




Preview text:
Tìm hiểu về Hiệp ước Quý Mùi năm 1883 (còn
gọi là Hiệp ước Hacmăng).
1. Bối cảnh ra đời của Hiệp ước Qúy Mùi năm 1883
Đầu thập niên 1880, quân Pháp chủ trương xâm lăng và tìm cách gây hấn tại
Bắc Kỳ. Năm 1882, thủ phủ Hà Nội thất thủ, Pháp chiếm được toàn bộ miền
trung châu Bắc Kỳ. Trong khi đó, sau khi triều đình Huế gửi cầu viện, dưới
danh nghĩa giúp nhà Nguyễn, quân Thanh đã vượt biên giới vào Bắc Kỳ mở
đầu cuộc chiến Pháp- Thanh.
1.1 Quân Pháp tấn công ở cửa biển Thuận An
Sau khi thất bại trong trận Cầu Giấy lần thứ hai (19-5-1883), khác với lần
trước, thực dân Pháp càng củng cố dã tâm xâm chiếm toàn bộ Việt Nam.
Nhân cái chết của Ri-vi-e, tư bản Pháp lớn tiếng kêu gọi “trả thù”. Một kế
hoạch về tài chính và quân sự nhanh chóng được thông qua. Nhân lúc triều
đình bận rộn vì vua Tự Đức mới qua đời (7-7-1883), thực dân Pháp đã quyết
định đánh thẳng vào Huế, buộc triều đình nhà Nguyễn phải đầu hàng.
Khi được lệnh đánh Thuận An, chiến thuyền Pháp do Đô đốc Courbet chỉ huy
bấy giờ đang neo ở Vịnh Hạ Long, Bắc Kỳ liền kéo vào nam. Hạm đội Pháp
gồm các chiến thuyền Bayard, Atalante, Chateau-Renaud, Annamite, Drac,
cùng với 2 hộ tống hạm là Lynx và la Vipère. Ba tàu chiến chở quân đổ bộ
là Bayard và Atalante. Tàu Chateau-Renaud chuyển vận 2 đại đội thủy binh,
một đại đội lính tập người Việt (dưới quyền chỉ của các sĩ quan đại úy Pháp
Monniot, Sorin và Radiguet một sĩ quan chỉ huy doanh trại thống đốc), hai đội
trọng pháo do đại úy hải pháo Luce (sĩ quan tiếp vận của thống đốc) chỉ huy
và 100 binh phu. Tổng cộng lực lượng Pháp có quân số khoảng 1000. Ngày
16 tháng 8 năm 1883, đoàn tàu Pháp vào đến Đà Nẵng, tới ngày 18 thì thả
neo ở ngoài cửa Thuận An. Ngày 20 Tháng 8, vào lúc 5 giờ sáng, Courbet ra
lệnh khai hỏa bắn phá các hải đồn phòng thủ cửa biển Thuận-An. Nửa giờ
sau, đội thủy quân đầu tiên do Poidloue, phó hạm trưởng tàu Atalante chỉ huy
đổ bộ lên bờ và tiến chiếm ngay 2 hải đồn. Đến 8 giờ sáng thì tất cả thủy
quân Pháp đã lên đến bờ, kéo sâu vào làng và bao vây đại hải đồn Trấn Hải.
Quân Pháp có một sĩ quan và 5 lính bị thương. Quân Việt bắn trả suốt ngày
hôm đó, nhưng do vũ khí quá kém nên đến cuối ngày thì các pháo lũy phòng
thủ đều bị hỏa lực Pháp phá hủy; lực lượng phòng thủ tổn thất nhiều mà quân
Pháp không bị thiệt hại gì. Các hải đồn ở đảo Cây Dừa và ở mặt phía Nam
chống trả mạnh mẽ nhưng cũng bị tàu chiến và hải quân Pháp bắn hạ vào
buổi sáng ngày 21 Tháng 8. Cuộc đánh chiếm Thuận An hoàn tất. Phía quân
binh triều đình Huế có 600 tử vong và vô số bị thương. Các quan phòng giữ
các hải đồn như quan trấn thành là Lê Sĩ, Lê Chuẩn tử trận, Lâm Hoành, Trần
Thúc Nhẫn nhảy xuống sông tự tử. Quan thương bạc của triều đình Huế là
Nguyễn Trọng Hợp yêu cầu ngưng chiến nhưng chỉ được quân Pháp chấp
thuận với điều kiện là quan binh Đại Nam phải rút khỏi tất cả thành trì phòng
thủ cửa biển Thuận-An và các đồn lũy dọc trên tuyến đường Thuận An lên kinh thành Huế. Ngoài ra Pháp cũng đòi lại 2 chiến
thuyền Scorpion và D'Entrcasteaux trước tặng cho triều đình nhà Nguyễn hồi
năm 1874. Quân dân ta anh dũng chống trả. Các quan trấn thủ Lê Sĩ, Lê
Chuẩn, Lâm Hoành, Nguyễn Trung và nhiều binh sĩ đã hi sinh trong chiến đấu.
Đến chiều tối, toàn bộ cửa Thuận An lọt vào tay giặc.
1.2 Hệ quả của trận thua tại cửa biển Thuận An
Quân Việt tại Bắc Kỳ đã phối hợp với quân Thanh để đánh Pháp. Ngày 19-7-
1883, vua Tự Đức băng hà, triều đình rối ren do việc tranh giành quyền
lực…Lợi dụng tình thế, ngày 20-8-1883, quân Pháp đã uy hiếp sát kinh thành
Huế, triều đình Nguyễn phải cử Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Trọng Hợp ra
điều đình với Pháp. Ngày 21-8-1883, Thượng thư Bộ Lại triều Nguyễn
Nguyễn Trọng Hợp tiến hành thương lượng với Pháp tại cửa Thuận An, do
cha cố Caspard phiên dịch. Đôi bên tạm đình chiến trong 48 giờ. Tổng ủy
Jules Harman của Pháp lập tức đi Huế và gửi tối hậu thư buộc triều đình Huế
phải:rút hết quân ở 12 pháo đài, dỡ bỏ toàn bộ chướng ngại vật trên sông
Huế, phá hủy vũ khí, giao nộp lại 2 tàu chiến Pháp đã tặng trước đây. Ngày
25-8-1883, tại kinh đô Huế, triều đình Nguyễn đã tiến hành ký kết với Pháp
bản Hòa ước Quý Mùi (1883), hay còn có tên gọi khác là Hiệp ước Harman.
Tham gia buổi ký kết có: Đại diện ngoại giao của nước Cộng hòa Pháp là
Tổng ủy Jules Harman; đại diện phía triều Nguyễn là Trần Đình Túc- Hiệp
biện Đại học sĩ (chánh sứ) và Nguyễn Trọng Hợp- Thượng thư Bộ Lại (phó
sứ). Hòa ước có tất cả 27 điều khoản.
2. Phản ứng của triều đình nhà Nguyễn và nhân dân cả nước
Trong trận đánh bảo vệ cửa ngõ Kinh đô Huế ở cửa Thuận An, lực lượng
quân Triều đình hy sinh đến hàng trăm người, tập trung chủ yếu ở trận phòng
thủ Trấn Hải. Những chiến sĩ phòng vệ Thuận An đã nằm xuống trong giờ
phút cuối cùng của nền độc lập dân tộc dưới thời nhà Nguyễn, trong tư thế
của những người anh hùng quyết tâm chống Pháp, đem thân mình đền nợ
nước. Nghe tin Thuận An thất thủ, vua Hiệp Hòa vô cùng lo sợ đã vội vã cử
người đến xin đình chiến và buộc những người chủ chiến rút khỏi các đồn
binh và nhổ vật cản trên sông Hương. Quyết định nghị hòa của vua Hiệp Hòa
tạo ra sự bất mãn trong hàng ngũ quan quân chủ chiến, nhưng họ đành bất
lực. Tôn Thất Thuyết phản ứng bằng cách đem cờ và Ngự bài binh sự trả lại
cho nhà vua, còn Ông ích Khiêm thì hậm hực triệt quân bản bộ (chừng 700
người). Thuận An thất thủ, triều đình Huế phải ký vào hòa ước Harmand ngày
25/8/1883, gồm 27 điều khoản công nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn cõi
Việt Nam, và người Pháp có quyền kiểm soát về mặt ngoại giao của triều
đình. Việt Nam chính thức chia làm ba kỳ với ba chế độ lệ thuộc khác nhau.
Với bản hiệp định này, thực dân Pháp những mong nhân dân ta hạ khí giới
đầu hàng chúng. Nhưng, nhân dân cả nước vẫn không buông vũ khí, ngay
trong triều đình Tôn Thất Thuyết và phái chủ chiến vẫn nung nấu ý chí đánh Pháp.
Chấp nhận ký hiệp ước Harmand, vua Hiệp Hòa đã đi chệnh đường lối giữ
nước của những người chủ chiến và nguyện vọng của nhân dân, nên đã bị
phế truất sau 4 tháng trên ngai vàng. Chủ trương hòa nghị và đầu hàng của
vua Hiệp Hòa đã suýt biến triều đình Huế thành guồng máy cai trị thân Pháp,
nhưng nỗ lực của Tôn Thất Thuyết và phái chủ chiến đã kịp thời chặn đứng nguy cơ đó.
3. Nội dung của Hiệp ước Qúy mùi năm 1883
Hiệp ước Quý Mùi năm 1883 (còn gọi là Hiệp ước Hacmăng) là văn kiện
được kí kết ngày 25.8.1883 giữa triều đình Huế và Chính phủ Pháp thừa
nhận Pháp thống trị toàn bộ Việt Nam. Đến năm 1883, thực dân Pháp đã
chiếm và nắm quyền cai trị toàn bộ Nam Kỳ lục tỉnh và ở miền Bắc đã chiếm
Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định và một số nơi khác. Tại hội nghị quân sự Bắc
Kỳ ngày 30.7.1883, các tướng tá Pháp lúc đó có mặt ở Bắc Kỳ, đứng đầu là
Tổng uỷ viên Pháp ở Bắc Kỳ là Hacmăng (Harmand) đã quyết định mở cuộc
tiến công vào kinh đô Huế và đánh chiếm Sơn Tây để gây sức ép nhằm kí kết
hiệp ước buộc triều đình Huế chấp nhận nền bảo hộ của Pháp. Sau khi Chính
phủ Pháp duyệt y kế hoạch, ngày 20.8.1883 quân Pháp mở cuộc tấn công
cửa biển Thuận An, cửa ngõ vào kinh đô Huế. Hacmăng lập tức từ Hải Phòng
đi vào Huế và gửi tối hậu thư cho triểu đình Huế. Triều đình Huế bị buộc phải
kí với thực dân Pháp cái gọi là “Hiệp ước hoà bình" tại Ấ" Huế, phía triều đình
Huế do Hiệp biện đại học sĩ Sãã Trần Đình Túc đại diện và phía Pháp do
Hacmăng đại diện cùng kí. Hiệp ước gồm 27 điều khoản. Ngay tại Điều 1,
tiểu đình Huế bị tước bỏ hoàn toàn quyền đối ngoại, mọi cuộc trao đổi ngoại
giao của triều đình Huế với bất kì nước nào, kể cả với triều đại Thanh (Trung
Quốc) đều do Pháp nắm quyền chủ toạ và và triều đình Huế muốn đặt quan
hệ ngoại giao với nước nào đều phải được Chính phủ Pháp cho phép. Thực
dân Pháp theo Điều 2 và Điều 26, sáp nhập tnh Bình Thuận vào Nam Kỳ coi
như để trừ nốt khoản tiền bồi thường chiến phí theo Hiệp ước Nhâm Tuất
(1862) mà triều đình Huế còn thiếu.
Một nội dung chủ yếu của Hiệp ước là chia Việt Nam làm ba kì (Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ). Từ phía bắc tỉnh Bình Thuận trở vào nam gọi là
Côsanhsin (Cochinchine), tức Nam Kỳ và được coi là thuộc địa của Pháp; từ
địa giới phía bắc tỉnh Bình Thuận trở ra tới Đèo Ngang gọi là An Nam, tức
Trung Kỳ; từ Đèo Ngang trở ra gọi là Tông canh (Tonkin), tức Bắc Kỳ. An
Nam và Tonkin hợp lại gọi là Vương quốc An Nam (Empira dAnnam) do
Hoàng đế An Nam trị vì, nhưng phải đặt dưới sự bảo hộ của Pháp, ai muốn đi
vào đất Trung Kỳ đều phải có giấy nhập cảnh do những viên chức cao cấp
nhất của giới cầm quyền Pháp cấp và phải được Nam triều chuẩn y. Thực
dân Pháp bắt triểu đình Huế phải gọi toàn bộ số quân lính đã gửi ra chiến
trường Bắc Kỳ trở về và đình ngay mọi hoạt động quân sự, phải ra lệnh cho
các quan lại Bắc Kỳ trở lại làm việc như cũ, nơi nào khuyết phải bổ sung ngay
và nhà cầm quyền Pháp đề cử ai thì triều đình phải làm mọi thủ tục để bổ
dụng ngay (Điều 5). Thực dân Pháp bắt triểu đình Huế phải cho lưu hành
khắp Trung Kỳ và Bắc Kỳ loại tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành.
Như vậy, cùng một lúc tại Việt Nam tồn tại và lưu hành 3 đồng tiền: tiền Việt
Nam (quan, tiền, tiền đồng,...); đồng bạc Mễ Tây Cơ, tức đồng bạc hoa xoè
và đồng Đông Dương (Điều 27). Điều ước quốc tế đa phương được kí kết
ngày 25.3.1957 tại Rôma (Italia), có hiệu lực từ 01.01.1958 giữa 6 quốc gia
sáng lập viên của Cộng đồng kinh tế châu Âu (Bỉ, Pháp, Hà Lan, Luxembua,
Cộng hoà Liên bang Đức và Italia) để hình thành các mục tiêu và nguyên tắc
của Cộng đồng châu Âu. Hiệp ước này đặt nền móng cho quá trình tháo bỏ
sự hạn chế thương mại giữa các quốc gia hội viên, ấn định việc tự do di
chuyển nhân lực, tài sản, tư bản giữa các nước thành viên, điều hòa các
chính sách thuế và trợ giúp các khu vực nghèo đói.
4. Ý nghĩa của bản hiệp ước Qúy Mùi với Quân Pháp
Qua thực tiễn lịch sử thì có thể khẳng định, hiệp ước Quý Mùi chính là một
bản cam kết bán nước. Nó đánh dấu quá trình xâm lược đặt ách đô hộ của
nước Pháp trên đất nước Đại Nam chúng ta.
- Về phía triều đình nhà Nguyễn thì cho rằng, đây chỉ là kế “hoãn binh” vì
ngoài Bắc lúc bấy giờ hai bên còn giao tranh ác liệt trong khi quân Thanh viện
trợ chúng ta rất đông. Vì thời điểm ký hiệp ước triều đình Huế đang ở thế yếu
nên không thể làm gì hơn ngoài việc đồng ý chấp nhận những điều khoản vô
lý và có lợi cho Pháp đó. Với mong muốn kéo dài thời gian để tìm cách phản công lại.
- Nhưng trên thực tế, triều đình nhà Nguyễn đã quá mục rũa và thối nát. Với
tư tưởng cá nhân, bảo vệ quyền lợi triều đình, quyền lợi dòng họ, không đặt
lợi ích nhân dân lên hàng đầu. Nên triều Nguyễn sớm bị thôn tính. Trở thành
triều đình bù nhìn, chấp nhận sự bảo hộ của Pháp trên đất An Nam. Đất
nước ta chính thức trở thành nước nửa thuộc địa nửa phong kiến từ sau hiệp ước Hác Măng.
- Đối với phong trào đấu tranh chống Pháp, sau khi có sự kiện hiệp ước Quý
Mùi thì phong trào đấu tranh ngày càng lên cao. Nhân dân sôi sục ý chí căm
hờn Pháp cũng như sự nhu nhược của triều đình bù nhìn Huế. Vì thế nhiều
cuộc đấu tranh khởi nghĩa đã nổ ra. Nhưng do chưa có con đường đúng đắn
nên các phong trào đều lần lượt thất bại.
- Có thể nói rằng, hiệp ước Quý Mùi là một điều tất yếu phải xảy ra đối với
một triều đình đớn hèn, nhu nhược và không đặt lợi ích của nhân dân lên trên
hết. Nó đánh dấu sự xâm chiếm toàn diện của Pháp trên đất nước ta. Nó xóa
bỏ trọng trách của triều Nguyễn đối với nhân dân, đẩy nhân dân vào cảnh lầm than một cổ hai tròng.
- Tuy nhiên, chính từ bản hiệp ước này, lòng yêu nước của nhân dân ngày
càng sôi sục, trở thành những làn sóng đấu tranh mạnh mẽ tuy không giành
thắng lợi nhưng cũng uy hiếp và làm lung lay tinh thần của quân Pháp và triều đình nhà Nguyễn.
Document Outline
- Tìm hiểu về Hiệp ước Quý Mùi năm 1883 (còn gọi là - 1. Bối cảnh ra đời của Hiệp ước Qúy Mùi năm 1883- 1.1 Quân Pháp tấn công ở cửa biển Thuận An
- 1.2 Hệ quả của trận thua tại cửa biển Thuận An
 
- 2. Phản ứng của triều đình nhà Nguyễn và nhân dân
- 3. Nội dung của Hiệp ước Qúy mùi năm 1883
- 4. Ý nghĩa của bản hiệp ước Qúy Mùi với Quân Pháp
 
- 1. Bối cảnh ra đời của Hiệp ước Qúy Mùi năm 1883
