trên thị trường chợ đen ít và giá rất cao. Người dân, cán bộ công nhân viên
thường bán hàng tiêu dùng mà họ không sử dụng ra thị trường chợ đen.
Trước tình hình trì trệ, khủng khoảng của kinh tế và bối cảnh các nước xã hội chủ
nghĩa lâm nguy, Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện trên phạm vi cả
nước, theo hướng kinh tế thị trường có sự định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2 Giải đoạn đổi mới sang nền sx hàng hoá từ năm 1986 về sau *Đặc điểm mô hình tổ chức kinh tế
- Sau khi đất nước giải phóng cho tới năm 1985, cơ chế kinh tế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu bao cấp và mô hình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa kiểu
Xô viết đã được áp dụng rộng rãi trên cả nước •
Từ 1986 - 1997 Từ năm 1986 đến nay, trong các kỳ đại hội, Đảng ta tiếp tục làm rõ
nội dung và phương thức đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng “xoá bỏ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp, thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà lOMoAR cPSD| 23136115
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đây thực chất là quá trình đổi mới cả hệ
thống các công cụ, chính sách quản lý kinh tế, tạo lập đồng bộ các yếu tố quản lý
và tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước.
• Giai đoạn 1998 -2001 Mô hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn này là: tận dụng
thời cơ hướng tới xuất khâủ. Các đột phá chính trong thời kỳ này có thể nêu ra:
- Tiếp tục chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài và đẩy mạnh quá
trình cải cách hành chính.
- Đẩy mạnh công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
- Ưu đãi với doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu, dệt may, da giày xuất khẩu
• Giai đoạn 2001 – 2006
- Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định tính tất yếu của toàn cầu hoá,
chỉ rõ ràng khả năng tận dụng những cơ hội mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại
để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu, thực hiện phương châm đối ngoại “Việt Nam sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy với các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì
hoà bình, độc lập và phát triển”. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã tiếp tục
khẳng định “Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan, phải chủ động, có lộ
trình phù hợp với bước đi thích hợp, vững chắc, không do dự chần chừ, nhưng
cũng không được nóng vội, giản đơn”.
• Giai đoạn từ 2006 đến nay Đến Đại hội XI của Đảng đã phát triển và hoàn thiện
thêm một bước đặc trưng kinh tế của CNXH, trong đó Đảng ta xác định: “Nền kinh
tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh
doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật
đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn
hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển”. lOMoAR cPSD| 23136115
* Giai đoạn đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa từ năm 1986 về sau đã thúc đẩy
phát triển kinh tế - Năng suất LĐ có sự tăng trưởng đáng kể.Những năm qua,
NSLĐ của Việt Nam liên tục gia tăng, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế -
xã hội của đất nước. Điển hình như, năm 2017, NSLĐ đóng góp khoảng 89%
tăng trưởng GDP, cao hơn so với mức 66,3% giai đoạn 1990-2000 và 61,9% giai
đoạn 2000-2012. Cụ thể, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, NSLĐ toàn nền kinh
tế theo giá hiện hành năm 2017 ước đạt 93,2 triệu đồng/lao động.Tính theo giá so
sánh năm 2010, NSLĐ toàn nền kinh tế năm 2017 tăng 6% so với năm 2016, bình
quân giai đoạn 2011-2017 tăng 4,7%/năm. Tính chung giai đoạn 10 năm 2007-
2016, NSLĐ theo sức mua tương đương năm 2011 của Việt Nam tăng trung bình 4,2%/năm -
Số liệu thống kê cho thấy, nếu trước 1986, nước ta có khoảng 3,38 triệu
công nhân, chiếm 16% lực lượng lao động xã hội; thì đến cuối 2015 tăng lên
12.856,9 nghìn người, chiếm 14,01% dân số và 23,81% lực lượng lao động xã hội.
Trong đó, có 1.371,6 nghìn công nhân làm việc trong doanh nghiệp nhà nước
(chiếm 10,67%); 7.712,2 nghìn công nhân làm việc trong các doanh nghiệp ngoài
nhà nước (chiếm 59,99%); 3.772,7 nghìn công nhân làm việc trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm 29,34%).
-Cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn định của GDP trong những năm gần
đây, cơ cấu ngành kinh tế đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực. Tỷ trọng
ngành nông nghiệp đã giảm nhanh, tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng nhanh, tỷ
trọng dịch vụ chưa có biến động nhiều.Đến nay, đóng góp vào tăng trưởng của 2
ngành Công nghiệp và Dịch vụ chiếm khoảng 90% tăng trưởng toàn ngành kinh tế,
cao hơn giai đoạn 2006-2010. Năm 2016, ngành Dịch vụ đóng góp gần 50% vào
tăng trưởng theo ngành và cao hơn nhiều so với giai đoạn 2006-2010 với mức đóng góp 40%.
* Thúc đẩy sự phát triển của thị trường sau giai đoạn đổi mới sx hàng hóa từ năm
1986 đến nay Việt Nam đã và đang gặt hái được những thành tựu trong việc tự do
hoá thương mại và mở cửa thị trường -
Thời kỳ 2001-2010, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân
17,42%, cao hơn 2,42% so với chỉ tiêu đề ra tại Chiến lược phát triển xuất khẩu
2001-2010. Tính riêng trong giai đoạn 2007-2010, là giai đoạn sau khi gia nhập
WTO, xuất khẩu tăng bình quân 14% năm, nhập khẩu tăng bình quân 11% năm.
Đến năm 2011, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu
đạt 96,3 tỷ USD là là mức cao nhất từ trước tới nay, tăng 33,3% so với kỷ lục đạt lOMoAR cPSD| 23136115
được trong năm 2010. Đồng thời, mức nhập siêu của năm 2011 là mức thấp nhất trong vòng 5 năm qua. -
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 đã có sự
chuyển dịch khá tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến và
giảm dần hàng xuất khẩu thô. Trong đó, tỷ trọng của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ
sản giảm dần từ 29,37% năm 2001 xuống còn 23,3% vào năm 2010; nhóm hàng
công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đã tăng mạnh từ 35,72% vào năm 2001,
lên 48,9% năm 2010; nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản giảm từ 34,92% năm 2001 xuống còn 27,8% năm 2010. -
Thị trường ngoài nước ngày càng mở rộng, đa dạng. Số lượng thị trường
xuất khẩu đã tăng gấp hơn 1,4 lần sau 10 năm, từ 160 thị trường lên trên 230 thị
trường. Cơ cấu thị trường xuất, nhập khẩu đã có sự chuyển dịch theo hướng giảm
dần lệ thuộc vào thị trường Châu Á. Trong hai năm đầu (2006 – 2007) Việt Nam đã
tiến thêm được một bước trên chặng đường phát triển mới, đạt được nhiều
thành tựu đáng khích lệ. Sang những năm cuối của thời kỳ kế hoạch, nhất là từ
Quý II năm 2007 mặc dù lạm phát trong nước bắt đầu tăng cao, tiếp đến là cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động không thuận đến
nền kinh tế nước ta, nhưng Việt Nam đã sớm vượt qua và vẫn giữ vững được ổn
định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng khá với mức tăng trưởng bình quân
trong cả thời kì 2006 – 2010 khoảng 7%; mặt bằng kinh tế - xã hội được nâng lên
đáng kể. Điều này được chứng minh qua những chỉ tiêu trong một số lĩnh vực lớn
như sau: Quy mô và năng lực sản xuất của các ngành đều tăng. GDP (tính theo giá
trị so sánh) năm 2010 gấp 2 lần so với năm 2000; (tính theo giá trị thực tế tính
bằng đồng đô la Mỹ) ước đạt trên 101 tỉ USD, gấp hơn 3,2 lần năm 2000 (31,2 tỉ
USD); (theo giá thực tế bình quân đầu người) ước khoảng 1.160 USD, vượt mục
tiêu kế hoạch đề ra là 1.050 – 1.100 USD, vượt qua ngưỡng nước đang phát triển
có thu nhập thấp và trở thành nước có mức thu nhập trung bình. Hầu hết các
ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Cấu trúc kinh tế đã có
những thay đổi tích cực, hứa hẹn sáng sủa hơn trong tầm nhìn dài hạn. Giao lưu
kinh tế quốc tế phát triển. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thời kỳ 2006-2010 đạt
56 tỉ USD/năm, bằng 2,5 lần thời kỳ 2001-2005 và tăng 17,2%/năm. Kim ngạch
xuất khẩu các mặt hàng ngày càng tăng, từ 4 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỉ USD
năm 2006 đã tăng lên 8 mặt hàng năm 2010.Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
và nguồn vốn ODA ngày càng tăng và có nhiều thuận lợi. Vốn FDI thực hiện năm
2006 đạt 4,1 tỉ USD, năm 2007 đạt 8,0 tỉ, năm 2008 đạt 11,5 tỉ USD, chiếm tới
30,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn rất nhiều so với năm trước. Năm
2009 và 2010, mặc dù vốn đăng ký giảm nhưng vốn FDI thực hiện vẫn đạt 10 tỉ
USD vào năm 2009 và khoảng 11 tỉ vào năm 2010 (tăng 157,5% so với năm 2006). lOMoAR cPSD| 23136115
Thời kỳ 2006-2010, FDI thực hiện tăng bình quân 25,7%/năm. Các cân đối kinh tế
vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiềm chế trong những năm cuối kỳ kế
hoạch. Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân 5 năm ở mức khoảng
28% GDP, bội chi ngân sách bình quân chỉ 5,7%. An ninh tài chính quốc gia được
bảo đảm, ước tính đến cuối năm 2010 dư nợ chính phủ chiếm khoảng 44,5% GDP.
