Tổ chức hiệp ước Vacsava mang nh chất?
1. Tổ chức hiệp ước Vacsava mang tính chất
NATO ra đời năm 1949 đã buộc Liên nghĩ đến việc thành một liên minh
quân sự riêng. nguyên nhân chính cho sự ra đời của Tổ chức Hiệp ước
Warszawa việc các nước phương Tây Hiệp định Paris vào năm 1954.
Trong suốt nửa sau thế kỷ XX, T chức Hiệp ước Warszawa vấn đề gây
đau đầu không dứt đối với các tướng lĩnh Liên minh quân sự Bắc Đại y
Dương (NATO). Không thể hình dung kỷ nguyên Chiến tranh lạnh không
sự đối đầu giữa hai liên minh quân sự-chính trị mạnh nhất thế giới này. Ít
ai biết rằng, Tổ chức Hiệp ước Warszawa, được n “thành trì hòa bình”
“lá chắn của ch nghĩa hội”, ra đời muộn hơn nhiều so với đối thủ
phương Tây của mình. Tháng 5/1955, Liên các nước Đông Âu (Anbani,
Ba Lan, Hunggari, Bungari, Cộng hòa Dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Rumani) đã
thành lập Hiệp ước Vacsava.
Tổ chức hiệp ước Vácsava (thành lập tháng 5 1955) một liên minh
chính trị - quân sự mang tính chất phòng thủ của các nước xã hội chủ
nghĩa. khối quân sự gồm 7 nước theo chế độ hội chủ nghĩa Trung
Đông Âu, gồm Liên Xô, Ba Lan, Bulgaria, Đông Đức, Hungary, Romania
Tiệp Khắc. Việc thành lập Tổ Chức Hiệp Ước Vácsava được coi đ bảo
đảm hòa bình an ninh các nước cộng sản chủ nghĩa thành viên, nhưng
các biến cố lịch sử cho thấy mục đích chính của khối này cũng để củng cố
chủ nghĩa cộng sản Đông Âu. Khối Vacsava được thành lập như một đối
trọng của các nước hội Chủ nghĩa đối với NATO trong giai đoạn đầu của
Chiến tranh Lạnh, với mục đích ban đầu thành lập 1 hiệp ước phòng vệ tập
thể trước nguy các quốc gia trong khối Vácsava bị NATO tấn công. Tổ
chức Hiệp ước Vacsava mang tính chất một liên minh chính trị - quân s
mang tính chất phòng thủ của các nước hội chủ nghĩa châu Âu, bảo
vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội duy trì hòa bình của châu
Âu, thế giới, tạo thế cân bằng về quân s giữa các nước XHCN đế
quốc vào đầu những năm 1970. Trước những hành động của (thực hiện
kế hoạch Mácsan để lôi kéo các nước Tây Âu vào liên minh quân sự chống
Liên các nước Đông Âu thành lập T chức Hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương), Liên các nước Đông Âu đã thành lập T chức Hiệp ước
Vácsava, đây là một liên minh chính trị, quân sự mang tính chất phòng thủ
của c nước hội chủ nghĩa châu Âu, giúp duy trì hòa bình châu Âu
làm đối trong với NATO.
2. Mục đích hoạt động của Hiệp ước Vacsava
liên minh phòng thủ về quân sự, chính trị của các nước hội ch nghĩa
Châu Âu.
Bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội duy trì hòa bình của Châu
Âu, thế giới.
Tạo thế cân bằng về quân sự giữa các nước hội chủ nghĩa đế quốc
vào đầu những năm 1970.
Sau những biến động chính trị lớn Đông Âu, những người đứng đầu 2
nước Liên Mỹ thỏa thuận chấm dứt chiến tranh lạnh (1989), ngày 1-7-
1991, tổ chức này ngừng hoạt động.
