Tìm hiểu về các học thuyết Tâm học nổi tiếng
1. Tâm gì?
Khái niệm tâm lý không phải đơn giản. Thực tế từ xa xưa cho đến ngày nay
con người đã tốn rất nhiều công sức để tìm hiểu khái niệm này.
Người nguyên thuỷ quan điểm cho rằng con người hai phần: thể xác
tâm hồn. Tâm hồn chính là cội nguồn của tâm con người. Tâm hồn bất
tử, con người sau khi chết còn cuộc sống của tâm linh
Trong tiếng Việt thuật ngữ tâm đã từ lâu
Từ điển tiếng Việt 1988 định nghĩa một ch tổng quát: tâm ý nghĩa,
tình cảm, làm thành thế giới nội tâm, thế giới bên trong của con người”
Trong cuộc sống hàng ngày, chữ tâm thường được sử dụng ghép với các từ
khác. Ta thường cụm từ “tâm địa”, tâm can, tâm tình tâm trạng, tâm tư,
được hiểu lòng người thiên về mặt tình cảm. Như vậy tâm được dùng để
chỉ những hiện tượng tinh thần của con người.
Khái niệm tâm trong tâm học bao gồm tất cả những hiện tượng tinh thần
như cảm giác, duy, tình cảm hình thành trong đầu óc con người điều chỉnh,
điều khiển mọi hoạt động của con người.
Nói một cách chung nhất: tâm tất cả những hiện tượng tinh thần nảy sinh
trong đầu óc con người, gắn liền điều hành mọi hành động, hoạt động của
con nguời.
2. Tâm học gì?
Sở nói tâm học một khoa học nó đối tượng nghiên cứu
phương pháp luận nghiên cứu đặc thù riêng.
Tâm học khoa học nghiên cứu các hiện tượng tâm lý. nghiên cứu các
quy luật nảy sinh vận hành phát triển của các hiện tượng tâm trong hoạt
động đa dạng diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người. Sự ra
đời của tâm học với cách một khoa học độc lập kết quả phát triển
lâu dài của nhưng tưởng triết học, những quan điểm tâm học trong
trường kỳ lịch sử phát triển của nhiều lĩnh vực khoa học khác.
3. Thuyết Hành vi trong tâm học
Tiếp cận hành vi một trong những cố gắng rất lớn của tâm học thế giới
đầu thế kỉ XX, nhằm khắc phục tính chủ quan trong nghiên cứu tâm người
thời đó. Kết quả là đã hình thành trường phái ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự
phát triển tâm học thế giới trong suốt thế kỷ XX: Tâm học hành vi,
đại biểu các n tâm học kiệt xuất: E.L.Thorndike (1874-1949),
J.B.J.Watson (1878:1958), E.C.Tolman (1886-1959), K.L.Hull (1884-1952)
B.F.Skinner (1904-1990) A. Bandura v.v…
Tâm học hành vi ra đời một cuộc cách mạng, làm thay đổi bản h
thống quan niệm về tâm học đương thời. Theo đó, đối tượng của tâm
học hành vi ch không phải ý thức. Phương pháp nghiên cứu quan sát
thực nghiệm khách quan chứ không phải nội quan. Trước trong thời
kỳ xuất hiện Thuyết hành vi, tâm học được hiểu khoa học về ý thức
phương pháp nghiên cứu nội quan (tự quan sát giải thích). Ngay từ khi
ra đời Đức năm 1879, với cách khoa học độc lập, tâm học đã được
mệnh danh Tâm học nội quan. W.Wundt người sáng lập ra Tâm học
này, đã xác định đối tượng của tâm lý học “tổ hợp các trạng thái mà ta
nghiệm thấy các trạng thái được trực tiếp thể nghiệm trong vòng ý thức
khép kín”. Sự phát triển tiếp theo của Tâm học nội quan đã hình thành nên
Tâm học cấu trúc . Mặt khác, do nhu cầu khắc phục sự bế tắc của
Tâm học nội quan, cũng những năm này đã xuất hiện m học
chức năng. Tuy nhiên, trên thực tế, cả hai dòng phái đều không tạo lập được
khoa học khách quan về ý thức. luận của chúng gắn liền với phương pháp
chủ quan, điều này gây sự thất vọng khắp mọi nơi.
Kết quả là, những vấn đề bản của m học trở nên mờ mịt đối với nhiều
người: Đối tượng nghiên cứu thức) nguồn gốc của thức bắt đầu từ
đâu), phương pháp nghiên cứu (nội quan, nguyên tắc giải thích: nguyên nhân
tâm như sự chế uớc của một số hiện tượng ý thức đối với các hiện
tượng khác). Từ đó đã xuất hiện nhu cầu cấp thiết về đối tượng, phương
pháp nguyên tắc mới, đặc biệt Mĩ, i cách tiếp cận thực dụng trong
nghiên cứu con người chiếm vai trò thống trị. Điều này đã được chứng minh
bằng khuynh hướng chức năng, trọng tâm chú ý vấn đề thích ứng của
nhân với môi trường. Nhưng chủ nghĩa chức năng, vốn bắt nguồn từ các
quan niệm thời cổ đại về ý thức như một bản thế đặc biệt vươn tới mục
đích, đã bị bất lực khi giải thích nguyên nhân điều khiển hành vi con người,
sự tạo ra những hình thức hành vi mới.
Phương pháp chủ quan đã mất uy tín, phải nhường vị trí cho phương pháp
khách quan. đây, sinh học, đặc biệt sinh học thần kinh đã đóng vai
trò quan trọng, trong đó công đầu thuộc về n sinh học người Nga
I.P.Pavlov, với khái niệm phản xạ điều kiện. Về phương diện kỹ thuật,
phương pháp nghiên cứu phản xạ điều kiện cho phép ta nhận biết khách
quan các phản ứng của thể đối với một kích thích. c nhà hành vi học đã
không b qua thành tựu này. Phương pháp phản xạ trở thành cứu cánh của
họ. Mặt khác, sự phát triển của tâm học động vật đã mang lại cho Tâm
học hành vi đối tượng nghiên cứu mới: hành vi của động vật. Sự xuất hiện
những nghiệm thể mới động vật không kh năng nội quan, đã đóng vai
trò quan trọng giúp nhà nghiên cứu chuyển từ quan sát sang thực nghiệm.
Hiệu quả tác động của nghiệm viên bây giờ không phải tự “thông báo” của
nghiệm thể về các trạng thái của mình (như trong Tâm học nội quan)
những phản ứng vận động một điều hoàn toàn khách quan. Trong biên bản
thực nghiệm đã xuất hiện các thông tin kiểu mới về nguyên tắc. Hơn nữa,
chính những nguyên tắc phương pháp này đã chịu ảnh hưởng trực tiếp
của triết học thực chứng chủ nghĩa học, đang chi phối tinh thần nước
Mĩ. Đó chính hoàn cảnh tưởng luận đã sinh ra Thuyết hành vi.
Nhân vật hàng đầu của Tâm học hành vi J.Watson. Các luận điểm của
ông nền tảng luận của hệ thống tâm học y. Nói tới Tâm học hành
vi, không thể không nói nhiều về các quan điểm đó. Tuy nhiên, một mình
J.Watson không làm nên trường phái thống trị tâm học ảnh hưởng
lớn tới sự phát triển tâm học thế giới suốt thế kỷ XX. Trước J.Watson
nhiều bậc tiền bối, tưởng kết quả thực nghiệm của họ sở trực
tiếp, đ trên đó Watson xây dựng c luận điểm then chốt của Tâm học
hành vi. Sau J.Watson nhiều nhà tâm lý học lớn khác của đã phát triển
học thuyết này, đưa nó thành hệ thống tâm học đa dạng bám rễ vào mọi
ngóc ngách của đời sống hội. vậy, thể chia quá trình phát triển của
Tâm học hành vi thành ba giai đoạn không hoàn toàn theo trật tự tuyến tính
về thời gian: những sở luận thực nghiệm đầu tiên hình thành các
luận điểm bản (Thuyết hành vi cổ điển); sự phát triển tiếp theo của Tâm
học hành vi, sau khi các luận điểm của J.Watson (các thuyết hành vi mới
hậu hành vi).
4. Thuyết Phân tâm trong tâm học
Ngày nay, thuật ngữ “Phân tâm học” cùng với tên tuổi của người sáng lập
Sigmund Freud đã trở lên quá quen thuộc đối với nhiều người. Trong khi
những tên tuổi đại khác của khoa học tâm như W.James, J.Watson,
J.Piaget, L.X.Vưgotxki v.v ít được biết ngoài phạm vi tâm học, thì S.Freud
nổi tiếng đối với nhiều tầng lớp, nhiều lĩnh vực: tâm học, giáo dục học, y
học, văn học nghệ thuật, tôn giáo, đạo đức v.v… 40 năm sau ngày mất của
ông, tạp chí “News week” đánh giá rằng tưởng của Freud đã đi sâu o ý
thức của chúng ta đến nỗi “khó tưởng tượng được thế k XX lại thiếu ông”
(30/11/1981). Ông thuộc về một trong số ít nhà tưởng đã làm thay đổi căn
bản cái nhìn của chúng ta về bản thân mình.
Chính S.Freud, sinh thời, đã lần cho rằng, trong suốt lịch sử của loài người,
đã trải qua 3 sốc lớn. sốc đầu tiên do nhà thiên văn học người Ba Lan
Nicolas Copernicus (1473 1543) mang đến, người đã chứng minh rằng, Trái
Đất không phải trung tâm của trụ, mà chỉ một trong rất nhiều hành tinh
quay xung quanh mặt trời. Phát hiện thứ hai vào thế kỷ XIX, học thuyết của
Charles Darwin, người đã chỉ ra rằng, con người không phải một loài độc
đáo, khác hẳn với tất cả thế giới động vật, do vậy, họ không thể tham vọng
chiếm một vị trí đặc biệt trong tự nhiên. Con người chỉ một loài động vật
cao cấp, xuất hiện trong quá trình tiến hoá t những loài thấp hơn. sốc
thứ ba do chính S.Freud tạo ra, khi ông phát hiện, chúng ta không luôn
trong trạng thái thể kiểm soát được bản thân một cách tuyệt đối nhờ ý
thức. Ngược lại, chúng ta một thứ đồ chơi trong tay của những sức mạnh
thức, không chịu sức áp đặt của ý thức. Như vậy, Copernicus đã dịch
chuyển loài người từ trung tâm của thế giới ra ngoại vi, Darwin buộc con
người phải công nhận họ hàng tiền thân với động vật, còn Freud chứng minh
rằng, ý thức không phải ch nhân trong chính ngôi nhà của mình. Lời
khẳng định của S.Freud không phải không lí. Kể từ khi thuyết phân tâm ra
đời đến nay, phương Tây, không một thuyết khoa học nào tác động
mạnh mẽ đến suy nghĩ của mọi người hơn thuyết này, ngoại trừ thuyết
về sự tiến h của Ch.Darwin.
Phân tâm học của S.Freud số phận đặc biệt. Ngay t khi mới ra dời,
cha đẻ của đã được đón tiếp với các thái độ ngược nhau. S ghẻ lạnh của
giới y học của hội Đức Áo đương thời. Các bác sỹ thần kinh đồng
nghiệp của Freud xa lánh phản bác ông. Nhiều người doạ bỏ ông, lên
án ông kẻ phạm tội lớn nhất đối với nền văn hoá châu Âu. Khi A.Hitler lên
cầm quyền nước Đức chiếm được nước áo, đã ra lệnh giết người thân
đốt ch của ông. Trong khi đó, phía bên kia, ngay từ những năm 1905,
tại Hoa kỳ, nhà tâm học lừng danh W.James đã khẳng định với S. Freud
“Tương lai m học thuộc về ng trình của ông”, còn Pháp, E.Clapared
(1873-1940) nhận định: Phân tâm học của S.Freud một trong những biến
cố quan trọng nhất lịch sử các khoa học của trí tuệ loài người được”.
Theo dòng thời gian, đã n 100 năm qua, vẫn liên tục diễn ra những cuộc
tranh luận gay gắt về toàn bộ hoặc một số luận điểm trong học thuyết của
S.Freud. Điều kỳ lạ cùng với các luồng thái độ đó, phân tâm học ngày càng
phát triển thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống tinh thần hội. Thậm
chí, vài thập niên gần đây, nhiều trào lưu tưởng cực đoan đã lợi dụng danh
nghĩa của Phân tâm học, để kêu gọi “tự do tính dục”, “Giải phóng tính dục”,
“Cách mạng tính dục”… Những trào lưu này, thực chất là lợi dụng xuyên
tạc S. Freud.
Trên bình diện tâm học, nước ta Phân tâm học được nghiên cứu ít hơn
các học thuyết khác. Nguyên do việc tìm hiểu thuyết này thường gặp khó
khăn từ ba phía. Trước hết, hướng tiếp cận của Phân tâm học không giống
các học thuyết tâm truyền thống. Những khái niệm phương pháp của các
trường phái tâm học đương thời đều được sinh ra trong phòng thí nghiệm,
trong thư viện trong các bài giảng giảng đường đại học. Ngược lại, Phân
tâm học hầu như không quan hệ với các giảng đường đại học với
tưởng của khoa học đơn thuần. được sinh ra trong lòng của tâm thần học
truyền thống, nhiệm vụ giúp đ những người hội cho “bệnh nhân
tâm lý”. Chính thế sự thâm nhập của Phân tâm học vào làng tâm học
không phải bằng cửa trước, bằng cửa bên. Chính xác n, không thể so
sánh với các trường phái khác. lãnh địa riêng trong sự khám phá
thế giới tâm hồn con người. Phân tâm học, ngay từ cội nguồn đã không cùng
dòng chảy với các tưởng m học chính thống. Đối tượng của không
phải hành vi bình thường hành vi bất thường, điều các trường
phái tâm học khác ít quan tâm. Phương pháp chủ yếu của quan sát
lâm sàng, chứ không phải những thí nghiệm được kiểm soát trong phòng
thí nghiệm. Ngoài ra, Phân tâm học còn quan tâm nhiều đến thức một đề
tài hầu như bị loại bỏ bởi các trường phái tâm học đương thời. Thứ hai:
các nội dung nghiên cứu, c khái niệm, thuật ngữ được sử dụng trong Phân
tâm học thường bị “cấm kị”, dễ gây “dị ứng” đối với sinh hoạt văn hoá đời
thường của hội, đặc biệt trong hội tôn giáo phương Tây phong
kiến phương Đông. Thứ ba, các luận giải của S.Freud rất tinh tế, phần nhiều
được rút ra từ kỹ thuật m sàng, hầu như không sự lượng hoá, thống kê,
những nội dung tâm được trình bày điểm giáp ranh giữa khoa học suy
diễn biện, nếu được chứng minh, chúng sẽ phát hiện lớn lao về những
điều sâu thẳm trong thế giới đời sống tâm con người, nhưng nếu thái quá
chúng rất dễ trở thành tín điều phi khoa học. vậy, để cái nhìn khách
quan về Phân tâm học, về sự kế thừa, sáng tạo cống hiến của S.Freud,
cũng như giá trị khoa học của các luận, phương pháp kỹ thuật phân tâm
của ông, cần phải nhìn nhận học thuyết này theo góc độ lịch sử.
Mặt khác, giống nhiều thuyết m học khác, trong quá trình phát triển, Phân
tâm học thường xuyên chịu sức ép từ hai phía: sự phát triển phân hoá từ
bên trong sự phản bác t bên ngoài. Ngay sau khi ra đời, học thuyết này
đã phân hoá thành nhiều “nhánh”: Tâm lý học bề sâu của J.Jung (nhà tâm
học Thụy Sỹ 1875-1961); Tâm học nhân của Alfred Adler (nhà tâm học
Áo gốc Australia 1870- 1937); thuyết về sự phát triển tâm hội của Eric
Ericson (nhà tâm học gốc Đức 1902-1994); Phân tâm học tr em của
Anna Freud (1895-1982) Mélanie Klein (1882-1960) v.v… Như vậy, nhiệm
vụ của chương vừa phải phân tích các nội dung chủ yếu của Phân tâm học
S. Freud về sự phát triển người vừa phải đề cập tới một số thuyết phát
triển sau đó. Cấu trúc của chương gồm 4 phần: Bối cảnh hội những yếu
tố tiền thân của Học thuyết phân tâm; S. Freud sự hình thành Phân tâm
học cổ điển; Những thuyết phát triển cuối cùng là những người chống
đối t n trong.
5. Thuyết Phát sinh nhận thức Jean Piaget trong tâm học
“Từ đây cho tới cuối thế kỷ, tôi e rằng tâm học thế giới chỉ việc khai thác
riêng các ý tưởng của J. Piaget thì cũng không làm sao hết được”.
Paulpraisse
Cho tới cuối thế kỷ XX, chưa nhà khoa học nào nghiên cứu sự phát sinh
nhận thức trí tuệ trẻ em được sâu sắc, hệ thống bằng J.Piaget. Suốt bảy
thập kỷ kiên t sáng tạo khoa học, ông đã góp phần không nhỏ o việc
hình thành phát triển lĩnh vực khoa học mới: Tâm lý học phát triển. Cả
cuộc đời của J.Piaget cuộc đời của nhà Bác học lao động không ngừng.
Các thầy giáo, bậc cha m trẻ thơ trên thế giới biết ơn những cống hiến
lớn lao tâm huyết của ông trong lĩnh vực này.
Jean Piaget sinh ngày 9 tháng 8 năm 1896 tại Nêuchâtel Thụy Sỹ, trong một
gia đình tri thức danh tiếng.
Từ nhỏ ông đã bộc lộ thiên tư trí tuệ tuyệt vời, xuất chúng. Năm 10 tuổi ông
đã công bố bài báo khoa học đầu tiên của mình, tả các quan sát về một
con chim sẻ bạch tạng quý hiếm. Ít lâu sau, ông theo học một tớp giúp việc
người quản bảo tàng lịch sử thiên nhiên địa phương. 15 tuổi J.Piaget đã
bộc lộ xu hướng nghiên cứu sinh học đã công bố những bài báo khoa
học, nghiên cứu về động vật .
Năm 18 tuổi J.Piaget đỗ cử nhân năm 1918, J.Piaget hoàn thành luận án
Tiến thuộc lĩnh vực động vật học, tại Viện đại học Nêuchâtel, với đề tài “Sự
thích ứng của loài nhuyễn thể”. Trong thời gian này, ông đã công bố 25 công
trình nghiên cứu sự sinh trưởng, thích nghi của loài quanh hồ Nêuchâtel.
Những kiến thức sinh học ấn tượng về sự thích nghi của loài óc đã hình
thành trong ông các khái niệm bản để nghiên cứu sự phát triển t năng
của trẻ em sau này.
Ngoài sinh học, mối quan tâm thứ 2 của ông khoa học luận (Epistemology)
một ngành triết học đề cập đến nguồn gốc phát sinh của hiểu biết, ông nuôi
hy vọng táo bạo thể hợp nhất hai vấn đ ông quan tâm. Vào thời
điểm đó, ông cảm thấy, m học chính câu trả lời. Ông chuyển đến Paris
dành ra 2 năm đ học tâm học lâm sàng, lôgíc triết khoa học tại
Sorbonne. Trong thời gian Pari, J.Piaget được đề nghị đảm trách công việc
chuẩn hoá những trắc nghiệm trí thông minh tại phòng thí nghiệm của A.Binet.
Điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến xu hướng nghề nghiệp của ông.
J.Piaget sớm nhận thấy quan tâm nhiều hơn đến những “câu trả lời sai”
của trẻ so với c kết quả trắc nghiệm. Ông nghĩ rằng, dường như trẻ em
cùng độ tuổi thường mắc phải những loại câu trả lời sai giống nhau đối với
một số u hỏi nhất định. Vậy tại sao? J.Piaget tiếp tục m hiểu về những
nhận thức sai lệch của trẻ bằng phương pháp m sàng ông đã học được
trước đây, khi còn làm việc trong một bệnh viện tâm thần thực hành. Không
bao lâu sau, ông lại phát hiện ra rằng, trẻ những độ tuổi khác nhau, thường
những loại câu trả lời sai khác nhau, ông đi đến kết luận: trí tuệ phải
một thuộc tính đa diện. Những đứa trẻ lớn tuổi hơn không chỉ đơn giản
thông minh hơn những đứa trẻ ít tuổi, quá trình suy nghĩ của chúng cũng
hoàn toàn khác. Những phát hiện y đã cuốn hút J.Piaget ông cố gắng
xác định xem trẻ tiến triển từ phương thức (hay giai đoạn) suy nghĩ này sang
phương thức suy nghĩ khác như thế nào. Việc nghiên cứu của con người
đáng lưu ý này còn tiếp tục khoảng 60 năm nữa, cho đến khi ông mất vào
năm 1980.
Năm 1921 (25 tuổi), theo đề nghị của Giáo Claparède Viện trưởng Viện
khoa học giáo dục, ông chuyển từ Paris về Genève để đảm nhận chức
Trưởng phòng m thực nghiệm. Năm 1925, ông nhận chức Giáo Đại
học Nêuchâtel, dạy bao cả 3 ngành: Tâm học, Xã hội học Triết học.
