




Preview text:
lOMoAR cPSD| 22014077
Tính ưu việt của phát triển KTTT định hướng XHCN được thể hiện trên các nội dung sau:
Một là, mục đích của nền KTTT là nhằm phát triển lực lượng sản xuất, phát triển
kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống nhân dân.
Cùng với việc phát triển lực lượng sản xuất phải từng bước xây dựng quan hệ sản
xuất mới tiên tiến, hiện đại. Đây là điểm khác biệt cơ bản và thể hiện tính ưu việt
hơn so với nền KTTT tư bản chủ nghĩa. Kinh tế tư bản lấy lợi nhuận làm mục tiêu
tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo
văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Do vậy, đã tạo nên các cuộc
khủng hoảng kinh tế - tài chính, khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt
của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái...
Hai là, KTTT định hướng XHCN ở nước ta thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu, khác biệt căn bản với KTTT tư bản chủ nghĩa lấy tư hữu về tư liệu sản
xuất. Chính vì chế độ tư hữu ấy mà: “Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về
thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất
nhỏ, thậm chí chỉ 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất,
kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng
chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến
phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở
nhiều nước tư bản”3.
Ba là, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta thực hiện đa hình thức sở hữu (toàn
dân, tập thể, tư nhân, hỗn hợp), từ đó hình thành nhiều thành phần kinh tế: kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài… Trong
các thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Trái ngược lại, kinh tế tư
bản chủ nghĩa thì lấy kinh tế tư nhân là chủ đạo. Đây không chỉ là điểm khác biệt
căn bản với nền KTTT tư bản chủ nghĩa, mà còn phản ánh sự nhận thức mới của
Đảng về củng cố và phát triển kinh tế XHCN. Trên cơ sở tiếp tục phát triển hai thành
phần kinh tế (kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể) trước đây, còn khuyến khích các
thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân cùng phát triển nhằm hình thành nền
KTTT rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc cả chế độ công hữu và chế độ tư
hữu, cùng các hình thức liên doanh, liên kết sâu rộng ở cả trong và ngoài nước.
Bốn là, KTTT ở nước ta có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền theo định hướng
XHCN. Vai trò quản lý của Nhà nước XHCN là cực kỳ quan trọng, bảo đảm cho nền
kinh tế phát triển ổn định, đạt hiệu quả cao, đồng thời bảo đảm thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Không ai ngoài Nhà nước có thể
giảm bớt được sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa
các vùng, miền trong điều kiện phát triển nền KTTT. Theo đó, Nhà nước thực hiện
quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng
pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất, bảo lOMoAR cPSD| 22014077
đảm cho thị trường phát triển, tuân thủ các quy luật của KTTT. Đồng thời, Nhà nước
phải bảo đảm được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, hoàn thiện các công cụ
quản lý kinh tế vĩ mô, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong việc chấp hành các chế độ
chính sách, sử dụng các chương trình đầu tư tín dụng để tạo điều kiện và hướng dẫn
các ngành, các địa phương và các thành phần kinh tế cùng phát triển. Giải quyết quan
hệ giữa Nhà nước và thị trường trong xây dựng nền KTTT định hướng XHCN chưa
có tiền lệ trong lịch sử và là một quá trình mở, thể hiện sự sáng tạo và bản lĩnh trí
tuệ của Đảng, trên cơ sở nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy
luật khách quan của KTTT, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam.
Năm là, KTTT định hướng XHCN ở nước ta thực hiện nhiều hình thức phân phối,
trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; đồng thời
có sự kết hợp các hình thức phân phối khác (theo vốn, theo phúc lợi xã hội, theo tài
năng đóng góp...). Với nhiều hình thức phân phối khác nhau vừa khuyến khích người
lao động hăng hái đóng góp tài năng của mình cho phát triển kinh tế đất nước, vừa
có điều kiện trợ cấp cho các đối tượng yếu thế trong xã hội. Định hướng XHCN
trong phân phối không chỉ cung cấp cho người nghèo cái họ cần mà còn là tạo ra
nhiều cơ hội, khả năng để họ tham gia vào các hoạt động kinh tế nhằm tăng thu nhập,
nâng cao mức sống, khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự giúp đỡ của Nhà
nước và xã hội. Ngoài ra, còn được thể hiện ở việc thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng chính sách phát triển đối với các vùng, miền, lĩnh vực và bảo
đảm tăng trưởng kinh tế phải gắn với phát triển y tế, văn hóa, giáo dục và giải quyết
các vấn đề xã hội, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, phát triển con người một cách
toàn diện, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người vào phát triển đất nước.
Sáu là, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay khác với nền kinh tế khép
kín, kinh tế chỉ huy, tự cấp tự túc trước đây. Ngày nay, do tác động của xu thế toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
mang lại sự phụ thuộc giữa các quốc gia trong quá trình phát triển ngày càng nhiều
hơn. Do vậy, đòi hỏi mở cửa hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới là yêu cầu
khách quan. Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta phát triển theo hướng đa
phương hóa, đa dạng hóa các hoạt động kinh tế đối ngoại, gắn thị trường trong nước
với thị trường khu vực và thế giới, thực hiện những cam kết và thông lệ quốc tế,
đồng thời giữ vững độc lập chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ đối ngoại.
-----------------------------------
Vận dụng lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác với thị trường sức lao
động ở Việt Nam hiện nay
Trước thời kì đổi mới, nước ta xây dựng nền kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập
trung, theo đó không chấp nhận kinh tế thị trường, thị trường lao động và xóa bỏ lOMoAR cPSD| 22014077
quan hệ sản xuất hàng hóa – tiền tệ. Thị trường lao động công khai chỉ xuất hiện
trong khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Việc sử dụng lao động mang nặng
tính kế hoạch hóa tập trung. Lao động không được coi là hàng hóa đặc biệt và không
được “mua bán” trên thị trường. Tuy nhiên, sau năm 1986, chủ trương xây dựng nền
kinh tế hàng hóa thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi căn bản vị
trí của hàng hóa sức lao động trong nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên quá trình nhận
thức và vận dụng ly luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác vẫn còn những giới
hạn nhất định, chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chỉ nghĩa trong tiến trình toàn cầu hóa kinh tế. Cụ thể như: giá trị sử dụng của
hàng hóa còn thấp làm giảm sự cạnh tranh của nước ta trên thị trường thế giới, giá
trị của hàng hóa sức lao động chưa bao hàm hết những yếu tố đáp ứng cho yêu cầu
tái sản xuất mở rộng sức lao động cho một bộ phận lớn những người làm công ăn
lương, hệ thống thông tin lao động việc làm chưa được quản lý chặt chẽ, hệ thống
giáo dục – đào tạo chưa đáp ứng được việc nâng cao tay nghề và chất lượng lao động
cho sự nghiêp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước trong thời buổi kinh tế tri
thức đang phát triển lớn mạnh.
Nhìn nhận về lý luận sức lao động của C. Mác, vận dụng vào thị trường sức lao động
Việt Nam là một vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta hiện
nya. Từ đó, đưa ra một số gải pháp cho thị trường lao động trong nước. Thứ nhất:
Vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động phải phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế và xu thế phát triển chung của nền kihn tế tri thức. Điều này đòi hởi hệ thống
giáo dục cần xây dựng và phát triển nhiều hơn nữa cả về chất lượng và số lượng,
nhất là về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật, về phẩm chất đạo đức, năng lực
thì mới có thể tiếp cận, hướng dẫn người lao động tiếp cận với nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế.
Thứ hai: Vận dụng lý luận một cách phù hợp vào thực tế điều kiện, hoàn cảnh Việt
Nam. Với lợi ích của người sử dụng lao động và người lao động cần phải hài hòa,
cân đối. Tránh việc làm phát sinh, gây mâu thuẫn gay gắt mà phải tạo mối quan hệ
gần gũi, thân thiết, thống nhất giữa người lao động và người đi thuê lao động. Thứ
ba: Vận dụng lý luận về hàng hóa sức lao động phải gắn liền với việc hình thành đội
ngũ lao động có trình độ và cơ cấu hợp lý, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Phải xây dựng và phát triển nguồn nhân lực mới đáp ứng được nhu
cầu của thực tiễn. Phải biết nắm bắt sử dụng có hiệu quả những phương tiện kỹ thuật
hiện đại. Đi đôi với việc đào tạo tay nghề cần quan tâm tới giáo dục phẩm chất cho
người lao động, rèn luyện ý thức trách nhiệm, kỷ luật, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa
xã hội, trung thành với mục tiêu, lú tưởng mà Đảng và Nhà nước đề ra. lOMoAR cPSD| 22014077
Thứ tư: Thúc đẩy sự giao dịch trên thị trường lao động băng các hình thức như phát
triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm, tăng cường quản lý Nhà nước, củng cố
và nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, phát
triển hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động, hoàn thiện hệ thống pháp luật
về thị trường lao động, hoàn thiện bộ máy quản lý và vận hành có hiệu quả thị trường lao động,…
Thứ năm: Bên cạnh việc nâng cao chất lượng lao động, đồng thời phải có chế độ tiền
lương hợp lý, đảm bảo cho việc người lao động có thể đảm bảo cuộc sống sinh hoạt
hàng ngày, đáp ứng việc sản xuất va tái sản xuất sức lao động. Phục vụ cho công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đấy nước.
Tóm lại, sự tồn tại và phát triển của hàng hóa sức lao động và thị trường lao động là
một tất yếu khách quan. Việc thừa nhận sức lao động trở thành hàng hóa giúp kích
thích người lao động và người sử dụng lao động có những đóng góp tích cực hơn
vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
3. Đề xuất các giải pháp.
