Tiểu luận về "Phân tích các trường hợp huỷ việc kết hôn trái pháp luật"
Tiểu luận về "Phân tích các trường hợp huỷ việc kết hôn trái pháp luật" của Đại học Yersin Đà Lạt giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật hôn nhân và gia đình
Trường: Đại học Yersin Đà Lạt
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD| 36067889 LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hôn nhân là một hiện tượng xã hội, là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người
đàn bà được pháp luật thừa nhận để xây dựng gia đình và chung sống với nhau suốt đời.
Sự liên kết đó phát sinh và hình thành do việc kết hôn. Do đó, kết hôn đã trở thành một chế
định được quy định độc lập trong hệ thống pháp luật về Hôn nhân và gia đình. Tại đó quy
định cụ thể về những điều kiện kết hôn hợp pháp cũng như các hình thức kết hôn trái pháp luật.
Nhà nước ta rất quan tâm đến việc xây dựng các chuẩn mực để tạo nên gia đình văn hóa
,tiến bộ mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc . Mục tiêu này đã được luật hóa
trong các văn bản pháp luật nói chung, đặc biệt là pháp luật hôn nhân và gia đình. Kết hôn
là bước khởi đầu hình thành nên gia đình, vì vậy việc quy định các điều kiện kết hôn là yêu
cầu tất yếu của xã hội . Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, những mối quan hệ
cũng như những vấn đề về tâm sinh lý của con người ngày càng trở nên phức tạp. Điều đó
ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ hôn nhân, gia đình, trong đó có việc kết hôn giữa hai
bên. Trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp kết hôn trái pháp luật gây ra những ảnh hưởng
vô cùng tiêu cực đến mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, đến lối sống và đạo
đức xã hội. Kết hôn trái pháp luật vẫn tồn tại như một hiện tượng xã hội không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể mà còn ảnh hưởng đến
đạo đức và trật tự xã hội. Do đó, nghiên cứu về kết hôn trái pháp luật trong đời sống xã hội
hiện nay là vô cùng cần thiết. Không chỉ nhằm dự liệu thêm các trường hợp phát sinh, mà
quan trọng hơn đó là hoàn thiện hơn nữa cách khắc phục, giải quyết các trường hợp vi
phạm đó. Nhằm làm rõ các trường hợp hủy việc kêt hôn trái pháp luật nên nhóm em lựa
chọn đề tài “Phân tích các trường hợp huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo Luật hôn nhân
và gia đình năm năm 2014”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ khái niệm kết hôn trái pháp luật cũng
như phân tích về các trường hợp hủy việc kết hôn trái pháp luật. Đồng thời, phân tích, đánh 1 lOMoARcPSD| 36067889
giá, nhìn nhận thực trạng và hậu quả và xử lí theo các quy định của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện chính
sách pháp luật của Nhà nước về các trường hợp hủy kết hôn trái pháp luật
Nhiệm vụ để đạt được mục đích nghiên cứu trên:
- Nghiên cứu các lí luận về trường hợp hủy kết hôn trái pháp luật như: khái niệm kết
hôn trái pháp luật; thẩm quyền quyết định hủy kết hôn; căn cứ hủy việc kết hôn
- Nghiên cứu về hậu quả pháp lý của việc kết hôn trái pháp luật và đường lối xử lý
đối với một số trường hợp kết hôn trái pháp luật
- Đánh giá về thực tiễn trường hợp hủy kết hôn trái pháp luật, một số bất cập và kiến nghị
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Là một số vấn đề lý luận về hủy việc kết hôn trái pháp
luật, các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014; tình trạng hủy việc kết hôn trái
pháp luật trong những năm gần đây và thực trạng pháp luật điều chỉnh cũng như các thiết
chế đảm bảo thực thi việc áp dụng pháp luật trong việc xử lý hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong pháp luật Hôn nhân và gia đình, vấn đề kết hôn trái
pháp luật có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, với tên đề tài:
Phân tích các trường hợp huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo Luật hôn nhân và gia đình,
luận văn sẽ chủ yếu đề cập đến các vấn đề lý luận xung quanh quan niệm việc hủy kết hôn
trái pháp luật; những quy định về hủy kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 cũng như thực tiễn hủy kết hôn trái pháp luật trong xã hội hiện nay.
Từ đó tìm ra những bất cập và đưa ra các phương hướng giải quyết.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu, thu thập thông tin từ các văn bản pháp luật
đã được ban hành bởi Quốc hội, các nguồn thông tin uy tín của Nhà nước Việt Nam. 2 lOMoARcPSD| 36067889
Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết: Đề tài sử dụng phương pháp kết hợp cả
phân tích lẫn tổng hợp tư liệu. Phân tích dựa trên nền tảng là những thông tin từ các văn
bản pháp luật đã được ban hành bởi Quốc hội, các nguồn thông tin uy tín của Nhà nước
Việt Nam… Để nhận thức, phát hiện và khai thác các khía cạnh khác nhau của đề tài. Từ
đó phát hiện ra những xu hướng hay đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu cần thiết
phục vụ cho đề tài nghiên cứu. Trong phương pháp này, những thông tin quan trọng liên
quan trực tiếp đến mục đích nghiên cứu đề tài sẽ được lựa chọn và lưu lại. Đây là phương
pháp liên kết, sắp xếp tài liệu, thông tin lý thuyết đã thu được. Từ đó tạo tiền đề, phân tích
chính xác về các trường hợp huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm: Trong phương pháp này, chúng tôi dùng
những lập luận, quan điểm đổi mới để xem xét lại những thành quả thu được trong thực
tiễn, từ những kinh nghiệm trong quá khứ để rút ra những kết luận, hạn chế, giải pháp khắc
phục việc kết hôn trái pháp luật theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Phương pháp
này được sử dụng với mục đích cải tiến các lý luận đã tìm ra trước đó, phát triển nó phù
hợp với yêu cầu của hiện tại.
Ngoài ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác: phương pháp diễn dịch và quy
nạp, đối chiếu và so sánh,...
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn nghiên cứu
Đề tài có thể làm tài liệu để tham khảo và nghiên cứu về các trường hợp huỷ việc kết hôn
trái pháp luật theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
6. Bố cục của tiểu luận
Chương I: Khái quát lý luận về trường hợp hủy kết hôn trái pháp luật.