Năm 1929, được bổ nhiệm Giáo Đại học Genève về môn Lịch sử tưởng
khoa học, Giám đốc Trung tâm giáo dục quốc tế của Unesco cương vị
này cho tới năm về hưu (1972). Năm 1933 Viện trưởng Viện khoa học giáo
dục Thụy Sỹ tại Genève. Năm 1940, Giáo tâm thực nghiệm năm
1952 Giáo Trường Đại học Sorbonne, Paris.
Trong suốt những m 1921 đến 1940, mối quan tâm chủ yếu của J.Piaget
lĩnh vực tâm học, đặc biệt sự phát sinh nhận thức trí tuệ của tr em.
Trong thời gian này, nhiều công trình đã được ông công bố. “Ngôn ngữ
duy của trẻ” (1923), “Mệnh đề kết luận của trẻ” (1924), “Biểu tượng về thế
giới của trẻ” (1926) v.v. Những nghiên cứu về lĩnh vực trên được ông tập hợp
trong hai công trình nổi tiếng: “Tâm học trí tuệ” (1946) “Tâm học trẻ
em” (1966).
Từ năm 1940 J.Piaget chuyển dần lĩnh vực nghiên cứu từ tâm trẻ em sang
Lôgic học Khoa học luận. Từ năm 1950 chuyển hẳn sang lĩnh vực này,
đặc biệt nghiên cứu quá trình phát triển duy con người. Năm 1956, ông
thành lập Genève Trung tâm nghiên cứu quốc tến về nhận thức luận khoa
học (Centre international d’ épistemologie Scientifique), với sự tham gia của
nhiều nhà Bác học lớn đương thời như Albert Einstein (Vật lý), B.Grize (Toán
Lôgic), W.Mc.Cullôch (Sinh học thần kinh) v.v. Kết quả trong thời gian
này nhiều tác phẩm khoa học của ông đã được xuất bản: “Lớp, quan hệ và số
(1942), “Tiểu luận lôgic” (1952), “Nghiên cứu sự chuyển hoá của các thao tác
lôgíc” (1953) Khái niệm về nhận thức phát sinh” (1950), với hơn 1000
trang, gồm 3 tập: “ý tưởng toán học”, “ý tưởng vật học”, “ý tưởng sinh học,
ý tưởng tâm lý học ý tưởng hội học”.
Ngay từ những năm 1935-1965, J.Piaget đã quan tâm tới việc vận dụng kết
quả nghiên cứu tâm học trẻ em o các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, đặc
biệt vào phương pháp giáo dục trẻ em. Ông đã phân tích phê phán hạn
chế của phương pháp giáo dục cổ truyền, quảng các phương pháp giáo
dục mới, trong đó đề cao vai trò của phương pháp hoạt động trong dạy học.
Coi đó phương pháp mang lại hiệu quả hơn hẳn những phương pháp
đương thời. Các tác phẩm: “Giáo dục đang đi về đâu” (1948), “Tâm học
giáo dục học” (1969) phản ánh khá rõ trăn trở tưởng đổi mới của
J.Piaget trong lĩnh vực này. Nhiều đề xuất của ông đến nay vẫn còn nguyên
giá trị thời sự.
J.Piaget người lao động không mệt mỏi. Suốt cuộc đời, ông quan sát, thử
nghiệm, tích luỹ khối lượng khổng l dữ kiện về sự phát triển tâm trẻ em.
Hàng năm, khi kết thúc năm học, ông mang tài liệu thu thập được đến một
trang trại vắng người dưới chân núi Alpea. đó, cả mùa hè, ông không tiếp
xúc với khách, miệt mài phân tích, tổng hợp liệu, hình thành nên các tác
phẩm khoa học. Trong suốt 70 năm làm việc J.Piaget đã công b hàng trăm
cuốn sách bài viết về các lĩnh vực sinh học, tâm học, ngôn ngữ, lôgic…
trong hệ thống thuyết liên bộ môn đồ sộ.
J.Piaget mất ngày 16.9.1980 tại Genève.
Sinh thời, J.Piaget được kính trọng trên khắp thế giới. Ông giáo của
nhiều trường Đại học lớn Pháp Thụy Sỹ Giám đốc phòng thực nghiệm,
phụ trách văn phòng Quốc tế về giáo dục, Uỷ viên Hội đồng chấp hành của
Unesco, Viện sỹ tiến sỹ danh dự của của nhiều trường Đại học, Viện hàn
lâm danh tiếng: Harvard (1936), Columbia (1970), Bruvtelle (1940), Brazill
(1949).
J.Piaget nhà Bác học đa lĩnh vực: Bắt đầu từ sinh học, sang tâm học đến
nhận thức luận, trong lĩnh trực nào ông cũng ông nhiều cống hiến lớn, đặc
biệt trong lĩnh vực tâm học trẻ em. Những công trình về lĩnh vực này của
ông uyên bác đến mức, trong diễn văn khai mạc Hội nghị tâm học thế giới
lần thứ 21, năm 1976, Chủ tịch hội tâm học thế giới, nhà Tâm học Pháp
Paul Praisse đã phát biểu: “Từ đây cho tới cuối thế kỷ, tôi e rằng tâm học
thế giới chỉ việc khai thác riêng các ý tưởng của J.Piaget thì cũng không làm
sao hết được”.
6. Thuyết hoạt động trong tâm học
Do c nhà tâm học Liên (cũ) như L.X.Vugotxki, X.L Rubinstein, A.N
Leonchev cùng với nhiều nhà tâm của Đức, Pháp, Bungari sáng lập. Tâm
học hoạt động lấy Triết học Mác Lênin làm sở luận phương pháp
luận. Các n Tâm học hoạt động cho rằng, tâm là sự phản ánh hiện
thực khác quan vào não người. Tâm người sở tự nhiên sở
hội, được hình thành trong hoạt động, giao tiếp trong các mối quan hệ
hội. Vì thế, tâm lý người mang bản chất hội mang tính lịch sử, là sản
phẩm của hoạt động giao tiếp.

Preview text:

Tìm hiểu về các học thuyết Tâm lý học nổi tiếng 1. Tâm lý là gì?
Khái niệm tâm lý không phải đơn giản. Thực tế từ xa xưa cho đến ngày nay
con người đã tốn rất nhiều công sức để tìm hiểu khái niệm này.
Người nguyên thuỷ có quan điểm cho rằng con người có hai phần: thể xác và
tâm hồn. Tâm hồn chính là cội nguồn của tâm lý con người. Tâm hồn là bất
tử, con người sau khi chết còn có cuộc sống của tâm linh
Trong tiếng Việt thuật ngữ tâm lý đã có từ lâu
Từ điển tiếng Việt 1988 định nghĩa một cách tổng quát: “ tâm lý là ý nghĩa,
tình cảm, làm thành thế giới nội tâm, thế giới bên trong của con người”
Trong cuộc sống hàng ngày, chữ tâm thường được sử dụng ghép với các từ
khác. Ta thường có cụm từ “tâm địa”, tâm can, tâm tình tâm trạng, tâm tư,
được hiểu là lòng người thiên về mặt tình cảm. Như vậy tâm lý được dùng để
chỉ những hiện tượng tinh thần của con người.
