Tội đánh bạc theo quy định Điều 321 Bộ Luật
Hình sự
Hoạt động này thường nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác như
tín dụng đen, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trộm cắp, cướp giật, gây rối trật
tự công cộng. Những hậu quả này làm suy yếu đạo đức hội, phá vỡ hạnh
phúc gia đình tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp đối với an ninh trật tự.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sự phát triển vượt bậc của khoa học công
nghệ, đặc biệt internet các phương tiện điện tử, các hình thức đánh bạc
ngày càng trở nên đa dạng, tinh vi khó kiểm soát hơn. Điều y đặt ra
những thách thức to lớn cho các quan bảo vệ pháp luật trong công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm đánh bạc, đòi hỏi một khung pháp vững
chắc khả năng thích ứng cao.
Việc nghiên cứu chuyên sâu áp dụng đúng đắn các quy định pháp luật về
tội đánh bạc yếu tố then chốt đ đảm bảo công bằng, răn đe tội phạm
bảo vệ an ninh trật tự hội. Một sự hiểu biết toàn diện về tội danh này giúp
các quan t tụng nhận diện chính c hành vi phạm tội, áp dụng đúng
mức hình phạt các biện pháp pháp phù hợp. Ngoài ra, việc phân tích
chuyên u còn giúp nhận diện những vướng mắc, bất cập phát sinh trong
thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ đó, thể đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả công c phòng chống tội phạm
đánh bạc trong bối cảnh các thủ đoạn phạm tội ngày càng phức tạp.
1. Khái niệm các dấu hiệu của Tội đánh bạc
1.1. Định nghĩa về "đánh bạc trái phép"
"Đánh bạc trái phép" được định nghĩa hành vi được thực hiện dưới bất kỳ
hình thức nào với mục đích được, thua bằng tiền hay hiện vật mà không
được quan nhà nước thẩm quyền cho phép hoặc được quan nhà
nước thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định
trong giấy phép được cấp. Điều này nhấn mạnh tính chất "trái phép" yếu tố
cốt lõi để phân biệt hành vi đánh bạc bị cấm với các hoạt động giải trí hợp
pháp. Hành vi đánh bạc cấu thành tội phạm khi ít nhất 02 người trở lên
cùng tham gia, sự thỏa thuận thắng thua bằng tiền hoặc hiện vật giá trị.
Điều 321 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật
số 12/2017/QH14, căn cứ pháp cốt lõi để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với hành vi đánh bạc trái phép. Điều luật này quy định chi tiết về các điều
kiện cấu thành tội phạm, các khung hình phạt tương ứng với mức độ nghiêm
trọng của hành vi, cũng như các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Việc
nắm vững các quy định tại Điều 321 nền tảng để phân tích u hơn về tội
danh này.
Tội đánh bạc được quy định cụ thể tại Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015,
sửa đổi, bổ sung năm 2017, với nội dung như sau:
"Điều 321. Tội đánh bạc
1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được
thua thắng bằng tiền hay hiện vật trị giá t 5.000.000 đồng đến
dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt
vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại
Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy
định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích
còn vi phạm, t bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong c trường hợp sau đây, thì b phạt
từ 03 năm đến 07 năm:
a) tính chất chuyên nghiệp;
b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở
lên;
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử để phạm tội;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng
đến 50.000.000 đồng."
Điều luật này được cấu trúc thành ba khoản ràng. Khoản 1 quy định khung
hình phạt bản các điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự mức độ
ít nghiêm trọng hơn. Khoản 2 quy định các tình tiết định khung tăng nặng, áp
dụng cho các trường hợp phạm tội tính chất nghiêm trọng hơn, với mức
hình phạt cao hơn. Khoản 3 quy định hình phạt bổ sung phạt tiền, thể
được áp dụng kèm theo hình phạt chính.
1.2. Các hình thức đánh bạc phổ biến đặc điểm nhận diện
Các hình thức đánh bạc cùng đa dạng, từ truyền thống đến hiện đại, tinh vi.