Chương II: Cơ sở pháp lý và ảnh hưởng của việc hủy kết hôn trái pháp luật.
Chương III: Thực tiễn trường hợp hủy kết hôn trái pháp luật ở Việt Nam hiện nay. 3 lOMoARcPSD| 36067889
Chương 1 Khái quát lí luận về trường hợp hủy kết hôn trái pháp luật
1.1Khái niệm kết hôn trái pháp luật
Kết hôn trái pháp luật là hình thức kết hôn không được pháp luật thừa nhận mặc dù trong
chừng mực nào đó hành vi kết hôn này có tuân thủ pháp luật. Kết hôn trái pháp luật là kết
hôn phạm vào các điều mà pháp luật cấm. Theo nghĩa này, các hành vi vi phạm điều cấm
của pháp luật đều là kết hôn trái pháp luật. Cách hiểu này chưa thể hiện hết nội hàm của
khái niệm kết hôn trái pháp luật theo quy định của pháp luật hiện hành. Theo Khoản 6 Điều
3 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014: “ Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ
đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi
phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này”.
Theo quy định trên, kết hôn trái pháp luật là hành vi vi phạm pháp luật. Kết hôn trái pháp
luật là việc kết hôn có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng ở thời
điểm kết hôn một hoặc cả hai bên tham gia việc kết hôn vi phạm các điều kiện kết hôn do
luật định. Nói cách khác, việc kết hôn này được cơ quan hộ tịch cấp Giấy chứng nhận kết
hôn nhưng việc kết hôn đó không làm phát sinh quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ do vi
phạm các điều kiện do luật định. Việc kết hôn trái pháp luật sẽ bị xử lý theo quy định của
pháp luật và không được nhà nước bảo hộ như việc kết hôn hợp pháp.
1.2 Cơ quan có thẩm quyền hủy kết hôn trái pháp luật
Theo Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014, Điều 29 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân là cơ quan có thẩm quyền hủy việc kết hôn trái pháp
luật. Tòa án nơi việc đăng ký kết hôn trái pháp luật được thực hiện có thẩm quyền giải
quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Người yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp
luật cũng có thể yêu cầu Toà án nơi một trong các bên đăng ký kết hôn trái pháp luật giải
quyết. Như vậy, Ủy ban nhân dân là cơ quan có thẩm quyền tiến hành việc đăng ký kết
hôn, còn Tòa án nhân dân là cơ quan có thẩm quyền huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Đây
là sự phân định thẩm quyền trong việc giải quyết những vụ việc về hôn nhân và gia đình. 4 lOMoARcPSD| 36067889
Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật nếu
phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật về việc kết hôn theo luật định.
1.3 Căn cứ hủy việc kết hôn trái pháp luật
Căn cứ hủy việc kết hôn trái pháp luật là cơ sở pháp lý do pháp luật quy định và khi có
hành vi vi phạm pháp luật về kết hôn, theo yêu cầu của các chủ thể có thẩm quyền, tòa án
ra quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật đó. Tòa án nhân dân chỉ huy việc kết hôn trái
pháp luật khi việc kết hôn vi phạm các căn cứ do luật định. Theo pháp luật hiện hành, căn
cứ để hủy việc kết hôn trái pháp luật bao gồm: Kết hôn vi phạm về độ tuổi, về sự tự nguyện,
nhận thức và vi phạm các điều kiện cấm kết hôn.
Thứ nhất, nam, nữ tham gia kết hôn khi chưa đạt đến độ theo luật định. Người nam tham
gia vào việc kết hôn khi chưa đủ 20 tuổi, người nữ tham gia vào việc kết hôn khi chưa đủ
18 tuổi. Việc kết hôn này trái với điểm a khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014.
Thứ hai, thiếu sự tự nguyện của một hoặc cả hai bên nam nữ trong việc kết hôn. Bên
nam, nữ hoặc cả hai bên tham gia kết hôn do bị cưỡng ép, lừa dối, tảo hôn, kết hôn giả tạo.
Việc kết hôn này không phản ánh đúng ý chí mong muốn của họ trong việc xác lập quan
hệ vợ chồng. Việc kết hôn này trái với điểm b Khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014.
Thứ ba, người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn. Tại thời điểm kết hôn, một hoặc cả
hai bên nam, nữ tham gia kết hôn lâm vào tính trạng không có khả năng nhận thức, điều
khiển hành vi của minh nhưng vẫn tham gia kết hôn và được cơ quan hộ tịch công nhận.
Hành vi này vi phạm Điểm c Khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014.
Thứ tư, người tham gia vào việc kết hôn đang trong tỉnh trạng đang có vợ, có chồng. Đó
là những người đang tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp nhưng sử dụng các biện pháp
khác nhau để đăng ký kết hôn với người khác, vi phạm chế độ hỗn nhân một vợ, một chồng. 5 lOMoARcPSD| 36067889
Hành vi này vi phạm Điểm d Khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014.
Thứ năm, những người tham gia kết hôn là những người cùng dòng máu về trực hệ, có
họ trong phạm vi ba đời. Đó là những người có cùng huyết thống hoặc có quan hệ huyết
thống gần nhau. Hành vi này pháp luật cấm và được quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 8
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014.
Thứ sáu, những người tham gia kết hôn là cha, mẹ nuôi với con nuôi; những người đã
từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, đã từng bố chồng với con dâu, đã từng mẹ vợ với con
rể, đã từng bố dượng với con riêng của vợ, đã từng mẹ kế với con riêng của chồng. Điều
cấm này được quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014.
Khi phát hiện việc kết hôn vi phạm một trong các căn cứ nêu trên, theo yêu cầu của chủ
thể có thẩm quyền, Tòa án nhân dân có quyền ra quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.
