






Preview text:
Tìm hiểu về Triết học pháp quyền của Hegen 1. Tiểu sử của Hegen
Georg Wilhem Friedrich Hegen sinh ngày 27/8/1770 trong một gia đình viên
chức Nhà nước tại Stut gart, thuộc lãnh địa Württemberg, miền tây nam nước
Đức. Ông là anh cả trong gia đình có ba anh em.
Hegel được nuôi dưỡng trong một môi trường Tin Lành ngoan đạo. Mẹ ông
đã dạy tiếng Latin cho ông từ rất sớm.
Năm 1776, ông theo học trung học tại trường Stut gart.
Năm 1788, Hegel theo học tại trường dòng Tin Lành thuộc Đại học Tübinger.
Tại đây, ông kết bạn với nhà thơ Friedrich Hölderlin và triết gia trẻ sau này
Friedrich Wilhelm Joseph Schel ing. Cả ba đã có nhiều chia sẻ lẫn nhau và
chịu ảnh hưởng tư tưởng của nhau.
Từ 1793 – 1797, sau khi tốt nghiệp trường Tübinger, Hegel đi dạy tư tại Bern (Thụy Điển) và Frankurt.
Năm 1799, cha ông qua đời. Được thừa kế di sản từ người cha, ông từ bỏ việc dạy tư.
Năm 1801, Hegel đến Jena và làm việc với tư cách một giảng viên, sau đó
trở thành Giáo sư. Tại đây, ông đã hoàn thành một trong những tác phẩm
quan trọng nhất của ông – Hiện tượng học về tinh thần (“Phenomenology of Spirit” – 1807).
Năm 1806, Pháp chiếm đóng thành phố Jena. Tháng 03/1807, Hegel đến
Bamberg và làm Biên tập cho tờ báo Bamberger Zeitung.
Tháng 11/1808, Hegen làm Hiệu trưởng một trường dòng ở Nuremberg trong
tám năm (đến 1816). Tại đây, ông đã đưa tác phẩm Hiện tượng học về tinh
thần vào giảng dạy. Trong thời gian này, ông xuất bản tác phẩm chính yếu
thứ hai của ông: Khoa học về Logic (3 tập vào các năm 1812, 1813, 1816).
Năm 1811, ông kết hôn với Marie Helena Susanna von Tucher (1791–1855)
năm 1811 và có hai người con.
Năm 1816, Hegen đến Đại học Heidelberg. Ngay sau đó, năm 1817, ông cho
xuất bản Đại cương Bách khoa thư về khoa học triết học (The Encyclopedia
of the Philosophical Sciences in Outline) dưới hình thức tóm lược triết học
của ông để giảng dạy tại Heidelberg.
Năm 1818, Hegen đến dạy tại Đại học Berlin và đến đây làm Chủ tịch Triết
học (bỏ trống từ sau khi Fichte qua đời năm 1814). Năm 1821, ông cho xuất
bản tác phẩm Triết học pháp quyền (1821). Ông gắn bó ở đây và qua đời vào
ngày 14/11/1831 vì bệnh dịch tả.
Nhưng năm tháng cuối đời, Hegel tập trung giảng dạy về mỹ học, lịch sử triết
học, triết học tôn giáo, triết học lịch sử. Các ghi chú giảng bài của ông và các
ghi chú bổ sung của sinh viên được xuất bản sau khi ông qua đời: Mỹ học
(1835 – 1838), Nhữn bài giảng về lịch sử triết học (1833 – 1836), Những bài
giảng về triết học tôn giáo (1832), Nhữn bài giảng về triết học lịch sử (1837).
Ngoài ảnh hưởng mạnh mẽ tư tưởng Hy Lạp (Parmenides), Hegel còn đọc
các tác phẩm của triết gia Hà Lan Baruch Spinoza, văn hào Pháp Jean
Jacques Reussau và các triết gia Đức Immanuel Kant, Johan Got lieb Fichte,
Schel ing. Dù ông thường xuyên bất đồng với những triết gia này nhưng ảnh
hưởng của họ trong các tác phẩm của ông là rất rõ ràng.
