



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 59703641 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu chuyên đề
Quan hệ thừa kế xuất hiện từ rất sớm, song song với quan hệ sở hữu trong
đời sống xã hội; cùng với sự phát triển của xã hội những vấn đề về pháp luật thừa
kế, tranh chấp thừa kế và giải quyết tranh chấp thừa kế luôn tồn tại, thay đổi phù
hợp từng hình thái xã hội tương ứng, truyền thống, văn hoá ở mỗi quốc gia. Con
người là thực thể xã hội nhưng đồng thời là thực thể sinh học mà sự sống, chết của
con người chịu tác động bởi quy luật sinh học. Cái chết của một con người làm
chấm dứt sự tồn tại con người sinh học đồng thời làm chấm dứt năng lực chủ thể
(đời sống pháp lý) của con người trong xã hội. Tuy nhiên, cái chết của con người
không làm chấm dứt tất cả các quan hệ xã hội mà họ tham gia, đặc biệt là các quan
hệ về tài sản bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ, bởi sự tồn tại của các
quan hệ này phụ thuộc vào sự vận động các quy luật kinh tế trong xã hội. Khác với
các quan hệ dân sự khác, quan hệ thừa kế chỉ phát sinh khi có cá nhân bị chết nên
pháp luật quy định rõ, thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết đồng
thời kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại. Chính sự khác biệt này của quan hệ thừa kế mà một số
nội dung trong quan hệ này cũng có tính chất đặc thù như quy định cho thai nhi
được bảo lưu tư cách hưởng di sản thừa kế, mặc dù chưa có năng lực chủ thể; người
thừa kế thực hiện quyền và nghĩa vụ mà người chết để lại và thực hiện nghĩa vụ
bằng tài sản của người chết để lại.
Tranh chấp thừa kế ở nước ta được xem là loại án dân sự phổ biến, phức tạp,
có những vụ án tranh chấp thừa kế kéo dài hàng chục năm. Một nguyên nhân quan
trọng làm cho tranh chấp thừa kế phức tạp vì đây là tranh chấp giữa những người
thân thích có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Tính chất phức tạp của
loại án tranh chấp về thừa kế có nhiều nguyên nhân, một nguyên nhân quan trọng
làm cho tranh chấp thừa kế phức tạp vì đây là tranh chấp giữa những người thân
thích có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng; mặt khác di sản thừa kế
thường là quyền sử dụng đất và nhà ở vốn đã là những đối tượng tranh chấp có tính
chất gay gắt, bức xúc từ sau khi Luật đất đai năm 1993 có hiệu lực; sự chi phối,
ảnh hưởng của các giá trị truyền thống về văn hoá, đạo lý trong gia đình; và khi
giải quyết tranh chấp thừa kế, ngoài chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự còn liên
quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật như pháp luật về sở hữu, về hôn nhân và gia
đình, về đất đai… cần được nghiên cứu áp dụng.
Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự nói chung và tranh chấp trong lĩnh
vực thừa kế nói riêng là một trong những công tác thực hiện chức năng kiểm sát tư lOMoAR cPSD| 59703641
pháp đã được quy định trong Hiến pháp của nước CHXHCN Việt Nam và Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Khi kiểm sát việc giải quyết các vụ việc
dân sự nói chung và các vụ án về tranh chấp trong lĩnh vực thừa kế nói riêng, Viện
kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn: Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu; kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ, việc; thu thập chứng cứ, tài liệu
trong trường hợp pháp luật quy định; tham gia phiên tòa, phiên họp, phát biểu quan
điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ, việc theo quy định của
pháp luật; kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án; kiểm sát hoạt động tố tụng của
người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý
nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; kháng nghị, kiến nghị bản
án, quyết định của tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị, yêu cầu tòa án, cơ quan,
tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tố tụng; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác
trong kiểm sát việc giải quyết vụ, việc dân sự theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, trong những năm qua Viện kiểm
sát nhân dân các cấp nói chung và tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao nói riêng đã
có nhiều cố gắng trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự về chia
thừa kế nên đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt
động kiểm sát việc giải quyết các vụ án trong lĩnh vực thừa kế cho thấy một số quy
định còn chưa phù hợp với thực tiễn, chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những
cách hiểu khác nhau… đã trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kiểm sát
việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, từ đó ảnh hưởng
không nhỏ tới việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Chính vì
vậy, việc xây dựng chuyên đề: “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm
sát việc giải quyết các vụ án dân sự về chia thừa kế” là vô cùng cần thiết. 2. Mục
tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu * Mục tiêu:
Nhằm làm sáng tỏ thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân
sự về thừa kế theo thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự như: làm rõ đặc
trưng và tình hình kháng nghị giám đốc thẩm vụ án dân sự về chia thừa kế; kết quả
đạt được và hạn chế, tồn tại của công tác kháng nghị giám đốc thẩm đồng thời đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kháng nghị giám đốc
thẩm các vụ án dân sự về thừa kế. * Nhiệm vụ: lOMoAR cPSD| 59703641
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp vàkiểm sát
việc giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thừa kế ở giai đoạn giám đốc thẩm tại
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Tìm hiểu thực trạng công tác kháng nghị giám đốc thẩm các vụ ántranh chấp về chia thừa kế.
- Đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại của công táckháng
nghị giám đốc thẩm các vụ án tranh chấp về chia thừa kế.
- Đề xuất giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả công tác kháng nghịgiám đốc thẩm…
3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về loại việc: Chỉ đề cập đến kháng nghị giám đốc thẩm đối với các
vụ án dân sự về thừa kế, không nghiên cứu kháng nghị giám đốc thẩm việc dân sự.
4. Bố cục của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của chuyên đề được chia làm 2 chương:
Chương I: Thực trạng công tác kháng nghị giám đốc thẩm vụ án dân sự về chia thừa kế.
Chương II. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác
kháng nghị giám đốc thẩm vụ án dân sự về chia thừa kế. CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM VỤ ÁN
DÂN SỰ VỀ CHIA THỪA KẾ
1. Đặc điểm của các vụ án chia thừa kế
Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với các nước trên thế giới,
cùng với việc toàn cầu hoá, vận hành theo cơ chế thị trường dẫn đến tình hình xã
hội có nhiều biến đổi, vấn đề tài sản thuộc sở hữu cá nhân cũng ngày càng phong
phú, việc thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp. Những năm
gần đây, các loại tranh chấp trong quan hệ dân sự gia tăng, trong đó tranh chấp về
di sản thừa kế và việc giải quyết loại án này luôn là mối quan tâm của xã hội, thâm
cḥ í gây bức xúc khi có những vụ viêc pḥ ải giải quyết nhiều lần, qua nhiều cấp xét
xử do khiếu kiên gay g ̣ ắt, kéo dài. lOMoAR cPSD| 59703641
Cùng với sự gia tăng về số lượng các tranh chấp dân sự nói chung và lĩnh vực
thừa kế nói riêng thì tính chất mức độ tranh chấp cũng phức tạp, gay gắt hơn. Nhiều
vụ việc đã qua hai cấp xét xử nhưng các bên tranh chấp vẫn không chấp nhận phán
quyết của Toà án và tiếp tục khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm. Mỗi năm Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tiếp nhận hàng trăm nghìn đơn
khiếu nại đề nghị xem xét lại bản án, quyết định của Toà án cấp dưới theo thủ tục giám đốc thẩm.
Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự về thừa kế còn cho thấy không chỉ các
bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm có sai lầm mà một số quyết
định giám đốc thẩm, tái thẩm của các Toà chuyên trách thuộc Toà án nhân dân tối
cao (theo luật cũ), thậm chí là cả các quyết định của Hội đồng thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao cũng có sai lầm nghiêm trọng. Do đó, tình trạng khiếu kiện và
việc giải quyết khiếu kiện theo thủ tục giám đốc thẩm đang trở thành vấn đề thách
thức gây quá tải cho Toà án và Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Hệ quả không mong muốn là có trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm nhưng Toà án, Viện kiểm sát chưa kịp thời xem xét giải quyết,
cũng có những trường hợp gần hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Tòa án, Viện kiểm sát mới nhận được đơn khiếu nại của đương sự nên không có
đủ thời gian để xem xét. Do đó, có trường hợp mặc dù phát hiện bản án, quyết định
của Tòa án có sai lầm, vi phạm nhưng thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm không còn, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của đương sự.
Sự phức tạp của tranh chấp thừa kế do nhiều nguyên nhân, nhưng phải kể đến
hai nguyên nhân chủ yếu, đó là:
Do các chủ thể tham gia quan hê chia tḥ ừa kế (cha, mẹ, anh, em, những người
thân thích, ruôt tḥ ịt trong gia đình, dòng tôc…), quan hệ tranḥ chấp thừa kế có thể
liên quan đến môt ṿ ài người, song cũng có thể liên quan đến rất nhiều người trong
gia đình, họ tôc, do đ ̣ ó tranh chấp tài sản thừa kế rất dễ phá vỡ tình cảm gia đình,
họ tôc, thậ m cḥ í dẫn đến sự xuống cấp về đạo đức trong xã hôi ṇ ếu không được
giải quyết khách quan, thấu tình, đạt lý.
Do hạn chế của pháp luât nự ớc ta trước đây còn thiếu hoăc quy đ ̣ ịnh chưa
đầy đủ về thủ tục đăng ký, quản lý tài sản, thủ tục giao, cấp đất; viêc ̣ thực hiên
không đ ̣ úng trình tự, thủ tục trong kê khai, đăng ký của người dân, trong giao, cấp
đất của cơ quan có thẩm quyền; viêc gị ải toả, đền bù, chỉnh trang đô thị… dẫn đến
viêc x ̣ ác định nguồn gốc của di sản khi giải quyết tranh chấp trở nên phức tạp, khó khăn hơn.
Trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự về thừa kế thấy rằng: Tài
sản thực khi chia thường không trùng khớp với di sản để lại, có sự hao mòn nhất lOMoAR cPSD| 59703641
định, cùng sự thất lạc các giấy tờ, đòi hỏi cán bộ giải quyết khi xác định cần hết
sức cẩn thận và chi tiết, về giá cả tài sản ở thời điểm hiện tại, về các biên bản thẩm
định cũng như các khả năng sinh lợi của tài sản (đặc biệt là bất động sản). Việc xác
định, đánh giá đúng đắn được các mối quan hệ tài sản cũng như phân định tài sản
tranh chấp nêu trên là một vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm. Thực tiễn cho
thấy, nếu xác định và đánh giá đúng thì việc giải quyết mới đảm bảo được quyền
lợi hợp pháp của các đương sự. Việc xác định thời hiệu thừa kế, hàng thừa kế phải
chính xác, ngoài ra đối với trường hợp là con riêng của vợ hoặc chồng phải xác
định mối quan hệ nuôi dưỡng, mức độ chăm sóc, tình cảm khi chung sống với
người để lại di sản để đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự. Như vậy sẽ giảm
tải việc khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm.
Nhìn chung, khi giải quyết tranh chấp chia di sản thừa kế đòi hỏi Kiểm sát
viên ngoài hiểu biết về tâm lý con người, tâm lý xã hôi c ̣ òn cần phải nắm vững
chế định thừa kế trong Bô luậ t dân ṣ ự, các văn bản hướng dẫn và nghiên cứu áp
dụng các văn bản pháp luât c ̣ ó liên quan như pháp luât ṿ ề sở hữu, về hôn nhân gia
đình, về đất đai…nhằm giải quyết đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân đặc biệt cần quan tâm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
phụ nữ và trẻ em sau khi chia tài sản thừa kế.
2. Thực trạng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự về chia thừa kế
Sự hình thành phát triển nền kinh tế thị trường trong hơn ba thập kỷ đổi mới
đất nước kéo theo hệ luỵ về sự mở rộng quan hệ dân sự, sự gia tăng tranh chấp dân
sự trong xã hội mà thừa kế không phải là ngoại lệ. Công tác giải quyết các vụ án
dân sự nói chung hay các vụ án về thừa kế nói riêng trong những năm vừa qua đã
trở thành mối quan tâm của xã hội, thậm chí gây bức xúc, bất ổn khi có không ít
các vụ việc tranh chấp phải giải quyết nhiều lần do việc khiếu kiện kéo dài, gay gắt.
Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án thừa kế là một trong những hoạt
động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của
pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án có căn cứ,
đúng pháp luật. Trong những năm qua, đăc biệ t ṭ ừ khi Bô luậ t Ṭ ố tụng Dân sự
năm 2015 có hiêu ḷ ực, phạm vi kiểm sát viêc ̣ giải quyết các vụ viêc dân ṣ ự của
Viên kị ểm sát được mở rông, Việ n kị ểm sát tham gia phiên toà nhiều hơn. Hầu
hết các vụ án tranh chấp di sản thừa kế đều có đối tượng là bất đông ṣ ản nên Kiểm
sát viên có trách nhiệm phải tham gia (trực tiếp nghiên cứu hồ sơ và tham gia kiểm
sát tại phiên toà…). Thông qua công tác kiểm sát, Viên kị ểm sát đã đảm bảo để
các vụ viêc dâṇ sự nói chung và án thừa kế nói riêng được giải quyết nhanh chóng lOMoAR cPSD| 59703641
và đúng pháp luât, hơn tḥ ế nữa đã kịp thời phát hiên nhị ều vi phạm của Toà án
trong quá trình giải quyết các vụ án tranh chấp di sản thừa kế để thực hiên quỵ ền
kháng nghị, kiến nghị theo quy định của pháp luât.̣
Tuy nhiên, theo số liêu ḅ áo cáo thống kê hàng năm cho thấy số lượng án trong
đó có tranh chấp di sản thừa kế sơ thẩm bị cấp phúc thẩm sửa, huỷ còn nhiều (tỷ lê
40 đ ̣ ến 45%) nhưng số vụ, viêc c ̣ ó kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
của Viên kị ểm sát các cấp chưa nhiều. Từ thực trạng này, công tác kiểm sát giải
quyết các vụ, viêc dân ṣ ự nói chung và kiểm sát giải quyết án tranh chấp thừa kế
nói riêng cần cố gắng, nỗ lực trên nhiều phương diên, trong đ ̣ ó viêc nâng cao kị
ến thức pháp luât, kỹ năng ̣ nghiêp ṿ ụ chuyên môn, viêc ṭ ích luỹ kinh nghiêm c ̣ ủa
mỗi Kiểm sát viên là vấn đề cần thiết và quan trọng hàng đầu.
Viện kiểm sát các cấp mặc dù đã tích cực, chủ động trong công tác kiểm sát
các bản án, quyết định của Toà án nhưng do hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát
mới chỉ chủ yếu thông qua nghiên cứu bản án, quyết định của Toà án nên hiệu quả
công tác kiểm sát còn rất hạn chế, không kịp thời phát hiện các vi phạm của Toà
án trong quá trình giải quyết. Mặc dù có nguyên nhân khách quan từ việc quy định
pháp luật tố tụng chưa bảo đảm cơ sở pháp lý cần thiết để Viện kiểm sát các cấp
thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình, nhưng trên phương diện là cơ quan
có chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp để bảo đảm việc giải quyết tranh chấp
dân sự của Toà án đúng pháp luật thì công tác kiểm sát thực sự chưa đáp ứng được yêu cầu này.