1.4. Chủ thể có thẩm quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật
Chủ thể có thẩm quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật là những người
mà theo pháp luật hôn nhân và gia đình, họ có quyền yêu cầu tòa án xử lý những hành vi
kết hôn không đúng quy định của pháp luật. Theo Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam năm 2014, các chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật bao
gồm các cá nhân và tổ chức theo luật định, nhằm bảo vệ quyền lợi của chính mình hoặc lợi
ích chung của xã hội có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Cá nhân có thẩm quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật
Theo Khoản 1 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014, cá nhân phải tự
mình yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật là bên bị cưỡng ép, bị lừa dối khi kết
hôn. Kết hôn là hành vi nam, nữ tự mình thể hiện ý chí trong việc tham gia xác lập quan
hệ hôn nhân. Sự bày tỏ ý chí của nam, nữ khi kết hôn là điều kiện bắt buộc do pháp luật
quy định. Tuy nhiên, nếu nam, nữ tại thời điểm kết hôn họ không thể thực hiện việc bày tỏ
ý chí do bị cưỡng ép, bị lừa dối, nhưng sau khi kết hôn, họ đã thông cảm với nhau, cùng 6 lOMoARcPSD| 36067889
nhau xây dựng gia đình thì về nguyên tác mục đích của hôn nhân đã đạt được, yếu tố tự
nguyện đã được thể hiện. Do đó, nhà lập pháp quy định bên bị cưỡng ép, bị lừa dối phải tự
mình yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật là nhằm bảo đảm quyền định đoạt của
các chủ thể tham gia vào việc kết hôn quyết định về việc có cần thiết phải hủy việc kết hôn
trái pháp luật của mình hoặc tiếp tục duy trì đời sống hôn nhân. Quy định này nhằm loại
trừ những trường hợp tuy việc kết hôn trái pháp luật nhưng mục đích của hôn nhân đã đạt
được. Hơn nữa, hôn nhận được xây dựng dựa trên nền tảng là tình yêu giữa nam, nữ thuộc
phạm trù tư tưởng, nên ý chí của nam, nữ trong việc quyết định hủy việc kết hôn trái pháp
luật hoặc duy trì hôn nhân là do ý chí của họ quyết định.
Chủ thể là cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật khác là vợ,
chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người
giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật. Đây là
chủ thể thứ ba, nhằm bảo vệ quyền lợi của mình, quyền lợi của người thân của mình, nên
pháp luật quy định họ cũng có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật. Đối
với các chủ thể này, họ chỉ có thể yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật khi việc
kết hôn đó vi phạm độ tuổi, nhận thức, vi phạm điều kiện cấm kết hôn.
Tổ chức có thẩm quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật
Nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong việc kết
hôn, pháp luật quy định một số tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp
luật. Các chủ thể này bao gồm: Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà
nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ.
Ngoài các chủ thể nêu trên, cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện việc kết hôn trái
pháp luật thì có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức nêu trên yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật. 7 lOMoARcPSD| 36067889
Chương II Cơ sở pháp lý và ảnh hưởng của việc hủy kết hôn trái pháp luật
2.1 Cơ sở pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật
Căn cứ việc huỷ kết hôn trái pháp luật là cơ sở pháp lý do pháp luật quy định khi có hành
vi vi phạm pháp luật về kết hôn tại điều 8 Điều kiện kết hôn của luật hôn nhân gia đình,
theo yêu cầu của các chủ thể có thẩm quyền, toà án ra quyết đinh huỷ việc kết hôn trái pháp
luật đó. Theo pháp luật hiện hành, căn cứ để huỷ kết hôn trái pháp luật bao gồm:
1. Nam, nữ kết hôn chưa đạt đến độ tuổi theo quy định của pháp luật, nam từ đủ 20 tuổi
trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên.
2. Việc kết hôn do cưỡng ép, lừa dối, tảo hôn, kết hôn giả tạo và không phản ánh đúng
với ý chí của họ trong việc xác đinh quan hệ vợ chồng, thiếu sự tự nguyện ở 1 hoặc 2 bên.
3. Người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn. Tại thời điểm đăng ký kết hôn 1 trong
năm hoặc nữ không có khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình mà
vẫn tham gia kết hôn được cơ quan hộ tịch công nhận thì sẽ vi phạm khoản c điều 8 luật HNGĐ.
4. Người tham gia vào việc kết hôn đang có vợ, có chồng, đó là những người đang
trong tình trạng hôn nhân hợp nhưng sử dụng biện pháp khác để đăng ký kết hôn vi
phạm chế độ hôn nhân 1 vợ 1 chồng
5. Những người tham gia kết hôn là những người cùng dòng máu về trực hệ có họ trong phạm vi 3 đời.
6. Người tham gia kết hôn là cha mẹ nuôi với con nuôi, những người đã từng là cha mẹ
nuôi với con nuôi, đã từng là mẹ vợ với con rễ, đã từng là bố chồng với con dâu, đã
từng là bố dượng với con riêng của vợ, đã từng là mẹ kế với con riêng của vợ.
Khi phát hiện việc kết hôn vi phạm 1 trong các cứ nêu trên, theo yêu cầu của chủ thể
có thẩm quyền toà án nhân dân có quyền ra quyết định huỷ kết hôn trái pháp luật. 8 lOMoARcPSD| 36067889
2.2 Hậu quả pháp lý của việc kết hôn trái pháp luật
Hậu quả pháp lý của việc huỷ kết hôn trái pháp luật được quy định tại điều 12 luật hôn
nhân và gia đình 2014. Đường lối xử lý việc kết hôn trái pháp luật khác với việc ly hôn
trong đó trọng tâm là về quan hệ nhân thân, tài sản, cấp dưỡng. Đó cũng là sự phân biệt rõ
rệt đối với hành vi tuân thủ pháp luật với việc vi phạm pháp luật. Các chủ thể tham gia vào
việc kết hôn trái pháp luật sẽ phải gánh chịu những hệ quả pháp lý bất lợi so với vợ chồng trong việc ly hôn.
Về quan hệ nhân thân: khi việc kết hôn trái pháp luật bị huỷ thì 2 bên kết hôn phải chấm
dứt quan hệ như vợ chồng.
Về tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng: được giải quyết theo thoã thuận giữa 2 bên hoặc theo
quyết định của toà án. Tài sản riêng của ai thuộc quyền sở hữu của người đó nếu có tranh
chấp về tài sản riêng phải có chứng cứ chứng minh đó là tài sản riêng còn không có sẽ được
tính là tài sản chung, tài sản chung của nam, nữ sẽ được chia theo công sức đóng góp mỗi
bên tức là bên nào đóng góp nhiều sẽ được chia với mức độ tương ứng, không đóng góp
thì không được chia trường hộ không bên nào có minh chứng về mức độ đóng góp thì tài
sản sẽ chia đôi. Căn cứ xử lý vấn để tài sản chung được quy định trong BLDS và 1 số quy
định pháp luật khác có liên quan.