2. Học thuyết của Hegen
Tác phẩm triết học của Hêghen - nhà tư tưởng lớn của Đức (Georg Wilhem
Friedrich Hegel; 1770 - 1831) trước C.Mác, trình bày về Nhà nước và pháp
luật với sự "diễn đạt nhất quán nhất, phong phú và đầy đủ nhất' (C.Mác).
Học thuyết của Hêghen hình thành ở thời đại được đánh dấu bằng những sự
kiện lịch sử lớn và nhiều màu sắc. Đó là cuộc cách mạng Pháp năm 1789 vĩ
đại được kết thúc bằng nền đế chính Bônapac (Napôlêông), sự phục hưng
của giòng họ Buốc bông ở Pháp, Liên minh thần thánh với những hoạt động
mang đậm bản chất phản động thể hiện ở việc đàn áp mọi phong trào cách
mạng ở châu Âu. Đây chính là những nhân tố quan trọng bậc nhất đã in dấu
ấn sâu sắc lên sự hình thành và phát triển của hệ tư tưởng của Hêghen.
Những điều kiện lịch sử xã hội đặc thù của nước Đức vốn chịu tác động, ảnh
hưởng của các sự kiện lịch sử của các nước châu Âu lúc bấy giờ với tình
trạng lạc hậu về mặt kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản Đức cũng đã trực
tiếp tác động đến sự hình thành, phát triển của hệ tư tưởng của Hêghen,
chứa đựng bên trong tính phức tạp và mâu thuẫn ở cấp độ thế giới quan. Hệ
thống các quan điểm chính trị - pháp lí của Hê ghen được trình bày một cách
thật đầy đủ trong tác phẩm "Triết học pháp quyền". Chống chế độ phong kiến,
Hêghen đề cao các khẩu hiệu tự do, nhân văn. Song ông lại kết hợp một
cách kì lạ chúng với các quan điểm bảo thủ và thoả hiệp với chế độ phong kiến quân chủ.
3. Sự ra đời của hệ thống tư tưởng và pháp luật của Hegen
Hệ thống tư tưởng về nhà nước và pháp luật của Hêghen ra đời dựa trên một
cơ sở triết học của chính ông - triết học biện chứng duy tâm khách quan. Để
hiểu được quan điểm về nhà nước, pháp luật của Hêghen, vì vậy, phải có sự
hiểu biết cần thiết hệ thống triết học của Ông.
Đương thời, C.Mác, F. Ăngghen, khi đề cập đến hệ thống triết học Hêghen có
chỉ rõ đó là triết học biện chứng duy tâm khách quan và có lưu ý rằng, cần
phân biệt hệ thống với phương pháp, rằng triết học duy tâm của Hêghen có
hạt nhân duy lí,là học thuyết về sự phát triển. Hêghen cho rằng, động lực cơ
bản của sự phát triển là cuộc đấu tranh diễn ra trong lòng sự vật giữa các mặt
đối lập vốn luôn luôn tổn tại ở từng sự vật, hiện tượng. Đồng thời, Mác,
Ăngghen cũng chỉ ra rằng, ở Hêghen có sự mâu thuẫn giữa hệ thống,
phương pháp và phép biện chứng của Hêghen mang tính chất duy tâm.
Heghen xây dựng hệ thống quan điểm triết học của mình về Nhà nước và
pháp luật xuất phát từ luận điểm về sự đồng nhất giữa cái thực tại và sự hợp
lí, Hêghen hoàn toàn phủ định nguyên tắc cơ bản của học thuyết pháp quyển
tự nhiên, đối lập pháp quyền tự nhiên với pháp luật thực định.
Pháp luật, theo Hêghen là "đời sống hiện thực của ý chí tự do được thực hiện
trong quá trình phát triển thông qua một loạt nấc thang theo hướng đi lên.
Nấc thang đầu tiên thể hiện ỏ sự chiếm hữu vật của cá nhân và trong mỗi
quan hệ với các cá nhân khác liên quan đến số hữu (khế ước) cũng như
quan các quan hệ pháp luật. Nấc thang này được êghen gọi là pháp luật trừu
tượng. Nội dung cơ bản của pháp luật trừu tượng là tổng thể các mối quan hệ
giữa các cá thể với tính cách là các chủ sở hữu”. "Pháp luật là mối quan hệ
của con người, bỏi lẽ họ là các nhân cách trừu tượng"'. Hêghen tuyên bố
"Hãy là nhân cach và tôn trọng người khác như các nhân cách", thể hiện một
ý nghĩa phản phong sâu sắc trước tình trạng nhân cách con người bị chà đạp
trong chế độ nông nô chuyên chế. Hêghen cũng chỉ rõ cốt lõi của pháp luật
trừu tượng là sở hữu. Và sở hữu ở đây chỉ có giá trị khi nó là tư hữu. Từ đó
có sự ngự trị hoàn toàn và không hạn chế của nhân cách đối với đồ vật.
4. Quan điểm của Hegen về sở hữu
Sở hữu được Hêghen coi chỉ là quan hệ của con người đối với đồ vật, nảy
sinh từ sự cần thiết của mỗi cá nhân đối với việc xác định tự do của mình với
thế giới bên ngoài. Nhờ có sở hữu, con người trở thành nhân cách "chỉ có
trong sở hữu cá nhân mới trỏ thành lí tính". Theo Hêghen, tự do tư hữu là
thành quả vĩ đại nhất của thời đại mới. Tự do này kéo theo đòi hỏi tự do hợp
đồng và các mối quan hệ hợp đồng giữa chủ sở hữu. Bảo vệ tính hợp lí của
tư hữu tư sản, Hêghen phê phán dự án "cộng sẳn chủ nghĩa' của Platôn. Ông
cũng không đồng ý với Ruxô về việc bác bỏ bất công tài sản. Đồng thời, Ông
đấu tranh chống các đặc quyền phong kiến. Hêghen cho rằng, các quyển đó
không phù hợp với khái niệm đúng về sở hữu, theo đó, chủ ruộng đất phải là
những người sở hữu canh tác chúng. Hêghen cũng không chấp nhận chế độ
nông nô và chế độ nô lệ, bởi lẽ chúng chà đạp lên nhân phẩm con người.
Nhưng Hêghen lại bảo vệ cái trật tự bất bình đẳng hiện hữu, tuyên bố rằng,
cá nhân chỉ có thể bình đẳng trong các quan hệ pháp luật và còn nhấn mạnh
sự bình đẳng về tài sản sẽ là không hợp Ií,là bất công, rằng những khác biệt
giữa các cá nhân sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng giữa họ với nhau. Xét một
cách khách quan, Hê ghen ủng hộ sự bóc lội, bác bỏ tư tưởng bình đẳng
giữa người và người bộc lộ rõ ràng lập trường chính trị của mình.
Từ quan niệm quyền sở hữu với tính cách là sự thống trị của cá nhân đối với
vật, Hêghen xem hợp đồng là sự thoả thuận của các cá nhân tự do có quyền
sở hữu và thừa nhận lẫn nhau. Hợp đồng thể hiện ý chí của các cá nhân
tham gia quan hệ hợp đồng thể hiện ý chí chung khi mà ý chí riêng có thái độ
phủ định ý chí chung thì đó là sự vi phạm pháp luật hoặc đó là sự phi sự thật
và tội phạm chính là một loại hình phi sự thật đó. Tội phạm là sự phủ nhận
pháp luật đòi hỏi sự khôi phục pháp luật bằng con đường phủ nhận cái phủ
nhận đó, tức là hình phạt. Hêghen xem hình phạt có mục đích tự thân và
không thừa nhận cái học thuyết xem hình phạt là phương tiện gây sự khiếp
sợ, rửa tội... Cũng vì vậy, ông bác bỏ quan điểm của Foiơbăc xem mục đích
của hình phạt là gây sự khiếp sợ. Theo Hêghen, quan niệm về gây sự khiếp
sợ xuất phát từ nhận thức không đúng xem con người là một thực thể không
tự do, trong trường hợp đó, hình phạt đối với con người giống như một chiếc
gậy vung lên trước mặt con vật. Ông nhấn mạnh không được đối xử với con
người như đối với con vật.
5. Quan điểm của Hegen về hình phạt
Hình phạt, theo Hêghen, là một sự bồi hoàn, một sự trả giá, nhưng Hêghen
phản đối việc biến sự trả giá đó thành một sự trả thù, việc làm vô nghĩa của
một cá nhân nào đó mà phải xem hình phạt là hậu quả không tránh khỏi của
chính tội phạm. Hình phạt là việc thực hiện cái đòi hỏi của lẽ phải, sự công
bằng. Hình thức tháo gỡ sự xâm phạm pháp luật này không có tính chất trả
thù mà là lẽ phải, sự công bằng trừng phạt. Đó không phải là sự biểu lộ ý chí
có tính riêng lễ mà là của một ý chí chung, phổ biến.
Theo quan điểm của Hêghen, chính người phạm tội phải tự đòi hỏi hình phạt,
từ đó, theo Hêghen hình phạt là quyền của người phạm tội, bởi vì đó là sự
biểu hiện ý chí của chính người đó phủ nhận quyển phủ định cái phủ định -
tức là sự khôi phục pháp luật bằng hình phạt. Không thể không thấy ở học
thuyết của Hêghen về hình phạt ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ về
phẩm giá của cá nhân con người.
Điều đó bộc lộ ở chỗ, Hêghen không muốn nhìn người phạm tội như chỉ là
một khách thể đơn thuần của quyển tư pháp mà nâng nó lên tầm của một
thực thể tự do tự điều chỉnh chính mình. Tuy nhiên, cũng lại phải thấy, như
nhận xét của C.Mác, bằng học thuyết về hình phạt của mình, Hêghen muốn
bào chữa cho chính sách trừng phạt của xã hội bóc lột và xét theo thực chất
cũng là sự thể hiện một cách tinh tế hơn quan niệm "trả giá” của pháp luật cổ đại.
6. Học thuyết của Hegen về đạo đức
Học thuyết của Hêghen về đạo đức đề cập đến những luận điểm thuộc phạm
trù quan trọng bậc nhất của pháp luật hình sự: lỗi và những hình thức của nó
cũng như sự phê phán đạo đức cá nhân chủ nghĩa. Hêghen nói đến mối quan
hệ giữa nhân cách và các hành động của con người, xem xét các vấn đề
thuộc ý muốn, mục đích và động cơ của hành vi cá nhân. Chỉ có tự do bên
ngoài là chưa đủ. Quan trọng là phải có tự do chủ thể, đạo đức cá nhân,
trong đó các hành vì của cá nhân không được chỉ đạo bởi uy tín hay pháp
luật mà xuất phát từ hình thức tư duy cá nhân và phù hợp với lương tâm con người.
Đạo đức tạo nên nội dung chủ quan của mọi hành vi. Vì nó là sự thống nhất
nội hàm và ngoại biên, chủ quan và khách quan trong các hành vi cá nhân
chủ thể. Việc phân biệt các khía cạnh trên đây và việc xem xét chúng một
cách biện chứng là điều rất cần để Hêghen chứng minh luận điểm về trách
nhiệm phải đánh giá con người chỉ theo hành vi của họ. Từ đó đi đến kết luận
quan trọng về quyền trừng phạt con người chỉ theo hành vì phạm pháp của
họ, trách nhiệm hình sự chỉ bắt đầu khi xuất hiện sự cố ý trong hành động
của cá nhân. Hêghen phê phán, đấu tranh chống lại các học thuyết phong
kiến về luật hình sự cho phép luận tội một người chỉ dựa trên tình tiết khách quan và lộng quyền.
Trong phần triết học pháp quyền liên quan đến xã hội dân sự, Hêghen đã có
một sự tiếp cận với quan điểm duy vật về lịch sử khi ông khẳng định 555 nhà
nước không phải là một cái gì mà là một sản phẩm của kinh tế. Hêghen đã
chỉ ra những mâu thuẫn của xã hội tư sản, nhưng không đưa ra được một sự
đánh giá đúng đắn mà còn cho rằng sự tồn tại của những mâu thuẫn đó là
hoàn toàn hợp lí,sự bất bình đẳng về tài sản là hoàn toàn tự nhiên và đưa
đến sự phân tầng xã hội, hậu quả của những đặc điểm về thể lực và tinh thần
khác nhau, thể hiện ở sự phân tầng về lợi ích và phân chia lao động khác
nhau của xã hội dân sự.
