I. Cộng đồng dân tộc những vấn đề chung Việt Nam
1. Khái quát chung về dân tộc
1.1 Dân tộc những khái niệm liên quan
Khái niệm dân tộc Việt Nam được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, dân tộc (nation) một cộng đồng người thống nhất,
chung một nhà nước, lãnh thổ, một nền kinh tế, một chế độ chính trị - hội,
ngôn ngữ văn hóa chung, thống nhất. Theo nghĩa này, nói tới dân tộc là nói tới
quốc gia - dân tộc hay dân tộc quốc gia (có thể đơn nhất - chỉ một dân tộc hay
nhiều dân tộc đa dân tộc hợp thành). Đó phải nhà nước độc lập, lãnh thổ
toàn vẹn, chủ quyền.
cách hiểu theo nghĩa rộng, dân tộc một số đặc trưng bản sau:
Một , chung một vùng lãnh thổ ổn định: Lãnh thổ dấu hiệu xác định
không gian sinh tồn, vị trí địa của một dân tộc, biểu hiện vùng đất, vùng
trời, vùng biển mỗi dân tộc được quyền sở hữu. Vận mệnh của cộng
đồng tộc người gắn với việc xác lập bảo vệ lãnh thổ quốc gia.
Hai , chung một phương thức sinh hoạt kinh tế: Đây sở đặc trưng
quan trọng nhất của dân tộc, sở gắn kết các bộ phận, các thành viên
trong dân tộc, tạo nên tính gắn ổn định, bền vững, thống nhất trong dân tộc.
Mối quan hệ kinh tế nền tảng cho sự vững chắc của cộng đồng dân tộc.
Nếu thiếu tính cộng đồng chặt chẽ, bền vững về kinh tế thì cộng đồng người
chưa thể trở thành một dân tộc.
Ba , chung một ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp: Mỗi một dân tộc
ngôn ngữ riêng, bao gồm cả ngôn ngữ nói ngôn ngữ viết làm cộng cụ
giao tiếp giữa các thành viên trong nhiều lĩnh vực. Ngôn ngữ dân tộc một
1
ngôn ngữ đã phát triển sự thống nhất về ngôn ngữ một trong những đặc
trưng chủ yếu của dân tộc.
Bốn , chung một nền văn hóa tâm lý: Văn hóa dân tộc được biểu
hiện thông qua tâm lý, tính cách, phong tục tập quán, lối sống dân tộc, tạo
nên bản sắc riêng của từng dân tộc. Văn hóa dân tộc gắn bó chặt chẽ với văn
hóa các cộng đồng tộc người trong một quốc gia. Trong quá trình sinh hoạt
cộng đồng, các thành viên của dân tộc thuộc nhiều thành phần hội khác
nhau cùng tham gia vào sự sáng tạo các giá trị văn hóa chung đồng thời
hấp thụ các giá trị văn hóa chung ấy. Văn hóa dân tộc không thể phát triển
nếu không sự giao lưu với nền văn hóa của các dân tộc khác. vậy, cần
bảo tồn phát triển nền văn hóa bản địa để tránh sự đồng hóa về văn hóa
Năm , chung một n nước (n nước dân tộc): Các thành viên trong
cộng đồng tộc người trong một dân tộc đều chịu sự quản của n nước
độc lập. Đây là yếu tố để phân biệt giữa quốc gia dân tộc dân tộc tộc
người. Nhà nước đặc trưng cho thể chế chính trị của dân tộc, đại diện
cho dân tộc với các quốc gia dân tộc khác trên thế giới.
Theo nghĩa hẹp, dân tộc (ethnic) chỉ một tộc người cụ thể. Dân tộc tộc
người một cộng đồng có chung một tên gọi, một ngôn ngữ (trừ trường hợp
biệt), được liên kết với nhau bằng những giá trị sinh hoạt văn hóa tạo thành tính
cách tộc người, chung một ý thức tự giác tộc người.
Theo cách hiểu này, dân tộc tộc người một số đặc trưng bản sau:
Cộng đồng về ngôn ngữ (bao gồm ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết hoặc chỉ
riêng ngôn ngữ nói): Đây tiêu chí bản để phân biệt các tộc người khác
nhau là vấn đề luôn được các dân tộc coi trọng giữ gìn. Tuy nhiên,
trong quá trình phát triển tộc người, nhiều do khác nhau h không
dùng ngôn ngữ mẹ đẻ dùng ngôn ngữ khác làm công cụ giao tiếp.
2
Cộng đồng về văn hóa: Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể văn hóa phi vật
thể mỗi tộc người phản ảnh truyền thống, lối sống, phong tục tập quán, tín
ngưỡng, tôn giáo của tộc người đó. Lịch sử phát triển của tộc người gắn liền
với truyền thống văn hóa của họ.
Ý thức tự giác tộc người: Đây tiêu chí quan trọng nhất để phân định một
tộc người vị t quyết định đến sự tồn tại phát triển của mỗi tộc
người. Đặc trưng nổi bật là các tộc người luôn tự ý thức v nguồn gốc tộc
danh của dân tộc mình, đó còn ý thức t khẳng định sự tồn tại phát
triển của mỗi tộc người cho những yếu tố tác động đến môi trường
sống hoặc ảnh hưởng đến sự giao lưu văn hóa, kinh tế, văn hóa,…
hai cách hiểu trên, tuy không đồng nhất nhưng lại gắn mật thiết với
nhau, không tách rời. Dân tộc quốc gia bao hàm dân tộc tộc người. Dân tộc tộc
người bộ phận hình thành nên dân tộc quốc gia.
Theo nghị định 05/NĐ-2011/NĐ-CP ngày 14/1/2011 của Chính Phủ về công c
dân tộc, khái niệm dân tộc thiểu số được định nghĩa n sau: Dân tộc thiểu số
những dân tộc s dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước
Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo nghị định 05/NĐ-2011/NĐ-CP, khái niệm Dân tộc thiểu số rất ít người
được hiểu dân tộc số dân dưới 10.000 người.
Theo nghị định 05/NĐ-2011/NĐ-CP, khái niệm Vùng dân tộc thiểu số được
định nghĩa địa bàn đông các dân tộc thiểu số cùng sinh sống ổn định thành
cộng đồng trên lãnh thổ nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quan hệ dân tộc mối quan hệ giữa các tộc người trong một quốc gia
xuyên quốc gia, mối quan hệ giữa tộc người với cộng đồng dân tộc quốc gia
(Nation State) trên nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, hội, văn hóa,... Quan
3
hệ dân tộc vừa mối quan hệ tự nhiên, vừa mang tính tất yếu trong một quốc gia
hay khu vực đa dân tộc, chịu tác động của nhiều yếu tố.
1.2. Lịch sử hình thành phát triển của cộng đồng dân tộc Việt Nam
Việt Nam một quốc gia đa dân tộc, trong đó dân tộc thiểu số chiếm
khoảng 14,6% dân số cả nước. Cộng đồng các dân tộc thiểu s Việt Nam được
hình thành phát triển ng với tiến trình lịch sử hàng nghìn năm dựng giữ
nước của cả dân tộc. Bởi vậy, ta thể khẳng định rằng, lịch sử hình thành của dân
tộc thiểu số gắn với lịch sử hình thành, phát triển của đất nước Việt Nam. Nghiên
cứu lịch sử hình thành, phát triển các dân tộc thiểu s không tể tách rời lịch sử hình
thành, phát triển của cộng đồng dân tộc Việt Nam, trong đó bao gồm cả dân tộc đa
số và dân tộc thiểu số.
Dân tộc Sán Dìu
4
Xét về vị trí địa lý, Việt Nam nằm trên n ba đường giao lưu tộc người
kinh tế, văn hóa thời cổ đại. Từ xa xưa, các dòng người t nhiều hướng di đến,
quần tụ định thành tổ tiên của nhiều dân tộc hiện nay.
nhiều dân tộc vốn sinh ra ngay tại mảnh đất Việt Nam ngay thuở ban
đầu, nhiều dân tộc trải qua nhiều nguyên nhân sâu xa di đến. Do những
hạn chế về lịch sử, qua trình lịch sử, hình thành của các dân tộc Việt Nam từ xa
xưa không được ghi chép dựa trên hệ thống văn bản chủ yếu qua các chất liệu
văn học như truyền thuyết,..và đồng thời dựa trên các tài liệu khảo cổ học về sau
này. Nhưng các nhà nghiên cứu khẳng định rằng, từ thời thượng cổ, Việt Nam đã
nơi tụ của nhiều dân thuộc các bộ lạc khác nhau. Dần dần, bởi các biến
động lịch sử - kinh tế - hội cùng với các cuộc chiến tranh mở rộng bờ cõi, số
lượng dân tộc của nước ta ngày càng được bổ sung thêm, thành 54 dân tộc n bây
giờ.
1.3. Đặc điểm bản của cộng đồng dân tộc Việt Nam
Việt Nam một quốc gia đa tộc người mang nhiều đặc diểm bản.
Thứ nhất, sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người.
Việt Nam 54 dân tộc, trong đó người Kinh chiếm khoảng 85,7% dân số
cả nước, còn lại các dân tộc thiểu số. Tỷ l số dân giữa các n tộc không đồng
đều, dân tộc s dân lên đến 1 triệu người (Tày, Thái,…), dân tộc chỉ vài
ba trăm (Ơđu, Pu péo,…). Thực tế cho thấy, nhiều dân tộc với số n ít ỏi rất khó
khăn trong việc tổ chức đời sống, bảo tồn tiếng nói, văn hóa dân tộc phát triển
nòi giống. vậy, Đảng và nhà nước ta rất quan tâm trong việc hỗ trợ đối với các
dân tộc thiểu s các dân tộc thiểu số rất ít người sinh sống vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn với những chính sách đặc thù.