Về quan hệ giữa cha mẹ và con: được xây dựng dựa trên quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng,
không phụ thuộc vào việc cha mẹ có kết hôn hợp pháp hay không. Vì vậy khi Tòa án hủy
việc kết hôn trái pháp luật thì vấn đề con cái được giải quyết như trong trường hợp vợ
chồng ly hôn (Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, quy định về việc trông nom, chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn). Như vậy, khi tòa án tuyên bố hủy việc kết
hôn trái pháp luật thì cha, mẹ có thể thỏa thuận với nhau về người trực tiếp nuôi con, nghĩa
vụ, quyền của mỗi bên đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết
định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào điều kiện thực tế của cha mẹ nhằm
đảm bảo sự phát triển tốt nhất về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải
xem xét nguyện vọng của con. 9 lOMoARcPSD| 36067889
Về quan hệ cấp dưỡng: do nam nữ không phải là vợ chồng nên việc cấp dưỡng giữa họ
không đặt ra. Tuy nhiên nếu các bên có sự tự nguyên hỗ trỡ nhau về tài chính thì pháp luật không cấm.
Đặc biệt so với luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì luật hôn nhân và gia đình 2014 đã
bổ sung thêm các ưuy định mới để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ còn con.
Công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung thì coi như là
thu nhập và cũng là căn cứ để phân chia tài sản của họ.
2.3 Đường lối xử lý đối với một số trường hợp kết hôn trái pháp luật
Về nguyên tắc việc kết hôn vi phạm 1 trong các điều kiện kết hôn sẽ bị toà án nhân dân
ra quyết định huỷ kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên, căn cứ về tính chất vụ việc, điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử của đất nước, mục đích của việc kết hôn trong 1 số trường hợp, mặc dù
việc kết hôn có việc vi phạm pháp luật nhưng toà án có thể giải quyết cho ly hôn nếu đap
ứng được 1 số điều kiện nhất định. Quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên
tham gia kết hôn khi việc kết hôn của họ nhằm mục đích thiết lập hôn nhân, xây dựng gia đình.
Thứ nhất, kết hôn vi phạm chế độ hôn nhân 1 vợ 1 chồng.
Nếu thuộc trường hợp cán bộ và bộ đội miền nam tập kết ra miền bắc vào năm 1945, đã
có vợ, có chồng miền nam mà lấy vợ, chồng miền bắc thì sẽ xử lý theo thông tư số 60/TATC
ngày 22/02/1978 của toà án nhân dân tối cao.
Thứ 2 tại thời điểm toà án giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật mà cả 2 bên
kết hôn đã có đủ điều kiện kết hôn theo luật định và 2 bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn
nhân thì toà án công nhận quan hệ hôn nhân đó, trong trường hợp này quan hệ hôn nhân
được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo pháp luật quy định. Cụ thể:
Khi xem xét, giải quyết yêu cầu có liên quan đến việc huỷ kết hôn trái pháp luật, toà án
phải căn cứ vào yêu cầu của đương sự, điều kiện kết hôn, điều kiện công nhận quan hệ hôn
nhân theo quy định của luật hôn nhân và gia đình 2014 để quyết định.
Trường hợp tại thời điểm kết hôn 2 bên không có đủ điều kiện để kết hôn nhưng sau đó
có đủ điều kiện để kết hôn theo luật hôn nhân gia đình 2014: Nếu một hoặc hai bên yêu 10 lOMoARcPSD| 36067889
cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc có một bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân
hoặc có một bên yêu cầu ly hôn còn bên kia không có yêu cầu thì Tòa án quyết định hủy
việc kết hôn trái pháp luật. Trường hợp hai bên cùng yêu cầu Tòa án cho ly hôn hoặc có
một bên yêu cầu ly hôn còn bên kia yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Trường hợp hai bên đã đăng ký kết hôn nhưng tại thời điểm Tòa án giải quyết hai bên kết
hôn vẫn không có đủ các điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia
đình thì thực hiện như sau:
+ Nếu có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật thì Tòa án quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật;
+Nếu một hoặc cả hai bên yêu cầu ly hôn hoặc yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì
Tòa án bác yêu cầu của họ và quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Trường hợp quyết định theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b khoản này thì Tòa án áp
dụng quy định tại Điều 12 của Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết hậu quả pháp lý của
việc hủy kết hôn trái pháp luật.
Khi xử lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, Tòa án phải căn cứ vào quy định của
pháp luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực tại thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân để xác
định việc kết hôn có trái pháp luật hay không.
Trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và
gia đình và pháp luật tố tụng dân sự có hiệu lực tại thời điểm giải quyết. CHƯƠNG III
Thực tiễn trường hợp hủy kết hôn trái pháp luật ở Việt Nam hiện nay
3.1 Thực tiễn trường hợp hủy kết hôn trái pháp luật
Trong đời sống ngày càng phát triển và hiện đại, hôn nhân là một lĩnh vực chiếm nhiều
sự quan tâm của cộng đồng. Không ít các cặp đôi quyết định đến với nhau, cùng nhau vun
đắp một cuộc hôn nhân viên mãn, hạnh phúc, thì cũng có một bộ phận người dân còn hiểu
biết hạn chế về mặt pháp luật, dẫn tới việc kết hôn trái pháp luật mà Luật Hôn nhân và gia 11 lOMoARcPSD| 36067889
đình đã quy định. Một trong số đó là tình trạng vi phạm độ tuổi được cho phép kết hôn,
hậu quả là những cặp đôi phải đối mặt với nhau tại Tòa án, yêu cầu hủy bỏ kết hôn và giải
quyết tranh chấp hôn nhân mà cả hai không còn mặn nồng nữa.
Từ bản án số 40/2021/HNGĐ-ST về yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật mà Tòa án nhân
dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk thụ lý, ta có thể nhìn nhận tường tận hơn về thực tiễn
trường hợp hủy kết hôn trái pháp luật ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể vào ngày 01 tháng 10
năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk, đã đưa ra xét xử sơ thẩm
công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 05/2021/HNGĐ-ST, ngày 06 tháng 01 năm
2021 về “Hủy kết hôn trái pháp luật”, giữa các đương sự: -
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L. Sinh năm: 1975. (Có đơn xin xét xử vắng mặt). Địa
chỉ: Thôn N2, xã Ea Kmút, huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk. -
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, Sinh năm: 1969. (Vắng mặt). Địa chỉ: Thôn N2, xã
EaKmút, huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk. -
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: UBND xã Ea Kmút, huyện EaKar, tỉnh
ĐắkLắk. Người đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Duy H, chức vụ: Chủ tịch (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
Xét theo khía cạnh lời khai pháp lý của các đương sự, bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn
Văn T có về chung sống với nhau trên cơ sở tình yêu tự nguyện và đăng ký kết hôn với
nhau vào ngày 18/07/1990 tại Ủy ban nhân dân xã Ea Kmút, huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk.