3.1. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nghề cho người lao động.
Hiện tại, các chương trình đào tạo, học nghề của nước ta đa phần vẫn đang tập
trung nhiều vào các ngành, nghề cũ. Với các ngành phi nông nghiệp, đặc biệt là
công nghiệp và dịch vụ hiện đại vẫn có nhưng chưa nhiều. Để khắc phục cần
thường xuyên kiểm tra, tiến hành đánh giá thị trường xem nhu cầu đang cần gì và
có kế hoạch đào tạo đúng để đáp ứng nhu cầu đó. Giữa các bộ,ngành như Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn nên có sự phối hợp chặt trẽ, trao đổi thông tin dưới sự chỉ đạo
xuyên suốt của Chính phủ.Trong quá trình đào tạo, cần hướng nhân lực gần hơn
với các tiến bộ về khoa học kĩ thuật, học tập những cái mới giúp nâng cao năng suất lao động.
3.2. Nguồn thông tin mở, kết nối lao động với thị trường
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Tổng cục Việc làm với nhiều nỗ lực nghiên
cứu, báo cáo thông tin thị trường, cập nhật vào các quý. Tuy nhiên, những số liệu
liên quan đến cung – cầu trong thị trường lao động các ngành, nghề vẫn còn nhiều
thiếu sót, chỉ là những số liệu cơ bản.Với các ngành nghề phi nông nghiệp, cần tập
trung đào tạo nhân lực theo từng vị trí. Các trường, trung tâm dạy, đào tạo nghềnên
liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, tạo mối liên hệ cung – cầu chặt
chẽ, gắn tuyển sinh với tuyển dụng.
3.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn gắn với tạo việc làm lOMoAR cPSD| 22014077
Quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước cần đi liền với những chính
sách chuyển dịch cơ cấu lao động tại nông thôn để đáp ứng được những nhu cầu
phát sinh. Quá trình này kéo theonhững thay đổi trong mục đích sử dụng đất nông
nghiệp khiến người nông dân dễ rơi vào cảnh thất nghiệp, đói nghèo do chưa được
chuẩn bị cho việc chuyển đổi nghề nghiệp. Nhà nước có đưa ra những chính sách
đền bù khi tiến hành thu hồi đất, những hỗ trợ trong việc đào tạo nghề mới nhưng
chưa thực sự đạt hiệu quả tuyệt đối.Việc cần làm lúc này, trước hết là giải thích,
nhấn mạnh những cơ hội, sau đó mới là những hỗ trợ. Những chiến lược trong việc
làm cần lồng ghép đào tạo với việc làm, lập nghiệp đi cùng những điều kiện, gói hỗ
trợ ban đầu. Nhiều nước trên thế giới cũng tiến hành khuyến khích việc làm tại các
vùng nông thôn qua những dựán, những chương trình của chính phủ hoặc các
doanh nghiệp, nhà tài trợ. Để đạt được hiệu quả tốt nhất, những hoạt động trên cần
có cầu nối và sự quản lí chặt chẽ từ trên xuống dưới, từ cao xuống thấp. Nhà nước
cũng cần quan tâm và điều phối thực hiện thường xuyên.
3.4. Quản lí, quan tâm đến những lao động di cư.
Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế cũng tác động đến việc di cư laođộng. Người lao
động từ nông thôn ra thành thị là việc tất yếu và cần thiết cho tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, di cư quá nhiều mà không có sự điều phối sẽ gây nên sức nặng lên
thành thị, khó kiểm soát các mặt như việc làm, an ninh, y tế… Do đó, nhà nước cần
có sự điều chỉnh hợp lý, kết hợp với chính quyền từng địa phương để người lao
động từ nơi khác sớm hòa nhập với người dân địa phương, chỗ ở hợp lý, được tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, an sinh xã hội, … Thông tin cần
đượcthông báo rộng rãi, minh bạch, có những hỗ trợ, tạo thuận lợi cho người lao
động di cư biết, tham gia và được hưởng đầy đủ.
Bài học rút ra cho bản thân.
Bản thân đang là một sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường, em hiểu được rằng
trong thực tế vẫn còn rất nhiều những anh chị sinh viên sau khi tốt nghiệp thì lại rơi
vào tình trạng thất nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu là ở chính bản thân người sinh
viên còn lơ làkiến thức, thiếu các kĩ năng mềm, chưa chủ động học tập thêm khi
còn đang trong quá trình thực tập,… Từ những điều trên, em hiểu rằng bản thân
phải có trách nhiệm với chính mình, cố gắng học tập, trang bị thêm những kĩ năng
mềm, tiếp thu thêm những điều mà trường không dạy từ môi trường thực tế để có
đủ những yêu cầu mà nhà tuyển dụng cần, chủ động tìm kiếm cơ hội để tránh tình
trạng thất nghiệp làm gánh nặng cho gia đình, sớm được cống hiến cho xã hội và
đất nước ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn nữa.