







Preview text:
TRÀNG GIANG - Huy Cận - I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả: Huy Cận (1919 – 2005) a. Cuộc đời:
- Tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê Hà Tĩnh.
- Là nhà thơ nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập “Lửa thiêng”.
- Ông tham gia cách mạng trước 1945 và giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng.
b. Sự nghiệp văn học:
- Trước CMT8: Là một trong những tên tuổi hàng đầu của phong trào Thơ mới
+ Thơ mới thường buồn, thơ Huy Cận trĩu nặng nỗi buồn. Đó là nỗi sầu vạn cổ của con
người bé nhỏ hiện lên giữa thiên nhiên mênh mông, hiu quạnh.
+ Thơ Huy Cận thể hiện tiếng nói cô đơn và buồn đau của lớp thanh niên trí thức tiểu
tư sản cố khẳng định cái “tôi” nhưng bất lực trước thực tại.
+ Tác phẩm tiêu biểu: Tập thơ “Lửa thiêng”. - Sau CMT8:
+ Là một cây bút thành công của nền văn học mới sau CMT8 vừa hoạt động cách mạng, vừa đều đặn làm thơ.
+ Được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và dựng xây của nhân dân, thơ Huy Cận tràn
đầy niềm vui, ông ngợi ca chế độ mới, cuộc sống mới và sự giao hòa giữa con người và tạo vật.
+ Tác phẩm tiêu biểu: “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”…
NHẬN XÉT: Huy Cận là một giọng điệu thơ ca riêng: hàm súc một cách cổ điển;
mang màu sắc suy tưởng và triết lý; kết hợp nhuần nhuyễn những yếu tố cổ điển với những yếu tố của Thơ mới:
+ Hòa hợp trong “nỗi sầu vạn kỷ” của Huy Cận, là nỗi sầu vũ trụ và nhân thế từng chứa
chan trong thơ Đường với nỗi cô đơn của cái tôi thời Thơ mới
+ Hòa nhập giữa hệ thống thi pháp của thơ Đường với những nét thi pháp của thơ tượng trưng Pháp.
+ Luôn khát khao và lắng nghe sự hòa điệu giữa hồn người và tạo vật, giữa cá thể và nhân vật.
2. Văn bản: bài thơ “Tràng giang”
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Vào một buổi chiều thu 1939, Huy Cận dạo chơi bờ nam của bến Chèm, ngắm cảnh
sông Hồng mênh mang và suy nghĩ về kiếp người trôi nổi, nhỏ nhoi. Từ đó, Huy Cận viết nên
bài thơ “Tràng giang”. Bài thơ được in trong tập “Lửa thiêng”. 1
- Bài thơ mang nỗi buồn có sắc thái riêng, “cái buồn tỏa từ đáy tâm hồn cơ hồ không
biết tới ngoại cảnh”, “lượm lặt một chút buồn rải rác để tạo nên những vần thơ ảo não” (Hoài
Thanh)b. Ýnghĩanhanđề:
- Nhan đề là “Tràng giang” là từ Hán Việt, gợi ra sự trang nhã, trang nghiêm, phảng
phất phong vị thơ Đường.
- Nhan đề là “Tràng giang” chứ không phải “Trường giang”. Vần “ang” láy lại tạo nên
dư âm mang xa, trầm buồn, đó cũng là âm hưởng chung cho cả bài thơ, êm dịu, mênh mang.
- Mặt khác, “Tràng” cũng có nghĩa là dài, nhưng âm “ang” vang còn gợi tới cả chiều
rộng. Tràng giang gợi hình ảnh một con sông dài và rộng của một thời cổ xưa chảy qua nghìn
năm lịch sử, mang nỗi sầu vạn cổ từ những con người bé nhỏ, manh manh giữa không gian thời gian hữu hạn vô cùng.