Trong thời gian chung sống với nhau xảy ra nhiều mâu thuẫn, dẫn đến bà Nguyễn Thị L
quyết định gửi đơn xin hủy kết hôn.
Bà L khai rằng tại thời điểm đăng ký kết hôn với ông T thì bà chưa đủ tuổi đăng ký, nên
bà đã khai gian tăng tuổi thành sinh năm 1972, để đủ tuổi đăng ký kết hôn với ông Nguyễn Văn T.
Sau khi nhận được văn bản của Tòa án nhân dân huyện EaKar và các biên bản xác minh,
UBND xã Ea Kmút đã rà soát lại trình tự thủ tục đăng ký kết hôn được lưu trữ thì xác định
vào ngày 18/7/1990, UBND xã đã thực hiện việc đăng ký kết hôn cho ông Nguyễn Văn T 12 lOMoARcPSD| 36067889
sinh ngày 06/06/1969 và bà Nguyễn Thị L sinh ngày 09/09/1972, tại quyển số 01/1990,
ngoài ra không còn lưu trữ gì thêm, do sổ sách đã bị thất lạc.
Tuy nhiên, căn cứ vào tài liệu chứng cứ do nguyên đơn bà Nguyễn Thị L cung cấp cho
Tòa án như: Giấy khai sinh, giấy chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu gia đình, biên bản xác
minh tại UBND xã Ea Kmút, Ban tự quản thôn N2, xã Ea Kmút và Công an xã Ea Kmút
và các tài liệu chứng cứ khác có lưu trong hồ sơ vụ án, xác định bà Nguyễn Thị L sinh
ngày 09/09/1972 và bà Nguyễn Thị L sinh ngày 09/09/1975 là cùng một người và bà
Nguyễn Thị L có ngày tháng năm sinh đúng là ngày 09/09/1975. Bà Nguyễn Thị L đã khai
gian dối tuổi của mình để đủ tuổi để đăng ký kết hôn với ông Nguyễn Văn T. Thực tế, tại
thời điểm đăng ký kết hôn với ông Nguyễn Văn T vào ngày 18/07/1990 thì bà L mới 15
tuổi 1 tháng 21 ngày, chưa đủ tuổi kết hôn, thuộc trường hợp kết hôn trái pháp luật, vi
phạm vào Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Kết luận lại, tại thời điểm giải quyết thì xác định được bà L sinh ngày 09/09/1975 như
vậy tại thời điểm đăng ký kết hôn với ông T bà L chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn theo Luật
hôn nhân và gia đình năm 1986 việc đăng ký của UBND xã Ea Kmút là có sai sót, nên
nguyên đơn yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật đề nghị Tòa án xử lý theo quy định của pháp luật.
3.2 Hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật
- Về tố tụng: Căn cứ vào nội dung yêu cầu khởi kiện và các tài liệu chứng cứ do nguyên
đơn cung cấp và do Tòa án thu thập được, xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp về
hủy kết hôn trái pháp luật” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện
EaKar, tỉnh Đắk Lắk theo quy định tại Khoản 7 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm
g Khoản 2 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. - Về nội dung:
Về quan hệ hôn nhân: Xét đơn khởi kiện về việc yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật của
nguyên đơn, xét thấy bà Nguyễn Thị L có đăng ký kết hôn với ông Nguyễn Văn T ngày 13 lOMoARcPSD| 36067889
18/07/1990 tại UBND xã Ea Kmút, huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk theo số đăng ký kết hôn
tại quyển số 01/1990 xác định họ tên chồng là ông Nguyễn Văn T, sinh ngày 06/06/1969,
họ tên vợ Nguyễn Thị L sinh ngày 09/09/1972.
Trong quá trình giải quyết vụ án, sau khi xem xét nội dung khởi kiện của nguyên đơn yêu
cầu hủy kết hôn trái pháp luật, Tòa án nhân dân huyện EaKar đã căn cứ vào Điều 8, Điều
11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-
TANDTC-VKSNDTC-BTP, ngày 06 tháng 01 năm 2016 hướng dẫn thi hành một số quy
định của Luật hôn nhân và gia đình đã ban hành thông báo cho các đương sự biết tại thời
điểm Tòa án giải quyết việc hủy kết hôn trái pháp luật thì các bên đã đủ tuổi đăng ký theo
quy định của pháp luật, Tòa án đã thông báo để các đương sự về việc yêu cầu hủy kết hôn
trái pháp luật của nguyên đơn để bị đơn ông Nguyễn Văn T biết thực hiện quyền và nghĩa
vụ của mình theo quy định, tuy nhiên, hết thời hạn được thông báo, bị đơn không thực hiện
đồng thời không có ý kiến gì và vắng mặt không lý do. Do đó Tòa án tiến hành xem xét
việc hủy kết hôn trái pháp luật của nguyên đơn là có căn cứ. Nên HĐXX cần hủy kết hôn
trái pháp luật giữa bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Văn T theo số sổ đăng ký kết hôn số
01/1990 tại UBND xã Ea Kmút theo quy định tại Điều 9 Luật HNGĐ năm 1986, Điều 10,
11 Luật HNGĐ năm 2014 là phù hợp.
- Về con chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng có 02 người con chung.
1. Cháu Nguyễn Thị N, sinh 27/04/1991.
2. Cháu Nguyễn Thị H, sinh ngày 19/8/1993.
Hiện nay con chung đã trưởng thành trên 18 tuổi nên HĐXX không đặt ra để xem xét.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên HĐXX không đưa ra để giải quyết.
- Về sai sót của UBND xã Ea Kmút, huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk: Việc đăng ký kết hôn của
UBND xã Ea Kmút, huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk, đã thực hiện việc đăng ký kết hôn cho
bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Văn T không đúng về độ tuổi đăng ký. Tuy nhiên, tại
thời điểm đăng ký kết hôn bà Nguyễn Thị L đã khai không đúng tuổi thực tế của mình để
được đăng ký kết hôn, UBND xã Ea Kmút, căn cứ vào sổ đăng ký kết hôn thì xác định 14 lOMoARcPSD| 36067889
tại thời điểm đăng ký bà L sinh năm 1972 là đúng độ tuổi theo quy định, hiện tại hồ sơ
sổ sách không còn lưu giữ đầy đủ. Do đó, có căn cứ xác định việc UBND xã Ea Kmút có
sai phạm trong việc đăng ký kết hôn giữa bà L và ông T như thu thập các tài liệu chứng
minh về độ tuổi thực tế của bà Liền khi thực hiện việc đăng ký kết hôn, UBND xã Ea
Kmút đề nghị Tòa án xử lý theo quy định của pháp luật là phù hợp. HĐXX đề nghị UBND
xã Ea Kmút rút kinh nghiệm trong việc đăng ký kết hôn nêu trên, nếu có vi phạm thì xử
lý theo quy định của pháp luật.
- Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a Khoản 5 Điều 27
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:
Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
- Về cơ sở pháp lý: HĐXX đã căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm
a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b, Khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Và căn cứ Điều 5, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986; Điều 8, Điều 10, Điều
11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, điểm a Khoản 5 Điều 27, Nghị quyết
326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Về quyết định: Toà án chấp nhận đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị L. Hủy kết hôn
tráipháp luật giữa bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Văn T theo sổ cấp giấy chứng nhận
kết hôn số 01/1990 ngày 18/7/1990 của UBND xã Ea Kmút, huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk.
3.3 Một số bất cập và kiến nghị
Xét từ vụ việc đã xảy ra trên, có những khía cạnh pháp lý mà các nhà làm luật cần đánh giá khách quan như sau;
Thứ nhất, việc kết hôn giữa hai đương sự là ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị L hoàn
toàn trái với luật định, cả hai đã đi ngược với điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
và Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Bà L đã khai gian tuổi của mình để được
kết hôn với ông T, qua cơ sở xác minh, cho thấy lúc đăng kí kết hôn, tuổi thật của bà là 15 tuổi 1 tháng 21 ngày. 15 lOMoARcPSD| 36067889
Thứ hai, sự sai sót của UBND xã Ea Kmút, huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk là sai phạm thuộc
lĩnh vực áp dụng pháp luật. Đây là loạt động thực hiện pháp luật mang tính tổ chức quyền
lực nhà nước, được tiến hành bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cá nhân hoặc tổ chức
được Nhà nước trao quyền (trong vụ việc trên là UBND xã Ea Kmút, huyện EaKar), nhằm
cá biệt hoá quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể.
Khi xảy ra tranh chấp giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật về quyền và nghĩa vụ mà
tự họ không thể giải quyết được, phải nhờ cơ quan nhà nước (hoặc cơ quan của tổ chức xã
hội) có thẩm quyền giải quyết. Ta có thể thấy các bên tham gia quan hệ pháp luật là ông
Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị L, muốn thực hiện quyền đăng kí kết hôn nên cần có sự
giải quyết của UBND xã Ea Kmút huyện EaKar.
Tuy nhiên UBND xã Ea Kmút có sai phạm trong việc đăng ký kết hôn giữa bà L và ông
T cũng như thu thập các tài liệu chứng minh về độ tuổi thực tế của bà L khi thực hiện việc
đăng ký kết hôn. Nhận thấy đây là sai phạm ít nghiêm trọng, Toà án đề nghị UBND xã Ea
Kmút rút kinh nghiệm trong việc đăng ký kết hôn nêu trên là hoàn toàn hợp lý, nếu có vi
phạm thì xử lý theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, Tòa án nhân dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk thụ lý đơn xin hủy bỏ kết hôn trái
pháp luật và dẫn đến những hậu quả pháp lý kéo theo. Chẳng hạn như chấm dứt quan hệ
hôn nhân giữa ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị L, giải quyết vấn đề con chung hay
khoản nợ chung của hai đương sự. Việc dẫn chứng những cơ sở pháp lý, điều tra, xác thực
thông tin chuyên sâu, rõ ràng trong quá trình xét xử và tuyên xử ở phần đã nêu trên đã cho
thấy Tòa án thận trọng hơn từ sai sót của UBND xã Ea Kmút trong quá trình xử lý hồ sơ
và phê duyệt đơn xin kết hôn.
3.3.1 Những bất cập trong thực tiễn xử lý kết hôn trái pháp luật
Bên cạnh những khía cạnh pháp lý, vẫn còn có một số bất cập còn tiềm ẩn trong quá trình
giải quyết về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật hôn nhân. Ngoài
tình trạng kết hôn trái pháp luật do vi phạm về độ tuổi kết hôn, ở nước ta vẫn còn nhiều
trường hợp kết hôn không tự nguyện, bị ép buộc, lừa dối, kết hôn với người đang có vợ 16 lOMoARcPSD| 36067889
hoặc có chồng, kết hôn với người cùng dòng máu về trực hệ, những người có họ trong
phạm vi ba đời hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc... Kết hôn không tự nguyện là một hiện
tượng diễn ra khá phổ biến trong xã hội phong kiến, nhất là đối với những gia đình có địa
vị thấp kém trong xã hội. Ngày nay, hiện tượng này chủ yếu tồn tại ở một số dân tộc miền
núi điển hình như tục “cướp vợ” của người H'mông và rất khó để xác định được cuộc hôn
nhân đó có xuất phát từ hai phía hay không. Cũng giống như kết hôn không tự nguyện,
hiện tượng kết hôn cận huyết, kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi ba đời vẫn
còn tồn tại ở một số dân tộc miền núi ở Việt Nam, nơi mà “cánh tay” pháp luật vẫn còn chưa vươn dài tới.