Khái niệm tâm lý trong tâm lý học bao gồm tất cả những hiện tượng tinh thần
như cảm giác, tư duy, tình cảm hình thành trong đầu óc con người điều chỉnh,
điều khiển mọi hoạt động của con người.
Nói một cách chung nhất: tâm lý là tất cả những hiện tượng tinh thần nảy sinh
trong đầu óc con người, gắn liền và điều hành mọi hành động, hoạt động của con nguời. 2. Tâm lý học là gì?
Sở dĩ nói tâm lý học là một khoa học vì nó có đối tượng nghiên cứu và có
phương pháp luận nghiên cứu đặc thù riêng.
Tâm lý học là khoa học nghiên cứu các hiện tượng tâm lý. Nó nghiên cứu các
quy luật nảy sinh vận hành và phát triển của các hiện tượng tâm lý trong hoạt
động đa dạng diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người. Sự ra
đời của tâm lý học với tư cách là một khoa học độc lập là kết quả phát triển
lâu dài của nhưng tư tưởng triết học, những quan điểm tâm lý học trong
trường kỳ lịch sử và phát triển của nhiều lĩnh vực khoa học khác.
3. Thuyết Hành vi trong tâm lý học
Tiếp cận hành vi là một trong những cố gắng rất lớn của tâm lí học thế giới
đầu thế kỉ XX, nhằm khắc phục tính chủ quan trong nghiên cứu tâm lí người
thời đó. Kết quả là đã hình thành trường phái có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự
phát triển tâm lí học Mĩ và thế giới trong suốt thế kỷ XX: Tâm lý học hành vi,
mà đại biểu là các nhà tâm lí học kiệt xuất: E.L.Thorndike (1874-1949),
J.B.J.Watson (1878:1958), E.C.Tolman (1886-1959), K.L.Hul (1884-1952) và
B.F.Skinner (1904-1990) và A. Bandura v.v…
Tâm lý học hành vi ra đời là một cuộc cách mạng, làm thay đổi cơ bản hệ
thống quan niệm về tâm lý học đương thời. Theo đó, đối tượng của tâm lý
học là hành vi chứ không phải ý thức. Phương pháp nghiên cứu là quan sát
và thực nghiệm khách quan chứ không phải là nội quan. Trước và trong thời
kỳ xuất hiện Thuyết hành vi, tâm lý học được hiểu là khoa học về ý thức và
phương pháp nghiên cứu là nội quan (tự quan sát và giải thích). Ngay từ khi
ra đời ở Đức năm 1879, với tư cách là khoa học độc lập, tâm lý học đã được
mệnh danh là Tâm lý học nội quan. W.Wundt – người sáng lập ra Tâm lý học
này, đã xác định đối tượng của tâm lý học là “tổ hợp các trạng thái mà ta
nghiệm thấy – các trạng thái được trực tiếp thể nghiệm trong vòng ý thức
khép kín”. Sự phát triển tiếp theo của Tâm lý học nội quan đã hình thành nên
Tâm lý học cấu trúc ở Mĩ. Mặt khác, do nhu cầu khắc phục sự bế tắc của
Tâm lý học nội quan, cũng ở Mĩ những năm này đã xuất hiện Tâm lý học
chức năng. Tuy nhiên, trên thực tế, cả hai dòng phái đều không tạo lập được
khoa học khách quan về ý thức. Lý luận của chúng gắn liền với phương pháp
chủ quan, điều này gây sự thất vọng ở khắp mọi nơi.
Kết quả là, những vấn đề cơ bản của tâm lý học trở nên mờ mịt đối với nhiều
người: Đối tượng nghiên cứu (ý thức) và nguồn gốc của nó (ý thức bắt đầu từ
đâu), phương pháp nghiên cứu (nội quan, nguyên tắc giải thích: nguyên nhân
tâm lý như là sự chế uớc của một số hiện tượng ý thức đối với các hiện
tượng khác). Từ đó đã xuất hiện nhu cầu cấp thiết về đối tượng, phương
pháp và nguyên tắc mới, đặc biệt ở Mĩ, nơi mà cách tiếp cận thực dụng trong
nghiên cứu con người chiếm vai trò thống trị. Điều này đã được chứng minh
bằng khuynh hướng chức năng, mà trọng tâm chú ý là vấn đề thích ứng của
cá nhân với môi trường. Nhưng chủ nghĩa chức năng, vốn bắt nguồn từ các
quan niệm thời cổ đại về ý thức như là một bản thế đặc biệt vươn tới mục
đích, đã bị bất lực khi giải thích nguyên nhân điều khiển hành vi con người,
sự tạo ra những hình thức hành vi mới.
Phương pháp chủ quan đã mất uy tín, phải nhường vị trí cho phương pháp
khách quan. Ở đây, sinh lý học, đặc biệt là sinh lý học thần kinh đã đóng vai
trò quan trọng, trong đó công đầu thuộc về nhà sinh lý học người Nga
I.P.Pavlov, với khái niệm phản xạ có điều kiện. Về phương diện kỹ thuật,
phương pháp nghiên cứu phản xạ có điều kiện cho phép ta nhận biết khách
quan các phản ứng của cơ thể đối với một kích thích. Các nhà hành vi học đã
không bỏ qua thành tựu này. Phương pháp phản xạ trở thành cứu cánh của
họ. Mặt khác, sự phát triển của tâm lý học động vật đã mang lại cho Tâm lý
học hành vi đối tượng nghiên cứu mới: hành vi của động vật. Sự xuất hiện
những nghiệm thể mới – động vật – không có khả năng nội quan, đã đóng vai
trò quan trọng giúp nhà nghiên cứu chuyển từ quan sát sang thực nghiệm.
Hiệu quả tác động của nghiệm viên bây giờ không phải là tự “thông báo” của
nghiệm thể về các trạng thái của mình (như trong Tâm lý học nội quan) mà là
những phản ứng vận động – một điều hoàn toàn khách quan. Trong biên bản
thực nghiệm đã xuất hiện các thông tin kiểu mới về nguyên tắc. Hơn nữa,
chính những nguyên tắc và phương pháp này đã chịu ảnh hưởng trực tiếp
của triết học thực chứng và chủ nghĩa cơ học, đang chi phối tinh thần nước
Mĩ. Đó chính là hoàn cảnh tư tưởng – lý luận đã sinh ra Thuyết hành vi.
Nhân vật hàng đầu của Tâm lý học hành vi là J.Watson. Các luận điểm của
ông là nền tảng lý luận của hệ thống tâm lý học này. Nói tới Tâm lý học hành
vi, không thể không nói nhiều về các quan điểm đó. Tuy nhiên, một mình
J.Watson không làm nên trường phái thống trị tâm lý học Mĩ và ảnh hưởng
lớn tới sự phát triển tâm lý học thế giới suốt thế kỷ XX. Trước J.Watson có
nhiều bậc tiền bối, mà tư tưởng và kết quả thực nghiệm của họ là cơ sở trực
tiếp, để trên đó Watson xây dựng các luận điểm then chốt của Tâm lý học
hành vi. Sau J.Watson nhiều nhà tâm lý học lớn khác của Mĩ đã phát triển
học thuyết này, đưa nó thành hệ thống tâm lý học đa dạng và bám rễ vào mọi
ngóc ngách của đời sống xã hội. Vì vậy, có thể chia quá trình phát triển của
Tâm lý học hành vi thành ba giai đoạn không hoàn toàn theo trật tự tuyến tính
về thời gian: những cơ sở lý luận và thực nghiệm đầu tiên hình thành các
luận điểm cơ bản (Thuyết hành vi cổ điển); sự phát triển tiếp theo của Tâm lý
học hành vi, sau khi có các luận điểm của J.Watson (các thuyết hành vi mới và hậu hành vi).