- Tràng giang mang trong mình “nỗi buồn thế hệ” của tác giả:
o Đó là cái buồn theo quan điểm mỹ học của Thơ mới, thấm vào cảnh vật và lòng người.
o Đó là cái buồn của một cái tôi thế hệ mất nước, “không tìm thấy lối ra”.
c. Ý nghĩa lời đề từ:
- Lời đề từ thường là câu văn hoặc thơ được đặt sau nhan đề và trước văn bản tác phẩm,
thường là điểm tựa cho cảm hứng, cho ý tưởng của tác giả triển khai trong tác phẩm nên lời đề
từ thường có mối liên hệ với thế giới nghệ thuật của bài thơ.
- Lời đề từ của “Tràng giang” thâu tóm được đủ cảnh trời rộng, sông dài, tình là bâng
khuâng, nhung nhớ và mang giọng điệu trầm buồn, cho nên tuy chỉ là câu thơ 7 chữ mà đã thể
hiện được hồn cốt của toàn bộ tác phẩm.
- Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã khái quát được những nội dung
chính của bài thơ, là chìa khóa để người đọc khám phá nội dung tư tương của tác phẩm:
o Các từ “trời rộng”, “sông dài” đã gợi ra không gian vũ trụ mênh mông vô tận. “Trời
rộng” là cái không cùng của vũ trụ, “sông dài” là cái mênh mang bất tận của không gian
Cảm hứng chính của bài thơ là cảm hứng không gian – một không gian thiên nhiên “vũ trục
ca” mênh mông rợn ngợp đối lập với đời người nhỏ nhoi, hữu hạn.
o Các từ “bâng khuâng”, “nhớ” đều gợi đến những nỗi buồn thăm thẳm. “Bâng
khuâng” là những cảm xúc luyến tiếc nhớ thương đan xen, gợi ra nhiều chiều sâu chưa nói. Nỗi
nhớ ở đây mênh mang, bất tận Lời đề từ lấy ý từ câu thơ “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”,
cho nên thực chất của cảm giác “bâng khuâng”, “nhớ” ở đây chính là nỗi cô đơn lẻ loi của
thân phận con người giữa cái mênh mông bất tận của vụ trụ, là nỗi buồn lạc lõng, bơ vơ của
thế hệ mất nước.
d. Hình tượng trung tâm – cảm hứng:
- Hình tượng dòng sông xuất hiện từ nhan đề, lời đề từ, vỗ sóng ngang từ những câu thơ
mở đầu, chảy qua 4 khổ thơ, khổ nào cũng dập dềnh sóng nước. Dòng sông được gợi ý, gợi tứ
từ sông Hồng nhưng khi đã trở thành hình tượng nghệ thuật, nó là dòng đời mênh mang, vô định. 2
- Cảm hứng chung: là cảm hứng về nỗi buồn, một nỗi buồn toát lên từ
+ Sự dàn trải mênh mông của không gian trong ánh chiều tà.
+ Tình trạng thiếu vắng những liên hệ ở các sự vật
+ Sự nhạt nhòa của màu sắc, sự mơ hồ mong manh của âm thanh, những chuyển động
vô hướng của các sự vật.
Huy Cận đã kín đáo gửi lòng yêu nước vào nỗi buồn và niềm thiết tha trước tạo vật, nỗi
buồn sầu của người dân thuộc địa trước giang sơn bị mất chủ quyền, hòa lẫn vào nỗi bơ vơ trước
tạo vật vô biên, hoang vắng. e. Chủ đề:
Qua bức tranh sông nước bình dị, thanh đạm mà đẹp và gợi cảm thấm thía. Qua tâm
trạng bơ vơ buồn bã, cũng là tâm trạng phổ biến của cái tôi lãng mạn đương thời, bộc lộ niềm
khap khát sự sống, khát khao sự hòa hợp và lòng yêu nước thầm kín của nhà thơ. f. Bố cục: 4 phần
- Khổ 1: dòng sông và nỗi buồn
- Khổ 2: không gian và nỗi choáng ngợp
- Khổ 3: cảnh vật và nỗi cô đơn
- Khổ 4: hoàng hôn và tấm lòng với quê hương xứ sở
II. Đọc hiểu văn bản:
Nỗi buồn mênh mang đã thấm sau vào bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của tác giả
trong từng khổ thơ. Suốt 4 khổ thơ, khổ nào cũng dập dềnh sóng nước, cũng mênh mang nỗi
sầu. 1. Khổ1:Dòngsôngvànỗi buồn:
- Mặt tràng giang mênh mông:
+ dùng cái vô hạn để gợi sự mênh mông: “sóng điệp điệp” là những vòng sóng lan ra, lô
xô, gối nhau đến vô tận; “nước song song” là những dòng trôi, những luồng nước không giao
nước, cứ song song đến vô tận Nếu như ở câu trên, sự vô biên được mở ra theo bề rộng, với
hình ảnh hai vòng sóng nối tiếp nhau, điệp điệp tới tận chân trời thì ở câu dưới, sự vô biên được
mở ra theo chiều dài với hình ảnh những luồng nước song song, rong ruổi mãi về phía cuối
chân trời. Tràng giang trở thành đại giang.