Thứ hai, các dân tộc trú xen kẻ nhau.
5
Việt Nam vốn nơi chuyển của nhiều dân tộc khu vực Đông Nam Á,
vậy đã tạo nên bản đồ trú của c dân tộc trú phân tán, xen kẻ nhau
không lãnh thổ tộc người riêng. Thế nên không một dân tộc nào Việt
Nam trú tập trung và duy nhất trên một địa bàn. Điều đó giúp cho các dân
tộc nước ta hội giao lưu văn hóa giúp đỡ nhau, đoàn kết trở thành
một cộng đồng vững mạnh. Ngoài ra, trong quá trình sinh sống đôi lúc xảy ra
mâu thuẫn, tạo hội cho các thế lực thù địch phá hoại, tấn công đến an ninh
chính trị sự thống nhất của đất nước.
2. Vấn đề bình đẳng dân tộc Việt Nam những chính sách của nhà nước trong
việc phòng chống phân biệt chủng tộc
2.1 Bình đẳng dân tộc
2.2. Những chính sách của nhà nước trong việc phòng chống phân biệt chủng tộc
một quốc gia độc lập, thống nhất, đa dân tộc, nên Việt Nam, việc thực
hiện tốt vấn đ bình đẳng giữa các dân tộc một vấn đề hết sức quan trọng; đồng
thời, việc thực hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc Việt Nam còn một trong
những nhân tố rất quan trọng bảo đảm cho hội Việt Nam luôn ổn định phát
triển. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc Việt Nam đã được thể hiện trong các
lĩnh vực trong cuộc sống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nhất t khi Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời
lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến nay.
Về kinh tế, nội dung, nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc các chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế - hội miền núi, vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số nhằm phát huy tiềm năng phát triển, từng bước khắc phục khoảng cách
chênh lệch của các vùng, các dân tộc. Thực hiện các nội dung kinh tế thông qua
các chương trình, dự án phát triển kinh tế các vùng dân tộc thiểu số, thúc đẩy quá
6
trình phát triển kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt chiến
lược phát triển kinh tế - hội miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới, vùng
căn cứ địa cách mạng.
Xác định tầm quan trọng của khu vực miền núi trong phát triển kinh tế -
hội của đất nước, trách nhiệm tình cảm đối với đồng bào dân tộc thiểu số, trong
những năm qua, Đảng Nhà nước luôn quan tâm ưu tiên đầu cho địa bàn
này bằng cả hệ thống chế, chính sách, chương trình, dự án nguồn lực thực
hiện.
Đảng Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho khu vực miền
núi, vùng dân tộc thiểu số, nhất các chính sách giảm nghèo nhằm hỗ trợ người
dân tiếp cận các dịch vụ hội bản về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt
vệ sinh, tiếp cận thông tin như: chính sách hỗ trợ 100% BHYT cho đồng bào
DTTS các địa bàn đặc biệt khó khăn; chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ các
điều kiện học tập, chính sách nội trú, bán t cho học sinh dân tộc thiểu số; chính
sách hỗ trợ nhà ở, nước sinh hoạt, hỗ trợ phương tiện nghe nhìn…
Xác định vấn đề tăng cường hệ thống sở vật chất cho địa bàn miền núi
giải pháp quan trọng nhằm tạo điều kiện về hạ tầng sản xuất dân sinh cho người
dân trên địa bàn, trong những năm qua, Nhà nước đã nhiều chương trình, dự án
ưu tiên đầu cho địa bàn này, như: Chương trình trung tâm cụm xã, Chương trình
135, Chương trình 30a, Chương trình giao thông miền núi, Chương trình kiên cố
hóa trường, lớp học, trạm y tế xã, trái phiếu Chính phủ… ưu tiên đầu tư các dự án
ODA của WB, ADB qua nhiều giai đoạn.
Nguồn lực thực hiện các chính sách hỗ trợ trực tiếp người dân luôn được
Nhà nước quan m bố trí, Nhà nước đã bố trí 630.764 tỷ đồng để thực hiện hỗ
trợ về giáo dục, y tế, phát triển hạ tầng, kinh tế hội, vùng dân tộc thiểu số
7
miền núi, chiếm 71,4% tổng chi cho các nhiệm vụ này của cả nước, chiếm 80%
tổng chi giảm nghèo của vùng dân tộc thiểu số miền núi.
Nguồn lực Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững được ưu
tiên bố trí thực hiện cho địa bàn dân tộc, miền núi chiếm 70% tổng vốn Chương
trình qua các giai đoạn; ngoài ra, nguồn vốn cho vay của Ngân hàng Chính sách
hội chiếm 52,5% tổng nợ cả nước trên địa n miền núi, dân tộc.
từng địa phương, cụ thể tại tỉnh Kontum, thực hiện giải pháp giảm nghèo
bền vững thực hiện các chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên địa
bàn tỉnh.
Giảm nghèo bền vững vùng dân tộc thiểu số chủ trương lớn của Đảng,
Nhà nước nhằm cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu
số, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, các dân tộc, nhóm
dân cư. Sau 29 năm được tái thành lập tỉnh hòa chung với công cuộc đổi mới
đất nước, với nhiều chương trình, dự án như: Chương trình Mục tiêu Quốc gia về
Nông thôn mới, Chương trình Mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo bền vững, trong
đó Chương trình 135, Nghị quyết 30a của Chính phủ, ... Đặc biệt, thực hiện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX v Công tác
dân tộc đã đạt được những thành quả hết sức quan trọng trên tất cả các lĩnh vực
chính trị , kinh tế, giáo dục, văn hóa, y tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại...ở vùng
dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Kết quả đầu xây dựng sở hạ tầng phục vụ
phát triển sản xuất dân sinh trên địa bàn huyện, xã, thôn thuộc Chương trình phù
hợp quy hoạch dân quy hoạch sản xuất, đảm bảo phục vụ hiệu quả đời
sống phát triển sản xuất của người dân
8
Về chính trị, thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau
cùng phát triển giữa c dân tộc. Chính sách dân tộc góp phần nâng cao tính tích
cực chính trị của công dân; nâng cao nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số
về tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, đoàn kết giữa các dân tộc, thống nhất mục
tiêu chung độc lập dân tộc chủ nghĩa hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Bảo đảm vai trò tham gia của người dân tộc thiểu số trong Quốc hội. Trong
sự thành công của mỗi nhiệm kỳ Quốc hội đều vai trò đóng góp của c đại biểu
người dân tộc thiểu số (DTTS). Việc tăng cường sự tham gia của đại diện người
DTTS vào Quốc hội quan dân cử các địa phương một chủ trương đúng
đắn nhưng ng công việc khó khăn với những đặc t riêng, cần đến sự quan
tâm của cả hệ thống chính trị.
“Việc người dân tộc thiểu số tham gia bộ máy nhà nước, tổ chức chính trị
đại diện cho nhân dân cũng đạt thành tựu đáng kể, tăng cả về số lượng, chất lượng
qua từng nhiệm kỳ. Số lượng đại biểu Quốc hội người dân tộc thiểu số đã tăng theo
các khóa: Khoá I (1946) chiếm 10,2%, khóa XIII chiếm 15,6%. Khóa XIV 86
9
đại biểu Quốc hội người dân tộc thiểu số thuộc 32 dân tộc khác nhau, chiếm tỷ lệ
17,3%”, theo ông Giàng A Chu, chính trị gia người dân tộc Hmong, ông hiện
Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa
XIV nhiệm 2016-2021, thuộc đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Yên Bái, Chủ tịch
nhóm nghị hữu nghị Việt Nam - Maroc.
Thông tin k hơn về sự tham gia của người dân tộc thiểu số trong cuộc bầu
cử ngày 23/5/2021 này, Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội cho hay, theo
Nghị quyết số 1135/NQ-UBTVQH13/ 2016 của y ban Thường vụ Quốc hội khóa
XIII, dự kiến khi lập danh sách chính thức những người ứng cử người dân tộc
thiểu số phải có ít nhất 165 người, bằng 18% tổng số người trong danh sách ng cử.
Nghị quyết s 1185/NQ-UBTVQH14 ngày 11/01/2021, tiếp tục quy định số lượng,
cấu, thành phần Đại biểu Quốc hội khóa XV, trong đó đại biểu người dân tộc
thiểu số bảo đảm tỷ lệ ít nhất 18% tổng số người trong danh sách người ứng cử đại
biểu Quốc hội. Hiện nay còn 4 dân tộc (Lự, Ơ đu, Brâu Ngái) chưa đại diện
tham gia các khóa Quốc hội đây cũng mục tiêu cần phấn đấu để các dân tộc
đều có đại biểu Quốc hội.
Về văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc. Gìn giữ phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người, phát triển
10
ngôn ngữ, xây dựng đời sống văn hóa sở, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân
dân các dân tộc. Đào tào cán bộ văn hóa, xây dựng môi trường, thiết chế văn hóa
phù hợp với điều kiện của các tộc người trong quốc gia đa dân tộc. Đồng thời, mở
rộng giao lưu văn hóa với c quốc gia, các khu vực trên thế giới. Đấu tranh
chống t nạn hội, chống diễn biến hòa bình trên mặt trận tưởng văn hóa
hiện nay.
Đầu năm 2018, lãnh đạo (huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình) ý
tưởng vận động cộng đồng người Mông bỏ Tết riêng đ tổ chức Tết Nguyên đán
chung với người Kinh. do được này đưa ra đ giảm thiểu thời gian nghỉ
ngơi hạn chế t nạn. Xét từ góc độ hành chính, việc làm này ít nhiều ý nghĩa
tích cực, nhưng từ góc độ văn hóa thì đó một ứng xử chưa thật sự khoa học.
Chúng ta biết rằng, Tết c truyền của người Mông (và nhiều tộc người khác)
một di sản văn hóa nguồn gốc lịch sử giá trị riêng, thời điểm thực hành
văn hóa lớn nhất trong năm. Tết ấy không gian thể hiện bản sắc tộc người với
các lễ thức văn hóa m thực, trò chơi dân gian, giao lưu dân ca, dân nhạc, dân
vũ,… độc đáo. Gộp Tết dấu hiệu thể làm phai nhạt, dẫn đến triệt tiêu nhiều
giá trị văn hóa đặc sắc đã có. Những cách ứng xử chưa thấu đáo n vậy ít nhiều
đã làm tổn thương đến một bộ phận đồng bào, họ cảm thấy bị phân biệt, đối xử
thiếu sự tôn trọng. Từ đó, s dẫn đến tâm bị lấn át mặc cảm, tự ti. Cần đứng
vị t chủ thể văn hóa, sẽ giải được tại sao những việc làm nêu trên lại khó
nhận được sự đồng thuận.
Nhà nước ta đã xây dựng Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam - một trong những
nơi trưng bày lưu giữ những giá trị về văn hóa của 54 dân tộc anh em trên khắp
cả nước như: y phục, trang sức, khí, nhạc cụ, tôn giáo, tín ngưỡng và nhiều hoạt
động tinh thần khác..
11
Việt Nam hiện 54 dân tộc anh em, trong đó nhiều dân tộc thiểu số chữ
viết, tiêu biểu như: Tày, Thái, Hoa, Khmer, Nùng, Mông, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na,
Đăng, Ho, Chăm, Mnông... Việc bảo vệ sự đa dạng văn hóa, ngôn ngữ các
dân tộc hiện đang trở thành vấn đề cần quan tâm.
Nhà nghiên cứu Ma Văn Đức, Hội Văn học nghệ thuật c dân tộc thiểu số
tỉnh Tuyên Quang khẳng định: Tiếng nói, chữ viết hồn cốt của một tộc người.
Mất tiếng mẹ đẻ cũng tương tự với nguy mất đi hồn cốt, bản sắc văn hóa của tộc
người đó...
Trên thực tế, từ nhiều năm nay, Đảng Nhà nước cũng như nhiều địa
phương đã nhiều chính sách khuyến khích, bảo tồn văn hóa dân tộc, trong đó
chú trọng đến việc bảo tồn tiếng nói, chữ viết của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Nghị định số 82/2010/NÐ-CP của Chính phủ đã quy định việc dạy học tiếng i,
chữ viết của dân tộc thiểu số trong các sở giáo dục phổ thông, trung tâm giáo
dục thường xuyên. Đề án bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc Việt Nam đến
năm 2020 cũng chú trọng đến việc xây dựng chính sách khuyến khích đồng bào
các dân tộc sử dụng ngôn ngữ dân tộc.
12
Hiện nay đã một số ngôn ngữ, chữ viết dân tộc thiểu số được sử dụng trên
các phương tiện thông tin đại chúng từ trung ương tới địa phương, như: Tày, Thái,
Dao, Mông, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Chăm, Khmer… Nhiều địa phương trên cả
nước đã mở lớp dạy tiếng nói, chữ viết cho đồng bào dân tộc. Một số tỉnh còn đưa
tiếng dân tộc vào dạy trong trường học cho học sinh tiểu học, học sinh trung học
sở như Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Đắk Nông…
Về y tế, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người đồng bào dân tộc.
Trong những năm qua, Đảng n nước đã ban hành nhiều chế, chính
sách, dành nguồn lực không nhỏ để phát triển toàn diện kinh tế - hội vùng đồng
bào dân tộc thiểu số miền núi, nhằm không ngừng nâng cao sức khỏe, chất
lượng sống cho người dân, góp phần nâng chất lượng nguồn nhân lực vùng đồng
bào dân tộc thiểu số miền núi, cũng như tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân tộc ngày càng bền chặt.
Trong thời gian qua, chính sách y tế chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân
tộc thiểu số được thực hiện theo hướng: Ưu tiên giải quyết các vấn đề sức khỏe;
tăng cường khả năng tiếp cận cũng như cung cấp dịch vụ y tế chất lượng; giảm
gánh nặng chi phí chăm sóc sức khỏe.
13
Đã ưu tiên bố trí ngân sách thực hiện chương trình mục tiêu, các chương
trình, dự án để đầu xây dựng, nâng cấp, phát triển hệ thống sở khám, chữa
bệnh, trang thiết bị y tế (87 trạm y tế từ Dự án Hỗ trợ Ngành Y tế của EU giai đoạn
01, 288 trạm y tế t Dự án Hỗ trợ Ngành Y tế của EU giai đoạn 02, 58 trạm y tế từ
Dự án Chăm sóc sức khỏe nhân dân các tỉnh Tây Nguyên của ADB giai đoạn 02...).
Bố trí kinh phí mua thẻ BHYT miễn phí cho đồng bào dân tộc thiểu số. Năm 2016,
91% đồng bào dân tộc thẻ BHYT; năm 2017, 92,05% năm 2018,
93,68% đồng bào dân tộc thẻ BHYT. Đồng thời, tạo điều kiện cho đồng bào
được khám, chữa bệnh tất cả sở y tế trên địa bàn được Quỹ BHYT chi trả
chi phí; nguồn nhân lực khám, chữa bệnh cho đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng
được đảm bảo về số lượng chất lượng, các sở y tế Quân dân y tích cực
khám, chữa bệnh cho nhân dân, tuyên truyền, vận động nhân dân xây dựng Làng
Văn hóa sức khỏe, nếp sống vệ sinh khoa học, bài trừ hủ tục, tuyên truyền phòng,
chống HIV/AIDS, thực hiện Chương trình Dân số, kế hoạch hóa gia đình.
Chính sách hỗ trợ cho đồng bào dân tộc thiểu số sinh con đúng chính sách,
chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản (kiêm thêm nhiệm vụ đỡ thôn,
bản) đã được triển khai thực hiện hiệu quả, góp phần phát huy vai trò cầu nối giữa
y tế với người dân.
Ủy ban Dân tộc cũng cho biết, trong giai đoạn 2011 2018, Ủy ban đã ban
hành các kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ làm công tác dân tộc,
đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó, nội dung lồng ghép tuyên truyền, phổ biến
chính sách, pháp luật về khám, chữa bệnh, BHYT, dân số...
Đề nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Khám, chữa bệnh theo
hướng quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo kinh phí, sở
vật chất, trang thiết bị y tế, dịch vụ khám, chữa bệnh cho đồng bào dân tộc thiểu số
để người n được thụ hưởng đầy đủ quyền được khám, chữa bệnh chính ch
14
theo quy định của Luật BHYT; quy định chính sách hỗ trợ bảo tồn, sử dụng các bài
thuốc dân gian, phương pháp chữa bệnh cổ truyền giá trị của các dân tộc thiểu
số; đẩy mạnh hội hóa, phát triển các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, khám, chữa
bệnh chất lượng cao vùng dân tộc thiểu số, miền núi.
Cụ thể tại tỉnh Kontum, ngày 12-12, tiếp tục thực hiện hành trình “Vì sức
khỏe cộng đồng, về với bản làng khám bệnh, cấp thuốc miễn phí cho con đồng
bào dân tộc thiểu số vùng biên giới”, đoàn công tác y, bác của Bệnh viện Quân y
15 (Binh đoàn 15) tổ chức khám bệnh cấp phát thuốc miễn phí cho con đồng
bào dân tộc thiểu số tại vùng biên giới Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum.
Trước đó, đoàn công tác của Bệnh viện Quân y 15 cũng đã tổ chức khám
bệnh, cấp thuốc miễn p cho hơn 1.450 lượt con địa phương vùng biên giới
huyện Ia Grai, Ia Sao (Ia Grai) với kinh phí trên 100 triệu đồng. Hoạt động này
rất thiết thực, ý nghĩa, mang tính nhân văn cao cả, được cấp ủy, chính quyền địa
phương đánh g cao, ủng hộ, góp phần thắt chặt tình quân dân bền vững.
2.3 Chính sách của nhà nước trong việc phòng chống chủ nghĩa quyền
Chủ nghĩa quyền thể hiểu dân tộc lớn sử dùng sự lớn mạnh về kinh
tế, văn hóa, hội để bành trướng, ức hiếp những dân tộc nhỏ hơn.
Trong quan hệ giữa các dân tộc thiểu số với dân tộc đa số (dân tộc Kinh),
một quốc gia đa dân tộc n Việt Nam, rất dễ xảy ra nhiều mâu thuẫn mang đến
nhiều hệ lụy phức tạp nếu không được giải quyết một cách hợp lý. một số quốc
gia, tộc người đa số với tâm dân tộc lớn đã tìm cách áp đặt các dân tộc thiểu số,
đồng thời, các dân tộc thiểu số bị trói buộc với tâm lý tự ti, dẫn đến sự hòa nhập
hội bị hạn chế, thậm chí xảy ra xung đột.
Việt Nam, nhờ kiên trì thực hiện nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng giúp nhau cùng phát triển nên các biểu hiện trên được giảm thiểu về
15
bản. Do địa bàn trú xen kẻ nhau nên quá trình giao lưu giữa người Kinh
người dân tộc thiểu số được đẩy mạnh. Nhiều kinh nghiệm sản xuất, nhiều tiến bộ
khoa học thuật được chuyện giao, nhờ đó góp phần nâng cao trình độ, phát
triển của các cộng đồng dân tộc thiểu số.
Ngoài quan hệ kinh tế, các quan hệ về văn hóa xã hội cũng được thúc đẩy,
góp phần củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc, giảm thiểu những mâu thuẫn,
xung đột trong quá trình chung sống.
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường, nhiều vấn đề phức tạp mới nảy
sinh. Một bộ phận người Kinh biểu hiện gian dối trong kinh tế như cho vay
nặng lãi, bán hàng kém chất lượng, thậm chí lợi dụng sự chất phát của đồng bào
thiểu số để trục lợi. Thực tế này làm xấu đi mối quan h giữa người Kinh với người
dân tộc thiểu số, giảm thiểu lòng tin, thậm chí còn gia tăng sự ngờ vực lẫn nhau.
Mặt khác, do quá trình phát triển kinh tế - hội không được kiểm soát tốt
nên một b phận đồng bào dân tộc thiểu số được hưởng lợi từ thành quả lao động
không tương xứng. Tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất, tỷ lệ nghèo đói trong đồng
bào dân tộc còn cao,... Những vấn đề này đã kéo theo các điểm nóng về an ninh,
trật tự rất phức tạp.
sự biến đổi quá nhanh của môi trường, một bộ phận khá lớn đồng bào dân
tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn trong quá trình thích nghi, hội nhập, trở nên thụ
động, nghèo đói. Một số cán bộ còn mang nặng định kiến, không tìm hiểu cảm
thông, chia sẻ đã vội gán cho đồng bào những định kiến tiêu cực như: “phức tạp”,
“lười biếng”, “lười lao động”, “giỏi phá rừng”,... tưởng định kiến, coi thường
đồng bào ăn sâu trong nhiều nhân, họ biểu hiện s miệt thị trong lời nói,
hành động.
16
Tất cả những định kiến, tự định kiến, thị tự kì thị như trên đều lực
cản sự phát triển, tạo ra sự phân biệt, chia rẽ dân tộc, làm suy yếu khối đại đoàn kết
dân tộc, đồng thời ảnh hưởng đến tính ưu việt, nhân văn trong đường lối chính
sách dân tộc, làm phai nhạt niềm tin của đồng bào các dân tộc thiểu s với Đảng
Nhà nước; tạo điều kiện nảy sinh tệ nạn quan liêu, tham nhũng; tạo hội để các
thế lực thù địch xuyên tạc, vu khống,...
Do đó, để đường lối của Đảng Nhà nước luôn đạt hiệu quả thiết thực, mọi
cán bộ, đảng viên cần khắc phục, loại trừ “tư tưởng dân tộc hẹp hòi” trong nhận
thức hành động, nhất cán bộ, đảng viên đang công tác tại vùng đồng bào
dân tộc thiểu số sinh sống. Cần quán triệt một cách u sắc rộng i đến hệ
thống chính trị, các tổ chức hội toàn thể quần chúng nhân dân các nội dung
được thể hiện khoản 2-3, điều 6, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 2013,
quán triệt nghiêm túc quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về dân tộc và
công tác dân tộc.
II. Tôn giáo trong tiến trình phát triển đất nước
1. Khái quát chung về tôn giáo
1.1 Khái niệm tôn giáo
“Tôn giáo” là một thuật ngữ không thuần Việt, được du nhập từ nước ngoài
vào từ cuối TK XIX. Xét về nội dung, thuật ngữ tôn giáo khó thể hàm chứa
được tất cả nội dung đầy đủ của từ cổ đến kim, từ Đông sang Tây.
“Tôn giáo” bắt nguồn từ thuật ngữ “religion” (Tiếng Anh) “religion” lại
xuất phát t thuật ngữ “legere” (Tiếng Latin) nghĩa thu lượm sức mạnh siêu
nhiên.
17
Tôn giáo niềm tin vào các thế lực siêu nhiên, hình, mang tính thiêng
liêng, được chấp nhận nhằm giải những vấn đ trên trần thế cũng n thế giới
bên kia. Niềm tin đó rất đa dạng, tùy thuộc vào những thời lịch sử, hoàn cảnh
địa văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành
bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng hội
tôn giáo khác nhau.
Thuật ngữ “tôn giáo” vốn nguồn gốc từ phương Tây bản thân cũng
một q trình biến đổi nội dung. Thực tế đã xuất hiện rất nhiều định nghĩa khác
nhau về tôn giáo của nhiều dân tộc nhiều tác giả trên thế giới. Trước khi du
nhập vào Việt Nam, tại Việt Nam cũng những t mang nghĩa tương đồng với nó:
o Đạo: T này xuất xứ từ Trung Hoa, tuy nhiên “đạo” không hẳn đồng nghĩa
với tôn giáo bản thân từ đạo cũng thể ý nghĩa phi tôn giáo. “Đạo”
thể hiểu con đường, học thuyết. Mặt khác, “đạo” cũng thể hiểu cách
ứng xử làm người. vậy khi sử dụng t “đạo” với ý nghĩa tôn giáo, thường
phải đặt tên tôn giáo sau “đạo”. dụ: đạo Phật, đạo Tin Lành,...
o Giáo: Từ này ý nghĩa tôn giáo khi đứng sau tên một tôn giáo cụ thể
như Phật giáo, Nho giáo,... “Giáo” đây giáo hóa, dạy bảo theo đạo
của tôn giáo. Tuy nhiên “giáo” đây cũng thể hiểu lời dạy của thầy
dạy học.
1.2. Nội dung chức năng của tôn giáo
Nói đến nội dung tôn giáo đ cập đến giáo lý, kinh sách của các tôn giáo.
Đó lời kể lại bằng truyền miệng, những tích, tiểu s của những bậc sáng lập
mang yếu tố ảo thực tế, liên quan đến những thần linh, những đối tượng liên
18
quan đến thế giới bên kia nhưng lại liên quan đến một cộng đồng, một nhân
của thế giới trần tục được những tín đồ khác coi thực.
Nội dung tôn giáo còn sự đ cập đến những ước nguyện, một mục đích mang
tính tuyệt đối, vĩnh cửu cho cộng đồng, cho nhân, điều người trần cố
gắng đến mấy cũng không với tới được. Nội dung của tôn giáo bao hàm các vấn đề
sau đây:
Huyền thoại triết :
+ Huyền thoại một hình thức ra đời từ thuở nguyên sơ, giải của
con người thể sai hoặc đúng về một hiện tượng t nhiên hay hội
bản thân con người không thể hiểu nổi trong đó những cái khác lạ,
không giống bình thường nhưng lại tác động đến họ. Qua một dịp tình cờ,
ngẫu nhiên thì họ coi những thế lực đó như một thực thể hình chi phối tốt
hoặc xấu đến họ từ đó dẫn đến một huyền thoại mang tính tôn giáo. Huyền
thoại lúc đầu hỉnh thức rất đơn giản, phù hợp với trình độ nhận thức,
duy lúc đó nhưng nội dung thể lại phi với duy người hiện đại. Huyền
thoại phải được củng cố bằng lễ thức mới thành nội dung của một hình thức
tôn giáo nhưng chủ yếu phải được tin thật. vậy, niềm tin yếu tố
quan trọng nhất đ người ta giải những sự vật, hiện tượng con người
quan tâm.
+ Nội dung các tôn giáo được định hình không chỉ dừng lại các
huyền thoại còn những triết lý rút ra trong đời sống thường ngày. Đó
các triết hoặc không tác giả, sau đó các nhà thần học, các triết gia
bổ sung hệ thống lại mới xây dựng nên được giáo lý. Giáo hình thức
hoàn thiện hơn rất nhiều so với huyền thoại. Bên cạnh đó, các tôn giáo còn
phải vay mượn, thêm thắt, tiếp biến những nội dung của các tôn giáo khác
19
hay ý thức hệ khác tiếp xúc đ cho phù hợp, thích nghi với thời đại,
dân tộc để tồn tại.
Thế giới bên kia: Những yếu tố cấu thành nên nội dung của tôn giáo cho dù
hình thức khai hay đã phát triển đều không nhằm ngoài mục đích tạo
dựng nên một thế giới bên kia đối lập với thế giới trần tục. Thế giới được tạo
dựng này nhằm thỏa mãn một câu hỏi nếu không viện đến tôn giáo t
không ai trả lời: “Sau cái chết gì?”. Thế giới bên kia với những sức mạnh
của thần linh hướng con người đến một cuộc sống tự thân lương thiện. Mọi
tội ác của con người xảy ra trần gián sẽ b phán xử khi bước qua thế giới
y
Mỗi dân tộc hay mỗi khu vực tạo ra một bộ mặt của thế giới bên kia bản
thể giống nhau nhưng biểu hiện lại khác nhau. Các tôn giáo lớn xuất hiện
muộn hơn đã nhào nặn, hệ thống lại để tạo nên thế giới bên kia phù hợp với
điện thần của mình.
1.3. Hành vi tôn giáo
Bất tôn giáo nào muốn tồn tại phải những hành vi thờ cúng hành vi
này liên quan đến niềm tin, giáo được thực hiện bởi các chức sắc, những
người làm nghi lễ tôn giáo chuyên nghiệp hoặc tự thực hiện dưới sự chỉ dẫn của
một nguyên nội dung nhất định.
Hành vi thờ cúng thể được thực hiện bằng tự nhân hoặc dưới hình thức
cộng đồng. Những hành vi tôn giáo đó thường được gọi nghi lễ hay lễ thức.
Những nghi l tôn giáo thường đi song hành với một hành vi thế tục như sự ra đời,
sự trưởng thành, sự chết chóc,...