3. Quan hệ hợp c giữa các nước xã hội chủ nghĩa Châu Âu:
* Quan hệ kinh tế, khoa học kỹ thuật :Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV
thành lập ngày 08.01.1949):
Các nước Đông Âu đã hoàn thành Cách mạng dân chủ nhân dân bước
vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa hội.
Hội Đồng Tương Trợ Kinh tế (SEV) thành lập ngày 8-1-1949 gồm Liên Xô,
Ba Lan, Tiệp Khắc, Anbani, Bung ga ri, Hungari, Rumani sau thêm
Cộng hòa Dân chủ Đức, Mông Cổ, Cuba Việt Nam.
* Mục đích: Tăng cường sự hợp tác giữa các nước hội chủ nghĩa.
Thúc đẩy sự tiến bộ về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật
Thu hẹp dần về trình độ phát triển kinh tế.
Thành tựu: đã thúc đẩy các nước hội chủ nghĩa phát triển kinh tế kỹ
thuật, tạo ra sở vật chất kỹ thuật để đẩy mạnh việc việc xây dựng chủ
nghĩa hội, nâng cao đời sống nhân dân.
* Tác động:
Tốc độ tăng trưởng trong sản xuất công nghiệp 10%/ năm.
GDP tăng 5,7 lần.
Liên giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của khối này, viện trợ không
hoàn lại cho các nước thành viên 20 tỷ Rúp.
* Thiếu sót, hạn chế
Không hòa nhập vào nền kinh tế thế giới.
Chưa áp dụng tiến bộ của khoa học công nghệ.
Do chế quan liêu bao cấp.
* Ý nghĩa:
Các nước hội chủ nghĩa điều kiện giúp đỡ lẫn nhau để đẩy mạnh công
cuộc y dựng chủ nghĩa hội.
Nâng cao đời sống nhân dân.
Ngày 28-8-1991 ngừng hoạt động.
4. Liên minh các nước hội chủ nghĩa
Các nhà lãnh đạo Liên Xô, cũng như các nước hội chủ nghĩa Đông Âu
Trung Âu chịu tầm ảnh hưởng của Liên Xô, đã thái đ khá bình tĩnh
trước việc các cường quốc phương Tây thành lập NATO vào năm 1949. Lúc
đó, khối phía Đông cho rằng, các thỏa thuận phòng thủ song phương Liên
đã với những đồng minh mới của mình, cũng như sự hiện diện quân
đội viết trên nh thổ của họ, hoàn toàn đủ đ đảm bảo an ninh cho khối.
Ngoài ra, do chịu tổn thất nặng nề trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nên Liên
khi đó không đ tiềm lực kinh tế phương tiện kỹ thuật để thành lập một
tổ chức cho riêng mình tương tự như NATO. Tuy nhiên, về sau tình hình kinh
tế Liên bắt đầu được cải thiện. Bằng nỗ lực của hàng trăm cố vấn quân
sự Liên Xô, các lực lượng trang Đông Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary
Romania đã được tổ chức lại theo hình của Liên Xô, trong khi nhiều
quan của những nước này được đào tạo tại các trường quân sự quân
chính viết. Ngay trong năm 1951, Tham mưu trưởng Tập đoàn quân Liên
tại Đức, Đại tướng Sergey Shtemenko trong một cuộc họp sự tham dự
của nhà lãnh đạo Joseph Stalin, đã nêu ra ý tưởng thành lập “Liên minh quân
sự của các nước hội chủ nghĩa anh em”. Tuy nhiên, sau khi Stalin qua đời
thì mới xuất hiện Tổ chức Hiệp ước Warszawa. Nguyên nhân chính cho sự ra
đời của Tổ chức Hiệp ước Warszawa xuất phát từ việc các đồng minh
phương Tây kết Hiệp định Paris vào năm 1954. Theo đó, Cộng hòa Liên
bang Đức (Tây Đức) gia nhập Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương, đồng
thời Liên minh Tây Âu (Tổ chức chính trị-quân sự của các nước châu Âu)
cũng đã được thành lập. Việc tăng cường vị thế nhanh chóng như vậy của
đối thủ tiềm tàng Trung Âu cuối cùng đã dẫn đến việc, ngày 14-5-1955 tại
Warszawa, Liên Xô, Bulgaria, Hungary, Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức),
Ba Lan, Romania, Albania Tiệp Khắc đã kết Hiệp ước Hữu nghị, Hợp
tác Tương trợ, nhằm chính thức hóa việc thành lập một liên minh quân sự
- chính trị của các nước hội chủ nghĩa.
5. Dưới sự lãnh đạo của Moscow
Các bên cam kết tương trợ cho nhau trong trường hợp bị đe dọa quân sự,
thành lập Bộ chỉ huy chung các lực lượng trang của những nước này.
Theo thỏa thuận giữa các bên, các lực lượng trang sẽ được giao cho B
chỉ huy chung triển khai “các biện pháp đã thống nhất khác cần thiết cho
việc tăng cường khả năng phòng thủ, nhằm mục đích bảo vệ lao động hòa
bình của nhân dân đất nước họ, bảo đảm sự bất khả xâm phạm biên giới
lãnh thổ của họ, cũng như bảo vệ trước sự xâm lược nào thể xảy ra”. Mặc
trong Hiệp ước tuyên bố về sự bình đẳng của các bên tham gia, nhưng
Liên vẫn luôn đóng vai t chủ chốt từ những ngày đầu thành lập cho đến
khi giải thể Tổ chức này. Ngay từ đầu, Moscow nơi phê chuẩn các dự thảo
văn kiện quan trọng nhất do Ủy ban Hiệp thương Chính trị (Cơ quan tối cao
của T chức Hiệp ước Warszawa) xem xét. Các cuộc họp của Ủy ban này
luôn sự tham dự của người đứng đầu Chính phủ các nước đồng minh.
Tổng tư lệnh Lực lượng trang chung của các nước thành viên Hiệp ước
Warszawa, cũng n Tham mưu trưởng luôn các tướng lĩnh của Liên Xô.
Thông thường, đại diện quân đội các nước khác trong khối chỉ nắm giữ các
chức vụ Phó Tổng lệnh Phó tham mưu trưởng. Trong khi Hoa Kỳ tính
toán cặn kẽ phân chia nghĩa vụ tài chính cho việc duy trì hoạt động của
NATO lên tất cả c nước thành viên, thì Liên đã mạnh dạn gánh vác gần
như toàn bộ chi phí lên vai mình. Theo đó, nếu phần đóng góp tài chính của
Liên cho hoạt động của Bộ chỉ huy chung B tham mưu chiếm 45%, thì
mức chi phí đóng góp của nước này nhằm duy t Lực lượng trang chung
sở hạ tầng của Liên minh hơn 90%.
6. Chống phản cách mạng
Liên minh quân sự - chính trị khối phía Đông được Ban lãnh đạo Liên Xô xem
như đối trọng hiệu quả với Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương. Tổng
thư Đảng Cộng sản Liên Xô khi đó Nikita Khrushchev đã gọi Hiệp ước
Warszawa “nhân tố quan trọng giúp ổn định tại châu Âu”. Bên cạnh việc Tổ
chức Hiệp ước Warszawa đối với Moscow công cụ của chính ch đối
ngoại, thì còn phương tiện quan trọng nhằm giải quyết tình trạng khủng
hoảng xảy ra trong phe các nước hội ch nghĩa. Trong cuộc nổi dậy
Hungary năm 1956, quân đội Liên đã tiến vào nước này, như tuyên bố
trong quân lệnh của Tổng lệnh Lực lượng trang chung, Nguyên soái
Ivan Konev, nhằm mục đích “hỗ trợ nhân dân Hungary anh em trong việc
bảo vệ thành quả hội chủ nghĩa, đập tan thế lực phản cách mạng loại
bỏ nguy phục hưng chủ nghĩa phát xít”. ý kiến khẳng định rằng, quân
đội Liên đã hành động phù hợp với đề nghị của Chính phủ Cộng hòa
Nhân dân Hungary trên sở Hiệp ước Warszawa đã được kết giữa c
nước thuộc phe hội chủ nghĩa”. Nếu tại Budapest, Liên chủ yếu tự xoay
xở bằng lực lượng của mình với sự ủng hộ của Quân đội nhân dân Hungary
các quan tình báo của nước này, thì đến sự kiện “Mùa xuân Praha năm
1968”, Liên đã lôi o toàn diện các đồng minh của mình vào để chống lại
các thế lực phản cách mạng. Ngoài các đơn vị quân sự Liên Xô, tiến vào Tiệp