4. Thuyết Phân tâm trong tâm lý học
Ngày nay, thuật ngữ “Phân tâm học” cùng với tên tuổi của người sáng lập nó
là Sigmund Freud đã trở lên quá quen thuộc đối với nhiều người. Trong khi
những tên tuổi vĩ đại khác của khoa học tâm lý như W.James, J.Watson,
J.Piaget, L.X.Vưgotxki v.v ít được biết ngoài phạm vi tâm lý học, thì S.Freud
nổi tiếng đối với nhiều tầng lớp, nhiều lĩnh vực: tâm lý học, giáo dục học, y
học, văn học – nghệ thuật, tôn giáo, đạo đức v.v… 40 năm sau ngày mất của
ông, tạp chí “News week” đánh giá rằng tư tưởng của Freud đã đi sâu vào ý
thức của chúng ta đến nỗi “khó mà tưởng tượng được thế kỷ XX lại thiếu ông”
(30/11/1981). Ông thuộc về một trong số ít nhà tư tưởng đã làm thay đổi căn
bản cái nhìn của chúng ta về bản thân mình.
Chính S.Freud, sinh thời, đã có lần cho rằng, trong suốt lịch sử của loài người,
đã trải qua 3 cú sốc lớn. Cú sốc đầu tiên do nhà thiên văn học người Ba Lan
Nicolas Copernicus (1473 – 1543) mang đến, người đã chứng minh rằng, Trái
Đất không phải là trung tâm của vũ trụ, mà chỉ là một trong rất nhiều hành tinh
quay xung quanh mặt trời. Phát hiện thứ hai vào thế kỷ XIX, học thuyết của
Charles Darwin, người đã chỉ ra rằng, con người không phải là một loài độc
đáo, khác hẳn với tất cả thế giới động vật, do vậy, họ không thể tham vọng
chiếm một vị trí đặc biệt trong tự nhiên. Con người chỉ là một loài động vật
cao cấp, xuất hiện trong quá trình tiến hoá từ những loài thấp hơn. Cú sốc
thứ ba do chính S.Freud tạo ra, khi ông phát hiện, chúng ta không luôn ở
trong trạng thái có thể kiểm soát được bản thân một cách tuyệt đối nhờ ý
thức. Ngược lại, chúng ta là một thứ đồ chơi trong tay của những sức mạnh
vô thức, không chịu sức áp đặt của ý thức. Như vậy, Copernicus đã dịch
chuyển loài người từ trung tâm của thế giới ra ngoại vi, Darwin buộc con
người phải công nhận họ hàng tiền thân với động vật, còn Freud chứng minh
rằng, ý thức không phải là chủ nhân trong chính ngôi nhà của mình. Lời
khẳng định của S.Freud không phải không có lí. Kể từ khi thuyết phân tâm ra
đời đến nay, ở phương Tây, không một lý thuyết khoa học nào có tác động
mạnh mẽ đến suy nghĩ của mọi người hơn lý thuyết này, ngoại trừ lý thuyết
về sự tiến hoá của Ch.Darwin.
Phân tâm học của S.Freud có số phận đặc biệt. Ngay từ khi mới ra dời, nó và
cha đẻ của nó đã được đón tiếp với các thái độ ngược nhau. Sự ghẻ lạnh của
giới y học và của xã hội Đức – Áo đương thời. Các bác sỹ thần kinh – đồng
nghiệp của Freud xa lánh và phản bác ông. Nhiều người doạ bỏ tù ông, lên
án ông là kẻ phạm tội lớn nhất đối với nền văn hoá châu Âu. Khi A.Hitler lên
cầm quyền ở nước Đức và chiếm được nước áo, đã ra lệnh giết người thân
và đốt sách của ông. Trong khi đó, ở phía bên kia, ngay từ những năm 1905,
tại Hoa kỳ, nhà tâm lý học lừng danh W.James đã khẳng định với S. Freud
“Tương lai tâm lý học thuộc về công trình của ông”, còn ở Pháp, E.Clapared
(1873-1940) nhận định: Phân tâm học của S.Freud là một trong những biến
cố quan trọng nhất mà lịch sử các khoa học của trí tuệ loài người có được”.
Theo dòng thời gian, đã hơn 100 năm qua, vẫn liên tục diễn ra những cuộc
tranh luận gay gắt về toàn bộ hoặc một số luận điểm trong học thuyết của
S.Freud. Điều kỳ lạ là cùng với các luồng thái độ đó, phân tâm học ngày càng
phát triển và thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống tinh thần xã hội. Thậm
chí, vài thập niên gần đây, nhiều trào lưu tư tưởng cực đoan đã lợi dụng danh
nghĩa của Phân tâm học, để kêu gọi “tự do tính dục”, “Giải phóng tính dục”,
“Cách mạng tính dục”… Những trào lưu này, thực chất là lợi dụng và xuyên tạc S. Freud.
Trên bình diện tâm lí học, ở nước ta Phân tâm học được nghiên cứu ít hơn
các học thuyết khác. Nguyên do là việc tìm hiểu thuyết này thường gặp khó
khăn từ ba phía. Trước hết, hướng tiếp cận của Phân tâm học không giống
các học thuyết tâm lí truyền thống. Những khái niệm và phương pháp của các
trường phái tâm lý học đương thời đều được sinh ra trong phòng thí nghiệm,
trong thư viện và trong các bài giảng ở giảng đường đại học. Ngược lại, Phân
tâm học hầu như không có quan hệ với các giảng đường đại học và với lý
tưởng của khoa học đơn thuần. Nó được sinh ra trong lòng của tâm thần học
truyền thống, có nhiệm vụ giúp đỡ những người mà xã hội cho là “bệnh nhân
tâm lý”. Chính vì thế sự thâm nhập của Phân tâm học vào làng tâm lý học
không phải bằng cửa trước, mà bằng cửa bên. Chính xác hơn, không thể so
sánh nó với các trường phái khác. Nó có lãnh địa riêng trong sự khám phá
thế giới tâm hồn con người. Phân tâm học, ngay từ cội nguồn đã không cùng
dòng chảy với các tư tưởng tâm lý học chính thống. Đối tượng của nó không
phải là hành vi bình thường mà là hành vi bất thường, điều mà các trường
phái tâm lý học khác ít quan tâm. Phương pháp chủ yếu của nó là quan sát
lâm sàng, chứ không phải là những thí nghiệm được kiểm soát trong phòng
thí nghiệm. Ngoài ra, Phân tâm học còn quan tâm nhiều đến vô thức – một đề
tài mà hầu như bị loại bỏ bởi các trường phái tâm lý học đương thời. Thứ hai:
các nội dung nghiên cứu, các khái niệm, thuật ngữ được sử dụng trong Phân
tâm học thường bị “cấm kị”, dễ gây “dị ứng” đối với sinh hoạt văn hoá đời
thường của xã hội, đặc biệt là trong xã hội tôn giáo phương Tây và phong
kiến phương Đông. Thứ ba, các luận giải của S.Freud rất tinh tế, phần nhiều
được rút ra từ kỹ thuật lâm sàng, hầu như không có sự lượng hoá, thống kê,
những nội dung tâm lí được trình bày ở điểm giáp ranh giữa khoa học và suy
diễn tư biện, nếu được chứng minh, chúng sẽ là phát hiện lớn lao về những
điều sâu thẳm trong thế giới đời sống tâm lí con người, nhưng nếu thái quá
chúng rất dễ trở thành tín điều phi khoa học. Vì vậy, để có cái nhìn khách
quan về Phân tâm học, về sự kế thừa, sáng tạo và cống hiến của S.Freud,
cũng như giá trị khoa học của các lý luận, phương pháp và kỹ thuật phân tâm
của ông, cần phải nhìn nhận học thuyết này theo góc độ lịch sử.