+ dùng cái hữu hạn, nhỏ bé để gợi sự vô cùng: hình ảnh con thuyền, cành củi trong thế
tương phản, cái lớn càng thêm mênh mông, rợn ngợp. Bởi thế bước vào tràng giang, con người
cảm thấy choáng ngợp trước tạo vật vô cùng.
- Tình tràng giang da diết:
+ Sóng buồn “điệp điệp”, điệp trùng hết nỗi buồn này đến nỗi buồn khác, dai dẳng
không dứt như con sóng. Nỗi buồn lặng lẽ nhẹ nhàng như sóng gợn, do đó da diết khôn cùng.
Cái buồn của lòng người được gợi lên bởi hình ảnh sóng nước dập dềnh nên càng hụt hẫng,
chơi vơi. Câu thơ của Huy Cận có sự so sánh ngầm: có bao nhiêu gợn sóng trên tràng giang là
có bấy nhiêu nỗi buồn. Câu thơ tả sóng mà gợi lên nhiều hơn chính là nỗi lòng.
+ Có nước thì có thuyền: 3
con thuyền lẻ loi, con thuyền là cõi nhân thế, cái lẻ loi của con thuyền làm nổi bật cái
hoang vắng của dòng sông, một không gian hiu quạnh.
“con thuyền xuôi mái” buông trôi hững hờ, thụ động
con thuyền còn chia xa “thuyền về, nước lại”, thuyền về một ngả, nước lại một đường,
thuyền về nước cứ xa cách, cứ lạc nhịp đến xót xa, gợi nỗi sầu chia ly, tan tác. Vì thế, nỗi buồn
đã tăng lên thành nỗi “sầu”, từ “trăm ngả” cuộc đời về hội tụ trên dòng tràng giang.
+ Hình ảnh hiện thực đến “sống sít”: cành củi nổi trôi. Nếu qua hình ảnh dòng sông,
không gian vũ trụ hiện lên với vẻ đẹp bao la, hùng vũ thì hình ảnh “củi một cành” hiện lên bé nhỏ,
lạc loài, một sự tương phản đến xót xa.
Mọi từ ngữ trong câu thơ được khai thác triệt để, đẩy cái sầu thảm lên đến tận cùng.
Từ một cành cây xanh tươi nơi thượng nguồn trở thành củi một cành khô bập bềnh trôi nổi.
Thân phận cỏ cây đã mấy lần khô héo, trôi dạt đổi thay khi trong lòng luôn mang sẵn cảm giác
lẻ loi, lạc lõng; nhà thơ sẽ đồng cảm ngay với hình ảnh cành củi tội nghiệp ấy. Nó tương ứng
với cảnh ngộ bơ vơ, lạc long của cá nhân trong xã hội. Cái “tôi” cô đơn, tội nghiệp của Huy Cận,
của các thi sĩ lãng mạn đã tìm thấy trong hình ảnh này tiêu biểu đầy ám ảnh về số kiếp lênh
đênh, lạc loài của mình.