Nếu như gia đình là hạ tầng thứ nhất thì các đẳng cấp xã hội là hạ tầng thứ
hai của nhà nước và vì pháp luật được ban hành là nhằm tới cái phúc lợi
chung, cái phổ biến trong hệ thống phúc lợi chung có phúc lợi riêng (tức là cái
của tôi) là cái cũng rất quan trọng và rất cần được bảo vệ và việc bảo vệ cái
quyền của xã hội dân sự là do cảnh sát thực hiện và cùng với cảnh sát là các
tập đoàn thực hiện. Cảnh sát thực hiện nhiệm vụ duy trì trật tự bên ngoài còn
các tập đoàn - những liên minh xã hội, đặc thù chăm lo hoạt động và khả
năng lao động. Các tập đoàn bảo đảm sự an toàn cho mỗi thành viên của xã
hội dân sự quan tâm đến anh ta, tạo ra giá trị trong xã hội niểm vinh dự đẳng cấp.
Nhà nước đưa lại sự thống nhất bậc cao của tất cả các bộ phận nói trên
nhưng nhà nước không phải là kết quả mà là cơ sở của gia đình cũng như
của xã hội dân sự, nhà nước có trước các thành tố đó và là cơ sở của chúng
tương tự như cái toàn thể là cái có trước các bộ phận của nó. C.Mác trong
tác phẩm "Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen" đã chỉ ra sự bóp méo
hiện thực từ triết học duy tâm của Hêghen, vì ở Hêghen, gia đình và xã hội
dân sự được tạo`ra từ tư tưởng hiện thực. Trên thực tế những thực thể đó
chính là những nhân tố trong khi vận hành đã chuyển hoá thành nhà nước.
Hêghen kịch liệt chống lại thuyết pháp quyền tự nhiên về nhà nước và theo
ông, nhà nước hoàn toàn không phải là một thiết chế bảo hiểm và được dựng
lên hoàn toàn không phải để cung cấp một sự bảo vệ cái quyền tự do cá
nhân và sở hữu. Nhà nước không phải là phương tiện phục vụ lợi ích của các
cá nhân riêng lẻ. Nhà nước không phải là phương tiện. Theo Hêghen. hiểu
như thế là hạ thấp ý nghĩa hiện thực của nhà nước. Nhà nước không phục vụ
mà thống trị. Nhà nước không phải là phương tiện mà là mục đích tự thân,
mục đích cao nhất trong tất cả các mục đích. Nhà nước tổn tại là cuộc diễu
hành của thượng để ở thế gian..."
Đối với nhà nước Đức đương thời, Hêghen tỏ rõ sự đồng tình với chế độ
quân chủ và cho rằng chế độ nhà nước đó cần phải được duy trì, vì không
phải là điểu quan trọng khi quốc vương ngự trị trong chế độ đó là một vị vua
có sáng suốt hay không, vì sức mạnh của nhà nước đó là ở tính hợp lí của nó.
Học thuyết của Hêghen về nhà nước và pháp luật có ảnh hưởng lớn về sau
đối với sự phát triển của khoa học pháp lí nhìn từ phía các trưởng phái bảo
thủ ra sức khai thác, kế thừa, các quan điểm bảo thủ và có khi là phản động
của ông nhằm bào chữa cho chủ nghĩa phát xít ở Ý, ở Đức. Nhưng có điều
rất đặc trưng là những phần tử phát xít "chính thống' ở Đức đã gạt bỏ triết
học Hêghen vốn được xem là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa Mác.
Khi nói đến một loạt các luận điểm bảo thủ, phản động trong học thuyết của
Hêghen về nhà nước và pháp luật thì đồng thời không được quên rằng, cũng
như cả nền triết học cổ điển Đức, hệ thống triết học Hêghen, trong đó có triết
học pháp quyền, đóng vai trò lä một cống hiến có giá trị vào dị sản văn hoá của loài người.
Document Outline
- Tìm hiểu về Triết học pháp quyền của Hegen
- 1. Tiểu sử của Hegen
- 2. Học thuyết của Hegen
- 3. Sự ra đời của hệ thống tư tưởng và pháp luật củ
- 4. Quan điểm của Hegen về sở hữu
- 5. Quan điểm của Hegen về hình phạt
- 6. Học thuyết của Hegen về đạo đức