






Preview text:
I/ Tìm hiểu chung về Nguyễn Huy Thiệp
1> Một số kiến thức cơ bản
- Nguyễn Huy Thiệp (1950 - 2021), sinh ra tại Thái Nguyên; quê ở huyện Thanh
Trì, Hà Nội. Ông là nhà văn đương đại Việt Nam trong địa hạt kịch, truyện ngắn,
tiểu thuyết với những góc nhìn mới mẻ, đầy táo bạo.
-Ông xuất hiện khá muộn trên văn đàn nhưng được coi là người đạt đỉnh cao của
nghệ thuật truyện ngắn.
- Thuở nhỏ ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái
Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Yên… Vì vậy, nông thôn và những người lao động vì
thế để lại nhiều dấu ấn khá đậm nét trong nhiều sáng tác của ông.
- Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Sự nghiệp
văn chương của ông bắt đầu khá muộn với các truyện ngắn đăng trên báo Văn
Nghệ. Chỉ một vài năm sau đó, cả làng văn học trong lẫn ngoài nước xôn xao
những cuộc tranh luận về các tác phẩm của ông.
-Nguyễn Huy Thiệp cầm bút trong bối cảnh đất nước thống nhất, hòa bình; ông
khởi nghiệp khi đã qua tuổi thanh niên và có nhiều trải nghiệm cay đắng trong cuộc đời.
- Hơn 50 năm cầm bút, Nguyễn Huy Thiệp ghi dấu đậm nét ở nhiều thể loại sáng
tác với 50 truyện ngắn, 10 vở kịch, 4 tiểu thuyết cùng nhiều tiểu luận, phê bình văn học.
- Một số tác phẩm nổi bật của ông như: Tướng về hưu, Không có vua, Tuổi 20 yêu
dấu, Chảy đi sông ơi, Con gái thủy thần, … 2> Phong cách sáng tác
-Đặc điểm phong cách sáng tác:
+Mạnh mẽ, gai góc và “trần trụi”
+Ông là cây bút thấu hiểu đời sống nông thôn
+Anh bước vào làng văn mà hình như không muốn làm "văn chương" (Chế Lan Viên)
+ Ông là “ngôi sao sáng của văn học đổi mới”
+ Ông là “của hiếm”, “hiện tượng độc đáo” của văn đàn Việt Nam.
-Ông thu hút độc giả bởi phong cách viết trái chiều:
+Rất lạ, ra đời với những quan điểm trái chiều.
+Giống như “gây hấn” với cái nhìn cố hữu, kinh điển về lịch sử của đám đông
+ Có tác dụng thức tỉnh và phản tỉnh, thay đổi cách tư duy lịch sử bằng một hệ
hình diễn ngôn mới, khác biệt về chất so với truyền thống.
- Phong cách Nguyễn Huy Thiệp thống nhất trong sự biến hóa khó lường: trữ tình
dân gian, hiện thực khắc nghiệt pha lẫn yếu tố kỳ ảo. Đó còn là những truyện kể
qua ngôn ngữ sân khấu, với những xung đột được đẩy đến cao trào.
- Nguyễn Huy Thiệp thường làm cho câu chuyện của mình mang dáng dấp một câu
chuyện cổ tích, một huyền thoại, một truyền thuyết dân gian. Ông đã sử dụng một
số nhân vật quen thuộc của truyện cổ tích: người dị dạng (biến thể của người lốt
vật), nhân vật ngốc nghếch, mồ côi, nhân vật phi thường, nhân vật bình dân thông
thái… Bên cạnh đó là những môtip: sự ra đời kì lạ, kén rể, cứu người bằng nhạc cụ
thần kỳ, cô gái nghèo xấu xí biến thành xinh đẹp nhờ phép lạ, đổi đời nhờ tìm thấy
vật lạ, giết quái vật cứu người đẹp, nhân quả (ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão),
những hiện tượng bất thường trong thiên nhiên (hổ xuống làng, giông bão, lụt), các yếu tố kì ảo…
3> Tranh cãi về Nguyễn Huy Thiệp
*Truyện ngắn “Vàng lửa” là một tác phẩm đã gây ra những tranh luận không có
hồi kết về quan điểm lịch sử, đưa đến những lời phê bình cực đoan, không ít trong
đó mang tính mạt sát khi nó mới ra đời.