+ Âm điệu thơ cũng gợi buồn:
trong sự hoán vị bằng trắc đều đặn, những thanh điệu, âm vực thấp được ưu tiên
cấu trúc thơ đăng đối, nhịp nhàng
những từ láy nguyên cuối dòng, tạo dư ba, lan tỏa, điệp điệp song song, tất cả đã góp
phần tạo nên giọng điệu sâu lắng, trầm buồn của khổ thơ.
Những hình ảnh, những nhạc điệu nối kết với nhau tạo nên nỗi buồn mênh mông.
Khổ thơ tả cảnh mà người đọc nhận ra nhiều hơn là nỗi tê tái của lòng người. Sắc thái cổ điển
và hiện đại hòa quyện nhuần nhuyễn làm nổi rõ thiên nhiên bao la và nỗi buồn sầu vô tận.
2. Khổ 2: Không gian và nỗi choáng ngợp
Bức tranh tràng giang có thêm nhiều chi tiết mới, ở khổ 2, nỗi buồn thấm vào cảnh vật
- Không gian tràng giang rộng lớn bỗng được thu về ở phạm vi “cồn nhỏ”. Hình ảnh
chiếc cồn chơ vơ giữa sông đã buồn thì “cồn nhỏ” càng buồn hơn. Đã vậy 2 chữ “lơ thơ” đứng
trước, gợi sự ít ỏi thưa thớt đứng trước. Hai chữ “đìu hiu” lặng lẽ, lạnh vắng đứng sau, hàng
loạt từ gợi buồn nối tiếp gây ấn tượng về nỗi buồn chồng chất, tiếp nối.
- Dường như có sự đồng điệu giữa Bà Huyện Thanh Quan xưa và Huy Cận nay khi bỗng
nhiên ta thấy 2 câu thơ trong bài “Qua Đèo Ngang”: “Lom khom dưới núi tiều vài chú/ Lác đác
bên sông chợ mấy nhà.” Cồn nhỏ lơ thơ và ngọn gió đìu hiu càng làm tăng thêm vẻ heo hút của
vùng đất thiếu vắng con người.
- Âm thanh tan hợp đan cài trong bài thơ:
“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
+ Chợ gợi sự náo nhiệt, đông vui nhưng chợ chiều vẫn hoang vắng, tiêu điều quá, gợi
âm thanh buồn của cuộc sống con người.
+ “Đâu” đứng ở đầu dòng thơ có nhiều ý nghĩa: 4
Khát thèm âm thanh của cuộc sống con người, thi sĩ lắng nghe nhưng đến cái âm
thanh xoàng xĩnh, buồn chán của cuộc sống con người, thế mà cũng không có.
Nhà thơ cũng vỗ mãi tiếng sóng nước, sóng lòng buồn bã qua phép đối sóng đôi “lơ
thơ”, “đìu hiu”.
- Không gian mở rộng ra nhiều chiều, ra mọi phía, tới vô biên tạo sự choáng ngợp trong lòng nhân vật trữ tình:
+ Sự vô biên được mở về chiều cao trong “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”. Hai động
từ ngược hướng đem lại cảm giác về sự chuyển động nắng “xuống” tới đâu, trời “lên” tới đó.
Cách diễn đạt ấy đem lại cảm giác chia lìa: trời và nắng hóa ra cũng ly biệt.
+ “Sâu chót vót”: chót vót là từ miêu tả chiều cao nhưng lại dùng bổ nghĩa cho “sâu”,
kết hợp từ này chưa bao giờ xuất hiện trong giao tiếp, thi ca, thể hiện cái nhìn tâm tưởng của
nhà thơ, không phải cái nhìn bình thản ngước lên bầu trời mà xuyên sâu vào đáy vũ trụ để cảm
nhận đến tận cùng. Cái “tôi” càng thấy bơ vơ trước sự vô biên đến rợn ngợp.
+ Sự vô biên còn được mở ra ở cả chiều dài: bát ngát, tít tắp qua chi tiết “sông dài, trời
rộng”. Dưới áp lực của cái nhìn xa hút ở câu trên, không gian tràng giang như được nối rộng
đến vô tận, sông như dài ra, trời như rộng thêm.