Hiện nay, báo cáo công tác kiểm sát của ngành Kiểm sát cũng như báo cáo
công tác xét xử của ngành Toà án không thống kê số liệu riêng cho từng loại án
dân sự, vì vậy khó đánh giá thực trạng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án
chia thừa kế trên cở sở thực trạng công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự
nói chung và một số vụ án thừa kế có tính chất điển hình về tính phức tạp, có khiếu
kiện gay gắt, kéo dài. Số liệu báo cáo thống kê chung của ngành về án dân sự trong
nhiều năm thể hiện rõ số lượng vụ án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm sửa, huỷ từ khoảng
gần 40% đến 45%, tuy nhiên số vụ việc có kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện kiểm sát các cấp chỉ chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn.
Ngành Kiểm sát không thể tự nhận đã làm tốt chức năng kiểm sát các hoạt động tư
pháp, trong khi nhiều Viện kiểm sát địa phương trong một năm công tác cả hai cấp
kiểm sát chỉ kháng nghị phúc thẩm được một vài vụ án dân sự. Trong bối cảnh
chung, công tác kiểm sát giải quyết án thừa kế còn hạn chế và cần sự cố gắng nỗ
lực trên nhiều phương diện từ việc củng cố đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ
nhận thức; bồi dưỡng nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ chuyên
môn; chú trọng công tác chỉ đạo hướng dẫn nghiệp vụ trong toàn ngành… lOMoAR cPSD| 59703641
Tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao, lượng đơn đề nghị, kiến nghị liên quan
đến lĩnh vực thừa kế chiếm tỉ lệ tương đối cao (khoảng 27%) so với tổng số đơn
thụ lý, giải quyết. Tuy lượng đơn gửi đến nhiều nhưng viÖc gi¶i quyÕt ®¬n ®Ò
nghÞ, kiÕn nghÞ theo thñ tôc gi¸m ®èc thÈm cha ®¸p øng ®îc yªu cÇu, mới chỉ xem
xét, giải quyết được khoảng 25% đơn đề nghị, kiến nghị; tỉ lệ kháng nghị so với tỉ
lệ đơn được giải quyết ở mức vô cùng khiêm tốn (nhất là từ khi thực hiện Bộ luật
Tố tụng dân sự 2015 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014); cã nh÷ng
vô viÖc gi¶i quyÕt ®i gi¶i quyÕt l¹i; nhiÒu vô viÖc cha ®îc xem xÐt gi¶i quyÕt. Đặc
biệt có những vụ án dân sự về thừa kế mặc dù giải quyết qua nhiều cấp khác nhau
nhưng đương sự vẫn khiếu nại gay gắt và một số trường hợp vẫn phát hiện có sai
lầm. Bên cạnh công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự thông qua đơn đề
nghị, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức, Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn
thực hiện kháng nghị giám đốc thẩm các vụ án dân sự thông qua báo cáo đề nghị
kháng nghị của các Viện kiểm sát địa phương.
Thực tế cho thấy, việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm là rất phức tạp, vì không phải tất cả các bản án, quyết định có hiệu lực mà
phát hiện có vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án đều phải kháng
nghị; mà kháng nghị hay không kháng nghị còn phụ thuộc vào sự đánh giá có hay
không sự vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án, nếu có vi phạm thì là
nghiêm trọng hay không nghiêm trọng đến mức phải kháng nghị. Tuy nhiên, theo
đánh giá chung thì việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm tại
Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong những năm qua đã đạt được những thành tích
đáng khích lệ, công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự ngày càng được
chú trọng nâng cao. Qua đó, góp phần cùng Tòa án nhân dân tối cao khắc phục
được những sai sót, vi phạm của Tòa án nhân dân các địa phương cũng như các
Tòa án nhân dân cấp cao, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước,
tập thể, công dân; góp phần phát triển kinh tế - xã hội; lập lại trật tự kỷ cương; tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thành
tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát nhân dân.
Trước tình hình, đặc điểm và thực trạng công tác kiểm sát việc giải quyết các
vụ, việc về thừa kế từ khi thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự, Viện kiểm sát chủ yếu
kiểm sát việc giải quyết các vụ án của Tòa án thông qua các bản án, quyết định mà
không kiểm sát hoạt động tố tụng trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án nên việc
phát hiện vi phạm của Toà án gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh quy định đương sự có
nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ
và hợp pháp; việc áp dụng pháp luật nhiều lúc, nhiều nơi còn chưa thống nhất đôi
khi còn mang ý chí chủ quan của Toà án nên việc ra quyết định, bản án chưa thật lOMoAR cPSD| 59703641
sự khách quan và đúng pháp luật, gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của các
đương sự. Từ đó dẫn đến tình trạng án kéo dài, xử nhiều lần, đương sự khiếu kiện
vượt cấp, đôi khi đương sự do quá bức xúc làm mất trật tự trị an. Thông qua thực
hiện chức năng kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân đã phát hiện những vi phạm của
Tòa án về áp dụng pháp luật tố tụng, về pháp luật nội dung hay vận dụng Nghị
định, Thông tư hướng dẫn…đã kịp thời kiến nghị để Tòa án khắc phục vi phạm
hoặc kháng nghị để Tòa án ra những bản án đúng pháp luật, bảo đảm quyền lợi của các đương sự.
3. Một số hạn chế, tồn tại
Thực tế cho thấy, công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án thừa kế theo
thủ tục giám đốc thẩm được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động nghiên cứu
phát hiện vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật; báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân
các cấp và đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm của đương sự. Tuy nhiên, việc
giải quyết đơn khiếu nại, kiến nghị giám đốc thẩm cần có sự tham gia của nhiều
người, qua nhiều khâu, nhiều cấp độ và thực tế hiện nay cả Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân
dân cấp cao đều thực hiện nhiệm vụ giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị giám đốc
thẩm đối với bản án, quyết định dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; hơn
nữa Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao
đều có quyền kháng nghị giám đốc thẩm nên nhiều khi việc xác định là “có vi phạm
pháp luật hay không”, nếu có vi phạm thì là “nghiêm trọng hay chưa đến mức
nghiêm trọng” giữa từng bộ phận, từng cấp, từng cơ quan, từng cá nhân có thẩm
quyền kháng nghị là rất không đồng nhất.
Do đó, trong thực tiễn giải quyết khiếu nại giám đốc thẩm vụ án dân sự
thường xảy ra các trường hợp sau:
Một là, sau khi bản án, quyết định dân sự của của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
hoặc Tòa án nhân dân cấp cao có hiệu lực pháp luật nhưng có đơn đề, kiến nghị
xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm của cá nhân, cơ quan, tổ chức; Viện kiểm
sát nhân dân tối cao hoặc Tòa án nhân dân tối cao xem xét, thấy không có căn cứ
kháng nghị nên đã trả lời đơn đề nghị, kiến nghị, nhưng người đề nghị, kiến nghị
không đồng ý và tiếp tục gửi đơn. Kết quả nghiên cứu lại xác định đề nghị, kiến
nghị là có căn cứ, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao lại kháng nghị. Khi xét xử giám đốc thẩm, Hội đồng xét xử
chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao. lOMoAR cPSD| 59703641
Hai là, khi xét xử giám đốc thẩm, Hội đồng xét xử đã chấp nhận kháng nghị
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc kháng nghị của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định dân sự phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án
cho Tòa án cấp có thẩm quyền xét xử lại. Khi xét xử lại, Tòa án cấp có thẩm quyền
vẫn quyết định y như đã quyết định tại bản án, quyết định trước đây đã bị hủy. Sau
đó, khi giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Tòa án nhân dân tối cao lại trả
lời là không có căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm.
Ba lµ: Một số trường hợp trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, vụ án chưa phát
hiện được thiếu sót, vi phạm hoặc việc đánh giá chứng cứ không chính xác nên đã
có công văn trả lời đương sự, trả lời báo cáo đề nghị kháng nghị của địa phương
hoặc báo cáo các cơ quan trung ương là xử đúng nhưng sau đó Tòa án nhân dân tối
cao lại kháng nghị và qua nghiên cứu, xem xét lại hồ sơ vụ án cho thấy kháng nghị
của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ.
Thực tế trên đã hình thành trong đội ngũ những người làm công tác kiểm sát
giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm tâm lý việc giải quyết một
vụ án dân sự là không có điểm dừng; người dân thì không biết đâu là đúng, đâu là
sai. Không những thế, việc này còn gây ra những khó khăn cho công tác thi hành
án dân sự, vì khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đã được Tòa án cấp
giám đốc thẩm khẳng định là có căn cứ, đúng pháp luật thì sẽ dễ dàng được thi
hành, nhưng sau khi thi hành án xong, người có thẩm quyền lại kháng nghị bản án,
quyết định đã được thi hành đó.
* Về nguyên nhân của hạn chế, tồn tại:
Các sai sót, tồn tại trên xuất phát từ các nguyên nhân khách quan và nguyên
nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
- Đối với nguyên nhân khách quan:
Trong điều kiện xã hội phát triển nhanh như hiện nay, các chế định của pháp
luật về thừa kế đã bắt đầu phát sinh nhiều vấn đề bất cập, không đáp ứng kịp yêu
cầu cấp thiết và tính thực tiễn của xã hội. Nguyên nhân nữa là do số lượng án nhiều
và tính chất phức tạp hơn; khả năng giải quyết các vụ việc về thừa kế, đặc biệt là
quan hệ tài sản (nhà, đất) thực tiễn chưa đáp ứng những đòi hỏi chung của xã hội. Cụ thể như sau:
Một là, số lượng đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm có xu hướng tăng
nhanh trong những năm gần đây, vượt xa khả năng tiếp nhận và giải quyết của các
cơ quan có thẩm quyền. Hầu hết các đơn khiếu nại, kiến nghị của đương sự hoặc
của các cơ quan, tổ chức được gửi tới cả Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm lOMoAR cPSD| 59703641
sát nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao. Điều
này tạo ra một thực tế là cả hai cơ quan này đều phải nghiên cứu, giải quyết. Như
vậy, sự quá tải lại càng tăng thêm.
Hai là, tình trạng gửi nhiều đơn đề nghị, kiến nghị về cùng một vụ việc là
tương đối phổ biến; kể cả khi đã có trả lời của cấp có thẩm quyền là không có căn
cứ kháng nghị bản án, quyết định đó. Điều này dẫn đến việc các cơ quan có thẩm
quyền giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị giám đốc thẩm phải tốn nhiều công sức,
thời gian và tình trạng quá tải về công việc không những không thể cải thiện mà
còn tiếp tục trầm trọng thêm.
Ba là, tình trạng gửi đơn vượt cấp tới các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ,
các Ủy ban của Quốc hội, Ủy ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ
quan báo chí, phát thanh, truyền hình… ngày một gia tăng. Khi nhận được công
văn chuyển đơn đề nghị của đương sự và yêu cầu thông báo kết quả giải quyết theo
quy định của pháp luật thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao
phải xem xét, giải quyết ngay để báo cáo kết quả theo yêu cầu của các cơ quan có
thẩm quyền. Điều này vô hình chung đã khuyến khích tình trạng gửi đơn không
đúng địa chỉ như đã nêu trên.
Bốn là, không thể chỉ căn cứ vào nội dung, kiến nghị để kháng nghị giám đốc
thẩm ngay được, vì còn phải kiểm tra, đối chiếu nội dung đề nghị, kiến nghị với
các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Nhiều trường hợp đơn đề nghị của đương
sự mang nội dung chung chung, không nêu được căn cứ đề nghị kháng nghị. Vì
vậy, Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải yêu cầu các Tòa án ra bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật chuyển hồ sơ vụ án để nghiên cứu giải quyết, qua đó mới có
thể quyết định kháng nghị hoặc trả lời đơn đề nghị, kiến nghị. Việc rút hồ sơ thường
tốn nhiều thời gian nên càng làm tăng khối lượng công việc và kéo dài thời gian giải quyết.
- Đối với nguyên nhân chủ quan:
Chưa có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong việc
triển khai các quy định của pháp luật và chuyển hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát nhân
dân tối cao xem xét, giải quyết. Qua công tác kiểm sát các vụ, việc dân sự theo thủ
tục giám đốc thẩm tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao thấy Viện kiểm sát yêu cầu
Tòa án đã ban hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chuyển hồ sơ vụ
án cho Viện kiểm sát. Tuy nhiên, nhiều trường hợp Tòa án đã ban hành bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật, không chuyển hồ sơ theo yêu cầu của Viện
kiểm sát mà không có lý do hoặc chuyển chậm so với quy định. Theo Khoản 3,
Điều 2 của Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày
01/8/2012 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng về kiểm sát lOMoAR cPSD| 59703641
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự thì Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp
có quyền yêu cầu Tòa án cùng cấp chuyển hồ sơ vụ án dân sự để nghiên cứu. Tuy
nhiên, Thông tư không hướng dẫn cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền
yêu cầu Tòa án cùng cấp chuyển hồ sơ vụ án để nghiên cứu, báo cáo Viện kiểm sát
cấp trên kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Điều này dẫn đến tình trạng, tại
nhiều địa phương sau khi xét xử phúc thẩm, quan điểm của Tòa án không đồng
nhất với Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát địa phương báo cáo đề nghị kháng nghị
giám đốc thẩm lên Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ căn cứ theo bản án mà không
được thẩm định lại hồ sơ vụ án nên nhiều báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc
thẩm chất lượng chưa cao (chỉ khoảng 27,5%). Hơn nữa, theo điểm b, khoản 4,
Điều 2 của Thông tư thì trong thời hạn 03 tháng hoặc 06 tháng (đối với vụ án phức
tạp) kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, nếu Tòa án, Viện kiểm sát không kháng nghị thì
phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án đã yêu cầu, sau vẫn tiếp tục yêu
cầu. Tuy nhiên, các Tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân tối cao thường chuyển
chậm hoặc không chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong số đó
có nhiều hồ sơ Tòa án nhân dân tối cao đang quản lý đã quá thời hạn 03 tháng hoặc
06 tháng. Có vụ án Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành 3 lượt công văn
yêu cầu (thậm chí có vụ 4, 5 lượt), nhưng Tòa án nhân dân tối cao vẫn không chuyển hồ sơ.
Nguyên nhân chủ quan nữa là do công tác bố trí, sắp xếp lực lượng cán bộ,
kiểm sát viên đảm nhận công việc chưa tương xứng với yêu cầu công việc. Hàng
năm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tập huấn, sơ và tổng kết việc thực hiện Bộ luật
Dân sự; Bộ luật tố tụng dân sự và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn… nhưng
chưa đáp ứng kịp thời, đầy đủ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn giải quyết
loại tranh chấp này. Mặt khác, một số cán bộ, kiểm sát viên chưa được đào tạo
chuyên sâu nên nhận thức và vận dụng pháp luật còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy,
để thực hiện tốt quyền năng theo luật định cũng như việc áp dụng pháp luật về thừa
kế được thống nhất, đòi hỏi mỗi cán bộ, kiểm sát viên phải tìm hiểu và nghiên cứu
các căn cứ pháp lý một cách có hệ thống, tích lũy kinh nghiệm một cách sâu sắc,
từ đó mới có khả năng thực hiện tốt nhiệm vụ trong việc phát hiện kịp thời nhưng
vi phạm của tòa án để đề xuất, kiến nghị, kháng nghị và tham gia tốt việc giải quyết
án giám đốc thẩm trong lĩnh vực thừa kế.
Qua thực tiễn công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự nói chung và
kiểm sát việc giải quyết các vụ án trong lĩnh vực thừa kế nói riêng cho thấy những
dạng vi phạm của Tòa án được Viện kiểm sát nhân dân tối cao khắc phục thông
qua kháng nghị chủ yếu bao gồm:
Vi phạm về tố tụng: Một số dạng vi phạm về tố tụng thường gặp như: lOMoAR cPSD| 59703641 -
Tòa án hai cấp không đưa đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ
liênquan tham gia giải quyết vụ án hoặc không giải quyết quyền lợi của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Chẳng hạn, một người thuộc hàng thừa kế trong vụ
tranh chấp nhưng không ủy quyền cho người khác, không từ chối tham gia nhưng
nhiều thẩm phán không đưa họ vào vụ án. Thậm chí có trường hợp người thứ ba
trong tranh chấp đã được tặng cho một phần tài sản và đang sử dụng, quản lý nhưng
tòa cũng không đưa họ tham gia tố tụng trong khi trong bản án vẫn giải quyết cả
phần tài sản họ đang quản lý. Ngoài ra trong các tranh chấp thừa kế quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà có nhiều người đang quản lý, sử dụng hoặc được cho thuê
hay thế chấp ngân hàng, nhiều tòa cũng không triệu tập hoặc đưa những người này
tham gia tố tụng. Trái ngược với nhưng vi phạm nêu trên thì một số thẩm phán lại
giải quyết không đúng hoặc vượt quá yêu cầu của đương sự. Có vụ người khởi kiện
chỉ yêu cầu đòi hoặc chia thừa kế một phần tài sản nhưng tòa lại buộc bị đơn trả
lại toàn bộ tài sản hoặc chia toàn bộ di sản. -
Tòa án hai cấp thực hiện việc tống đạt, thông báo văn bản tố
tụngkhông đúng quy định dẫn đến Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng đương sự kháng
cáo quá hạn đã làm mất quyền lợi của đương sự. Ví dụ như sau khi xử sơ thẩm
vắng mặt đương sự, có tòa không làm thủ tục tống đạt bản án khiến họ không biết,
dẫn đến mất quyền kháng cáo. Thậm chí, có trường hợp khi xử sơ thẩm và thi hành
xong thì đương sự bị thi hành án mới biết vì họ vắng mặt tại tòa và không có mặt
tại địa phương. Một lỗi nữa là việc đình chỉ xét xử phúc thẩm hoặc xử vắng mặt
không đúng. Ví dụ tòa triệu tập người kháng cáo hai lần (họ đều có mặt) nhưng hai
lần này tòa đều phải hoãn xử vì cần xác định thêm chứng cứ. Lần triệu tập thứ ba,
người này vắng hoặc bỏ về lúc làm thủ tục phiên tòa. Nhiều tòa đã đình chỉ xử
phúc thẩm hoặc xử vắng mặt bác kháng cáo của họ vì đã vắng mặt lần ba không lý
do. Trường hợp này, cấp phúc thẩm phải xác định là người kháng cáo vắng mặt lần
thứ nhất và phải hoãn phiên tòa. Các tòa đã nhầm giữa quyền vắng mặt hai lần với
việc vắng mặt ở lần tòa triệu tập thứ ba. -
Tòa án hai cấp không tiến hành thủ tục theo quy định đối với yêu
cầuphản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
hoặc vượt quá yêu cầu kháng cáo của đương sự. Điển hình như theo thẩm quyền,
cấp phúc thẩm chỉ được xem xét phần của bản án bị kháng cáo, kháng nghị. Nhưng
khi quyết định tòa lại sửa luôn cả phần không bị kháng cáo, kháng nghị… Nhiều
trường hợp khi xử phúc thẩm, tòa nhận định án sơ thẩm có nhiều sai sót mà các sai
sót này thuộc diện phải hủy án để giải quyết lại. Thế nhưng cấp này vẫn giữ nguyên
bản án, chỉ nhắc nhở cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm. lOMoAR cPSD| 59703641 -
Bên cạnh những lỗi cơ bản trên, Tòa án hai cấp còn mắc nhiều lỗikhác
về tố tụng như: Thụ lý giải quyết không đúng thẩm quyền đối với vụ án có yếu tố
nước ngoài. Nhiều tòa xử vắng mặt đương sự không hợp lệ, hoãn phiên tòa quá 30
ngày, hoãn tuyên án quá năm ngày làm việc. Nhiều bản án xử lại nhưng HĐXX
khác so với quyết định đưa vụ án ra xét xử, hoặc nhiều bản án đã ban hành nhưng
thiếu chữ ký của Hội thẩm nhân dân… Bên cạnh đó cũng có những lỗi nhỏ như
khi ban hành quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ xét xử sơ thẩm, thẩm phán không
làm đúng quy định. Dù không bị kháng nghị nhưng qua việc giải quyết khiếu nại
còn phát hiện nhiều bản án ghi không chính xác họ tên đương sự, hoặc chỉ ghi tuổi
mà không ghi năm sinh, không ghi đầy đủ, chính xác nơi cư trú của đương sự hoặc
người được ủy quyền. Phần nhận định của một số bản án còn rườm rà, chưa nhận
định rõ căn cứ những vấn đề cần quyết định, cá biệt có khi nội dung nhận định còn
mâu thuẫn với quyết định…
Vi phạm về nội dung: Bên cạnh vi phạm về tố tụng như đã nêu trên, trong
quá trình kiểm sát việc giải quyết các vụ án về thừa kế Viện kiểm sát nhân dân tối
cao còn phát hiện rất nhiều vi phạm về nội dung như: -
Sai sót thường gặp là không xác định đầy đủ những người trong
diệnđược hưởng thừa kế, nên đã bỏ sót họ, hoặc không xác định đúng những người
được hưởng thừa kế thế vị, dẫn đến phải hủy bỏ bản án để điều tra xét xử lại. -
Chưa thu thập chứng cứ xác định rõ việc cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất trước khi có di chúc để xác định di chúc có hợp pháp hay không mà
đã xác định di chúc hợp pháp để chia thừa kế theo di chúc. Nhất là trong trường
hợp người để lại di sản có nhiều di chúc khác nhau hoặc tuy có một di chúc nhưng
di chúc đó không thực hiện đầy đủ các quy định mà điều luật đã ghi rõ. Ví dụ như
di chúc miệng không có người làm chứng hoặc tuy đủ hai người làm chứng nhưng
họ không ghi chép lại ngay hoặc sau đó mới nói lại cho người trong hàng thừa kế
biết và người trong hàng thừa kế mới ghi chép lại, cũng có vụ người làm chứng lại
là người trong diện được hưởng thừa kế theo pháp luật còn người kia là người được
hưởng thừa kế theo di chúc viết. Đối với di chúc viết, có bản không ghi đầy đủ các
nội dung theo quy định như không ghi nơi cư trú, thậm chí có trường hợp không
ghi rõ nơi có di sản nhưng vẫn được các tòa án chấp nhận di chúc đó là hợp pháp,
nếu có căn cứ kết luận đó chính là di chúc do người để lại di sản viết ra khi minh
mẫn, sáng suốt, không bị ai ép buộc. -
Đối với di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, có
nhiềutrường hợp chưa giám định tài liệu chữ ký và chữ viết trong di chúc theo yêu
cầu của đương sự. Có rất nhiều trường hợp không phải tự tay người để lại di sản
viết mà họ đánh máy, điểm chỉ hay ký rõ ràng, hoặc di chúc có người làm chứng, lOMoAR cPSD| 59703641
nhưng những người làm chứng đều là các thừa kế ký vào bản di chúc, còn số người
không phải trong diện thừa kế tuy họ có chứng kiến nhưng họ không ký bản di
chúc, có trường hợp chỉ có một người ký. Cũng có trường hợp nội dung di chúc
chỉ giao quản lý, sử dụng di sản có điều kiện, nhưng khi điều kiện thay đổi, tòa án
vẫn xét xử theo di chúc; một bên lập di chúc đã định đoạt toàn bộ tài sản chung
của vợ chồng, khi xét xử, tòa án vẫn công nhận toàn bộ di chúc. -
Đối với quy định về những người thừa kế không phụ thuộc vào
nộidung di chúc, đó là con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con đã thành niên
mà không có khả năng lao động. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp người để lại
di sản khi viết di chúc đã không giành lại “phần di sản bằng 2/3 suất của một thừa
kế theo pháp luật” cho các đối tượng nói trên nhưng tòa án vẫn công nhận toàn bộ
di chúc của họ hợp pháp là không đúng. -
Những tranh chấp di sản dùng vào việc thờ cúng khi giải quyết còngặp
nhiều vướng mắc, lúng túng và dẫn đến sai sót. Nguyên nhân là do điều luật chỉ
thiên về việc hướng dẫn cách xử sự của công dân trong một số tình huống mà chưa
dự liệu những trường hợp khác, ví dụ như các thừa kế không thống nhất được với
nhau, tranh chấp gay gắt hoặc họ không dùng di sản đó vào việc thờ cúng mà phá đi làm nhà ở… -
Ngoài ra còn một số sai sót khá phổ biến khác như: Chưa làm rõ căncứ
xác định còn thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. Xác định thời hiệu chia thừa
kế đã hết không đúng. Xác định sai mối quan hệ pháp luật từ tranh chấp về di sản
thừa kế liên quan đến quyền sử dụng đất sang tranh chấp về quyền sử dụng đất và
ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án với lý do tranh chấp quyền sử dụng đất chưa
được hòa giải tại UBND xã. Không xem xét giám định gene để xác định người
được hưởng di sản thừa kế. Chưa xác minh lời khai của nhân chứng để xác định rõ
quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng đã xác định quyền thừa kế tài sản của đương. Xác
định di sản thừa kế trước khi chia chưa đúng. Không xác định nhu cầu sử dụng tài
sản của hai bên đương sự để quyết định phân chia bằng hiện vật hay bằng giá trị
cho phù hợp. Xác định không đúng người để lại tài sản thừa kế. Tòa án cấp phúc
thẩm không áp dụng pháp luật về thừa kế mà căn cứ công sức nuôi dưỡng mẹ liệt
sỹ để giao toàn bộ nhà đất và tài sản cho bị đơn sở hữu, sử dụng. Việc áp dụng
quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế cũng gặp nhiều khó khăn, lúng
túng, vướng mắc khi xác định “quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con,
mẹ con”, để cho họ được hưởng di sản thừa kế. Có một điều cũng đáng lưu ý là
khi áp dụng các quy định về thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật, có một
sai sót chung và cũng hay gặp vướng mắc, lúng túng nhiều là khi giải quyết thừa
kế quyền sử dụng đất theo di chúc hoặc theo pháp luật. Đó là các di chúc định đoạt lOMoAR cPSD| 59703641
quyền sử dụng đất nông nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản diễn ra trước ngày giải
phóng miền Nam năm 1975, trước khi có Hiến pháp năm 1992; vấn đề định giá
đất theo khung giá hay theo giá thị trường; vấn đề xác định thẩm quyền giải quyết
thừa kế quyền sử dụng đất… Sai sót nhiều nhất khi áp dụng các điều luật khi giải
quyết các vụ án trong lĩnh vực này là trong khi khối di sản có thể chia đều hiện vật
cho các thừa kế, thì có Tòa án lại chỉ chia cho một số người hoặc một người; nhất
là việc định giá không đúng với giá trị thực của di sản, thì việc khiếu kiện sau khi
xét xử càng gay gắt. Các trường hợp như vậy đều bị kháng nghị sửa án hoặc hủy
bản án để xét xử lại. Ngoài ra, các sai sót do điều tra sơ sài, không tạo dựng đủ các
căn cứ cho cho các quyết định trong bản án như: không đo, vẽ sơ đồ xác định vị
trí, diện tích, giá trị di sản, số lượng di sản… không đầy đủ, cũng có trường hợp
sai sót do phần quyết định không rõ ràng, thiếu cụ thể hay chồng chéo lên nhau,
nên không thể thi hành án được hoặc bỏ sót tài sản không phân chia.
Thực tiễn công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự của Viện kiểm
sát nhân dân các cấp cho thấy một số quy định của pháp luật về lĩnh vực thừa kế
không phù hợp với thực tiễn, có những quy định mâu thuẫn với các văn bản quy
phạm pháp luật khác, có những quy định chưa phù hợp (hoặc không còn phù hợp),
có những quy định chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những cách hiểu khác
nhau, có những quy định chưa bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự. Bộ luật dân sự và các văn bản liên quan còn khá nhiều mâu thuẫn khi hướng
dẫn giải quyết các tranh chấp về nhà ở, quyền sử dụng đất như quy định về thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng; về thời hiệu khởi kiện tranh chấp thừa kế và tranh
chấp tài sản chung; các quy định về sử dụng đất hộ gia đình; các văn bản hướng
dẫn giải quyết tranh chấp liên quan đến nhà, đất rất nhiều và không ổn định, thường
xuyên được sửa đổi, bổ sung. Bên cạnh đó có một số quy định của pháp luật về
nhà ở, đất đai, thừa kế… có sự mâu thuẫn với nhau và còn quy định rất chung
chung nên khi áp dụng trên thực tiễn rất khó khăn. Vì vậy, khi giải quyết cùng một
vụ án lại có nhiều quan điểm khác nhau.
Ví dụ, đối với các tranh chấp về thừa kế và tranh chấp tài sản chung: Bộ luật
Dân sự 2005 quy định thời hiệu khởi kiện tranh chấp thừa kế là mười năm kể từ
thời điểm mở thừa kế và tại tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-
HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình
có quy định không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế khi kết thúc thời hạn
mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa
nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung
của các thừa kế. Như vậy, khi đương sự khởi kiện vụ tranh chấp tài sản chung thì
phải xuất trình các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện theo Điều 5, 6, 7 lOMoAR cPSD| 59703641
BLTTDS nhưng khi khởi kiện tài sản chung các đương sự không xuất trình được
sự thống nhất về tài sản chung chưa chia, khi thụ lý, giải quyết thì dẫn đến bác yêu
cầu khởi kiện , nhưng việc giải quyết tranh chấp kéo dài dẫn đến lượng án tồn đọng
và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các đương sự. Vì vậy, cần quy định Tòa án
thụ lý và giải quyết vụ án khi các đương sự phải xuất trình được các chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu khởi kiện đúng theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó,
nếu người có tài sản đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng lại bị
kê biên, đảm bảo thi hành án. Khi đó, các đồng thừa kế không tranh chấp về hàng
thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia, Toà án căn cứ Nghị
Quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 để thụ lý chia tài sản chung, việc giải
quyết các thủ tục tiếp theo sẽ gây thiệt hại cho người được thi hành đối với bản án
có hiệu lực pháp luật. Do đó, việc giải quyết các vụ án về thừa kế trên thực tiễn là
vô cùng khó khăn và phức tạp.