Các hình thức truyền thống bao gồm tổ tôm, c đĩa, bài y, bầu cua, lát,
binh xập xám. Với sự phát triển của công nghệ, các hình thức đánh bạc hiện
đại đã xuất hiện trở nên phổ biến như chơi số đề, độ bóng đá, độ
đua ngựa, chọi gà, đặc biệt đánh bạc trực tuyến thông qua mạng
internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, hoặc các phương tiện điện tử khác.
Việc pháp luật không liệt cụ thể các hình thức đánh bạc sử dụng cụm
từ "dưới bất kỳ hình thức nào" thể hiện sự linh hoạt khả năng thích ng
của quy định pháp luật trước sự phát triển không ngừng của các thủ đoạn
đánh bạc mới. Điều này cho phép quan chức năng thể xử các hình
thức đánh bạc chưa từng được biết đến hoặc mới phát sinh. Tuy nhiên, chính
sự khái quát này cũng nguyên nhân dẫn đến những vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng, khi các quan tố tụng phải tự diễn giải c định liệu một
hành vi cụ thể phải đánh bạc trái phép hay không. Sự thiếu cụ thể này
đôi khi tạo ra thách thức trong việc đảm bảo tính nhất quán trong quá trình
điều tra, truy tố t xử.
1.3. Phân biệt đánh bạc trái phép với c hoạt động giải t hợp pháp yếu tố
may rủi
Trong hội nhiều hoạt động giải trí yếu tố may rủi nhưng không bị coi
đánh bạc trái phép. Điển hình các hoạt động được Nhà nước cho phép
như chơi xổ số, tô, hoặc các trò chơi tại casino hợp pháp. Tiêu chí phân
biệt chủ yếu giữa hành vi đánh bạc trái phép các hoạt động giải trí hợp
pháp nằm tính hợp pháp của hoạt động đó. Một hoạt động được coi hợp
pháp khi được quan n nước thẩm quyền cho phép được thực
hiện đúng với c quy định trong giấy phép được cấp. Nếu không sự cho
phép y hoặc sự cho phép nhưng thực hiện sai quy định, hành vi đó sẽ bị
coi đánh bạc trái phép thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Phân tích các yếu tố cấu thành tội đánh bạc
Để cấu thành tội đánh bạc, hành vi phải thỏa mãn đầy đủ bốn yếu tố cấu
thành tội phạm: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể khách thể.
2.1. Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội đánh bạc thể hiện qua hành vi đánh bạc trái phép
dưới bất kỳ hình thức nào, nh chất được thua bằng tiền hoặc hiện vật.
Đây dấu hiệu bắt buộc để xác định tội phạm.
Ngưỡng truy cứu trách nhiệm hình sự được xác định dựa trên giá trị tiền
hoặc hiện vật dùng đánh bạc. Hành vi đánh bạc cấu thành tội phạm khi tiền
hoặc hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.
Đặc biệt, pháp luật quy định các trường hợp hành vi đánh bạc vẫn bị truy
cứu trách nhiệm hình sự ngay cả khi giá trị tiền hay hiện vật dưới 5.000.000
đồng. Đó khi người phạm tội đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi
đánh bạc hoặc hành vi quy định tại Điều 322 (Tội tổ chức đánh bạc hoặc
bạc) của Bộ luật Hình sự, nhưng chưa được xóa án tích còn tiếp tục vi
phạm. Tương tự, nếu người đó đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức
đánh bạc/gá bạc, chưa được xóa án tích còn vi phạm, thì cũng sẽ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự. Quy định này thể hiện chính sách hình sự của
Nhà nước nhằm phòng ngừa trấn áp tội phạm i phạm. cho thấy pháp
luật không chỉ quan tâm đến mức độ thiệt hại tức thời của hành vi còn đặc
biệt chú trọng đến lịch sử hành vi của đối tượng, coi trọng tính chất "tệ nạn"
của hành vi đánh bạc. Đây một chế răn đe mạnh mẽ đối với những
người cố tình vi phạm pháp luật nhiều lần, nhằm ngăn chặn họ tiếp tục gây ra
những ảnh hưởng tiêu cực cho hội. Để thực hiện hiệu quả quy định này,
việc theo dõi chia sẻ thông tin về tiền án, tiền sự giữa các quan hành
chính pháp cùng quan trọng.
Cách xác định tiền, hiện vật dùng vào đánh bạc cũng được quy định cụ thể.
"Tiền hoặc hiện vật dùng vào đánh bạc" bao gồm:
Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc.
Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người đánh bạc căn cứ xác
định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc.
Tiền hoặc hiện vật thu giữ những nơi khác đủ căn cứ xác định đã
được hoặc sẽ được dùng đánh bạc.
Đối với c hình thức đánh bạc đặc thù như chơi số đề, độ bóng đá, độ
đua ngựa, một lần chơi được hiểu việc tham gia chơi trong một đề, một
trận bóng đá, hoặc một kỳ đua ngựa. Trong đó, người chơi thể chơi làm
nhiều đợt trách nhiệm hình sự sẽ được xác định đối với tổng số tiền, giá trị
hiện vật dùng đ chơi trong c đợt đó. Đối với người đánh bạc dưới hình
thức độ, đánh đề, tiền hiện vật được xác định bằng tổng số tiền đã bỏ
ra cộng với số tiền thắng được. Còn đối với chủ đề, chủ độ, tiền hiện
vật được xác định bằng tổng số tiền h đã nhận được từ người chơi số
tiền h đã trả cho người trúng.
Định nghĩa mở rộng về "tiền hoặc hiện vật dùng vào đánh bạc" không chỉ giới
hạn số tiền/hiện vật mặt tại chiếu bạc n bao gồm cả những tài sản
căn cứ c định được dùng hoặc sẽ dùng vào việc đánh bạc (trên người,
nơi khác). Điều này cho thấy nỗ lực của pháp luật nhằm bao quát toàn bộ giá
trị kinh tế của hành vi đánh bạc, ngăn chặn việc tẩu n hoặc che giấu tài sản
liên quan. Nếu chỉ tính số tiền tại chiếu bạc, các hình thức đánh bạc trực
tuyến quy lớn hoặc các giao dịch dựa trên n dụng/nợ nần sẽ khó bị truy
tố hiệu quả. Tuy nhiên, việc xác định "có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ
được dùng" thể y ra tranh cãi trong thực tiễn, đòi hỏi bằng chứng vững
chắc sự đánh giá cẩn trọng từ các quan tố tụng để tránh việc mở rộng
quá mức phạm vi truy cứu trách nhiệm hình sự.
2.2. Mặt chủ quan
Tội đánh bạc được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức
hành vi đánh bạc của mình trái pháp luật, bị cấm mong muốn thực
hiện hành vi đó để được thua bằng tiền hoặc hiện vật. Động phạm tội
thường sát phạt nhau, lợi, mục đích cuối cùng nhằm chiếm đoạt
tiền hoặc tài sản từ người thua bạc. Yếu tố lỗi cố ý bắt buộc để cấu thành
tội phạm này, nếu không lỗi cố ý thì không thể truy cứu trách nhiệm hình
sự.
2.3. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội đánh bạc người đạt độ tuổi theo luật định năng lực
trách nhiệm hình sự. Theo quy định của Bộ luật Hình sự, người từ đủ 16 tuổi
trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc. Điều này nghĩa
người dưới 16 tuổi, thực hiện hành vi đánh bạc, cũng sẽ không bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội này.
2.4. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội đánh bạc những quan hệ hội được luật hình sự bảo
vệ khỏi hành vi phạm tội. Đối với tội đánh bạc, hành vi này xâm phạm nghiêm
trọng đến trật tự công cộng, an toàn hội nếp sống văn minh của hội.
Việc xác định khách thể "trật tự công cộng, an toàn hội nếp sống văn
minh" thay chỉ đơn thuần tài sản cho thấy pháp luật Việt Nam coi đánh
bạc không chỉ hành vi gây thiệt hại về kinh tế còn một tệ nạn hội
sâu sắc, ảnh hưởng đến đạo đức, lối sống an ninh hội. Điều này phản
ánh quan điểm phòng ngừa tội phạm trên diện rộng, không chỉ dừng lại việc
bảo vệ quyền sở hữu còn hướng đến việc duy trì ổn định hội các
giá trị văn hóa. Quan điểm này khẳng định rằng đánh bạc m suy yếu cấu
trúc hội, gây ra những vấn đề như nợ nần, phá sản, các tội phạm liên
quan, do đó cần được trấn áp mạnh mẽ để bảo vệ lợi ích chung của cộng
đồng.
3. Khung hình phạt đối với tội đánh bạc
Điều 321 B luật Hình sự quy định hai khung hình phạt chính một hình
phạt bổ sung đối với tội đánh bạc, y thuộc vào mức độ nghiêm trọng của
hành vi.
3.1. Khung hình phạt bản
Theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS đối với c trường hợp đánh bạc
trái phép tiền hay hiện vật dùng đánh bạc trị giá t 5.000.000 đồng đến
dưới 50.000.000 đồng, hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng người phạm tội đã
bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án về tội đánh bạc/tổ chức đánh
bạc/gá bạc chưa được xóa án tích, t người phạm tội sẽ bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt từ 06 tháng đến 03 năm. Đây
khung nh phạt áp dụng cho các hành vi đánh bạc mức độ ít nghiêm trọng
hơn.
3.2. Khung hình phạt tăng nặng
Căn cứ khoản 2 Điều 321 BLHS phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau đây, người phạm tội sẽ bị phạt từ 03 năm đến 07 năm :
a) Có tính chất chuyên nghiệp: Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội coi
việc đánh bạc nguồn thu nhập chính hoặc hoạt động thường xuyên của
mình. Việc " tính chất chuyên nghiệp" một tình tiết tăng nặng đặc biệt
quan trọng, cho thấy sự phân biệt ràng giữa người chơi cờ bạc thông
thường những đối tượng sống dựa vào hoạt động cờ bạc, thường
những người tổ chức hoặc tham gia vào các đường dây cờ bạc lớn. Điều này
nhấn mạnh mục tiêu của pháp luật trấn áp các hoạt động cờ bạc tổ
chức, quy lớn, gây ảnh ởng nghiêm trọng đến trật tự hội. Để chứng
minh tính chất chuyên nghiệp, quan điều tra thường phải thu thập bằng
chứng về các giao dịch tài chính lặp lại, tần suất hoạt động lối sống của
nhân, thể hiện sự phụ thuộc vào nguồn thu nhập bất hợp pháp này.
b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên: Đây
ngưỡng giá trị tài sản rất lớn, phản ánh mức độ nghiêm trọng của hành vi
phạm tội. Khi số tiền hoặc hiện vật đạt đến ngưỡng này, hậu quả kinh tế gây
ra cho hội nhân là đáng kể, do đó mức hình phạt cũng được tăng
nặng tương ứng.
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử để phạm tội: Đây một tình tiết tăng nặng được bổ sung đ
phản ánh sự phát triển của tội phạm công nghệ cao nỗ lực của pháp luật
trong việc kiểm soát c hình thức đánh bạc trực tuyến. Việc đưa "sử dụng
mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử" vào
làm tình tiết định khung tăng nặng cho thấy sự nhận thức ràng của nhà làm
luật về tính chất nguy hiểm khó kiểm soát của tội phạm đánh bạc trên
không gian mạng. Các hình thức đánh bạc trực tuyến khả năng lan rộng
nhanh chóng, thu hút số lượng lớn người tham gia giá trị giao dịch khổng
lồ, gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn so với đánh bạc truyền thống. Điều này
cũng đặt ra yêu cầu cao hơn về năng lực điều tra tội phạm công nghệ cao
cho các quan chức năng, bao gồm khả năng truy vết d liệu, phân tích
giao dịch điện tử hợp tác quốc tế.