Trong 2 dòng thơ, nhà thơ đã đem đặt cạnh nhau những sự vật bản thân chúng không
gợi buồn để tả cảnh buồn vì giữa chúng không có mối liên hệ nào được thiết lập, vì nhịp thơ ngắn,
đứt ra thành hai tiếng, không gian rộng lớn như bị cắt chia lẻ loi, rời rạc. Trong cõi không gian
bao la đến vô biên ấy, cái “bến” rộng, hình ảnh của cõi nhân thế càng trơ trọi, vắng vẻ qua 2
chữ “cô liêu”, nỗi buồn càng thấm thía. Con người như choáng ngợp trước vũ trụ rộng lớn, vĩnh
hằng và không thể không cảm thấy lạc loài giữa mênh mông của đất trời, xa vắng của không
gian. 3. Khổ3:Cảnhvậtvànỗicô đơn
Bức tranh tràng giang tiếp tục bổ sung thêm những hình ảnh mới, bên cạnh những chi
tiết hiện hữu, tác giả còn đưa thêm vào những hình ảnh trống vắng.
a. Những hình ảnh hiện hữu:
- Đó là những lớp bèo trôi dạt trên sông:
+ Huy Cận đã mượn cánh bèo truyền thống để nói về cái nổi trôi của kiếp người đã từng
được nhắc đến trong khổ đầu của bài thơ. Những ý sầu buồn cứ láy đi láy lại tự như những lớp
sóng triền miên, cứ vỗ mãi vào cảm giác cô đơn.
+ Những cách nói tầng lớp rợn ngợp hơn, không phải là 1 mà là “hàng nối hàng”. Hai
chữ “về đâu” đặt câu hỏi về kiếp người bơ vơ. Nhà thơ nén ra câu hỏi mà dường như chẳng biết
hỏi ai và cũng chẳng thể trả lời, cô đơn đến tột cùng. Đó là tâm trạng chung của lớp thanh niên
năm 30-40 thế kỷ trước.
- Đó là bờ bãi “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”, dường như bờ bãi xa vắng hoang vu này
đã bị cuộc đời lãng quên từ hàng nghìn, hàng vạn năm trước. Tràng giang hiện ra là một bức
tranh tạo vật vừa hoang sơ, vừa cổ kính; thi sĩ như một lữ khứ đơn độc, lạc loài. Đơn độc, lạc
loài giữa tạo vật, cái “tôi” tìm kiếm sự cảm thông của đồng loại nhưng tất cả đều trống vắng. 5
b. Những hình ảnh trống vắng:
- Đó là “chuyến đò ngang”, đó là “chiếc cầu” bắt qua sông để giao nối đôi bờ, để giao
hòa giữa con người và con người, nhưng tất cả đều không có. Có chút gì như sự hốt hoảng
trong cách nén ra hàng loạt từ phủ định liên tiếp “không đó, không cầu”. Con người không tìm
thấy sự chia sẻ nào, chỉ có mênh mông cảnh, chỉ có quạnh hiu bến bờ, chỉ có những cánh bèo
lênh đênh trôi dạt. Dùng cái không có để khẳng định cái có: nỗi cô đơn sừng sững hiện diện vì
sự giao nối giữa người với đời, giữa người với người đều bị tước đoạt.
- Tràng giang hiện ra như một thế giới hoang vắng. Cái thanh vắng của thơ xưa được
cảm nhận bằng sự an nhiên, tự tại. Còn sự trống vắng của “Tràng giang” lại được cảm nhận
bằng nỗi cô đơn, bơ vơ. Đằng sau nỗi cơ đơn là niềm khát khao giao cảm, khát khao hòa hợp
trong hồn thơ ảo não của Huy Cận.
4. Khổ 4: Hoàng hôn và làng quê
- Cảnh hoàng hôn: bầu trời cao rộng, êm ả lúc chiều tà được gợi lên từ 2 hình ảnh quen
thuộc trong thơ cổ điển.