4. Một số kinh nghiệm trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân
sự về chia thừa kế
Để thực hiên ṭ ốt chức năng khi kiểm sát loại án “đăc biệ t” ṇ ày, viêc ̣ làm đầu
tiên của Kiểm sát viên là nắm vững và áp dụng đúng các văn bản pháp luât, nghiên
c ̣ ứu và áp dụng các văn bản hướng dẫn, giải thích pháp luât liên quan. ̣
Trong lĩnh vực giải quyết án tranh chấp về thừa kế, cần lưu ý những văn bản
chủ yếu sau: Thông tư số 81/TANDTC ngày 24.7.1981 của Toà án nhân dân Tối
cao (TANDTC) hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế được áp dụng từ
ngày 24.7.1981 đến ngày 10.9.1990; Pháp lênh tḥ ừa kế được thi hành từ ngày
10.9.1990 đến ngày 01.7.1996; Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP ngày 19.10.1990 của
Hôi đ ̣ ồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng môt ṣ ố quy định của Pháp lênh
tḥ ừa kế; Bô luậ t dân ṣ ự năm 1995 có hiêu ḷ ực thi hành từ ngày 01.7.1996 đến
ngày 01.01.2006; Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP ngày 10.8.2004 của Hôi đ ̣ ồng thẩm
phán TANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luât trong việ c gị ải quyết các vụ án dân
sự, hôn nhân và gia đình; BLDS năm 2005; BLDS năm 2015. Đồng thời, cần lưu
ý đến các văn bản liên quan đến viêc đăng ḳ ý quản lý tài sản nói chung và bất
đông ṣ ản nói riêng bởi các đối tượng tranh chấp trong án thừa kế hầu hết là bất đông ṣ ản.
Từ tình hình và đặc điểm trên, muốn thực hiện tốt chức năng kiểm sát những
vụ án dân sự về thừa kế đòi hỏi mỗi cán bộ, kiểm sát viên phải nắm vững pháp luật,
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, quy chế, quy định của ngành về các
thao tác nghiệp vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Viện kiểm sát nhân
dân có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án,
quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án trong đó bao gồm các bản lOMoAR cPSD| 59703641
án, quyết định tranh chấp về chia thừa kế nhằm góp phần giải quyết các vụ, việc
dân sự nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật. Vì vậy, khi nghiên cứu giải quyết
án, cán bộ cần xác định chính xác mối quan hệ tranh chấp, kiểm tra Tòa án đã đưa
đầy đủ những người liên quan (nếu có) vào tham gia tố tụng không? Các thủ tục
pháp lý trong tố tụng có được Tòa án áp dụng đầy đủ, đúng pháp luật chưa. Trong
trường hợp vụ án có vi phạm thì nghiên cứu để kháng nghị cần được phân tích, làm
rõ trong quyết định kháng nghị. Đặc biệt về nội dung, cần đánh giá chính xác mức
độ vi phạm của bản án, quyết định bị kháng nghị, trích dẫn điều luật áp dụng. Trên
cơ sở đó, đề xuất hướng giải quyết vụ án ở trình tự giám đốc thẩm. Quyết định
kháng nghị cần phải kiểm tra kỹ cả về hình thức lần nội dung trước khi ban hành.
Ngoài viêc nghiên c ̣ ứu, nắm vững các căn cứ pháp luât, văn ḅ ản, chính sách
của Nhà nước qua từng thời kỳ, khi nghiên cứu hồ sơ, tham gia xét xử vụ án tranh
chấp thừa kế, Kiểm sát viên cần phải làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, xác định thời điểm mở thừa kế, đây là vấn đề có vai trò rất quan
trọng trong viêc gị ải quyết loại án này, vì:
Thời điểm mở thừa kế cho phép xác định người được hưởng di sản thừa kế.
Theo quy định tại Điều 635 BLDS năm 2005 thì “Người thừa kế là cá nhân phải là
người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoăc sinh ra ṿ à còn sống sau thời điểm
mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường
hợp người thừa kế là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời
điểm mở thừa kế”. Như vây, cḥ ỉ có người còn sống vào thời điểm mở thừa kế mới
được hưởng thừa kế.
Thời điểm mở thừa kế giúp xác định thời điểm người thừa kế có các quyền và
nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại - Điều 636 BLDS năm 2005 (BLDS năm
2015 còn bổ sung người thừa kế còn có thể được hưởng quyền khác đối với tài sản
như quyền đối với bất đông ṣ ản liền kề, quyền hưởng dụng và quyền bề măt).̣
Thời điểm mở thừa kế cũng giúp xác định đúng thời hiêu đ ̣ ối với những vấn
đề của thừa kế như: Thời hiêu kḥ ởi kiên đ ̣ ể người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác
định quyền thừa kế của mình hoăc ḅ ác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm
(BLDS năm 2015 quy định là 10 năm đối với đông ṣ ản, 30 năm đối với bất đông
ṣ ản), thời hiêu kḥ ởi kiên đ ̣ ể yêu cầu người thừa kế thực hiêṇ nghĩa vụ về tài sản
của người chết để lại là 03 năm, thời hiêu ṭ ừ chối nhân dị sản là 06 tháng theo quy
định của BLDS năm 2005 (BLDS năm 2015 quy định “viêc ṭ ừ chối nhân di ṣ ản
phải được thể hiên trự ớc thời điểm phân chia di sản”).
Thời điểm mở thừa kế cũng là thời điểm di chúc của người để lại di sản có
hiêu ḷ ực. Trong thực tiễn xét xử có trường hợp người quản lý di sản giả mạo giấy lOMoAR cPSD| 59703641
chứng tử, khai không đúng ngày chết của người để lại di sản nhằm chứng minh
thời hiêu kḥ ởi kiên yêu c ̣ ầu chia di sản thừa kế không còn để chiếm đoạt tài sản
mà mình đang quản lý hoăc Tọ à án xác định ngày chết của người để lại di sản
không thống nhất như trường hợp tuyên bố môṭ người là đã chết thì có Toà án xác
định ngày chết là ngày ra quyết định, có Toà án xác định ngày chết là ngày quyết
định có hiêu ḷ ực pháp luât, c ̣ ó Toà án lại xác định ngày chết là ngày sau thời hạn
05 năm kể từ khi biêt ṭ ích… Như vây, việ c x ̣ ác định thời điểm mở thừa kế không
đúng, không thống nhất đã làm ảnh hưởng rất lớn đến quyền và nghĩa vụ của người thừa kế.
Thứ hai, xác định đúng, đầy đủ di sản thừa kế.
Để giải quyết vụ án chia thừa kế, Kiểm sát viên cần xác định rõ di sản thừa kế
gồm những gì? Nguồn gốc di sản, quá trình biến đổi, thực trạng từng loại di sản;
nghĩa vụ dân sự của người chết trước khi để lại di sản; khi phân chia di sản cần
xem xét công sức duy trì, bảo quản, phát triển tài sản là di sản của người trực tiếp
quản lý di sản, công sức của người chăm sóc người để lại di sản, viêc ma chay, gị
ỗ, tết…liên quan đến người để lại di sản…
Viêc x ̣ ác định di sản thừa kế trên cơ sở quy định của pháp luât baọ gồm: tài
sản riêng của người chết và phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung
với người khác. Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người
khác có thể là phần tài sản nằm trong khối tài sản thuôc ṣ ở hữu chung hợp nhất
của vợ chồng hoăc ṇ ằm trong khối tài sản thuôc ṣ ở hữu chung theo phần với người
khác phụ thuôc ṿ ào cách thức và căn cứ xác lâp ̣ nên các hình thức sở hữu đó.
Xác định được giá trị của tài sản tranh chấp, xác định được thực tế khối tài
sản đó đang được quản lý và sử dụng như thế nào. Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều
vụ án chia thừa kế bị huỷ nhiều lần vì khi giải quyết, toà án không xem xét kỹ
nguồn gốc, sự chuyển dịch theo thời gian, những biến đông c ̣ ủa tài sản là di sản
trong quá trình thực hiên c ̣ ác chính sách của nhà nước trong từng thời kỳ, thâm cḥ
í không xem xét đến những tài sản (không phải là di sản) đang tồn tại, hiên ḥ ữu
trong khối tài sản có tranh chấp hoăc ̣ phân chia di sản không phù hợp với thực tế
và nhu cầu của đương sự như: tài sản có thể chia bằng hiên vậ t nhưng cḥ ỉ giao
cho môt bên ṣ ở hữu, sử dụng khi người này không có khả năng trích trả giá trị cho
các thừa kế khác trong khi có đương sự khác cũng có yêu cầu được phân chia hiên
vậ t (hiệ ṇ vât c ̣ ó thể chia được mà không làm mất đi giá trị sử dụng) dẫn đến khó
khăn, vướng mắc khi thi hành án.
Thứ ba, xác định những người thuôc diệ n tḥ ừa kế được hưởng di sản theo
pháp luât (c ̣ ác hàng thừa kế), người thừa kế bắt buôc, ngự ời bị truất quyền thừa
kế, người từ bỏ quyền thừa kế, thừa kế thế vị, các trường hợp khác như con nuôi, lOMoAR cPSD| 59703641
con riêng, con ngoài giá thú, vợ (chồng) khi áp dụng chính sách cán bô mị ền Nam
đi tâp ḳ ết… Viêc x ̣ ác định rõ, đầy đủ người thuôc diệ n tḥ ừa kế là vấn đề quan
trọng bởi thực tế có trường hợp khi giải quyết tranh chấp thừa kế toà án xác định
không đầy đủ người thuôc diệ ṇ thừa kế làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của những người này.
Thứ tư, giải quyết án thừa kế theo di chúc trước hết phải xem xét tính hợp
pháp của di chúc. Nếu xác định di chúc là hợp pháp, được chấp nhân tḥ ì phải chú
ý đến trường hợp được hưởng thừa kế không phụ thuôc ṿ ào di chúc.
Đối với người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất, xem xét tính hợp
pháp của di chúc phải dựa trên các quy định của pháp luât ṿ ề hình thức của loại di chúc miêng.̣
Thứ năm, xác định rõ nguyên nhân dẫn đến tranh chấp; tâm tư, nguyêṇ vọng,
điều kiên, họ àn cảnh của các đương sự để phân chia di sản cho phù hợp. Khi phân
chia di sản cần lưu ý đến quy định về hạn chế phân chia di sản tại Điều 686 BLDS
năm 2005 (Điều 661 BLDS năm 2015 bổ sung “Hết thời hạn 03 năm mà bên còn
sống chứng minh được viêc chia di ṣ ản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống
của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Toà án gia hạn môt ḷ ần nhưng không quá 03 năm”).
Thứ sáu, yêu cầu cuối cùng đối với Kiểm sát viên khi nghiên cứu hồ sơ, giải
quyết các vụ, viêc dân ṣ ự nói chung và giải quyết tranh chấp di sản thừa kế nói
riêng là viêc ḷ ựa chọn, xác định căn cứ pháp luât pḥ ù hợp để áp dụng trong từng vụ án cụ thể.
Như vậy, Tranh chấp di sản thừa kế là loại án luôn được dư luân x ̣ ã hôị quan
tâm bởi tính đăc tḥ ù đó là quan hê ṭ ình cảm giữa những người cùng huyết thống,
giữa vợ chồng, họ hàng dòng tôc ṿ ì vây kị ểm sát viên cần phải trang bị cho mình
kiến thức về pháp luât, ṿ ề xã hôi c ̣ ùng môt ḅ ản lĩnh vững vàng để có thể kiểm
sát, giải quyết tốt loại án này trong thời gian sắp tới. lOMoAR cPSD| 59703641 CHƯƠNG II
MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM
VỤ ÁN DÂN SỰ VỀ THỪA KẾ
1. Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn, kiểm tra
việc thực hiện công tác kháng nghị giám đốc thẩm vụ án dân sự về chia thừa kế
Cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm
sát trong Bộ luật Tố tụng dân sự; Tăng cường vai trò lãnh đạo của đơn vị trong
công tác thực hiện kháng nghị giám đốc thẩm. Trước hết lãnh đạo Viện kiểm sát
nhân dân tối cao phải thực hiện đúng, thường xuyên quan tâm hơn nữa đến công
tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự về chia thừa kế, chỉ đạo kịp thời công tác
kháng nghị, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm sát
hoạt động tư pháp. Bên cạnh đó, cần thường xuyên hướng dẫn nghiệp vụ, thông
báo rút kinh nghiệm, tổng hợp các dạng vi phạm thường gặp của Tòa án nhằm giúp
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên tham khảo, vận dụng vào việc nghiên cứu hồ sơ, bản
án, quyết định phát hiện vi phạm để kiến nghị, kháng nghị theo thẩm quyền.
Thường xuyên đúc rút kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn của Viện kiểm sát
các cấp, tổ chức học tập, trao đổi, tập huấn để không ngừng bổ sung những kinh
nghiệm, kiến thức mới, gắn hoạt động thực tiễn với lý luận.
Hàng năm, Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao đều tổ chức hội nghị tập
huấn, hội thảo và thường xuyên chỉ đạo cụ thể các hoạt động nghiệp vụ, nên toàn
ngành đã có sự chuyển biến tích cực về nhận thức và thực hiện đúng chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của ngành. Nhiều Viện kiểm sát địa phương đã kiện toàn lại
tổ chức, phân công lại công việc, cải tiến về sổ sách, biểu mẫu, các thao tác nghiệp
vụ. Từ đó đã thực hiện tốt công tác kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự về thừa
kế theo quy định nên đã ban hành được nhiều kháng nghị, kiến nghị với Tòa án và
được chấp nhận với tỉ lệ rất cao.
Tuy nhiên, công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành còn chưa được đổi mới toàn
diện, mạnh mẽ. Cần tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa cấp trên với cấp dưới.
Tăng cường công tác hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra giữa Viện kiểm sát cấp trên với
Viện kiểm sát cấp dưới; kịp thời phát hiện, uốn nắn những thiếu sót trong hoạt động
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, có những giải pháp khắc phục những
vướng mắc để chất lượng kháng nghị ngày một hiệu quả hơn. Việc xây dựng hệ
thống biểu mẫu thống kê, sổ sách phục vụ công tác kiểm sát thụ lý, quản lý kết quả