Dư nợ ngoài nước của quốc gia so GDP ở mức an toàn cho phép. Chính sách tiền
tệ điều hành linh hoạt theo nguyên tắc thị trường, góp phần tích cực vào việc
kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô. Hệ thống ngân
hàng thương mại có sự phát triển cả về quy mô và chất lượng tín dụng; tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu của hầu hết các ngân hàng đều đạt chuẩn mực quốc tế trên 8%.
Cán cân thanh toán quốc tế thặng dư khá cao trong những năm đầu của kỳ kế
hoạch, còn 2 năm cuối (20092010) tuy có mức thiếu hụt, nhưng không bị phá vỡ
cân đối. Tổng vốn đầu tư được huy động đưa vào phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
qua theo giá hiện hành đạt khoảng 3.062 nghìn tỉ đồng (tăng 14,4% so với kế
hoạch) bằng 42,7% GDP, gấp hơn 2,5 lần so với 5 năm trước đó (2001 – 2005). Hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện đáng kể tạo tiền đề thúc đẩy
tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Nhiều nhà
máy công nghiệp lớn, kỹ thuật cao, nhiều khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế
xuất, cụm công nghiệp được ra đời và đi vào hoạt động hiệu quả, góp phần xóa
đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân ở tất cả các vùng, miền trong cả nước.
Chương 3: Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của nền sản xuất hàng hóa.
3.1: Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của nền sx hàng hóa . *Mục tiêu -
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đến Đại hội XII, mô hình
KTTT định hướng XHCN ở nước ta đã được khắc họa rõ nét và đầy đủ hơn. Báo
cáo do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày tại phiên khai mạc Đại hội XII của
Đảng sáng 21-1-2016 đã nhấn mạnh: “Thống nhất nhận thức nền KTTT định
hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật
của kinh tế thị trường; đồng thời, bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”; có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó lOMoAR cPSD| 23136115
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng
của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và
cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và
phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng
sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh
bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà
nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo
vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính
sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế-xã hội…”.
Với những định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nêu trên, thì mục tiêu
hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác định là giải phóng và
phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên mọi nguồn lực
trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, trên cơ sở đó,
cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự công bằng,
bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội. Từ đó sẽ khắc phục được tình trạng
tự túc tự cấp của nền kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển, mở
rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Áp dụng khoa học, công nghệ,
kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động xã hội, tăng số lượng,
chủng loại và chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Thúc đẩy tích tụ, tập trung sản xuất,
mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, với các nước
trên thế giới. Động viên mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ các nguồn lực bên
ngoài. Phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị
kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, tạo ra tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước
nghèo và kém phát triển, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang phát triển theo hướng của một nền kinh tế
độc lập, tự chủ. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam còn nhiều hạn chế, bất cập về năng
suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và chống chịu trước biến động chưa
cao. Theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, đất nước ta còn rất nhiều việc phải làm
để có được nền kinh tế thực sự tự chủ như tái cơ cấu nền kinh tế, xây dựng thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển các thế mạnh đồng thời phát
triển kinh thế, mở rộng thị trường… Tại đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã đưa ra
đường lối kinh tế, trong đó bao gồm kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng lOMoAR cPSD| 23136115
cường quốc phòng - an ninh là một trong năm nội dung cơ bản của đường lối kinh
tế của Đảng và nhà nước Việt Nam.