+ Mây: “lớp lớp” mây trắng chồng xếp lên nhau thành một núi mây nổi bật trên nền trời
xanh. Ánh nắng ban chiều chiếu vào long lánh như núi bạc. “Đùn” là động từ mạnh. Tảng mây
mà như có lực bên trong, cứ trồi ra hết lớp này đến lớp khác. Vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa tráng lệ,
như chất chứa sự đe dọa đầy bí ẩn. Vẻ tráng lệ của mây trời không đem đến cảm giác hân hoan,
ngược lại tô đậm nỗi cô đơn trong lòng nhà thơ.
+ Cánh chim: trong thơ xưa và trong tranh xưa, cánh chim bay về cuối trời đã trở thành
tín hiệu thẩm mỹ để báo hoàng hôn. Dấu hai chấm đã xác lập mối quan hệ giữa hai sự vật.
Chim nghiêng cánh để trút bóng chiều xuống dải tràng giang hay chính bóng chiều nặng nề đã
làm chim “nghiêng” lệch cánh. Phép đối lập cũng được khai thác triệt để, đối lập giữa hai dòng
thơ. Dòng trên gợi trạng thái bồng bềnh của mây cao thì dòng dưới lại trĩu xuống theo bóng
chiều xa, bóng chiều chở nặng tâm tình của thi nhân. Không gian mậy trời khổng lồ ở dòng trên
như đè dí lên cánh chim ở phía dưới.
+ Phép đối lập trong dòng thơ: cánh chim quá nhỏ bé, nhẹ mỏng, bóng chiều lại quá
mênh mang, quá nặng nề, bóng chiều mông lung bỗng trở nên có hình có khối. Cánh chim bay
đi đâu cho thoát khỏi bóng chiều đang đè nặng xuống mình. Nỗi buồn, nỗi đơn côi được diễn tả
thật tài tình, sáng tạo.
- Nỗi sầu trong lòng nhà thơ đã tràn ra ngoài cảnh vật, bao phủ cả buổi chiều, làm cho
buổi chiều sẵn có những nét quạnh quẽ lại càng trở nên quạnh quẽ hơn.
+ “Lòng quê” là lòng nhớ quê hương, lấy từ 2 chữ “hương tâm”, không phải phải tấm
lòng chất phác quê mùa. “Dợn” chỉ xao động dâng lên rồi uốn xuống. “Dợn dợn” là gợn liên
tục, tiếp nối điệp trùng. “Vời” là xa, con nước là con sóng, lòng nhớ quê hương dâng lên mãi
khi phóng tầm mắt nhìn “con nước” mênh mông sẫn dần trong bóng chiều đổ xuống, lòng nhớ
quê, yêu quê càng trỗi dậy. Nỗi nhớ quê hương ko còn trong ý thức mà đã trở thành cảm giác thấm thía. 6
+ Ý thơ “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” gợi nhớ thơ Thôi Hiệu thuở xưa. Tuy
cách xa nhau hàng nghìn năm song hai nhà thơ đều có cảm giác buồn nhớ quê hương khi đứng
trước cảnh sông nước lúc chiều tà. Rõ ràng đó là những gì mang tính nhân bản muôn thuở
nhưng lại có chỗ rất khác nhau. Dựa vào thi liệu cổ điển, Huy Cận lại sáng tạo câu thơ mới
mang màu sắc hiện đại. Nỗi buồn không đến từ ngoại cảnh mà tự có tự đầy trong lòng. Các nhà
thơ cổ điển thường mượn ngoại cảnh để tả nội tâm, các nhà thơ mới tả nội tâm bằng nội tâm.
Hồn thơ Đường bàng bạc tong khổ thơ nhưng nhà thơ Huy Cận vẫn dành cho mình những nét
riêng. “Nhớ nhà” cần được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Đó không chỉ là nỗi nhớ một mái nhà cụ
thể mà là nỗi khát khao tìm về một chỗ dựa cho tâm hồn cô đơn. Buồn thay cho con người luôn
cô đơn, bơ vơ ngay trên quê hương mình. Đang đứng giữa quên hương mà hoài nhớ quê hương.
Đó là tâm trạng chung của cả một thế hệ. III. Tổng kết: 1. Về nội dung:
- Đi suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên vô tận:
+ Nỗi buồn của thế hệ thanh niên, của cả dân tộc mất nước dưới thời thuộc Pháp.
+ Nỗi buồn theo quan niệm mỹ học của các nhà thơ lãng mạn đương thời: cái đẹp sóng đôi với cái buồn.
Bài thơ bao trùm một nỗi buồn thương mênh mang, đó là cái buồn thế hệ, cái buồn
thời đại, là nỗi buồn thương về cuộc đời, kiếp người, là nỗi sầu nhân thế.
- Qua bài thơ mới mang vẻ đẹp cổ điển, Huy Cận đã bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô
đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm
kín mà thiết tha. Thấm đượm trong từng vần thơ là tình cảm quê hương đất nước kín đáo và
thiết tha. Cảnh sông nước tuy buồn nhưng thật đẹp, thật Việt Nam. Lòng yêu thiên nhiên của
hồn thơ lãng mạn đã bắt gặp tình cảm quê hương, đất nước của người trí thức vẫn nặng lòng
với núi sông, lặng lẽ thế nhưng sâu nặng, mãnh liệt vô cùng.
Cái buồn của Huy Cận trong bài thơ này trước sau vẫn là cái buồn trong sáng, làm
phong phú thêm tâm hồn bạn đọc bởi lẽ ẩn sau tâm trạng buồn bã, lẻ loi ấy là niềm khao khát
sự sống, sự cảm thông, hòa hợp giữa người và người, là tấm lòng nặng trĩu với quê hương đất
nước. 2. Vềnghệthuật:Bàithơkếthợpgiữabútphápcổđiểnvàhiện đại
- Chất Đường thi thấm đượm từ thi đề, thi tứ đến thi liệu và những thủ pháp nghệ thuật. - Chất hiện đại:
+ Cái tôi Huy Cận mang nỗi buồn cô đơn của Thơ mới.
+ Chất liệu thi ca: sử dụng những hình ảnh đời thường không ước lệ: dòng sông sóng lượn,
con thuyền xuôi mái chèo, cành củi khô bồng bềnh, chợ chiều của làng quê, cánh bèo lênh
đênh…+Cáchlạhóachấtliệungôntừ,ýthứcvượtbỏthơcổ
+ Cấu tứ bài thơ như sự dòng chảy miên viễn vô thủy vô chung của chính Tràng Giang -
khai thác tối đa nhạc tính của ngôn từ để tạo ra âm hưởng trôi chảy thao thiết, thể hiện qua: 7
những từ láy nguyên được đặt khắp bài thơ, các câu thơ tương xứng trùng lặp, nối tiếp, các vế
câu vừa cắt rời, vừa trùng điệp, nối tiếp…
Âm hưởng trôi xuôi vô tận miên viễn cứ ngầm chảy trong bài thơ.
Tràng giang là một trong những bài thơ rất đặc sắc, rất “Huy Cận”: Huy Cận ở hồn
thơ ảo não, bơ vơ; Huy Cận ở chất giọng có phong vị Đường thi, điềm đạm, sâu lắng và Huy
Cận ở những rung cảm tinh vi và sáng tạo hiện đại. 8
Document Outline
- TRÀNG GIANG
- - Huy Cận -
- 1.Tác giả: Huy Cận (1919 – 2005)
- b. Sự nghiệp văn học:
- - Sau CMT8:
- a. Hoàn cảnh sáng tác:
- b. Ý nghĩa nhan đề:
- c. Ý nghĩa lời đề từ:
- d. Hình tượng trung tâm – cảm hứng:
- e. Chủ đề:
- II.Đọc hiểu văn bản:
- a. Những hình ảnh hiện hữu:
- b. Những hình ảnh trống vắng:
- III.Tổng kết:
- 1.Về nội dung: