Văn học dân gian
1, Khái niệm n học dân gian:
-
Văn học dân gian những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ được hình thành phát
triển bởi nhiều tầng lớp nhân dân. Văn học dân gian được lưu truyền giữ gìn qua
nhiều thế hệ cho tới ngày này bằng hình thức truyền miệng.
-
Văn học dân gian được đúc kết từ chính sinh hoạt thường ngày kinh nghiệm sống
của tập thể nhân dân. Các tác phẩm văn học dân gian thể hiện nhận thức, tâm tư,
tình cảm của con người về đời sống lao động cũng như đời sống cộng đồng. Tác giả
của văn học dân gian trải rộng từ người nông dân lao động đến thành phần tri thức
với cùng chung mục đích phục vụ cho đời sống sinh hoạt sản xuất nhằm cải thiện
đời sống tinh thần.
=>
thể hiểu một cách thống nhất: Văn học dân gian một bộ phận của văn hóa
dân gian (folklore) đó những sáng tạo nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, phản ánh
sinh hoạt hội, thể hiện hiểu biết, kinh nghiệm, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của
nhân dân lao động qua các thời kỳ lịch sử. dụ: Truyền thuyết Thánh Gióng đã mở
đầu cho dòng văn học yêu ớc, chống xâm lược trong nền văn học dân tộc.
2, Những đặc trưng bản của văn học dân gian:
-
Văn học dân gian một phần quan trọng của văn học nghệ thuật, góp phần tạo nên
tính đa dạng phong phú của nền văn học Việt Nam. Dưới đây những đặc trưng
bản của văn học dân gian:
Tính truyền miệng:
Văn học dân gian được lưu truyền qua nhiều thế hệ bằng
hình thức truyền miệng. Các tác phẩm văn học dân gian thể hiện nhận thức, tâm tư,
nh cảm của con người về đời sống lao động cộng đồng.
dụ:
Truyện cổ ch Sự tích Hòn vọng Phu được kể Xứ Lạng ( Lạng Sơn ) cốt
truyện giống với truyện cổ tích Sự tích Hòn vọng Phu được kể Bình Định. Tuy nhiên
giữa hai câu chuyện vẫn những chi tiết khác biệt. Truyện Sự tích Hòn vọng Phu
Lạng Sơn kể: Người anh dùng dao chặt mía
,
không may dao văng vào đầu người em
gái. Lầm tưởng em gái đã chết, người anh bỏ làng ra đi. Sau bao năm lưu lạc, người
anh gặp em, không còn nhận ra em nên đã kết duyên cùng nàng. Khi phát hiện lấy
nhầm em gái, anh bỏ đi lính, không quay trở về. Người vợ bồng con lên núi chờ chồng
đến hoá đá. Còn Sự tích Hòn vọng Phu Bình Định lại kể: Người anh dùng đá ném
chim, không may trúng đầu người em gái. Sau khi phát hiện lấy nhầm em gái, anh bỏ
ra khơi, không quay trở về. Người vợ bồng con đứng bên bờ biển chờ chồng đến hóa
đá.
Tính tập thể:
Văn học dân gian không thuộc về nhân được nh thành
phát triển bởi nhiều tầng lớp nhân dân. Tác giả của văn học dân gian thể người
nông dân lao động hoặc thành phần tri thức, nhưng chung mục đích phục vụ cho
đời sống sinh hoạt sản xuất, cải thiện đời sống tinh thần.
dụ:
Bài ca dao Đường x Nghệ quanh quanh-Non xanh nước biếc như tranh họa
đồ khi lưu truyền xứ Huế đã được thay đổi thành Đường xứ Huế quanh quanh -
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ. Tính tập thể của văn học dân gian còn thể hiện
sự hiểu biết của cả cộng đồng về thế giới tự nhiên, hội; bày tỏ tâm tư, tình cảm,
ước mơ, khát vọng của người lao động về một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, bình an;
sự thể hiện thị hiếu thẩm mỹ, sức sáng tạo nghệ thuật phong phú, đa dạng, tinh tế
của quần chúng nhân dân. dụ: Các câu chuyện thần linh như: Thần Trụ Trời, Thần
Sấm, Thần Mưa, Thần Biển, Thần Lúa, Mười Hai mụ… chứa đựng một nhu cầu
nhận biết về thế giới.
Tính nguyên hợp:
Văn học dân gian một loại hình nghệ thuật nguyên hợp cả về
nội dung lẫn hình thức phản ánh. không chỉ một hiện tượng văn học còn
một hiện ợng văn hoá. Tính nguyên hợp biểu hiện việc hài hòa lẫn những hình
thức khác nhau của ý thức hội trong các thể loại của văn học dân gian. Văn học
dân gian tổng hợp một cách tự nhiên nhiều thành phần nghệ thuật, chức năng, ý
thức… trong một chỉnh thể nghệ thuật không thể chia cắt.
dụ:
Tục ngữ về lao động, sản xuất vừa thể hiện sự chiêm nghiệm mang tính triết
học về đời sống vừa cho thấy tính khoa học của kinh nghiệm được đúc rút từ thực
tiễn, đồng thời bộc lộ một quá trình lịch s của văn hóa nông nghiệp cũng như giá trị
sử dụng về mặt nông học. Mặt khác một tác phẩm văn học dân gian được trình bày
trong phương thức diễn xướng tổng hợp nhằm phát huy tác dụng của đối với đời
sống dụ đẻ đất đẻ nước của người Mường truyện thơ vượt biển của người tay
được sử dụng trong nghi lễ cúng người chết. Thầy mo vừa hát, vừa khấn, vừa nhảy
múa khi diễn xướng với quan niệm làm n vậy sẽ giúp linh hồn người chết được siêu
thoát về cõi trời một cách bình an.
Tính thực hành:
Tính thực hành của văn học dân gian thể hiện qua việc không
chỉ thuộc về nhân còn được hình thành phát triển bởi nhiều tầng lớp nhân
dân. Tác giả của văn học dân gian thể người nông dân lao động hoặc thành phần
tri thức, nhưng chung mục đích phục vụ cho đời sống sinh hoạt sản xuất, cải
thiện đời sống tinh thần.
-
Ca dao, tục ngữ hát ru:
Ca dao tục ngữ những tác phẩm văn học dân gian được truyền miệng qua nhiều
thế hệ. Chúng thường chứa đựng tri thức về cuộc sống, tập quán, truyền thống của
dân tộc.
dụ:
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” một tục ngữ thể hiện tôn vinh công lao lòng
hiếu thảo.
-
Trò chơi dân gian: Trò chơi dân gian như cờ tướng, bài cào, nhảy dây, đá bóng là
một phần của văn hóa n gian. Chúng không chỉ giúp giải trí còn truyền đạt giá
trị về tình đoàn kết, sự cống hiến, kỷ luật.
-
Lễ hội nghi lễ dân gian: Các lễ hội nghi lễ dân gian thường kết hợp âm nhạc,
điệu, câu chuyện truyền miệng.
dụ:
Lễ hội mùa xuân Tết Nguyên Đán với các trò chơi, bài hát, câu chuyện về
ông Địa.

Preview text:

Văn học dân gian
1, Khái niệm văn học dân gian:
- Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ được hình thành và phát
triển bởi nhiều tầng lớp nhân dân. Văn học dân gian được lưu truyền và giữ gìn qua
nhiều thế hệ cho tới ngày này bằng hình thức truyền miệng.
- Văn học dân gian được đúc kết từ chính sinh hoạt thường ngày và kinh nghiệm sống
của tập thể nhân dân. Các tác phẩm văn học dân gian thể hiện rõ nhận thức, tâm tư,
tình cảm của con người về đời sống lao động cũng như đời sống cộng đồng. Tác giả
của văn học dân gian trải rộng từ người nông dân lao động đến thành phần tri thức
với cùng chung mục đích phục vụ cho đời sống sinh hoạt và sản xuất nhằm cải thiện đời sống tinh thần.
=> Có thể hiểu một cách thống nhất: Văn học dân gian là một bộ phận của văn hóa
dân gian (folklore) đó là những sáng tạo nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, phản ánh
sinh hoạt xã hội, thể hiện hiểu biết, kinh nghiệm, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của
nhân dân lao động qua các thời kỳ lịch sử. Ví dụ: Truyền thuyết Thánh Gióng đã mở
đầu cho dòng văn học yêu nước, chống xâm lược trong nền văn học dân tộc.

2, Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian:
- Văn học dân gian là một phần quan trọng của văn học nghệ thuật, góp phần tạo nên
tính đa dạng và phong phú của nền văn học Việt Nam. Dưới đây là những đặc trưng
cơ bản của văn học dân gian:
Tính truyền miệng: Văn học dân gian được lưu truyền qua nhiều thế hệ bằng
hình thức truyền miệng. Các tác phẩm văn học dân gian thể hiện nhận thức, tâm tư,
và tình cảm của con người về đời sống lao động và cộng đồng.
Ví dụ: Truyện cổ tích Sự tích Hòn vọng Phu được kể ở Xứ Lạng ( Lạng Sơn ) có cốt
truyện giống với truyện cổ tích Sự tích Hòn vọng Phu được kể Bình Định. Tuy nhiên
giữa hai câu chuyện vẫn có những chi tiết khác biệt. Truyện Sự tích Hòn vọng Phu ở
Lạng Sơn kể: Người anh dùng dao chặt mía , không may dao văng vào đầu người em
gái. Lầm tưởng em gái đã chết, người anh bỏ làng ra đi. Sau bao năm lưu lạc, người
anh gặp em, không còn nhận ra em nên đã kết duyên cùng nàng. Khi phát hiện lấy
nhầm em gái, anh bỏ đi lính, không quay trở về. Người vợ bồng con lên núi chờ chồng
đến hoá đá. Còn Sự tích Hòn vọng Phu ở Bình Định lại kể: Người anh dùng đá ném
chim, không may trúng đầu người em gái. Sau khi phát hiện lấy nhầm em gái, anh bỏ
ra khơi, không quay trở về. Người vợ bồng con đứng bên bờ biển chờ chồng đến hóa đá.
Tính tập thể: Văn học dân gian không thuộc về cá nhân mà được hình thành và
phát triển bởi nhiều tầng lớp nhân dân. Tác giả của văn học dân gian có thể là người
nông dân lao động hoặc thành phần tri thức, nhưng chung mục đích là phục vụ cho
đời sống sinh hoạt và sản xuất, cải thiện đời sống tinh thần.
Ví dụ: Bài ca dao Đường vô xứ Nghệ quanh quanh-Non xanh nước biếc như tranh họa
đồ khi lưu truyền ở xứ Huế đã được thay đổi thành Đường vô xứ Huế quanh quanh -
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ. Tính tập thể của văn học dân gian còn thể hiện
ở sự hiểu biết của cả cộng đồng về thế giới tự nhiên, xã hội; bày tỏ tâm tư, tình cảm,
ước mơ, khát vọng của người lao động về một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, bình an;
sự thể hiện thị hiếu thẩm mỹ, sức sáng tạo nghệ thuật phong phú, đa dạng, tinh tế
của quần chúng nhân dân. Ví dụ: Các câu chuyện thần linh như: Thần Trụ Trời, Thần
Sấm, Thần Mưa, Thần Biển, Thần Lúa, Mười Hai bà mụ… chứa đựng một nhu cầu
nhận biết về thế giới.
Tính nguyên hợp: Văn học dân gian là một loại hình nghệ thuật nguyên hợp cả về
nội dung lẫn hình thức phản ánh. Nó không chỉ là một hiện tượng văn học mà còn là
một hiện tượng văn hoá. Tính nguyên hợp biểu hiện ở việc hài hòa lẫn những hình
thức khác nhau của ý thức xã hội trong các thể loại của văn học dân gian. Văn học
dân gian tổng hợp một cách tự nhiên nhiều thành phần nghệ thuật, chức năng, ý
thức… trong một chỉnh thể nghệ thuật không thể chia cắt.
Ví dụ: Tục ngữ về lao động, sản xuất vừa thể hiện sự chiêm nghiệm mang tính triết
học về đời sống vừa cho thấy tính khoa học của kinh nghiệm được đúc rút từ thực
tiễn, đồng thời bộc lộ một quá trình lịch sử của văn hóa nông nghiệp cũng như giá trị
sử dụng về mặt nông học. Mặt khác một tác phẩm văn học dân gian được trình bày
trong phương thức diễn xướng tổng hợp nhằm phát huy tác dụng của nó đối với đời
sống ví dụ mô đẻ đất đẻ nước của người Mường truyện thơ vượt biển của người tay
được sử dụng trong nghi lễ cúng người chết. Thầy mo vừa hát, vừa khấn, vừa nhảy
múa khi diễn xướng với quan niệm làm như vậy sẽ giúp linh hồn người chết được siêu
thoát về cõi trời một cách bình an.
Tính thực hành: Tính thực hành của văn học dân gian thể hiện qua việc nó không
chỉ thuộc về cá nhân mà còn được hình thành và phát triển bởi nhiều tầng lớp nhân
dân. Tác giả của văn học dân gian có thể là người nông dân lao động hoặc thành phần
tri thức, nhưng chung mục đích là phục vụ cho đời sống sinh hoạt và sản xuất, cải
thiện đời sống tinh thần.
- Ca dao, tục ngữ và hát ru:
Ca dao và tục ngữ là những tác phẩm văn học dân gian được truyền miệng qua nhiều
thế hệ. Chúng thường chứa đựng tri thức về cuộc sống, tập quán, và truyền thống của dân tộc.
Ví dụ: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là một tục ngữ thể hiện tôn vinh công lao và lòng hiếu thảo.
- Trò chơi dân gian: Trò chơi dân gian như cờ tướng, bài cào, nhảy dây, và đá bóng là
một phần của văn hóa dân gian. Chúng không chỉ giúp giải trí mà còn truyền đạt giá
trị về tình đoàn kết, sự cống hiến, và kỷ luật.
- Lễ hội và nghi lễ dân gian: Các lễ hội và nghi lễ dân gian thường kết hợp âm nhạc,
vũ điệu, và câu chuyện truyền miệng.
Ví dụ: Lễ hội mùa xuân Tết Nguyên Đán với các trò chơi, bài hát, và câu chuyện về ông Địa.
Document Outline

  • 1, Khái niệm văn học dân gian:
  • 2, Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian: