Tổ chức nhà nước đế chế La cổ đại gì?
1. Tổ chức nhà nước đế chế La cổ đại
- Theo truyền thuyết, thành Roma do Romullus xây dựng vào khoảng năm
753 TCN n bờ sông Tibres thuộc miền trung bán đảo Ý, nơi sinh sống
của 3 bộ lạc người Latin. Mỗi bộ lạc này bao gồm 100 thị tộc, cứ 10 thị tộc
được gọi một Curi (bào tộc). Các thành viên của các thị tộc này đều bình
đẳng với nhau về kinh tế, chính trị được gọi công dân Roma.
- Quản hội thị tộc của người Roma giai đoạn này được chia là 3 quan:
Đại hội nhân dân (Curi), Viện Nguyên lão (Senat) Hoàng đế (Rex).
Đại hội nhân dân: được coi là đại hội cổ xưa nhất của người Roma. Thành
viên của Đại hội này gồm tất cả những người đàn ông của 300 thị tộc, mỗi
người đại diện cho một phiếu quyết định những vấn đề quan trọng như
chiến tranh, hòa hoãn, xét xử, tế lễ hay bầu ra một Hoàng đế (Rex).
Viện nguyên lão: gồm 300 người những thủ lĩnh của 300 thị tộc.
quan quyền lực tối cao nhất, quyết định hầu hết c công việc quan trọng
của người Roma, được quyền thảo luận trước về những đạo luật, quyền
phê chuẩn hoặc phủ quyết những nghị quyết của Đại hội nhân dân.
Hoàng đế (Rex): được bầu bởi Đại hội nhân dân Viện Nguyên lão, không
được cha truyền con nối thể bị bãi nhiệm bởi Đại hội nhân dân. Thực
chất, Rex chỉ thủ lĩnh quân sự của 3 bộ lạc, tăng lữ tối cao t xử
những vụ kiện trong nội bộ.
2. Địa dân La
La Mã (Roma) tên của một quốc gia cổ đại phương Tây nơi phát
nguyên bán đảo Ý (Italia)
Đây một bán đảo địa hình dài hẹp Nam Âu, hình chiếc ủng vươn ra
tới Địa Trung Hải, diện tích vào khoảng 300.000km2, phía Bắc dãy núi
Anpo ngăn cách Ý với Châu Âu, phía Nam đảo Xixin, phía Tây đảo
Coóc đảo Xácđenhơ.
Ý nhiều đồng bằng cùng màu m nhiều đồng cỏ xanh tươi thuận
tiện cho việc chăn nuôi gia súc. nhiều kim loại như đồng, chì, sắt...để chế
tạo thành công cụ sản xuất khí.
Bờ biển phía Đông không thuận tiện cho tàu thuyền đi lại nhưng bờ biển phía
Nam nhiều vịnh cảng tốt do đó vùng Nam Ý quan hệ sớm với Hy Lạp.
Bán đảo Ý về mặt địa hình thì không bị chia cắt thành những vùng biệt lập
nên thuận lợi về việc quản hội thống nhất chính trị.
Sau khi làm chủ bán đảo Ý, La đã dần dần chinh phục toàn bộ vùng đất
bao quanh Địa Trung Hải lập thành một đế quốc rộng lớn gồm đất đai của ba
Châu Á, Âu, Phi.
dân chủ yếu cũng thành phần dân mặt sớm bán đảo Ý gọi
người Ý, trong đó bộ phận sống vùng Latium gọi người Latinh. Về sau
một nhánh của người Latinh đã dựng lên thành La trên bờ sông Tibro,
từ đó họ được gọi người La Mã.
Ngoài ra còn người Gôloa, người Etơruxcơ, người Hy Lạp. Người Gôloa
trú miền cực Bắc của bán đảo.
Người Etơruxcơ miền Bắc miền Trung.
Người Hy Lạp các thành phố ven biển phía Nam bán đảo Ý đảo Xixin.
3. Sự thành lập chế độ cộng hòa
Tình hình hội người La trước khi thành lập nước:
Theo truyền thuyết thành La (Roma) do vua Romulus xây dựng vào năm
753 TCN, do đó, tên của ông đã được dùng để đặt tên của thành. Tuy vậy
vấn đề đó chưa được lịch sử chứng minh kể cả nhân vật Romulus.
Cũng theo truyền thuyết, thời kỳ này La ba bộ lạc chia làm 30 bào
tộc 300 thị tộc.
quan quản hội gồm 3 bộ phận: Viện nguyên lão, Đại hội nhân dân
Vua. Do vua đứng đầu nên thời kỳ này được gọi thời "Vương chính".
Thời vương chính 7 vua kể cả Romulus, nhưng từ vua thứ năm về trước
chỉ thủ lĩnh quân sự, chỉ vua thứ 6 thứ 7 mới thực sự vua.
Cải cách của Xécviút Tuliút sự ra đời của nhà nước.
Do sự đấu tranh giữa tầng lớp bình dân với người La Mã, vào giữa thế kỷ VI
TCN, vua cviút Tuliút (vua thứ 6) đã tiến hành một cuộc cải cách diện rộng
nhằm xóa bỏ chế độ thị tộc, tạo điều kiện cho nhà nước ra đời. Nội dung của
cuộc cải cách này tập trung vào 3 vấn đề chính:
Căn cứ theo tài sản, chia tất cả những người đàn ông nghĩa vụ quân sự
thành sáu đẳng cấp.
Dựa vào sự phân chia đẳng cấp ấy thành lập một Đại hội nhân dân mới gọi là
Đại hội Xenturi (Centunie) Xeturi đơn vị quân đội gồm 100 chiến .
Xóa bỏ ba bộ lạc cũ, thành lập bốn bộ lạc mới tổ chức theo khu vực nhưng
thực chất những đơn vị hành chính.
Sau cuộc cải cách ấy, chế độ thị tộc b xóa bỏ, nhà ớc chính thức ra đời.
vậy Angghen gọi cuộc cải ch này "Cuộc cách mạng đã kết thúc chế độ
thị tộc ".
Sự thành lập chế độ cộng hòa
Vào khoảng năm 510 TCN, người La nổi dậy khởi nghĩa lật đ vua thứ 7
Tác canh kiêu ngạo. T đây chính quyền trở thành việc của n (Res
Publica), do đó chế độ mới này gọi Respublica nghĩa nhà nước của dân,
tức là chế độ cộng hòa.
Về bộ máy n nước, thời kỳ này bên cạnh Viện nguyên lão Đại hội nhân
dân 2 quan chấp chính quyền lực ngang ngửa nhau, nhiệm kỳ 1
năm.
Quan chấp chính quyền hạn cực kỳ lớn: Chỉ huy quân đội, triệu tập hội
nghị Viện nguyên lão Đại hội nhân dân; Ch đạo thực hiện nghị quyết của
Viện nguyên lão Đại hội nhân dân.
Cuộc đấu tranh giữa bình dân quý tộc:
Tuy chế đ cộng hòa đã ra đời, nhưng khoảng cách giữa quý tộc nh dân
vẫn rất lớn.
Về kinh tế, bình dân không được chia cho ruộng đất công, lại bị quý tộc bóc
lột nên ngày ng lầm than, nghèo khổ, thậm chí n trở thành lệ.
Về chính trị, bình dân không được giữ các chức vụ trong bộ máy nhà nước.
Về địa vị hội, bình dân không được kết hôn với quý tộc.
Do vậy bình dân đã đấu tranh với quý tộc để đòi giải quyết các yêu cầu của
họ.
Cuộc đấu tranh đầu tiên của bình dân nổ ra năm 494 TCN. Hình thức đấu
tranh là bộ phận bình dân trong quân đội đã rời khỏi La đến đóng núi
Thánh cách La 5km. Hình thức đấu tranh này về sau còn tái diễn 2 lần
nữa.
Kết qu của c cuộc đấu tranh ấy quý tộc phải nhượng bộ từng phần:
Bình dân được cử quan Bảo dân để bênh vực quyền lợi của mình
Được chia ruộng đất
Được t xử theo luật pháp đã công bố. Do đấu tranh của bình n, năm 452
450 TCN, Viện nguyên lão phải thành lập một ủy ban để soạn thảo pháp
luật. Bộ luật này được khắc trên 12 tấm đồng n gọi là luật "12 bảng đồng"
Từ nửa sau thế kỷ V TCN, nhà nước La phải ban hành nhiều đạo luật
nhân nhượng các yêu cầu của bình dân n cho bình dân được kết hôn với
quý tộc; bình dân thể được bầu làm lệnh quân đoàn; trong 2 quan chấp
chành phải một người bình dân, b chế đ lệ nợ, cấm biến bình
dân thành nô lệ.
Cuộc đấu tranh của bình dân với quý tộc kéo dài trong 200 năm, cuối ng
mọi yêu cầu của bình dân đều được thỏa mãn.
Thắng lợi của bình dân trong cuộc đấu tranh u dài này một ý nghĩa quan
trọng làm cho chế độ cộng hòa quý tộc La được dân chủ hóa hơn so
với trước.

Preview text:

Tổ chức nhà nước đế chế ở La Mã cổ đại là gì?
1. Tổ chức nhà nước đế chế La Mã cổ đại

- Theo truyền thuyết, thành Roma do Romul us xây dựng vào khoảng năm
753 TCN ở bên bờ sông Tibres thuộc miền trung bán đảo Ý, nơi sinh sống
của 3 bộ lạc người Latin. Mỗi bộ lạc này bao gồm 100 thị tộc, cứ 10 thị tộc
được gọi là một Curi (bào tộc). Các thành viên của các thị tộc này đều bình
đẳng với nhau về kinh tế, chính trị và được gọi là công dân Roma.
- Quản lý xã hội thị tộc của người Roma giai đoạn này được chia là 3 cơ quan:
Đại hội nhân dân (Curi), Viện Nguyên lão (Senat) và Hoàng đế (Rex). 
Đại hội nhân dân: được coi là đại hội cổ xưa nhất của người Roma. Thành
viên của Đại hội này gồm tất cả những người đàn ông của 300 thị tộc, mỗi
người đại diện cho một lá phiếu quyết định những vấn đề quan trọng như
chiến tranh, hòa hoãn, xét xử, tế lễ hay bầu ra một Hoàng đế (Rex). 
Viện nguyên lão: gồm 300 người là những thủ lĩnh của 300 thị tộc. Là cơ
quan quyền lực tối cao nhất, quyết định hầu hết các công việc quan trọng
của người Roma, được quyền thảo luận trước về những đạo luật, quyền
phê chuẩn hoặc phủ quyết những nghị quyết của Đại hội nhân dân. 
Hoàng đế (Rex): được bầu bởi Đại hội nhân dân và Viện Nguyên lão, không
được cha truyền con nối và có thể bị bãi nhiệm bởi Đại hội nhân dân. Thực
chất, Rex chỉ là thủ lĩnh quân sự của 3 bộ lạc, là tăng lữ tối cao và xét xử
những vụ kiện trong nội bộ.
2. Địa lý và dân cư La Mã
La Mã (Roma) là tên của một quốc gia cổ đại ở phương Tây mà nơi phát
nguyên là bán đảo Ý (Italia)
Đây là một bán đảo có địa hình dài và hẹp ở Nam Âu, hình chiếc ủng vươn ra
tới Địa Trung Hải, có diện tích vào khoảng 300.000km2, phía Bắc có dãy núi
Anpo ngăn cách Ý với Châu Âu, phía Nam có đảo Xixin, phía Tây có đảo
Coóc xơ và đảo Xácđenhơ.
Ý có nhiều đồng bằng vô cùng màu mỡ và nhiều đồng cỏ xanh tươi thuận
tiện cho việc chăn nuôi gia súc. Có nhiều kim loại như đồng, chì, sắt...để chế
tạo thành công cụ sản xuất và vũ khí.
Bờ biển phía Đông không thuận tiện cho tàu thuyền đi lại nhưng bờ biển phía
Nam có nhiều vịnh và cảng tốt do đó vùng Nam Ý có quan hệ sớm với Hy Lạp.
Bán đảo Ý về mặt địa hình thì không bị chia cắt thành những vùng biệt lập
nên thuận lợi về việc quản lý xã hội và thống nhất chính trị.
Sau khi làm chủ bán đảo Ý, La Mã đã dần dần chinh phục toàn bộ vùng đất
bao quanh Địa Trung Hải lập thành một đế quốc rộng lớn gồm đất đai của ba Châu Á, Âu, Phi.
Cư dân chủ yếu và cũng là thành phần cư dân có mặt sớm ở bán đảo Ý gọi
là người Ý, trong đó bộ phận sống ở vùng Latium gọi là người Latinh. Về sau
một nhánh của người Latinh đã dựng lên thành La Mã ở trên bờ sông Tibro,
từ đó họ được gọi là người La Mã.
Ngoài ra còn có người Gôloa, người Etơruxcơ, người Hy Lạp. Người Gôloa
cư trú ở miền cực Bắc của bán đảo.
Người Etơruxcơ ở miền Bắc và miền Trung.
Người Hy Lạp ở các thành phố ven biển phía Nam bán đảo Ý và đảo Xixin.
3. Sự thành lập chế độ cộng hòa
Tình hình xã hội người La Mã trước khi thành lập nước:
Theo truyền thuyết thành La Mã (Roma) do vua Romulus xây dựng vào năm
753 TCN, do đó, tên của ông đã được dùng để đặt tên của thành. Tuy vậy
vấn đề đó chưa được lịch sử chứng minh kể cả nhân vật Romulus.
Cũng theo truyền thuyết, thời kỳ này ở La Mã có ba bộ lạc chia làm 30 bào tộc và 300 thị tộc.
Cơ quan quản lý xã hội gồm 3 bộ phận: Viện nguyên lão, Đại hội nhân dân và
Vua. Do có vua đứng đầu nên thời kỳ này được gọi là thời "Vương chính".
Thời vương chính có 7 vua kể cả Romulus, nhưng từ vua thứ năm về trước
chỉ là thủ lĩnh quân sự, chỉ có vua thứ 6 và thứ 7 mới thực sự là vua.
Cải cách của Xécviút Tuliút và sự ra đời của nhà nước.
Do sự đấu tranh giữa tầng lớp bình dân với người La Mã, vào giữa thế kỷ VI
TCN, vua Xécviút Tuliút (vua thứ 6) đã tiến hành một cuộc cải cách diện rộng
nhằm xóa bỏ chế độ thị tộc, tạo điều kiện cho nhà nước ra đời. Nội dung của
cuộc cải cách này tập trung vào 3 vấn đề chính:
Căn cứ theo tài sản, chia tất cả những người đàn ông có nghĩa vụ quân sự thành sáu đẳng cấp.
Dựa vào sự phân chia đẳng cấp ấy thành lập một Đại hội nhân dân mới gọi là
Đại hội Xenturi (Centunie) Xeturi là đơn vị quân đội gồm 100 chiến sĩ.
Xóa bỏ ba bộ lạc cũ, thành lập bốn bộ lạc mới tổ chức theo khu vực nhưng
thực chất là những đơn vị hành chính.
Sau cuộc cải cách ấy, chế độ thị tộc bị xóa bỏ, nhà nước chính thức ra đời. Vì
vậy Angghen gọi cuộc cải cách này là "Cuộc cách mạng đã kết thúc chế độ thị tộc cũ".
Sự thành lập chế độ cộng hòa
Vào khoảng năm 510 TCN, người La Mã nổi dậy khởi nghĩa lật đổ vua thứ 7
là Tác canh kiêu ngạo. Từ đây chính quyền trở thành việc của dân (Res
Publica), do đó chế độ mới này gọi là Respublica nghĩa là nhà nước của dân,
tức là chế độ cộng hòa.
Về bộ máy nhà nước, thời kỳ này bên cạnh Viện nguyên lão và Đại hội nhân
dân là 2 cơ quan chấp chính có quyền lực ngang ngửa nhau, nhiệm kỳ là 1 năm.
Quan chấp chính có quyền hạn cực kỳ lớn: Chỉ huy quân đội, triệu tập hội
nghị Viện nguyên lão và Đại hội nhân dân; Chỉ đạo thực hiện nghị quyết của
Viện nguyên lão và Đại hội nhân dân.
Cuộc đấu tranh giữa bình dân và quý tộc:
Tuy chế độ cộng hòa đã ra đời, nhưng khoảng cách giữa quý tộc và bình dân vẫn là rất lớn.
Về kinh tế, bình dân không được chia cho ruộng đất công, lại bị quý tộc bóc
lột nên ngày càng lầm than, nghèo khổ, thậm chí còn trở thành nô lệ.
Về chính trị, bình dân không được giữ các chức vụ trong bộ máy nhà nước.
Về địa vị xã hội, bình dân không được kết hôn với quý tộc.
Do vậy bình dân đã đấu tranh với quý tộc để đòi giải quyết các yêu cầu của họ.
Cuộc đấu tranh đầu tiên của bình dân nổ ra năm 494 TCN. Hình thức đấu
tranh là bộ phận bình dân trong quân đội đã rời khỏi La Mã đến đóng ở núi
Thánh cách La Mã 5km. Hình thức đấu tranh này về sau còn tái diễn 2 lần nữa.
Kết quả của các cuộc đấu tranh ấy là quý tộc phải nhượng bộ từng phần: 
Bình dân được cử quan Bảo dân để bênh vực quyền lợi của mình  Được chia ruộng đất
Được xét xử theo luật pháp đã công bố. Do đấu tranh của bình dân, năm 452
và 450 TCN, Viện nguyên lão phải thành lập một ủy ban để soạn thảo pháp
luật. Bộ luật này được khắc trên 12 tấm đồng nên gọi là luật "12 bảng đồng"
Từ nửa sau thế kỷ V TCN, nhà nước La Mã phải ban hành nhiều đạo luật
nhân nhượng các yêu cầu của bình dân như cho bình dân được kết hôn với
quý tộc; bình dân có thể được bầu làm Tư lệnh quân đoàn; trong 2 quan chấp
chành phải có một người là bình dân, bỏ chế độ nô lệ vì nợ, cấm biến bình dân thành nô lệ.
Cuộc đấu tranh của bình dân với quý tộc kéo dài trong 200 năm, cuối cùng
mọi yêu cầu của bình dân đều được thỏa mãn.
Thắng lợi của bình dân trong cuộc đấu tranh lâu dài này có một ý nghĩa quan
trọng là làm cho chế độ cộng hòa quý tộc La Mã được dân chủ hóa hơn so với trước.
Document Outline

  • Tổ chức nhà nước đế chế ở La Mã cổ đại là gì?
    • 1. Tổ chức nhà nước đế chế La Mã cổ đại
    • 2. Địa lý và dân cư La Mã
    • 3. Sự thành lập chế độ cộng hòa