Khắc khi đó còn quân đội Ba Lan, Bulgaria, Hungary Cộng hòa Dân chủ
Đức. Năm 1985, Hiệp ước Warszawa hết hạn. Ngày 26/4 năm đó, các bên đã
lặng lẽ gia hạn Hiệp ước này thêm 20 năm, không hề biết rằng, thực tế
sau đó chỉ còn tồn tại thêm chừng 5 năm. Sau khi Liên hệ thống
hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, cũng như hai miền nước Đức thống nhất, thì
Liên minh quân sự phía Đông này đã không còn ý nghĩa để tiếp tục tồn tại.
Ngày 1/7/1991 tại Praha, c đại diện Liên Xô, Bulgaria, Hungary, Ba Lan,
Romania Tiệp Khắc đã kết Biên bản chấm dứt hoàn toàn hiệu lực của
Hiệp ước Warszawa. rồi trong vòng 20 năm tiếp theo, tất cả những nước
đồng minh của Moscow đã lần lượt gia nhập Liên minh quân sự Bắc Đại
Tây Dương (NATO).

Preview text:

Tổ chức hiệp ước Vacsava mang tính chất?
1. Tổ chức hiệp ước Vacsava mang tính chất
NATO ra đời năm 1949 đã buộc Liên Xô nghĩ đến việc thành một liên minh
quân sự riêng. Và nguyên nhân chính cho sự ra đời của Tổ chức Hiệp ước
Warszawa là việc các nước phương Tây ký Hiệp định Paris vào năm 1954.
Trong suốt nửa sau thế kỷ XX, Tổ chức Hiệp ước Warszawa là vấn đề gây
đau đầu không dứt đối với các tướng lĩnh Liên minh quân sự Bắc Đại Tây
Dương (NATO). Không thể hình dung kỷ nguyên Chiến tranh lạnh mà không
có sự đối đầu giữa hai liên minh quân sự-chính trị mạnh nhất thế giới này. Ít
ai biết rằng, Tổ chức Hiệp ước Warszawa, được ví như “thành trì hòa bình”
và “lá chắn của chủ nghĩa xã hội”, ra đời muộn hơn nhiều so với đối thủ
phương Tây của mình. Tháng 5/1955, Liên Xô và các nước Đông Âu (Anbani,
Ba Lan, Hunggari, Bungari, Cộng hòa Dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Rumani) đã
thành lập Hiệp ước Vacsava.
Tổ chức hiệp ước Vácsava (thành lập tháng 5 – 1955) là một liên minh
chính trị - quân sự mang tính chất phòng thủ của các nước xã hội chủ
nghĩa.
Là khối quân sự gồm 7 nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa ở Trung và
Đông Âu, gồm Liên Xô, Ba Lan, Bulgaria, Đông Đức, Hungary, Romania và
Tiệp Khắc. Việc thành lập Tổ Chức Hiệp Ước Vácsava được coi là để bảo
đảm hòa bình và an ninh ở các nước cộng sản chủ nghĩa thành viên, nhưng
các biến cố lịch sử cho thấy mục đích chính của khối này cũng là để củng cố
chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu. Khối Vacsava được thành lập như là một đối
trọng của các nước Xã hội Chủ nghĩa đối với NATO trong giai đoạn đầu của
Chiến tranh Lạnh, với mục đích ban đầu là thành lập 1 hiệp ước phòng vệ tập
thể trước nguy cơ các quốc gia trong khối Vácsava bị NATO tấn công. Tổ
chức Hiệp ước Vacsava mang tính chất một liên minh chính trị - quân sự
mang tính chất phòng thủ của các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu, bảo
vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và duy trì hòa bình của châu
Âu, thế giới, tạo thế cân bằng về quân sự giữa các nước XHCN và đế
quốc vào đầu những năm 1970.