- Điều đó là dễ hiểu vì những chi tiết về Nguyễn Ánh, Nguyễn Du, người Pháp,
dân tộc việt và văn hóa Việt trong xung đột lịch sử vốn rất nhạy cảm, nay lại được
viết bằng cái nhìn giải thiêng, kiểu tư duy giai thoại, dạng tin đồn thất thiệt sẽ
không tránh khỏi những phản ứng gay gắt.
Ở đây, một số nhà phê bình nhấn mạnh vài điểm chính về tác phẩm khi tiếp cận
với những vấn đề nhạy cảm của lịch sử mà nhà văn đề cập:
1/ Câu chuyện được kể ở đây là câu chuyện của ông Quách Ngọc Minh - câu
chuyện của một cá nhân, được ghi lại trong tư liệu riêng của gia đình - kể cho
người kể chuyện nghe, không phải là câu chuyện ghi chép trong chính sử hay của
cộng đồng, tức một dạng dã sử, giai thoại.
2/ Những nhận xét, đánh giá về Gia Long, về Nguyễn Du, về văn hóa, dân tộc Việt
là của Phrăngxoa Pơriê (Phăng) – cá nhân một con người ngoại quốc – không phải
của nhà văn, cũng không phải của toàn bộ người Pháp đến/ ở Việt Nam.
3/ Câu chuyện của những người đi tìm vàng là hồi ký của một người Bồ Đào Nha
– người tham gia cùng đoàn người do Phăng dẫn đầu đi tìm mỏ vàng ghi lại. Người
kể chuyện cũng cất công đi tìm các thư tịch cổ và hỏi các bậc bô lão nhưng không
hề thấy ghi chép sự kiện này. Vì thế, sự thực ở đây chỉ là những sự thực được
truyền miệng như những giai thoại sống. Chính điều này tạo nên tính đối thoại –
một trong những đặc trưng cơ bản và quan trọng của tiểu thuyết – theo quan điểm
của M.Bakhtin. Điều đó cũng có nghĩa là lịch sử ở đây đang được “tiểu thuyết hóa”.
=> Thủ pháp kể chuyện quen thuộc của dân gian từ những câu chuyện truyền
miệng, những lời đồn hay những ghi chép vụn được sử dụng để tạo ra nhiều nhất
biến số trong một mẫu số giai thoại chung. Cho nên, những giai thoại lịch sử của
ông vừa mang màu sắc dân gian lại vừa thấm đẫm tinh thần hậu hiện đại.
4> Một số nhận định về tác giả Nguyễn Huy Thiệp
1. Nhà văn Nguyễn Bình Phương - phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - đánh giá
Nguyễn Huy Thiệp là "một trong những nhà văn gần như là quan trọng số 1 từ sau
đổi mới, người đã gợi lại dũng khí cho tất cả các nhà văn, cho họ thấy thế nào là
quyền năng một người viết, quyền thay đổi, quyền khám phá, phản biện xã hội,
khiến ta nhìn thấy lại giá trị của nhà văn".
2. Nhà phê bình Bùi Việt Thắng nói: "'Nguyễn Huy Thiệp chăm chú, nhấn mạnh
vào những cái bất bình thường trở nên bình thường, và cái bình thường được nhìn như bất bình thường".
3. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên viết trong phần mở đầu tuyển tập phê bình Đi
tìm Nguyễn Huy Thiệp: "Thật hiếm trong văn chương Việt Nam xưa nay, tôi dám
chắc là chưa có một nhà văn nào vừa xuất hiện đã gây được dư luận, càng viết dư
luận càng mạnh, truyện chưa ra thì người ta đã kháo nhau, truyện đăng rồi thì tranh
nhau tìm đọc, đọc rồi thì gặp nhau bình phẩm, bàn tán. . Văn đàn thời đổi mới đã
khởi sắc hẳn, đã náo động, càng thêm náo động bởi những cuộc tranh luận, cả
tranh cãi, quanh sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp".
4. Nhà văn Bùi Việt Thắng: "'Sau những tranh luận không dứt, cuối cùng giới văn
chương thống nhất: Nguyễn Huy Thiệp là một tài năng văn chương, có đóng góp
không nhỏ với nền văn học hiện đại, tác phẩm của ông có thể xuất khẩu ra thế giới
với nhãn mác 'Made in Vietnam'".
5. Bùi Việt Thắng nhận xét: “Nguyễn Huy Thiệp đã đưa vào truyện ngắn các hình
thức khác như đồng dao (Huyền thoại phố phường), hát dỗ em (Những người thợ
xẻ), thơ dịch (Nguyễn Thị Lộ), thơ trữ tình (Những bài học nông thôn), chuyện thơ
(Thương nhớ đồng quê).”
II>Sự tiếp thu của Nguyễn Huy Thiệp trong văn học dân gian. 1>Điểm giống nhau
-Cùng có tiêu đề “Trương Chi”
-Mở đầu bằng một câu hát dân gian:
“Ngày xưa có anh Trương Chi
Người thì thậm xấu hát thì thậm hay”
-Có các yếu tố kì ảo đan xen lẫn tả thực.
- Đều tạo nên một miền liên tưởng rộng và sâu cho người tiếp nhận, làm nổi bật
tính đối ngoại của câu chuyện, xuyên không gian, thời gian và tư tưởng, buộc con
người phải tự tra vấn, tư duy và khơi gợi nhận thức.
2>Yếu tố văn học dân gian trong tác phẩm “Trương Chi”
*Về mặt tư liệu: Nguyễn Huy Thiệp đã mượn kiến thức sau cho Trương Chi của mình:
-Hình tượng, số phận nhân vật, hoàn cảnh và định hướng câu chuyện
Trương Chi (xấu xí, nghèo khổ nhưng hát hay), Mỵ Nương (nhan sắc tuyệt trần, giàu có. )
-Tạo nên một miền liên tưởng rộng và sâu cho người tiếp nhận
-Tiếng hát được sử dụng là hình thức biểu đạt khác của dòng chảy tâm hồn nhân vật
-Kết thúc câu chuyện đều là cái chết của Trương Chi
*Về mặt trừu tượng (tư tưởng, quan điểm, cảm xúc), Nguyễn Huy Thiệp đã tiếp thu:
-Nỗi buồn thân phận thấp hèn của Trương Chi nguyên tác
-Thái độ lên án những định kiến vô nhân đạo, hạ thấp con người.
-Sự chênh lệch giàu nghèo, định kiến về ngoại hình (gián tiếp gây nên cái chết của Trương Chi)
-Quan niệm sống của người xưa: Sợ bị bàn tán do trọng thể diện làm mất chất con người.
III> Sự sáng tạo trong những sáng tác của ông
-Một số nhận định về sự sáng tạo trong những sáng tác của ông:
+ “Luôn luôn đặt ngược lại vấn đề, thoát ra ngoài những chuẩn mực thông thường” (Nguyễn Đăng Điệp)
+Ông mổ xẻ đời sống, viết về cái ác, chỉ ra những thứ vô đạo từ cấp bậc xã hội tới gia đình.
+Ông có những tư tưởng cực đoan hơn người thường. Mượn Trương Chi, NHT
than thở về thói đời cổ hủ, lề lối bó buộc của định kiến.
+Xây dựng nhân vật lấy cảm hứng từ truyện dân gian. (Nông dân nghèo bất hạnh)
+Lồng cái nhìn “lạ hóa” vào hình tượng nhân vật cổ tích mà ông ta mang vào tác phẩm.
-So sánh giữa Trương Chi cổ tích và Trương Chi trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp:
+Nếu như Trương Chi trong truyện cổ chết vì sự mâu thuẫn giữa lí tưởng và thực
tế trong tình yêu của Mị Nương thì Trương Chi ở đây chết vì chính sự quay lưng
của con người đối với những giá trị đích thực.
+Nếu như Trương Chi trong cổ tích tê tái, ủy mị, không nổi bật trong mặt tính cách
thì Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp luôn bày tỏ lòng chán chường, sức phản
kháng qua lời nói và hành động cục cằn, thô lỗ; sống có chính kiến cá nhân và gìn giữ cá tính.
+Nếu như Trương Chi trong cổ tích hát để bày tỏ nỗi tương tư thống khổ thì
Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp hát để bày tỏ nỗi lòng uất hận, lên án sự tuân
phục bầy đàn của con người.
+Truyện cổ, nhân vật Trương Chi được lí tưởng hóa, thiêng hóa trước tình yêu
thủy chung, cao cả đối với mối tình tuyệt vọng của mình còn Trương Chi của
Nguyễn Huy Thiệp lại được tục hóa.
*Một số trích đoạn trong Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp:
+ Trương Chi đứng ở đầu mũi thuyền. Chàng trật quần đái vọt xuống dòng song.
+Chàng cắn vào ngón tay. Một đốt ngón tay đứt trong miệng chàng. Chàng nhổ
mẩu ngón tay xuống Bông. Trời tối, không thấy máu. Chàng thò ngón tay xuống
dòng nước xiết. Dòng nước mơn man khiến chàng dễ chịu. Chàng duỗi thân, ngả
người vào lòng thuyền. Chàng nói: - Cứt!
+Chàng cũng lưởt qua nó, những ước lệ của thói đời ấy không dấu vết. Giờ đây,
gặp Mỵ Nương rồi, chàng hiểu chắc chắn rằng cuộc sống của chàng thật là cứt, là
cứt chó, không sao ngửi được. Không chỉ riêng chàng, mà cả bầy. Tất cả đều thối hoắc. - Cứt!
+Trương Chi im bặt. Chàng cũng không biết chàng dã bay tới bến sông từ khi nào
nữa. Hình ảnh Mỵ Nương biến mất đâu rồi, trước mặt chàng là sông nước trắng
xóa một màu, trời mây trắng xóa một màu.
Trương Chi chèo thuyền ra giữa tim sông. Chàng lại nói: - Cứt!
=>Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp là con người mang tâm thức thời hiện đại-tự
đối diện với nỗi cô đơn của mình.
*So sánh những bi kịch trong truyện cổ dân gian và truyện cổ hiện đại:
-Nếu như bi kịch của truyện cổ là bi kịch xuất phát từ sự không cân xứng giữa sắc
và tài thì trong truyện cổ hiện đại là bi kịch của con người không được sống với chính bản thân mình.
Dẫn chứng: Đối với Trương Chi, chàng “chỉ sợ khi chính bản thân chàng lâm vào
tình thế phải tự hạ nhục bản tính mình, thế là mất hết, không còn tiếng hát, không còn Trương Chi”.
-Trong truyện cổ, hình ảnh viên ngọc mà Trương Chi khi chết hóa thành là biểu
tượng cho tình yêu lí tưởng, tình yêu thủy chung đối với Mị Nương. Tình yêu của
Trương Chi trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thì hướng về cái tuyệt đối.
Cái tuyệt đối ở đây chính là sự chân thực, những đức tính cao đẹp trong cuộc sống.
Còn hình ảnh Mị Nương hiện lên trong con mắt của Trương Chi ở đây chỉ là một
con người rỗng tuếch và tẻ nhạt, tình yêu của nàng chỉ hướng về những thứ vật
chất tầm thường, hão huyền.
- Nếu như Trương Chi trong truyện cổ chết vì sự mâu thuẫn giữa lí tưởng và thực
tế trong tình yêu của Mị Nương thì Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp chết vì
chính sự quay lưng của con người đối với những giá trị đích thực. Cái chết của
Trương Chi khi chàng “từ trên thuyền bước xuống xoáy nước giữa sông” là cái
chết cho sự tự do, là sự giải thoát khỏi những thói phù phiếm, biểu trưng cho sự
thanh tẩy mọi tội lỗi của cuộc đời.
=>Qua đây có thể thấy, Nguyễn Huy Thiệp sáng tạo hình tượng nhân vật Trương
Chi của riêng mình bởi ông hiểu rằng không nên và không chỉ viết về những cái
"màu hồng" bởi một tác phẩm văn chương không thể vượt qua mọi sự băng hoại
của thời gian nếu tráng lên lớp men trữ tình quá dày, làm lu mờ hiện thực.
IV> Sự tiếp thu và sáng tạo trong toàn bộ tác phẩm
1>Sự tiếp thu trong toàn bộ tác phẩm
-Hầu hết tác phẩm đều có dấu vết của những câu chuyện huyền thoại, ca dao và tục
ngữ chứng tỏ hiểu biết của NHT về văn hóa dân gian là không ít. (Ví dụ như
Những ngọn gió Hua Tát, Con gái Thủy thần)
-Ông xây dựng nhân vật gần với tư duy hình mẫu:
Ví dụ xây dựng những nhân vật ngốc nghếch, mồ côi; xây dựng hình tượng phụ nữ
trong trẻo hồn hậu gần với khuôn mẫu của người xưa.
(Như nàng Bua trong “Những ngọn gió Hua Tát) - có cái đẹp rất riêng mà Hoàng
Ngọc Hiến đã gọi tên đích đáng: vẻ đẹp “thiên tính nữ”- vẻ đẹp đã tỏa “một ánh
sáng dịu dàng, huyền diệu trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp”).
-Tuy viết nhiều về cái xấu cái ác nhưng cảm hứng tích cực: Nhân đạo, bao dung luôn tồn tại.
-Sự tiếp thu xuất hiện nghệ thuật dân gian trong nội dung truyện khá thường xuyên
+Những bài đồng dao (Huyền thoại phố phường)
+Chuyện thơ (Thương nhớ đồng quê)
2>Sự sáng tạo trong toàn bộ tác phẩm
- Cái kết không có hậu cũng là 1 nét sáng tạo mới lạ trong kho tàng văn học dân gian.
- Nguyễn Huy Thiệp đã sáng tạo và bồi đắp cho nhân vật một thế giới quan phong
phú của nội tâm, ý nghĩ và cái nhìn riêng biệt. Trương Chi, Mỵ Nương không đơn
thuần là những nhân vật dân gian nữa, mà đã trở thành con người thân phận, đặc
biệt là Trương Chi. Tính thân phận là đặc trưng nổi bật khiến chàng mang một tư
tưởng, một tư duy, một nhận thức về bi kịch. Trương Chi chính thức trở thành con
người cá nhân với cả ánh sáng lẫn bóng tối tâm hồn.
Document Outline
- I/ Tìm hiểu chung về Nguyễn Huy Thiệp
- 1> Một số kiến thức cơ bản
- 4> Một số nhận định về tác giả Nguyễn Huy Thiệp
- II>Sự tiếp thu của Nguyễn Huy Thiệp trong văn học
- III> Sự sáng tạo trong những sáng tác của ông
- IV> Sự tiếp thu và sáng tạo trong toàn bộ tác phẩm