Trong thời gian gần đây, nước ta đang là một nước xuất siêu. Tuy nhiên, kim ngạch
hàng hóa nhập khẩu nói chung vẫn cao, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện
chiếm tới 23,4% tổng kim ngạch nhập khẩu. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra nền
công nghiệp nước ta hiện nay về cơ bảng là công nghiệp lắp ráp, gia công. Đó
chính là dấu hiệu quan trọng của nền kinh tế lệ thuộc nước ngoài, và chúng ta sẽ
không thể lường trước được sự rủi ro bởi những biến động bất ngờ của tình trạng
xuất khẩu tư bản thừa của các công ty xuyên quốc gia do nhiều nguyên nhân (kinh
tế, chính trị, …). Các phương tiện nhập khẩu trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng
đôi khi không đáp ứng được các yêu cầu về an ninh và quốc phòng sẽ dẫn đến sự
yếu kém trong an ninh quốc gia – điều mà các nước đang ngày càng chú ý hơn
trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện tại. Độc lập tự chủ về kinh tế
thực chất là sự tự chủ mà không lệ thuộc vào nước khác hay một tổ chức nào đó
về mọi mặt, vẫn giữ được ổn định về kinh tế, tài chính trước những biến động lớn
của thị trường ngoài và vẫn đứng vững khi bị cô lập bởi các thế lực thù địch. Vì
vậy việc phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ rất cần thiết gắn liền với việc đảm
bảo an ninh quốc phòng để bảo đảm cho vị thế và lợi ích quốc gia, dân tộc mình
trong cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt, tạo cơ sở khẳng định địa vị chính trị trên trường quốc tế.
3.2: Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của nền sản xuất hàng hóa
3.2.1: Đối với nhà nước:
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, kinh tế trong và ngoài nước có nhiều
biến động. Đảng và nhà nước ta cũng đã và đang thực hiện các đề án giúp tăng
kim ngạch xuất khẩu, giảm tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu, giữ nền kinh tế quốc
gia ở trạng thái xuất siêu ổn định và giảm lệ thuộc vào các nền kinh tế khác trên
thế giới. Muốn phát triển thị trường trong nước thì chúng ta phải có một hệ thống
chính sách phát triển đồng bộ với các phương thức hỗ trợ phù hợp. Nhà nước ta
cần cải cách thể chế, đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí và các nút
thắt, rào cản đối với xuất khẩu. Cần tạo điều kiện cắt giảm chi phí cho doanh
nghiệp, xem xét khả năng cho phép nhập khẩu đối với một số loại máy móc, thiết
bị để hạ giả thành sản phẩm; rà soát các mức phí thu đối với hàng hóa xuất, nhập
khẩu… Đảng và nhà nước cần tăng cường công tác đàm phán, hội nhập để phát lOMoAR cPSD| 23136115
triển thị trường và tháo gỡ rào cản để thâm nhập vào các thị trường mới, nỗ lực
yêu cầu các nước xóa bỏ tối đa thuế nhập khẩu và các rào cản phi thuế đối với
hàng hóa của nước ta. Nhà nước cần củng cố và phát triển hệ thống luật liên quan
tới bán lẻ như luật Bán lẻ, luật Chất lượng sản phẩm…, bổ sung các quy chuẩn để
hướng dẫn và thúc đẩy kinh doanh bán lẻ phát triển lành mạnh, làm cơ sở để các
cơ quan chức năng thực hiện việc kiểm soát thị trường; cần có định chế tài chính,
tín dụng, chính sách đầu tư thích hợp để hỗ trợ thực hiện quy hoạch xây dựng hạ
tầng thương mại; nhanh chóng tiếp cận và ứng dụng thương mại điện tử để thu
thập và sử dụng hiệu quả các nguồn thông tin thị trường, các phương thức thanh
toán chi phí mới, bảo mật, an toàn và tiện dụng; xây dựng hàng rào kỹ thuật trong
thường mại giúp bảo hộ sản xuất, bảo vệ người tiêu dùng và gìn giữ môi trường
sinh thái trong nước, đồng thời đối phó được với các rào cản của các nước khác.