Ở tình trạng kết hôn với những người đang có vợ hoặc có chồng, theo pháp luật Việt
Nam, thì một người đã có vợ hoặc có chồng nhưng vợ hoặc chồng đã chết, thì được kết
hôn với người khác. Sự kiện một người chết có thể hiểu theo hai ý, đó là chết sinh học và
chết pháp lý. Điều cần lưu ý ở đây chính là trường hợp chết pháp lý, tức là một người bị
Tòa án tuyên bố chết nhưng sau đó lại trở về. Một trường hợp nữa vẫn tồn tại ở Việt Nam
đến tận bây giờ đó là những quan hệ hôn nhân xác lập trước ngày Nghị quyết số 76 ngày
25/3/1977 của Quốc hội về việc “Thống nhất pháp luật giữa hai miền Nam Bắc” có hiệu
lực, và công nhận một số ít trường hợp quan hệ đa thê đối với những cán bộ miền nam tập
kết ra bắc mà lấy lại vợ hoặc chồng khác. Trong những trường hợp này, pháp luật cần được
vận dụng một cách linh hoạt.
Như vậy có thể nhận xét về tình trạng kết hôn vi phạm điều kiện đăng ký hiện nay đang
diễn ra hết sức phức tạp. Và những vi phạm đó thường là chỉ được phát hiện khi hai bên
có yêu cầu giải quyết ly hôn tại Tòa án. Điều đó chứng tỏ, những vi phạm này là những vi
phạm rất khó nhận biết, tuy không ảnh hưởng nhiều đến quyền và lợi ích của các bên nhưng
lại gây khó khăn cho các cơ quan quản lý hộ tịch trong việc xác định quan hệ hôn nhân,
tình trạng hôn nhân của các công dân.
Sự tồn tại của quan hệ hôn nhân trái pháp luật không phù hợp với bản chất của quan hệ
hôn nhân, đi trái với lợi ích mà pháp luật quan tâm bảo vệ. Vì vậy Nhà nước dùng biện
pháp cưỡng chế đối với những vi phạm là buộc các bên phải chấm dứt việc chung sống 17 lOMoARcPSD| 36067889
trong quan hệ vợ chồng. Điều đó thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước trước những
hành vi vi phạm trong việc kết hôn và cũng khẳng định rằng trong việc kết hôn thì lợi ích
của những người kết hôn phải phù hợp với lợi ích gia đình và xã hội.
Đối chiếu theo bản án số 40/2021/HNGĐ-ST mà Tòa án nhân dân huyện EaKar thụ lý,
dễ dàng thấy được những bất cập còn tồn đọng trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật
hôn nhân giữa ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị L. Tuổi tác lúc này không phải chỉ
đơn giản là những con số mà nó còn thể hiện được ý chí đạo đức gia đình và tinh thần hôn
nhân tự nguyện, bình đẳng, một vợ một chồng, không vi phạm những điều cấm trong hôn
nhân và không đi ngược với thuần phong mỹ tục của nhân dân. Việc khai gian tuổi còn ảnh
hưởng đến công tác làm việc của cơ quan có thẩm quyền trong việc xử lý hộ tịch, làm gián
đoạn công tác điều tra nếu có xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn vì giấy tờ, sổ sách đã phát sinh
thay đổi. Nếu cuộc hôn nhân trái pháp luật xảy ra vào nhiều năm trước khi luật Hôn nhân
và gia đình hiện hành được áp dụng, việc tìm kiếm và điều tra thông tin sẽ gặp nhiều khó
khăn vì thay đổi nhiều nội dung luật định, những giấy tờ bị thất thoát, mất hiệu lực,... Sẽ là
một vấn đề khó giải quyết đối với cơ quan nhà nước.
Bên cạnh đó, tình trạng kết hôn trái pháp luật cũng gây sức ép dư luận cho những người
có liên quan, hình thành những phản ứng tiêu cực trong đời sống mà rất khó để ngăn chặn,
phục hồi. Những hệ lụy tiềm ẩn trong gia đình như cha mẹ đến với nhau không tự nguyện
dẫn đến bất hoà, mâu thuẫn, con cái không nhận được sự quan tâm đúng mức từ những
cuộc hôn nhân “đến sau” của cha mẹ, hình thành tư tưởng không tốt về cha kế, mẹ kế, dì,
dượng,... Trên hết là sự nguy hiểm của quan hệ hôn nhân cận huyết, rất dễ để lại di chứng
bệnh tật cho con cái đời sau.
3.3.2 Những kiến nghị cần thiết hiện nay
Để có thể đưa ra những giải pháp mang tính hữu hiệu cao cho những vấn nạn còn nhức
nhối trên, người nghiên cứu luật cần phải dựa trên những nhu cầu khách quan của xã hội.
Pháp luật về hôn nhân và gia đình phải phản ánh được nguyện vọng và ý chí của tập thể,
những “cộng đồng” trong hôn nhân mà không phải những cá nhân riêng lẻ. Xã hội luôn 18 lOMoARcPSD| 36067889
thay đổi, phát triển không ngừng, do đó pháp luật muốn phản ánh được bản chất của các
mối quan hệ xã hội thì cần thiết phải hoàn thiện.
Vấn đề hoàn thiện pháp luật nói chung cũng như hoàn thiện pháp luật Hôn nhân gia đình
nói riêng luôn là mục tiêu trọng tâm tại các cuộc họp của Ban chấp hành Trung ương Đảng
và được ghi rõ trong các văn kiện Đai hội Đảng toàn quốc khóa XII, XIII. Trong xu thế
phát triển của xã hội Việt Nam hiện nay, trên thực tế, việc kết hôn trái pháp luật vẫn xảy
ra. Tuy nhiên, biện pháp hủy hôn nhân trái pháp luật lại rất ít được áp dụng. Qua đó có thể
thấy rằng, việc thực thi các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này còn chưa hiệu quả.
Nguyên nhân là do những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành còn mang
tính nguyên tắc, chung chung, khó áp dụng. Vì vậy, để thực sự phát huy tác dụng trong
cuộc sống, pháp luật hôn nhân và gia đình về hủy kết hôn trái pháp luật cần quy định cụ
thể nguyên tắc xác định quan hệ cha mẹ và con, về chia tài sản (như cơ sở hình thành tài
sàn chung, nguyên tắc chia tài sản..). Và những phương hướng giải quyết tình trang kết
hôn trái pháp luật được đề xuất như sau; -
Quan điểm tiếp cận vấn đề Hôn nhân và gia đình cần có sự điều chỉnh phù hợp với
xu thế lấy “quyền” là mục tiêu. Điều chỉnh pháp luật là để hỗ trợ, thúc đẩy quyền con người
trong hôn nhân gia đình được bảo đảm tốt hơn, phát triển hơn vì hạnh phúc của con người,
lấy con người làm trung tâm. -
Nhận thức đúng về vai trò, tầm quan trọng của gia đình và công tác xây dựng gia
đình trong tình hình mới. Xác định gia đình là một trong những nhân tố quan trọng quyết
định sự phát triển bền vững đất nước. Gia đình là đối tượng tác động, thực hiện và thụ
hưởng chính sách phát triển kinh tế-xã hội. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc,
văn minh là một trong những nội dung quan trọng, yêu cầu xuyên suốt của sự nghiệp đổi
mới, phát triển đất nước. -
Hoàn thiện pháp luật phải đảm bảo sự thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp
luật, thể chế hóa các quan điểm chủ trương của Đảng về xây dựng chế độ hôn nhân gia đình Việt Nam. 19 lOMoARcPSD| 36067889 -
Quan điểm xây dựng chế độ hôn nhân gia đình phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹpcủa dân tộc. -
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và sự chỉ đạo của chính quyền các
cấp đốivới công tác gia đình. -
Cần bổ sung thêm những quy định về kết hôn giữa con riêng của chồng và con riêng
củavợ, giữa những người con nuôi hoặc giữa con đẻ với con nuôi trong một gia đình. -
Đối với những trường hợp nhầm lẫn về giới tính, cần khuyến khích họ đi phẫu thuât
đểtrở về giới tính mong muốn của mình về mặt y học, sau đó sẽ công nhận họ về mặt pháp
lý. Trong trường hợp mà họ không thể thay đổi về mặt sinh học thì căn cứ pháp lý cũng nên thừa nhận họ. -
Kết hôn đồng giới; Về việc cấm kết hôn trong phạm vi huyết thống bao nhiêu đời
thìphù hợp... Cần có một sự giải thích cụ thể để có một cách hiểu thống nhất trong quá
trình áp dụng pháp luật. -
Thay đổi phương thức quản lý từ hộ gia đình sang quản lý cá nhân theo chứng minh
thưnhân dân nhằm quản lý tốt hơn về tình trạng hôn nhân của mỗi chủ thể trong xã hội. -
Cần tăng cường vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân vàgia đình. -
Pháp luật cần đặt ra chế tài cụ thể, nghiêm khắc hơn nữa nhằm nâng cao ý thức
tráchnhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ sở,
tránh thủ tục đăng ký rườm rà. -
Cần nghiên cứu luật hóa những quy định của điểm d mục 2 Nghị quyết số
02/2000/NQHÐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thấm phán Tòa án nhân dân tối cao về
từng trường hợp cụ thể để xem xét, quyết định hủy kết hôn trái pháp luật hay công nhận
hôn nhân cho các đương sự. Trên thực tế, việc kết hôn trái pháp luật do nhiều nguyên nhân
khác nhau nhưng trong nhiều trường hợp, trong quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận,
hạnh phúc và bản thân người vợ hoặc người chồng không có yêu câu hủy việc kết hôn, thì
không nhất thiết phải hủy quan hê hôn nhân đó. 20 lOMoARcPSD| 36067889 -
Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần tăng cường công tác tuyên truyền,
phổbiến, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình cho nhân dân, đặc biệt là nhân dân ở
vùng hải đảo, miền núi, vùng sâu, vùng xa. KẾT LUẬN
Từ những kiến thức được đúc kết qua bài tiểu luận, ta có thể thấy các trường hợp
huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đối với đời sống
xã hội Việt Nam hiện nay nội hàm nhiều vấn đề, nhiều bất cập.
Kết hôn trái pháp luật là những trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn hoặc
rơi vào những trường hợp cấm kết hôn như trong quy định tại Điều 10, Điều 11, Điều 12
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2015. Kết hôn trái pháp luật không chỉ xâm phạm tới những
quyền, lợi ích hợp pháp của những chủ thể trong xã hội như những trường hợp kết hôn do
vi phạm sự tự nguyện, kết hôn do vi phạm độ tuổi... mà còn đi ngược lại với những truyền
thống, bản sắc dân tộc như những trường hợp kết hôn với những người đã có vợ, có chồng...
Kết hôn trái pháp luật không phải là một hiện tượng mới mẻ trong xã hội Việt Nam, từ xưa
đến nay, những hình thức vi phạm vẫn luôn tồn tại và đều được dự liệu trong các hệ thống
văn bản pháp luật điều chỉnh. Trong tình hình xã hội Việt Nam hiện nay, dưới sự tác động
của rất nhiều những yếu tố khác nhau: như kinh tế, chính trị, xã hội, hội nhập quốc tế, khoa
học kỹ thuật... đã hình thành nên những cách suy nghĩ, những phong cách sống khác nhau,
giá trị của gia đình đôi khi đã bị coi nhẹ, những điều kiện kết hôn không được chấp hành
nghiêm chỉnh gây ra những bức xúc trong đời sống nhân dân. Có thể nhận thấy trong những
năm trở lại đây kết hôn trái pháp luật ngày một phổ biến với những dạng vi phạm phong
phú hơn, trở thành một nỗi nhức nhối của gia đình, xã hội.
Qua những nghiên cứu của luận văn, chúng ta có thể đánh giá được những vấn đề
lý luận về kết hôn trái pháp luật trên các góc độ khác nhau, qua đó nhận thấy đây là một
vấn đề vô cũng quan trọng trong đời sống xã hội, cần được quan tâm đúng mực. Bên cạnh
đó, luận văn cũng đưa ra từng trường hợp vi phạm cụ thể để góp phần giải thích, làm rõ sự
vi phạm, đánh giá những nguyên nhân cũng như quá trình áp dụng pháp luật trong việc giải 21 lOMoARcPSD| 36067889
quyết những vi phạm đó. Từ những vấn đề lý luận, soi vào pháp luật thực định và thực tiễn
áp dụng mới thấy hết được những điểm mạnh cũng như những hạn chế của pháp luật hiện
hành khi quy định về vấn đề này. Nhận thức được tầm quan trọng của việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật, luận văn cũng đã chỉ ra những nhu cầu khách quan, những phương hướng
hoàn thiện cũng như một số kiến nghị, giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện hơn nữa một
hệ thống pháp luật Hôn nhân gia đình tiến bộ, bảo vệ quyền con người, vì con người. Xin chân thành cảm ơn HẾT 22 lOMoARcPSD| 36067889 23