Trước những hành động của Mĩ (thực hiện
kế hoạch Mácsan để lôi kéo các nước Tây Âu vào liên minh quân sự chống
Liên Xô và các nước Đông Âu và thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương), Liên Xô và các nước Đông Âu đã thành lập Tổ chức Hiệp ước
Vácsava, đây là một liên minh chính trị, quân sự mang tính chất phòng thủ
của các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu, giúp duy trì hòa bình ở châu Âu và làm đối trong với NATO.
2. Mục đích hoạt động của Hiệp ước Vacsava
Là liên minh phòng thủ về quân sự, chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa Châu Âu. 
Bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và duy trì hòa bình của Châu Âu, thế giới. 
Tạo thế cân bằng về quân sự giữa các nước xã hội chủ nghĩa và đế quốc vào đầu những năm 1970. 
Sau những biến động chính trị lớn ở Đông Âu, những người đứng đầu 2
nước Liên Xô và Mỹ thỏa thuận chấm dứt chiến tranh lạnh (1989), ngày 1-7-
1991, tổ chức này ngừng hoạt động.
3. Quan hệ hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa ở Châu Âu:
* Quan hệ kinh tế, khoa học – kỹ thuật :Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV
thành lập ngày 08.01.1949):

Các nước Đông Âu đã hoàn thành Cách mạng dân chủ nhân dân và bước
vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. 
Hội Đồng Tương Trợ Kinh tế (SEV) thành lập ngày 8-1-1949 gồm Liên Xô,
Ba Lan, Tiệp Khắc, Anbani, Bung ga ri, Hungari, Rumani sau thêm
Cộng hòa Dân chủ Đức, Mông Cổ, Cuba và Việt Nam.
* Mục đích: Tăng cường sự hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa.
Thúc đẩy sự tiến bộ về kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật … 
Thu hẹp dần về trình độ phát triển kinh tế. 
Thành tựu: đã thúc đẩy các nước xã hội chủ nghĩa phát triển kinh tế và kỹ
thuật, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật để đẩy mạnh việc việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. * Tác động:
Tốc độ tăng trưởng trong sản xuất công nghiệp 10%/ năm.  GDP tăng 5,7 lần. 
Liên Xô giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của khối này, viện trợ không
hoàn lại cho các nước thành viên 20 tỷ Rúp.
* Thiếu sót, hạn chế
Không hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. 
Chưa áp dụng tiến bộ của khoa học và công nghệ. 
Do cơ chế quan liêu và bao cấp. * Ý nghĩa:
Các nước xã hội chủ nghĩa có điều kiện giúp đỡ lẫn nhau để đẩy mạnh công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. 
Nâng cao đời sống nhân dân. 
Ngày 28-8-1991 ngừng hoạt động.
4. Liên minh các nước xã hội chủ nghĩa
Các nhà lãnh đạo Liên Xô, cũng như các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
và Trung Âu chịu tầm ảnh hưởng của Liên Xô, đã có thái độ khá bình tĩnh
trước việc các cường quốc phương Tây thành lập NATO vào năm 1949. Lúc
đó, khối phía Đông cho rằng, các thỏa thuận phòng thủ song phương mà Liên
Xô đã ký với những đồng minh mới của mình, cũng như sự hiện diện quân
đội Xô viết trên lãnh thổ của họ, là hoàn toàn đủ để đảm bảo an ninh cho khối.
Ngoài ra, do chịu tổn thất nặng nề trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nên Liên
Xô khi đó không đủ tiềm lực kinh tế và phương tiện kỹ thuật để thành lập một
tổ chức cho riêng mình tương tự như NATO. Tuy nhiên, về sau tình hình kinh
tế ở Liên Xô bắt đầu được cải thiện. Bằng nỗ lực của hàng trăm cố vấn quân
sự Liên Xô, các lực lượng vũ trang Đông Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary
và Romania đã được tổ chức lại theo mô hình của Liên Xô, trong khi nhiều sĩ
quan của những nước này được đào tạo tại các trường quân sự và quân
chính Xô viết. Ngay trong năm 1951, Tham mưu trưởng Tập đoàn quân Liên
Xô tại Đức, Đại tướng Sergey Shtemenko trong một cuộc họp có sự tham dự
của nhà lãnh đạo Joseph Stalin, đã nêu ra ý tưởng thành lập “Liên minh quân
sự của các nước xã hội chủ nghĩa anh em”. Tuy nhiên, sau khi Stalin qua đời
thì mới xuất hiện Tổ chức Hiệp ước Warszawa. Nguyên nhân chính cho sự ra
đời của Tổ chức Hiệp ước Warszawa là xuất phát từ việc các đồng minh
phương Tây ký kết Hiệp định Paris vào năm 1954. Theo đó, Cộng hòa Liên
bang Đức (Tây Đức) gia nhập Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương, đồng
thời Liên minh Tây Âu (Tổ chức chính trị-quân sự của các nước châu Âu)
cũng đã được thành lập. Việc tăng cường vị thế nhanh chóng như vậy của
đối thủ tiềm tàng ở Trung Âu cuối cùng đã dẫn đến việc, ngày 14-5-1955 tại
Warszawa, Liên Xô, Bulgaria, Hungary, Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức),
Ba Lan, Romania, Albania và Tiệp Khắc đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị, Hợp
tác và Tương trợ, nhằm chính thức hóa việc thành lập một liên minh quân sự
- chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa.
5. Dưới sự lãnh đạo của Moscow
Các bên cam kết tương trợ cho nhau trong trường hợp bị đe dọa quân sự,
thành lập Bộ chỉ huy chung các lực lượng vũ trang của những nước này.
Theo thỏa thuận giữa các bên, các lực lượng vũ trang sẽ được giao cho Bộ
chỉ huy chung và triển khai “các biện pháp đã thống nhất khác cần thiết cho
việc tăng cường khả năng phòng thủ, nhằm mục đích bảo vệ lao động hòa
bình của nhân dân đất nước họ, bảo đảm sự bất khả xâm phạm biên giới và
lãnh thổ của họ, cũng như bảo vệ trước sự xâm lược nào có thể xảy ra”. Mặc
dù trong Hiệp ước có tuyên bố về sự bình đẳng của các bên tham gia, nhưng
Liên Xô vẫn luôn đóng vai trò chủ chốt từ những ngày đầu thành lập cho đến
khi giải thể Tổ chức này. Ngay từ đầu, Moscow là nơi phê chuẩn các dự thảo
văn kiện quan trọng nhất do Ủy ban Hiệp thương Chính trị (Cơ quan tối cao
của Tổ chức Hiệp ước Warszawa) xem xét. Các cuộc họp của Ủy ban này
luôn có sự tham dự của người đứng đầu Chính phủ các nước đồng minh.
Tổng tư lệnh Lực lượng vũ trang chung của các nước thành viên Hiệp ước
Warszawa, cũng như Tham mưu trưởng luôn là các tướng lĩnh của Liên Xô.