3.2.2: Đối với doanh nghiệp:
Đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài cần phối hợp với nhà nước tăng cường công nghiệp hóa và hiện đại
hóa quy trình sản xuất. Ứng dụng máy móc tự động vào dây chuyền sản xuất giúp
giảm chi phí thuê nhân công, giảm thiểu tối đa sai sót và tăng tính nhất quán giữa
các sản phẩm. Các doanh nghiệp cần bắt kịp với công nghệ mới, không được để
tình trạng chậm tiến, lạc hậu kéo dài dẫn đến sự kém chuyên nghiệp trong sản
xuất làm ảnh hưởng đến chất lượng và giá thành sản phẩm.
Doanh nghiệp cần nắm bắt nhanh chóng và kịp thời các thông tin biến động giá cả,
tình hình thị trường trong và ngoài nước; tích cực hội nhập với kinh tế quốc tế,
tiếp cận và khai thác các cơ hội trong hội nhập và mở rộng thị trường. Các nhà
quản trị cần chú trọng việc tham gia các diễn đàn kinh tế quốc tế, các diễn đàn về
hội nhập và toàn cầu hóa để tìm thêm thị trường mới và định hướng phát triển
phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của thị trường cũng như người tiêu dùng.
Trước sự cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp cần
đánh bóng và giữ vững tên tuổi, tạo lòng tin trong lòng khách hàng không chỉ
trong và ngoài nước; cần có các đường lối chính xác, cụ thể, kịp thời để định
hướng cho doanh nghiệp phát triển.
Ngoài ra, việc đảm bảo vệ sinh môi trường cũng rất quan trọng và cần được quan
tâm. Bên cạnh việc sản xuất sản phẩm, các nhà máy, xí nghiệp cần chú trọng việc
xử lý chất thải, khôi phục hệ sinh thái cho môi trường xung quanh khu vực sản
xuất, kinh doanh, phục hồi sinh kế cho người dân địa phương trong vùng bị ảnh
hưởng bởi quá trình hoạt động của các nhà máy, xí nghiệp.
3.2.3: Đối với người lao động: lOMoAR cPSD| 23136115
Về phía người lao động, cần phải nâng cao về mọi mặt: ý thức, tác phong, kỷ luật
lao động, nhận thức pháp luật…
Người lao động Việt Nam rất cần nâng cao tác phong và kỷ luật lao động, giảm
dần và xóa bỏ tình trạng đi làm muộn, mất tập trung trong lao động và làm việc;
các hành vi xấu trong quá trình lao động như tự ý cắt ngắn quy trình, làm việc cẩu
thả, thiếu cẩn thận; ăn cắp, ăn trộm, bớt xén nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất sản phẩm.
Đứng trước những tiến bộ nhanh chóng và vượt bậc của nền khoa học, người lao
động cần kịp thời nắm bắt những công nghệ mới để không bị lạc hậu với thời đại;
cần có ý thức học hỏi và tìm hiểu những cái mới, tiến bộ và nhanh chóng áp dụng
vào lao động sản xuất, nhằm giảm mức hao phí lao động để tạo ra sản phẩm.
Người lao động cũng cần phải chú ý tăng cường nhận thức pháp luật để tự bảo vệ
quyền và lợi ích của bản thân trong nền kinh tế mới, khi pháp luật nói chung hay
hợp đồng nói riêng được ứng dụng trong mọi mặt của đời sống xã hội. KẾT LUẬN
Bằng việc nghiên cứu và phân tích về nền sản xuất hàng hóa, ta thấy được nền sản xuất
hàng hóa ra đời thay thế cho kinh tế tự nhiên là ứng với sự lựa chọn tất yếu của loài
người, tạo ra một mô hình kinh tế mở và là động lực để phát triển kinh tế, xã hội.
Nền sản xuất hàng hóa kích thích sự năng động, sáng tạo của loài người, thúc đẩy các
quan hệ kinh tế rộng mở và phân công lao động sâu sắc hơn. Với sự tác động này, kinh tế
nước ta trở thành nền kinh tế nhiều thành phần, được vận hành theo cơ chế thị trường.
Các cơ sở kinh tế tự chủ độc lập xuất hiện, điển hình bởi sự ra đời của các doanh nghiệp
tư nhân. Các doanh nghiệp Nhà nước dần được cổ phần hóa, tăng cường hội nhập, giao
lưu quốc tế. Các quan hệ kinh tế mới không ngừng được hình thành và mở rộng, và kết
quả là nền văn minh nhân loại không ngừng được thúc đẩy.
Sự phát triển của sản xuất hàng hóa gắn liền với sự ra đời của thị trường. Hệ thống thị
trường thay đổi và phát triển để phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của nền kinh
tế. Nhưng nói chung, thị trường có vai trò quan trọng là điều kiện, môi trường phải triển
sản xuất; đánh giá, kiểm định năng lực của các chủ thể kinh tế và gắn kết nền kinh tế
thành một chỉnh thể thống nhất. Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, mọi
quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động và điều tiết
của các quy luật trên thị trường. Nền kinh tế đó là nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị
trường được vận hành theo hệ thống các quan hệ kinh tế mang đặc tính tự điều chỉnh mà
ta gọi là cơ chế thị trường.
Nền kinh tế của nước ta đang phát triển theo hướng của một nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, là một nền kinh tế độc lập, tự chủ với châm ngôn xã hội “dân lOMoAR cPSD| 23136115
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đảng và Nhà nước thường xuyên
chỉnh lý, bổ sung các chính sách, đường lối để phát triển kinh tế gắn liền với đảm bảo an
ninh quốc phòng và lợi ích quốc gia; tham gia hội nhập và toàn cầu hóa để phát triển và
mở rộng thị trường nhưng không để kinh tế bị lệ thuộc vào các nền kinh tế khác trên thế giới.
Với vai trò là sinh viên – lực lượng lao động chất lượng cao của đất nước trong tương lai,
đã và đang trở thành một chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường, mỗi cá nhân cần
phải nhận thức đầy đủ và chính xác về các quy luật kinh tế; cần nắm bắt nhanh chóng và
kịp thời các thông tin biến động trên thị trường để là một người sản xuất và tiêu dùng
thông thái. Bên cạnh đó, mỗi sinh viên cũng cần trang bị kiến thức, kĩ năng chuyên ngành
để áp dụng vào công việc sau này; cần không ngừng tìm tòi, học hỏi và tiếp thu những
công nghệ mới để áp dụng vào lao động và sản xuất hàng hóa nhằm giúp ích cho sự phát
triển của nền kinh tế nước nhà.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kinh tế Chính trị học chủ nghĩa Mác – Lê-nin;
2. Thời báo Kinh tế Việt Nam;
3. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin, PGS. TS. Nguyễn Văn Hảo, Bộ Giáo dục và đào tạo;
4. Tạp chí Thời đại, số 33, tháng 07/2015;
5. Báo Thể thao văn hóa: Đời sống thời bao cấp; 6. Tạp chí Công thương; 7. Báo nhân dân;
8. VGP News, Cơ cấu thành phần kinh tế sau 30 năm đổi mới, 10-09-2014;
9. Tạp chí Nhân dân điện tử, Nhận thức về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, 21-09-2013;
10. Nhịp sống kinh tế Việt Nam và thế giới, Giữ độc lập, tự chủ cho nền kinh tế, 02/09/2019; lOMoAR cPSD| 23136115
11. Tạp chí Tài chính – Cơ quan thông tin của bộ Tài Chính, Quý I/2020 xuất siêu
của Việt Nam đạt 2,8 tỷ USD, 30/03/2020;
12. Tạp chí Tài chính – Cơ quan thông tin của bộ Tài chính, Một số giải pháp phát
triển thị trường hàng hóa trong nước, 20/06/2014;
13. Cổng thông tin doanh nghiệp – Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và
Đầu tư), Một số giải pháp phát triển sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu, 2018;
PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
1, Trần Lê Thành – 20192303: • I. Phần mở đầu
• 1.1: Nền sản xuất hàng hóa (khái niệm, điều kiện tồn tại phát triển, mâu thuẫn cơ bản, ưu thế)
2, Nguyễn Hồng Công – 20192726:
• 1.2: Thị trường (khái niệm, phân loại, các chủ thể tham gia thị trường)
• 1.3: Cơ chế thị trường và Kinh tế thị trường
• 2.1: Giai đoạn trước đổi mới 1986 3, Nguyễn Thị Lan – 20192282:
• 2.2: Giai đoạn đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa, từ 1986 về sau
• 3.1: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHC 4, Nguyễn Đình Sơn – 20191701:
• 3.1: Nền kinh tế độc lập tự chủ, xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” gắn liền với đảm bảo an ninh quốc phòng
• 3.2: Một số khuyến nghị • Kết luận