Nghi lễ tầm quan trọng rất lớn đối với các tín đồ. Nghi lễ làm phong phú
thêm lời nói bằng những hành vi tạo ra một trường tôn giáo một ngôn ngữ nh
20

Preview text:

I. Cộng đồng dân tộc và những vấn đề chung ở Việt Nam
1. Khái quát chung về dân tộc
1.1 Dân tộc và những khái niệm liên quan
Khái niệm dân tộc ở Việt Nam được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, dân tộc (nation) là một cộng đồng người thống nhất, có
chung một nhà nước, lãnh thổ, một nền kinh tế, một chế độ chính trị - xã hội, có
ngôn ngữ và văn hóa chung, thống nhất. Theo nghĩa này, nói tới dân tộc là nói tới
quốc gia - dân tộc hay dân tộc – quốc gia (có thể đơn nhất - chỉ có một dân tộc hay
nhiều dân tộc – đa dân tộc hợp thành). Đó phải là nhà nước độc lập, có lãnh thổ
toàn vẹn, có chủ quyền.
Ở cách hiểu theo nghĩa rộng, dân tộc có một số đặc trưng cơ bản sau:
Một là, có chung một vùng lãnh thổ ổn định: Lãnh thổ là dấu hiệu xác định
không gian sinh tồn, vị trí địa lý của một dân tộc, biểu hiện vùng đất, vùng
trời, vùng biển mà mỗi dân tộc được quyền sở hữu. Vận mệnh của cộng
đồng tộc người gắn bó với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ quốc gia.
Hai là, có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế: Đây là cơ sở đặc trưng
quan trọng nhất của dân tộc, là cơ sở gắn kết các bộ phận, các thành viên
trong dân tộc, tạo nên tính gắn ổn định, bền vững, thống nhất trong dân tộc.
Mối quan hệ kinh tế là nền tảng cho sự vững chắc của cộng đồng dân tộc.
Nếu thiếu tính cộng đồng chặt chẽ, bền vững về kinh tế thì cộng đồng người
chưa thể trở thành một dân tộc.
Ba là, có chung một ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp: Mỗi một dân tộc có
ngôn ngữ riêng, bao gồm cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết làm cộng cụ
giao tiếp giữa các thành viên trong nhiều lĩnh vực. Ngôn ngữ dân tộc là một 1
ngôn ngữ đã phát triển và sự thống nhất về ngôn ngữ là một trong những đặc
trưng chủ yếu của dân tộc.
Bốn là, có chung một nền văn hóa và tâm lý: Văn hóa dân tộc được biểu
hiện thông qua tâm lý, tính cách, phong tục tập quán, lối sống dân tộc, tạo
nên bản sắc riêng của từng dân tộc. Văn hóa dân tộc gắn bó chặt chẽ với văn
hóa các cộng đồng tộc người trong một quốc gia. Trong quá trình sinh hoạt
cộng đồng, các thành viên của dân tộc thuộc nhiều thành phần xã hội khác
nhau cùng tham gia vào sự sáng tạo các giá trị văn hóa chung và đồng thời
hấp thụ các giá trị văn hóa chung ấy. Văn hóa dân tộc không thể phát triển
nếu không có sự giao lưu với nền văn hóa của các dân tộc khác. Vì vậy, cần
bảo tồn và phát triển nền văn hóa bản địa để tránh sự đồng hóa về văn hóa
Năm là, có chung một nhà nước (nhà nước dân tộc): Các thành viên trong
cộng đồng tộc người trong một dân tộc đều chịu sự quản lý của nhà nước
độc lập. Đây là yếu tố để phân biệt giữa quốc gia – dân tộc và dân tộc – tộc
người. Nhà nước là đặc trưng cho thể chế chính trị của dân tộc, là đại diện
cho dân tộc với các quốc gia dân tộc khác trên thế giới.
Theo nghĩa hẹp, dân tộc (ethnic) chỉ là một tộc người cụ thể. Dân tộc – tộc
người là một cộng đồng có chung một tên gọi, một ngôn ngữ (trừ trường hợp cá
biệt), được liên kết với nhau bằng những giá trị sinh hoạt văn hóa tạo thành tính
cách tộc người, có chung một ý thức tự giác tộc người.
Theo cách hiểu này, dân tộc – tộc người có một số đặc trưng cơ bản sau:
Cộng đồng về ngôn ngữ (bao gồm ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết hoặc chỉ
riêng ngôn ngữ nói): Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người khác
nhau và là vấn đề luôn được các dân tộc coi trọng và giữ gìn. Tuy nhiên,
trong quá trình phát triển tộc người, vì nhiều lí do khác nhau mà họ không
dùng ngôn ngữ mẹ đẻ mà dùng ngôn ngữ khác làm công cụ giao tiếp. 2
Cộng đồng về văn hóa: Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật
thể ở mỗi tộc người phản ảnh truyền thống, lối sống, phong tục tập quán, tín
ngưỡng, tôn giáo của tộc người đó. Lịch sử phát triển của tộc người gắn liền
với truyền thống văn hóa của họ.
Ý thức tự giác tộc người: Đây là tiêu chí quan trọng nhất để phân định một
tộc người và có vị trí quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc
người. Đặc trưng nổi bật là các tộc người luôn tự ý thức về nguồn gốc và tộc
danh của dân tộc mình, đó còn là ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát
triển của mỗi tộc người dù cho có những yếu tố tác động đến môi trường
sống hoặc ảnh hưởng đến sự giao lưu văn hóa, kinh tế, văn hóa,…
Ở hai cách hiểu trên, tuy không đồng nhất nhưng lại gắn bó mật thiết với
nhau, không tách rời. Dân tộc quốc gia bao hàm dân tộc tộc người. Dân tộc tộc
người là bộ phận hình thành nên dân tộc quốc gia.
Theo nghị định 05/NĐ-2011/NĐ-CP ngày 14/1/2011 của Chính Phủ về công tác
dân tộc, khái niệm dân tộc thiểu số được định nghĩa như sau: Dân tộc thiểu số
những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo nghị định 05/NĐ-2011/NĐ-CP, khái niệm Dân tộc thiểu số rất ít người
được hiểu là dân tộc có số dân dưới 10.000 người.
Theo nghị định 05/NĐ-2011/NĐ-CP, khái niệm Vùng dân tộc thiểu số được
định nghĩa là địa bàn có đông các dân tộc thiểu số cùng sinh sống ổn định thành
cộng đồng trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quan hệ dân tộc là mối quan hệ giữa các tộc người trong một quốc gia và
xuyên quốc gia, và mối quan hệ giữa tộc người với cộng đồng dân tộc – quốc gia
(Nation – State) trên nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa,. . Quan 3
hệ dân tộc vừa là mối quan hệ tự nhiên, vừa mang tính tất yếu trong một quốc gia
hay khu vực đa dân tộc, chịu tác động của nhiều yếu tố.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của cộng đồng dân tộc ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, trong đó dân tộc thiểu số chiếm
khoảng 14,6% dân số cả nước. Cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam được
hình thành và phát triển cùng với tiến trình lịch sử hàng nghìn năm dựng và giữ
nước của cả dân tộc. Bởi vậy, ta có thể khẳng định rằng, lịch sử hình thành của dân
tộc thiểu số gắn với lịch sử hình thành, phát triển của đất nước Việt Nam. Nghiên
cứu lịch sử hình thành, phát triển các dân tộc thiểu số không tể tách rời lịch sử hình
thành, phát triển của cộng đồng dân tộc Việt Nam, trong đó bao gồm cả dân tộc đa
số và dân tộc thiểu số. Dân tộc Sán Dìu 4
Xét về vị trí địa lý, Việt Nam nằm trên ngã ba đường giao lưu tộc người và
kinh tế, văn hóa thời cổ đại. Từ xa xưa, các dòng người từ nhiều hướng di cư đến,
quần tụ và định cư thành tổ tiên của nhiều dân tộc hiện nay.
Có nhiều dân tộc vốn sinh ra ngay tại mảnh đất Việt Nam ngay thuở ban
đầu, có nhiều dân tộc trải qua nhiều nguyên nhân sâu xa mà di cư đến. Do những
hạn chế về lịch sử, qua trình lịch sử, hình thành của các dân tộc Việt Nam từ xa
xưa không được ghi chép dựa trên hệ thống văn bản mà chủ yếu qua các chất liệu
văn học như truyền thuyết,. và đồng thời dựa trên các tài liệu khảo cổ học về sau
này. Nhưng các nhà nghiên cứu khẳng định rằng, từ thời thượng cổ, Việt Nam đã
là nơi tụ cư của nhiều dân cư thuộc các bộ lạc khác nhau. Dần dần, bởi các biến
động lịch sử - kinh tế - xã hội cùng với các cuộc chiến tranh mở rộng bờ cõi, số
lượng dân tộc của nước ta ngày càng được bổ sung thêm, thành 54 dân tộc như bây giờ.
1.3. Đặc điểm cơ bản của cộng đồng dân tộc ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa tộc người và mang nhiều đặc diểm cơ bản.
Thứ nhất, có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người.
Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó người Kinh chiếm khoảng 85,7% dân số
cả nước, còn lại là các dân tộc thiểu số. Tỷ lệ số dân giữa các dân tộc không đồng
đều, có dân tộc có số dân lên đến 1 triệu người (Tày, Thái,…), có dân tộc chỉ vài
ba trăm (Ơđu, Pu péo,…). Thực tế cho thấy, ở nhiều dân tộc với số dân ít ỏi rất khó
khăn trong việc tổ chức đời sống, bảo tồn tiếng nói, văn hóa dân tộc và phát triển
nòi giống. Vì vậy, Đảng và nhà nước ta rất quan tâm trong việc hỗ trợ đối với các
dân tộc thiểu số và các dân tộc thiểu số rất ít người sinh sống ở vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn với những chính sách đặc thù.