Mặt khác, giống nhiều thuyết tâm lý học khác, trong quá trình phát triển, Phân
tâm học thường xuyên chịu sức ép từ hai phía: sự phát triển và phân hoá từ
bên trong và sự phản bác từ bên ngoài. Ngay sau khi ra đời, học thuyết này
đã phân hoá thành nhiều “nhánh”: Tâm lý học bề sâu của J.Jung (nhà tâm lý
học Thụy Sỹ 1875-1961); Tâm lý học cá nhân của Alfred Adler (nhà tâm lí học
Áo gốc Australia 1870- 1937); Lý thuyết về sự phát triển tâm lý xã hội của Eric
Ericson (nhà tâm lý học Mĩ gốc Đức 1902-1994); Phân tâm học trẻ em của
Anna Freud (1895-1982) và Mélanie Klein (1882-1960) v.v… Như vậy, nhiệm
vụ của chương là vừa phải phân tích các nội dung chủ yếu của Phân tâm học
S. Freud về sự phát triển người vừa phải đề cập tới một số lý thuyết phát
triển sau đó. Cấu trúc của chương gồm 4 phần: Bối cảnh xã hội và những yếu
tố tiền thân của Học thuyết phân tâm; S. Freud và sự hình thành Phân tâm
học cổ điển; Những lý thuyết phát triển và cuối cùng là những người chống đối từ bên trong.
5. Thuyết Phát sinh nhận thức – Jean Piaget trong tâm lý học
“Từ đây cho tới cuối thế kỷ, tôi e rằng tâm lý học thế giới chỉ việc khai thác
riêng các ý tưởng của J. Piaget thì cũng không làm sao hết được”. Paulpraisse
Cho tới cuối thế kỷ XX, chưa có nhà khoa học nào nghiên cứu sự phát sinh
nhận thức và trí tuệ trẻ em được sâu sắc, hệ thống bằng J.Piaget. Suốt bảy
thập kỷ kiên trì và sáng tạo khoa học, ông đã góp phần không nhỏ vào việc
hình thành và phát triển lĩnh vực khoa học mới: Tâm lý học phát triển. Cả
cuộc đời của J.Piaget là cuộc đời của nhà Bác học và lao động không ngừng.
Các thầy cô giáo, bậc cha mẹ và trẻ thơ trên thế giới biết ơn những cống hiến
lớn lao và tâm huyết của ông trong lĩnh vực này.
Jean Piaget sinh ngày 9 tháng 8 năm 1896 tại Nêuchâtel Thụy Sỹ, trong một
gia đình tri thức danh tiếng.
Từ nhỏ ông đã bộc lộ thiên tư trí tuệ tuyệt vời, xuất chúng. Năm 10 tuổi ông
đã công bố bài báo khoa học đầu tiên của mình, mô tả các quan sát về một
con chim sẻ bạch tạng quý hiếm. Ít lâu sau, ông theo học một tớp giúp việc
người quản lý bảo tàng lịch sử thiên nhiên ở địa phương. 15 tuổi J.Piaget đã
bộc lộ rõ xu hướng nghiên cứu sinh học và đã công bố những bài báo khoa
học, nghiên cứu về động vật có vú.
Năm 18 tuổi J.Piaget đỗ cử nhân và năm 1918, J.Piaget hoàn thành luận án
Tiến sĩ thuộc lĩnh vực động vật học, tại Viện đại học Nêuchâtel, với đề tài “Sự
thích ứng của loài nhuyễn thể”. Trong thời gian này, ông đã công bố 25 công
trình nghiên cứu sự sinh trưởng, thích nghi của loài sò quanh hồ Nêuchâtel.
Những kiến thức sinh học và ấn tượng về sự thích nghi của loài sò óc đã hình
thành trong ông các khái niệm cơ bản để nghiên cứu sự phát triển trí năng của trẻ em sau này.
Ngoài sinh học, mối quan tâm thứ 2 của ông là khoa học luận (Epistemology)
– một ngành triết học đề cập đến nguồn gốc phát sinh của hiểu biết, ông nuôi
hy vọng táo bạo là có thể hợp nhất hai vấn đề mà ông quan tâm. Vào thời
điểm đó, ông cảm thấy, tâm lý học chính là câu trả lời. Ông chuyển đến Paris
và dành ra 2 năm để học tâm lý học lâm sàng, lôgíc và triết lý khoa học tại
Sorbonne. Trong thời gian ở Pari, J.Piaget được đề nghị đảm trách công việc
chuẩn hoá những trắc nghiệm trí thông minh tại phòng thí nghiệm của A.Binet.
Điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến xu hướng nghề nghiệp của ông.
J.Piaget sớm nhận thấy và quan tâm nhiều hơn đến những “câu trả lời sai”
của trẻ so với các kết quả trắc nghiệm. Ông nghĩ rằng, dường như trẻ em
cùng độ tuổi thường mắc phải những loại câu trả lời sai giống nhau đối với
một số câu hỏi nhất định. Vậy tại sao? J.Piaget tiếp tục tìm hiểu về những
nhận thức sai lệch của trẻ bằng phương pháp lâm sàng mà ông đã học được
trước đây, khi còn làm việc trong một bệnh viện tâm thần thực hành. Không
bao lâu sau, ông lại phát hiện ra rằng, trẻ ở những độ tuổi khác nhau, thường
có những loại câu trả lời sai khác nhau, và ông đi đến kết luận: trí tuệ phải là
một thuộc tính đa diện. Những đứa trẻ lớn tuổi hơn không chỉ đơn giản là
thông minh hơn những đứa trẻ ít tuổi, mà quá trình suy nghĩ của chúng cũng
hoàn toàn khác. Những phát hiện này đã cuốn hút J.Piaget và ông cố gắng
xác định xem trẻ tiến triển từ phương thức (hay giai đoạn) suy nghĩ này sang
phương thức suy nghĩ khác như thế nào. Việc nghiên cứu của con người
đáng lưu ý này còn tiếp tục khoảng 60 năm nữa, cho đến khi ông mất vào năm 1980.
Năm 1921 (25 tuổi), theo đề nghị của Giáo sư Claparède – Viện trưởng Viện
khoa học giáo dục, ông chuyển từ Paris về Genève để đảm nhận chức
Trưởng phòng tâm lý thực nghiệm. Năm 1925, ông nhận chức Giáo sư Đại
học Nêuchâtel, dạy bao cả 3 ngành: Tâm lý học, Xã hội học và Triết học.
Năm 1929, được bổ nhiệm Giáo sư Đại học Genève về môn Lịch sử tư tưởng
khoa học, Giám đốc Trung tâm giáo dục quốc tế của Unesco và ở cương vị
này cho tới năm về hưu (1972). Năm 1933 là Viện trưởng Viện khoa học giáo
dục Thụy Sỹ tại Genève. Năm 1940, Giáo sư tâm lý thực nghiệm và năm
1952 là Giáo sư Trường Đại học Sorbonne, Paris.
Trong suốt những năm 1921 đến 1940, mối quan tâm chủ yếu của J.Piaget là
lĩnh vực tâm lý học, đặc biệt là sự phát sinh nhận thức và trí tuệ của trẻ em.
Trong thời gian này, nhiều công trình đã được ông công bố. “Ngôn ngữ và tư
duy của trẻ” (1923), “Mệnh đề và kết luận của trẻ” (1924), “Biểu tượng về thế
giới của trẻ” (1926) v.v. Những nghiên cứu về lĩnh vực trên được ông tập hợp
trong hai công trình nổi tiếng: “Tâm lý học trí tuệ” (1946) và “Tâm lý học trẻ em” (1966).
Từ năm 1940 J.Piaget chuyển dần lĩnh vực nghiên cứu từ tâm lý trẻ em sang
Lôgic học và Khoa học luận. Từ năm 1950 chuyển hẳn sang lĩnh vực này,
đặc biệt là nghiên cứu quá trình phát triển tư duy con người. Năm 1956, ông
thành lập ở Genève Trung tâm nghiên cứu quốc tến về nhận thức luận khoa
học (Centre international d’ épistemologie Scientifique), với sự tham gia của
nhiều nhà Bác học lớn đương thời như Albert Einstein (Vật lý), B.Grize (Toán
và Lôgic), W.Mc.Cul ôch (Sinh học thần kinh) v.v. Kết quả là trong thời gian
này nhiều tác phẩm khoa học của ông đã được xuất bản: “Lớp, quan hệ và số”
(1942), “Tiểu luận lôgic” (1952), “Nghiên cứu sự chuyển hoá của các thao tác
lôgíc” (1953) và “Khái niệm về nhận thức phát sinh” (1950), với hơn 1000
trang, gồm 3 tập: “ý tưởng toán học”, “ý tưởng vật lý học”, “ý tưởng sinh học,
ý tưởng tâm lý học và ý tưởng xã hội học”.
Ngay từ những năm 1935-1965, J.Piaget đã quan tâm tới việc vận dụng kết
quả nghiên cứu tâm lý học trẻ em vào các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, đặc
biệt là vào phương pháp giáo dục trẻ em. Ông đã phân tích và phê phán hạn
chế của phương pháp giáo dục cổ truyền, quảng bá các phương pháp giáo
dục mới, trong đó đề cao vai trò của phương pháp hoạt động trong dạy học.
Coi đó là phương pháp mang lại hiệu quả hơn hẳn những phương pháp
đương thời. Các tác phẩm: “Giáo dục đang đi về đâu” (1948), “Tâm lý học và
giáo dục học” (1969) phản ánh khá rõ trăn trở và tư tưởng đổi mới của
J.Piaget trong lĩnh vực này. Nhiều đề xuất của ông đến nay vẫn còn nguyên giá trị thời sự.
J.Piaget là người lao động không mệt mỏi. Suốt cuộc đời, ông quan sát, thử
nghiệm, tích luỹ khối lượng khổng lồ dữ kiện về sự phát triển tâm lý trẻ em.
Hàng năm, khi kết thúc năm học, ông mang tài liệu thu thập được đến một
trang trại vắng người dưới chân núi Alpea. Ở đó, cả mùa hè, ông không tiếp
xúc với khách, miệt mài phân tích, tổng hợp tư liệu, hình thành nên các tác
phẩm khoa học. Trong suốt 70 năm làm việc J.Piaget đã công bố hàng trăm
cuốn sách và bài viết về các lĩnh vực sinh học, tâm lý học, ngôn ngữ, lôgic…
trong hệ thống lý thuyết liên bộ môn đồ sộ.
J.Piaget mất ngày 16.9.1980 tại Genève.
Sinh thời, J.Piaget được kính trọng trên khắp thế giới. Ông là giáo sư của
nhiều trường Đại học lớn ở Pháp và Thụy Sỹ Giám đốc phòng thực nghiệm,
phụ trách văn phòng Quốc tế về giáo dục, Uỷ viên Hội đồng chấp hành của
Unesco, Viện sỹ và tiến sỹ danh dự của của nhiều trường Đại học, Viện hàn
lâm danh tiếng: Harvard (1936), Columbia (1970), Bruvtel e (1940), Brazil (1949).
J.Piaget là nhà Bác học đa lĩnh vực: Bắt đầu từ sinh học, sang tâm lý học đến
nhận thức luận, trong lĩnh trực nào ông cũng ông có nhiều cống hiến lớn, đặc
biệt là trong lĩnh vực tâm lý học trẻ em. Những công trình về lĩnh vực này của
ông uyên bác đến mức, trong diễn văn khai mạc Hội nghị tâm lý học thế giới
lần thứ 21, năm 1976, Chủ tịch hội tâm lý học thế giới, nhà Tâm lý học Pháp
Paul Praisse đã phát biểu: “Từ đây cho tới cuối thế kỷ, tôi e rằng tâm lý học
thế giới chỉ việc khai thác riêng các ý tưởng của J.Piaget thì cũng không làm sao hết được”.
6. Thuyết hoạt động trong tâm lý học
Do các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) như L.X.Vugotxki, X.L Rubinstein, A.N
Leonchev cùng với nhiều nhà tâm lý của Đức, Pháp, Bungari sáng lập. Tâm
lý học hoạt động lấy Triết học Mác – Lênin làm cơ sở lý luận và phương pháp
luận. Các nhà Tâm lý học hoạt động cho rằng, tâm lý là sự phản ánh hiện
thực khác quan vào não người. Tâm lý người có cơ sở tự nhiên và cơ sở xã
hội, được hình thành trong hoạt động, giao tiếp và trong các mối quan hệ xã
hội. Vì thế, tâm lý người mang bản chất xã hội và mang tính lịch sử, là sản
phẩm của hoạt động và giao tiếp.
Document Outline

  • Tìm hiểu về các học thuyết Tâm lý học nổi tiếng
    • 1. Tâm lý là gì?
    • 2. Tâm lý học là gì?
    • 3. Thuyết Hành vi trong tâm lý học
    • 4. Thuyết Phân tâm trong tâm lý học
    • 5. Thuyết Phát sinh nhận thức – Jean Piaget trong
    • 6. Thuyết hoạt động trong tâm lý học