Thông thường, đại diện quân đội các nước khác trong khối chỉ nắm giữ các
chức vụ Phó Tổng tư lệnh và Phó tham mưu trưởng. Trong khi Hoa Kỳ tính
toán cặn kẽ và phân chia nghĩa vụ tài chính cho việc duy trì hoạt động của
NATO lên tất cả các nước thành viên, thì Liên Xô đã mạnh dạn gánh vác gần
như toàn bộ chi phí lên vai mình. Theo đó, nếu phần đóng góp tài chính của
Liên Xô cho hoạt động của Bộ chỉ huy chung và Bộ tham mưu chiếm 45%, thì
mức chi phí đóng góp của nước này nhằm duy trì Lực lượng vũ trang chung
và cơ sở hạ tầng của Liên minh là hơn 90%.
6. Chống phản cách mạng
Liên minh quân sự - chính trị khối phía Đông được Ban lãnh đạo Liên Xô xem
như đối trọng hiệu quả với Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương. Tổng Bí
thư Đảng Cộng sản Liên Xô khi đó là Nikita Khrushchev đã gọi Hiệp ước
Warszawa là “nhân tố quan trọng giúp ổn định tại châu Âu”. Bên cạnh việc Tổ
chức Hiệp ước Warszawa đối với Moscow là công cụ của chính sách đối
ngoại, thì nó còn là phương tiện quan trọng nhằm giải quyết tình trạng khủng
hoảng xảy ra trong phe các nước xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc nổi dậy ở
Hungary năm 1956, quân đội Liên Xô đã tiến vào nước này, như tuyên bố
trong quân lệnh của Tổng tư lệnh Lực lượng vũ trang chung, Nguyên soái
Ivan Konev, là nhằm mục đích “hỗ trợ nhân dân Hungary anh em trong việc
bảo vệ thành quả xã hội chủ nghĩa, đập tan thế lực phản cách mạng và loại
bỏ nguy cơ phục hưng chủ nghĩa phát xít”. Có ý kiến khẳng định rằng, quân
đội Liên Xô đã hành động “phù hợp với đề nghị của Chính phủ Cộng hòa
Nhân dân Hungary trên cơ sở Hiệp ước Warszawa đã được ký kết giữa các
nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa”. Nếu tại Budapest, Liên Xô chủ yếu tự xoay
xở bằng lực lượng của mình với sự ủng hộ của Quân đội nhân dân Hungary
và các cơ quan tình báo của nước này, thì đến sự kiện “Mùa xuân Praha năm
1968”, Liên Xô đã lôi kéo toàn diện các đồng minh của mình vào để chống lại
các thế lực phản cách mạng. Ngoài các đơn vị quân sự Liên Xô, tiến vào Tiệp
Khắc khi đó còn có quân đội Ba Lan, Bulgaria, Hungary và Cộng hòa Dân chủ
Đức. Năm 1985, Hiệp ước Warszawa hết hạn. Ngày 26/4 năm đó, các bên đã
lặng lẽ gia hạn Hiệp ước này thêm 20 năm, mà không hề biết rằng, thực tế
sau đó nó chỉ còn tồn tại thêm chừng 5 năm. Sau khi Liên Xô và hệ thống xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, cũng như hai miền nước Đức thống nhất, thì
Liên minh quân sự phía Đông này đã không còn ý nghĩa để tiếp tục tồn tại.
Ngày 1/7/1991 tại Praha, các đại diện Liên Xô, Bulgaria, Hungary, Ba Lan,
Romania và Tiệp Khắc đã ký kết Biên bản chấm dứt hoàn toàn hiệu lực của
Hiệp ước Warszawa. Và rồi trong vòng 20 năm tiếp theo, tất cả những nước
đồng minh cũ của Moscow đã lần lượt gia nhập Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO).
Document Outline

  • Tổ chức hiệp ước Vacsava mang tính chất?
    • 1. Tổ chức hiệp ước Vacsava mang tính chất
    • 2. Mục đích hoạt động của Hiệp ước Vacsava
    • 3. Quan hệ hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa
    • 4. Liên minh các nước xã hội chủ nghĩa
    • 5. Dưới sự lãnh đạo của Moscow
    • 6. Chống phản cách mạng