Thứ hai, các dân tộc cư trú xen kẻ nhau. 5
Việt Nam vốn là nơi chuyển cư của nhiều dân tộc ở khu vực Đông Nam Á,
vì vậy đã tạo nên bản đồ cư trú của các dân tộc cư trú phân tán, xen kẻ nhau và
không có lãnh thổ tộc người riêng. Thế nên không có một dân tộc nào ở Việt
Nam cư trú tập trung và duy nhất trên một địa bàn. Điều đó giúp cho các dân
tộc ở nước ta có cơ hội giao lưu văn hóa và giúp đỡ nhau, đoàn kết trở thành
một cộng đồng vững mạnh. Ngoài ra, trong quá trình sinh sống đôi lúc xảy ra
mâu thuẫn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch phá hoại, tấn công đến an ninh
chính trị và sự thống nhất của đất nước.
2. Vấn đề bình đẳng dân tộc ở Việt Nam và những chính sách của nhà nước trong
việc phòng chống phân biệt chủng tộc 2.1 Bình đẳng dân tộc
2.2. Những chính sách của nhà nước trong việc phòng chống phân biệt chủng tộc
Là một quốc gia độc lập, thống nhất, đa dân tộc, nên ở Việt Nam, việc thực
hiện tốt vấn đề bình đẳng giữa các dân tộc là một vấn đề hết sức quan trọng; đồng
thời, việc thực hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam còn là một trong
những nhân tố rất quan trọng bảo đảm cho xã hội Việt Nam luôn ổn định và phát
triển. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam đã được thể hiện trong các
lĩnh vực trong cuộc sống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nhất là từ khi Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời và
lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến nay.
Về kinh tế, nội dung, nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc là các chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số nhằm phát huy tiềm năng phát triển, từng bước khắc phục khoảng cách
chênh lệch của các vùng, các dân tộc. Thực hiện các nội dung kinh tế thông qua
các chương trình, dự án phát triển kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số, thúc đẩy quá 6
trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ địa cách mạng.
Xác định tầm quan trọng của khu vực miền núi trong phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, trách nhiệm và tình cảm đối với đồng bào dân tộc thiểu số, trong
những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và ưu tiên đầu tư cho địa bàn
này bằng cả hệ thống cơ chế, chính sách, chương trình, dự án và nguồn lực thực hiện.
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho khu vực miền
núi, vùng dân tộc thiểu số, nhất là các chính sách giảm nghèo nhằm hỗ trợ người
dân tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và
vệ sinh, tiếp cận thông tin như: chính sách hỗ trợ 100% BHYT cho đồng bào
DTTS ở các địa bàn đặc biệt khó khăn; chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ các
điều kiện học tập, chính sách nội trú, bán trú cho học sinh dân tộc thiểu số; chính
sách hỗ trợ nhà ở, nước sinh hoạt, hỗ trợ phương tiện nghe nhìn…
Xác định vấn đề tăng cường hệ thống cơ sở vật chất cho địa bàn miền núi là
giải pháp quan trọng nhằm tạo điều kiện về hạ tầng sản xuất và dân sinh cho người
dân trên địa bàn, trong những năm qua, Nhà nước đã có nhiều chương trình, dự án
ưu tiên đầu tư cho địa bàn này, như: Chương trình trung tâm cụm xã, Chương trình
135, Chương trình 30a, Chương trình giao thông miền núi, Chương trình kiên cố
hóa trường, lớp học, trạm y tế xã, trái phiếu Chính phủ… ưu tiên đầu tư các dự án
ODA của WB, ADB qua nhiều giai đoạn.
Nguồn lực thực hiện các chính sách hỗ trợ trực tiếp người dân luôn được
Nhà nước quan tâm bố trí, Nhà nước đã bố trí là 630.764 tỷ đồng để thực hiện hỗ
trợ về giáo dục, y tế, phát triển hạ tầng, kinh tế xã hội, vùng dân tộc thiểu số và 7
miền núi, chiếm 71,4% tổng chi cho các nhiệm vụ này của cả nước, chiếm 80%
tổng chi giảm nghèo của vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Nguồn lực Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững được ưu
tiên bố trí thực hiện cho địa bàn dân tộc, miền núi chiếm 70% tổng vốn Chương
trình qua các giai đoạn; ngoài ra, nguồn vốn cho vay của Ngân hàng Chính sách xã
hội chiếm 52,5% tổng dư nợ cả nước trên địa bàn miền núi, dân tộc.
Ở từng địa phương, cụ thể tại tỉnh Kontum, thực hiện giải pháp giảm nghèo
bền vững và thực hiện các chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh.
Giảm nghèo bền vững ở vùng dân tộc thiểu số là chủ trương lớn của Đảng,
Nhà nước nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu
số, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, các dân tộc, nhóm
dân cư. Sau 29 năm được tái thành lập tỉnh và hòa chung với công cuộc đổi mới
đất nước, với nhiều chương trình, dự án như: Chương trình Mục tiêu Quốc gia về
Nông thôn mới, Chương trình Mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo bền vững, trong
đó có Chương trình 135, Nghị quyết 30a của Chính phủ, . . Đặc biệt, là thực hiện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về Công tác
dân tộc đã đạt được những thành quả hết sức quan trọng trên tất cả các lĩnh vực
chính trị , kinh tế, giáo dục, văn hóa, y tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. .ở vùng
dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Kết quả đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ
phát triển sản xuất và dân sinh trên địa bàn huyện, xã, thôn thuộc Chương trình phù
hợp quy hoạch dân cư và quy hoạch sản xuất, đảm bảo phục vụ có hiệu quả đời
sống và phát triển sản xuất của người dân 8
Về chính trị, thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau
cùng phát triển giữa các dân tộc. Chính sách dân tộc góp phần nâng cao tính tích
cực chính trị của công dân; nâng cao nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số
về tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, đoàn kết giữa các dân tộc, thống nhất mục
tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bảo đảm vai trò tham gia của người dân tộc thiểu số trong Quốc hội. Trong
sự thành công của mỗi nhiệm kỳ Quốc hội đều có vai trò đóng góp của các đại biểu
là người dân tộc thiểu số (DTTS). Việc tăng cường sự tham gia của đại diện người
DTTS vào Quốc hội và cơ quan dân cử ở các địa phương là một chủ trương đúng
đắn nhưng cũng là công việc khó khăn với những đặc thù riêng, cần đến sự quan
tâm của cả hệ thống chính trị.
“Việc người dân tộc thiểu số tham gia bộ máy nhà nước, tổ chức chính trị
đại diện cho nhân dân cũng đạt thành tựu đáng kể, tăng cả về số lượng, chất lượng
qua từng nhiệm kỳ. Số lượng đại biểu Quốc hội người dân tộc thiểu số đã tăng theo
các khóa: Khoá I (1946) chiếm 10,2%, khóa XIII chiếm 15,6%. Khóa XIV có 86 9
đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số thuộc 32 dân tộc khác nhau, chiếm tỷ lệ
17,3%”, theo ông Giàng A Chu, chính trị gia người dân tộc Hmong, ông hiện là
Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa
XIV nhiệm kì 2016-2021, thuộc đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Yên Bái, Chủ tịch
nhóm nghị sĩ hữu nghị Việt Nam - Maroc.
Thông tin kỹ hơn về sự tham gia của người dân tộc thiểu số trong cuộc bầu
cử ngày 23/5/2021 này, Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội cho hay, theo
Nghị quyết số 1135/NQ-UBTVQH13/ 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa
XIII, dự kiến khi lập danh sách chính thức những người ứng cử là người dân tộc
thiểu số phải có ít nhất 165 người, bằng 18% tổng số người trong danh sách ứng cử.
Nghị quyết số 1185/NQ-UBTVQH14 ngày 11/01/2021, tiếp tục quy định số lượng,
cơ cấu, thành phần Đại biểu Quốc hội khóa XV, trong đó đại biểu là người dân tộc
thiểu số bảo đảm tỷ lệ ít nhất 18% tổng số người trong danh sách người ứng cử đại
biểu Quốc hội. Hiện nay còn 4 dân tộc (Lự, Ơ đu, Brâu và Ngái) chưa có đại diện
tham gia các khóa Quốc hội và đây cũng là mục tiêu cần phấn đấu để các dân tộc
đều có đại biểu Quốc hội.
Về văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc. Gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người, phát triển 10
ngôn ngữ, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân
dân các dân tộc. Đào tào cán bộ văn hóa, xây dựng môi trường, thiết chế văn hóa
phù hợp với điều kiện của các tộc người trong quốc gia đa dân tộc. Đồng thời, mở
rộng giao lưu văn hóa với các quốc gia, các khu vực và trên thế giới. Đấu tranh
chống tệ nạn xã hội, chống diễn biến hòa bình trên mặt trận tư tưởng – văn hóa hiện nay.
Đầu năm 2018, lãnh đạo xã Pà Cò (huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình) có ý
tưởng vận động cộng đồng người Mông bỏ Tết riêng để tổ chức Tết Nguyên đán
chung với người Kinh. Lý do được xã này đưa ra là để giảm thiểu thời gian nghỉ
ngơi và hạn chế tệ nạn. Xét từ góc độ hành chính, việc làm này ít nhiều có ý nghĩa
tích cực, nhưng từ góc độ văn hóa thì đó là một ứng xử chưa thật sự khoa học.
Chúng ta biết rằng, Tết cổ truyền của người Mông (và nhiều tộc người khác) là
một di sản văn hóa có nguồn gốc lịch sử và giá trị riêng, là thời điểm thực hành
văn hóa lớn nhất trong năm. Tết ấy là không gian thể hiện bản sắc tộc người với
các lễ thức và văn hóa ẩm thực, trò chơi dân gian, giao lưu dân ca, dân nhạc, dân
vũ,… độc đáo. Gộp Tết là dấu hiệu có thể làm phai nhạt, dẫn đến triệt tiêu nhiều
giá trị văn hóa đặc sắc đã có. Những cách ứng xử chưa thấu đáo như vậy ít nhiều
đã làm tổn thương đến một bộ phận đồng bào, họ cảm thấy bị phân biệt, đối xử và
thiếu sự tôn trọng. Từ đó, sẽ dẫn đến tâm lý bị lấn át và mặc cảm, tự ti. Cần đứng ở
vị trí là chủ thể văn hóa, sẽ lý giải được tại sao những việc làm nêu trên lại khó
nhận được sự đồng thuận.
Nhà nước ta đã xây dựng Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam - một trong những
nơi trưng bày và lưu giữ những giá trị về văn hóa của 54 dân tộc anh em trên khắp
cả nước như: y phục, trang sức, vũ khí, nhạc cụ, tôn giáo, tín ngưỡng và nhiều hoạt động tinh thần khác. 11
Việt Nam hiện có 54 dân tộc anh em, trong đó nhiều dân tộc thiểu số có chữ
viết, tiêu biểu như: Tày, Thái, Hoa, Khmer, Nùng, Mông, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na,
Xơ Đăng, Cơ Ho, Chăm, Mnông. . Việc bảo vệ sự đa dạng văn hóa, ngôn ngữ các
dân tộc hiện đang trở thành vấn đề cần quan tâm.
Nhà nghiên cứu Ma Văn Đức, Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số
tỉnh Tuyên Quang khẳng định: Tiếng nói, chữ viết là hồn cốt của một tộc người.
Mất tiếng mẹ đẻ cũng tương tự với nguy cơ mất đi hồn cốt, bản sắc văn hóa của tộc người đó. .
Trên thực tế, từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước cũng như nhiều địa
phương đã có nhiều chính sách khuyến khích, bảo tồn văn hóa dân tộc, trong đó có
chú trọng đến việc bảo tồn tiếng nói, chữ viết của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Nghị định số 82/2010/NÐ-CP của Chính phủ đã quy định việc dạy và học tiếng nói,
chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông, trung tâm giáo
dục thường xuyên. Đề án bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc Việt Nam đến
năm 2020 cũng chú trọng đến việc xây dựng chính sách và khuyến khích đồng bào
các dân tộc sử dụng ngôn ngữ dân tộc. 12
Hiện nay đã có một số ngôn ngữ, chữ viết dân tộc thiểu số được sử dụng trên
các phương tiện thông tin đại chúng từ trung ương tới địa phương, như: Tày, Thái,
Dao, Mông, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Chăm, Khmer… Nhiều địa phương trên cả
nước đã mở lớp dạy tiếng nói, chữ viết cho đồng bào dân tộc. Một số tỉnh còn đưa
tiếng dân tộc vào dạy trong trường học cho học sinh tiểu học, học sinh trung học cơ
sở như Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Đắk Nông…
Về y tế, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người đồng bào dân tộc.
Trong những năm qua, Đảng và nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính
sách, dành nguồn lực không nhỏ để phát triển toàn diện kinh tế - xã hội vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhằm không ngừng nâng cao sức khỏe, chất
lượng sống cho người dân, góp phần nâng chất lượng nguồn nhân lực vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi, cũng như tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân tộc ngày càng bền chặt.
Trong thời gian qua, chính sách y tế chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân
tộc thiểu số được thực hiện theo hướng: Ưu tiên giải quyết các vấn đề sức khỏe;
tăng cường khả năng tiếp cận cũng như cung cấp dịch vụ y tế có chất lượng; giảm
gánh nặng chi phí chăm sóc sức khỏe. 13
Đã ưu tiên bố trí ngân sách thực hiện chương trình mục tiêu, các chương
trình, dự án để đầu tư xây dựng, nâng cấp, phát triển hệ thống cơ sở khám, chữa
bệnh, trang thiết bị y tế (87 trạm y tế từ Dự án Hỗ trợ Ngành Y tế của EU giai đoạn
01, 288 trạm y tế từ Dự án Hỗ trợ Ngành Y tế của EU giai đoạn 02, 58 trạm y tế từ
Dự án Chăm sóc sức khỏe nhân dân các tỉnh Tây Nguyên của ADB giai đoạn 02. .).
Bố trí kinh phí mua thẻ BHYT miễn phí cho đồng bào dân tộc thiểu số. Năm 2016,
91% đồng bào dân tộc có thẻ BHYT; năm 2017, là 92,05% và năm 2018, là
93,68% đồng bào dân tộc có thẻ BHYT. Đồng thời, tạo điều kiện cho đồng bào
được khám, chữa bệnh ở tất cả cơ sở y tế trên địa bàn và được Quỹ BHYT chi trả
chi phí; nguồn nhân lực khám, chữa bệnh cho đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng
được đảm bảo về số lượng và chất lượng, các cơ sở y tế Quân – dân y tích cực
khám, chữa bệnh cho nhân dân, tuyên truyền, vận động nhân dân xây dựng Làng
Văn hóa sức khỏe, nếp sống vệ sinh khoa học, bài trừ hủ tục, tuyên truyền phòng,
chống HIV/AIDS, thực hiện Chương trình Dân số, kế hoạch hóa gia đình.
Chính sách hỗ trợ cho đồng bào dân tộc thiểu số sinh con đúng chính sách,
chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản (kiêm thêm nhiệm vụ cô đỡ thôn,
bản) đã được triển khai thực hiện hiệu quả, góp phần phát huy vai trò cầu nối giữa
y tế xã với người dân.
Ủy ban Dân tộc cũng cho biết, trong giai đoạn 2011 – 2018, Ủy ban đã ban
hành các kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ làm công tác dân tộc,
đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó, có nội dung lồng ghép tuyên truyền, phổ biến
chính sách, pháp luật về khám, chữa bệnh, BHYT, dân số. .
Đề nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Khám, chữa bệnh theo
hướng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo kinh phí, cơ sở
vật chất, trang thiết bị y tế, dịch vụ khám, chữa bệnh cho đồng bào dân tộc thiểu số
để người dân được thụ hưởng đầy đủ quyền được khám, chữa bệnh và chính sách 14
theo quy định của Luật BHYT; quy định chính sách hỗ trợ bảo tồn, sử dụng các bài
thuốc dân gian, phương pháp chữa bệnh cổ truyền có giá trị của các dân tộc thiểu
số; đẩy mạnh xã hội hóa, phát triển các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, khám, chữa
bệnh chất lượng cao ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi.
Cụ thể tại tỉnh Kontum, ngày 12-12, tiếp tục thực hiện hành trình “Vì sức
khỏe cộng đồng, về với bản làng khám bệnh, cấp thuốc miễn phí cho bà con đồng
bào dân tộc thiểu số vùng biên giới”, đoàn công tác y, bác sĩ của Bệnh viện Quân y
15 (Binh đoàn 15) tổ chức khám bệnh và cấp phát thuốc miễn phí cho bà con đồng
bào dân tộc thiểu số tại vùng biên giới Mô Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum.
Trước đó, đoàn công tác của Bệnh viện Quân y 15 cũng đã tổ chức khám
bệnh, cấp thuốc miễn phí cho hơn 1.450 lượt bà con địa phương ở vùng biên giới
huyện Ia Grai, xã Ia Sao (Ia Grai) với kinh phí trên 100 triệu đồng. Hoạt động này
rất thiết thực, ý nghĩa, mang tính nhân văn cao cả, được cấp ủy, chính quyền địa
phương đánh giá cao, ủng hộ, góp phần thắt chặt tình quân dân bền vững.
2.3 Chính sách của nhà nước trong việc phòng chống chủ nghĩa bá quyền
Chủ nghĩa bá quyền có thể hiểu là dân tộc lớn sử dùng sự lớn mạnh về kinh
tế, văn hóa, xã hội để bành trướng, ức hiếp những dân tộc nhỏ hơn.
Trong quan hệ giữa các dân tộc thiểu số với dân tộc đa số (dân tộc Kinh), ở
một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam, rất dễ xảy ra nhiều mâu thuẫn và mang đến
nhiều hệ lụy phức tạp nếu không được giải quyết một cách hợp lý. Ở một số quốc
gia, tộc người đa số với tâm lý dân tộc lớn đã tìm cách áp đặt các dân tộc thiểu số,
đồng thời, các dân tộc thiểu số bị trói buộc với tâm lý tự ti, dẫn đến sự hòa nhập xã
hội bị hạn chế, thậm chí xảy ra xung đột.
Ở Việt Nam, nhờ kiên trì thực hiện nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển nên các biểu hiện trên được giảm thiểu về cơ 15
bản. Do địa bàn cư trú xen kẻ nhau nên quá trình giao lưu giữa người Kinh và
người dân tộc thiểu số được đẩy mạnh. Nhiều kinh nghiệm sản xuất, nhiều tiến bộ
khoa học – kĩ thuật được chuyện giao, nhờ đó góp phần nâng cao trình độ, phát
triển của các cộng đồng dân tộc thiểu số.
Ngoài quan hệ kinh tế, các quan hệ về văn hóa xã hội cũng được thúc đẩy,
góp phần củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc, giảm thiểu những mâu thuẫn,
xung đột trong quá trình chung sống.
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường, nhiều vấn đề phức tạp mới nảy
sinh. Một bộ phận người Kinh có biểu hiện gian dối trong kinh tế như cho vay
nặng lãi, bán hàng kém chất lượng, thậm chí lợi dụng sự chất phát của đồng bào
thiểu số để trục lợi. Thực tế này làm xấu đi mối quan hệ giữa người Kinh với người
dân tộc thiểu số, giảm thiểu lòng tin, thậm chí còn gia tăng sự ngờ vực lẫn nhau.
Mặt khác, do quá trình phát triển kinh tế - xã hội không được kiểm soát tốt
nên một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số được hưởng lợi từ thành quả lao động
không tương xứng. Tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất, tỷ lệ nghèo đói trong đồng
bào dân tộc còn cao,. . Những vấn đề này đã kéo theo các điểm nóng về an ninh,
trật tự rất phức tạp.
Vì sự biến đổi quá nhanh của môi trường, một bộ phận khá lớn đồng bào dân
tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn trong quá trình thích nghi, hội nhập, trở nên thụ
động, nghèo đói. Một số cán bộ còn mang nặng định kiến, không tìm hiểu và cảm
thông, chia sẻ đã vội gán cho đồng bào những định kiến tiêu cực như: “phức tạp”,
“lười biếng”, “lười lao động”, “giỏi phá rừng”,. . Tư tưởng định kiến, coi thường
đồng bào ăn sâu trong nhiều cá nhân, và họ biểu hiện sự miệt thị trong lời nói, hành động. 16
Tất cả những định kiến, tự định kiến, kì thị và tự kì thị như trên đều là lực
cản sự phát triển, tạo ra sự phân biệt, chia rẽ dân tộc, làm suy yếu khối đại đoàn kết
dân tộc, đồng thời ảnh hưởng đến tính ưu việt, nhân văn trong đường lối và chính
sách dân tộc, làm phai nhạt niềm tin của đồng bào các dân tộc thiểu số với Đảng và
Nhà nước; tạo điều kiện nảy sinh tệ nạn quan liêu, tham nhũng; tạo cơ hội để các
thế lực thù địch xuyên tạc, vu khống,. .
Do đó, để đường lối của Đảng và Nhà nước luôn đạt hiệu quả thiết thực, mọi
cán bộ, đảng viên cần khắc phục, loại trừ “tư tưởng dân tộc hẹp hòi” trong nhận
thức và hành động, nhất là cán bộ, đảng viên đang công tác tại vùng có đồng bào
dân tộc thiểu số sinh sống. Cần quán triệt một cách sâu sắc và rộng rãi đến hệ
thống chính trị, các tổ chức xã hội và toàn thể quần chúng nhân dân các nội dung
được thể hiện ở khoản 2-3, điều 6, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 2013,
quán triệt nghiêm túc quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về dân tộc và công tác dân tộc.
II. Tôn giáo trong tiến trình phát triển đất nước
1. Khái quát chung về tôn giáo 1.1 Khái niệm tôn giáo
“Tôn giáo” là một thuật ngữ không thuần Việt, được du nhập từ nước ngoài
vào từ cuối TK XIX. Xét về nội dung, thuật ngữ tôn giáo khó có thể hàm chứa
được tất cả nội dung đầy đủ của nó từ cổ đến kim, từ Đông sang Tây.
“Tôn giáo” bắt nguồn từ thuật ngữ “religion” (Tiếng Anh) và “religion” lại
xuất phát từ thuật ngữ “legere” (Tiếng Latin) có nghĩa là thu lượm sức mạnh siêu nhiên. 17
Tôn giáo là niềm tin vào các thế lực siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng
liêng, được chấp nhận nhằm lí giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới
bên kia. Niềm tin đó rất đa dạng, tùy thuộc vào những thời kì lịch sử, hoàn cảnh
địa lý – văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành
bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.
Thuật ngữ “tôn giáo” vốn có nguồn gốc từ phương Tây và bản thân nó cũng có
một quá trình biến đổi nội dung. Thực tế đã xuất hiện rất nhiều định nghĩa khác
nhau về tôn giáo của nhiều dân tộc và nhiều tác giả trên thế giới. Trước khi du
nhập vào Việt Nam, tại Việt Nam cũng có những từ mang nghĩa tương đồng với nó:
o Đạo: Từ này xuất xứ từ Trung Hoa, tuy nhiên “đạo” không hẳn đồng nghĩa
với tôn giáo vì bản thân từ đạo cũng có thể có ý nghĩa phi tôn giáo. “Đạo” có
thể hiểu là con đường, học thuyết. Mặt khác, “đạo” cũng có thể hiểu là cách
ứng xử làm người. Vì vậy khi sử dụng từ “đạo” với ý nghĩa tôn giáo, thường
phải đặt tên tôn giáo sau “đạo”. Ví dụ: đạo Phật, đạo Tin Lành,. .
o Giáo: Từ này có ý nghĩa tôn giáo khi nó đứng sau tên một tôn giáo cụ thể
như là Phật giáo, Nho giáo,. . “Giáo” ở đây là giáo hóa, dạy bảo theo đạo lý
của tôn giáo. Tuy nhiên “giáo” ở đây cũng có thể hiểu là lời dạy của thầy dạy học.
1.2. Nội dung và chức năng của tôn giáo
Nói đến nội dung tôn giáo là đề cập đến giáo lý, kinh sách của các tôn giáo.
Đó là lời kể lại bằng truyền miệng, những bí tích, tiểu sử của những bậc sáng lập
mang yếu tố hư ảo và thực tế, liên quan đến những thần linh, những đối tượng liên 18
quan đến thế giới bên kia nhưng lại có liên quan đến một cộng đồng, một cá nhân
của thế giới trần tục và được những tín đồ khác coi là có thực.
Nội dung tôn giáo còn là sự đề cập đến những ước nguyện, một mục đích mang
tính tuyệt đối, vĩnh cửu cho cộng đồng, cho cá nhân, điều mà người trần dù có cố
gắng đến mấy cũng không với tới được. Nội dung của tôn giáo bao hàm các vấn đề sau đây:
• Huyền thoại và triết lý:
+ Huyền thoại là một hình thức ra đời từ thuở nguyên sơ, là lý giải của
con người có thể sai hoặc đúng về một hiện tượng tự nhiên hay xã hội mà
bản thân con người không thể hiểu nổi và trong đó có những cái khác lạ,
không giống bình thường nhưng lại tác động đến họ. Qua một dịp tình cờ,
ngẫu nhiên thì họ coi những thế lực đó như một thực thể vô hình chi phối tốt
hoặc xấu đến họ từ đó dẫn đến một huyền thoại mang tính tôn giáo. Huyền
thoại lúc đầu có hỉnh thức rất đơn giản, phù hợp với trình độ nhận thức, tư
duy lúc đó nhưng nội dung có thể lại phi lí với tư duy người hiện đại. Huyền
thoại phải được củng cố bằng lễ thức mới thành nội dung của một hình thức
tôn giáo nhưng chủ yếu phải được tin là có thật. Vì vậy, niềm tin là yếu tố
quan trọng nhất để người ta lý giải những sự vật, hiện tượng mà con người quan tâm.
+ Nội dung các tôn giáo được định hình không chỉ dừng lại ở các
huyền thoại mà còn là những triết lý rút ra trong đời sống thường ngày. Đó
là các triết lý có hoặc không có tác giả, sau đó các nhà thần học, các triết gia
bổ sung và hệ thống lại mới xây dựng nên được giáo lý. Giáo lý là hình thức
hoàn thiện hơn rất nhiều so với huyền thoại. Bên cạnh đó, các tôn giáo còn
phải vay mượn, thêm thắt, tiếp biến những nội dung của các tôn giáo khác 19
hay ý thức hệ khác mà nó tiếp xúc để cho phù hợp, thích nghi với thời đại, dân tộc để tồn tại.
• Thế giới bên kia: Những yếu tố cấu thành nên nội dung của tôn giáo cho dù
ở hình thức sơ khai hay đã phát triển đều không nhằm ngoài mục đích tạo
dựng nên một thế giới bên kia đối lập với thế giới trần tục. Thế giới được tạo
dựng này nhằm thỏa mãn một câu hỏi mà nếu không viện đến tôn giáo thì
không ai trả lời: “Sau cái chết là gì?”. Thế giới bên kia với những sức mạnh
của thần linh hướng con người đến một cuộc sống tự thân lương thiện. Mọi
tội ác của con người xảy ra ở trần gián sẽ bị phán xử khi bước qua thế giới ấy
Mỗi dân tộc hay mỗi khu vực tạo ra một bộ mặt của thế giới bên kia cơ bản
có thể giống nhau nhưng biểu hiện lại khác nhau. Các tôn giáo lớn xuất hiện
muộn hơn đã nhào nặn, hệ thống lại để tạo nên thế giới bên kia phù hợp với điện thần của mình. 1.3. Hành vi tôn giáo
Bất kì tôn giáo nào muốn tồn tại phải có những hành vi thờ cúng và hành vi
này liên quan đến niềm tin, giáo lý và được thực hiện bởi các chức sắc, những
người làm nghi lễ tôn giáo chuyên nghiệp hoặc tự thực hiện dưới sự chỉ dẫn của
một nguyên lý và nội dung nhất định.
Hành vi thờ cúng có thể được thực hiện bằng tự cá nhân hoặc dưới hình thức
cộng đồng. Những hành vi tôn giáo đó thường được gọi là nghi lễ hay lễ thức.
Những nghi lễ tôn giáo thường đi song hành với một hành vi thế tục như sự ra đời,
sự trưởng thành, sự chết chóc,. .
Nghi lễ có tầm quan trọng rất lớn đối với các tín đồ. Nghi lễ làm phong phú
thêm lời nói bằng những hành vi tạo ra một trường tôn giáo – một ngôn ngữ hành 20