d) Tái phạm nguy hiểm: Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội đã bị kết
án về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, hoặc đã tái phạm
nhưng chưa được xóa án tích. Sự phân biệt giữa "tái phạm nguy hiểm"
"phạm tội nhiều lần" (tình tiết tăng nặng chung quy định tại Điều 52 BLHS, áp
dụng khi đánh bạc từ 02 lần tr lên tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh
bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách
nhiệm hình sự ) cho thấy một hệ thống phân loại mức độ nguy hiểm của hành
vi tái phạm. "Phạm tội nhiều lần" tập trung vào số lần thực hiện hành vi, trong
khi "tái phạm nguy hiểm" tập trung vào tính chất nghiêm trọng của các tiền án
trước đó, thể hiện sự coi thường pháp luật một cách cố ý liên tục. Tuy
nhiên, trong thực tiễn, việc áp dụng tình tiết "phạm tội nhiều lần" khi mỗi lần
đánh bạc dưới định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng tổng số tiền
lớn vẫn còn vướng mắc, tạo ra sự không công bằng lỗ hổng pháp lý.
3.3. Hình phạt bổ sung
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn thể bị phạt tiền từ 10.000.000
đồng đến 50.000.000 đồng. Đây hình phạt bổ sung nhằm tăng cường tính
răn đe, tước đoạt một phần lợi ích bất chính người phạm tội được.
Bảng 3: Thống các mức tiền/hiện vật dùng đánh bạc khung hình
phạt tương ứng theo Điều 321 BLHS
M
c ti
n/hi
n
vt dùng đánh bc
Điu kin khác
Khung nh ph
t
chính
Hình ph
t b
sung
(có th áp dng)
T 5.000.000 đồng
đế
n d
ướ
i
50.000.000 đồng
Không
Ci to không giam
gi đến 03 năm hoc
ph
t t
06 tháng
đến 03 năm
Pht tin t
10.000.000 đồng
đế
n 50.000.000
đồng
Dưới 5.000.000
đồ
ng
Đã b x pht VPHC v hành
vi này hoc Điu 322 BLHS,
ch
ư
a
đượ
c xóa án tích
còn vi phm
Ci to không giam
gi đến 03 năm hoc
ph
t t
06 tháng
đến 03 năm
Pht tin t
10.000.000 đồng
đế
n 50.000.000
đồng
Dưới 5.000.000
đồ
ng
Đã b kết án v ti này
hoc Điu 322 BLHS, chưa
đượ
c xóa án tích còn vi
phm
Ci to không giam
gi đến 03 năm hoc
ph
t t
06 tháng
đến 03 năm
Pht tin t
10.000.000 đồng
đế
n 50.000.000
đồng
T 50.000.000
Không
Pht t 03 năm
Pht tin t
M
c ti
n/hi
n
vt dùng đánh bc
Điu kin khác
Khung nh ph
t
chính
Hình ph
t b
sung
(có th áp dng)
đồng tr lên
đến 07 năm
10.000.000 đồng
đế
n 50.000.000
đồng
B
t k
giá tr
nào
tính ch
t chuyên nghi
p
Pht t 03 năm
đế
n 07 n
ă
m
Pht tin t
10.000.000 đồng
đế
n 50.000.000
đồng
B
t k
giá tr
nào
S dng mng internet, mng
máy tính, mng vin thông,
ph
ươ
ng ti
n
đ
i
n t
để
phm ti
Pht t 03 năm
đế
n 07 n
ă
m
Pht tin t
10.000.000 đồng
đế
n 50.000.000
đồng
B
t k
giá tr
nào
Tái ph
m nguy hi
m
Pht t 03 năm
đế
n 07 n
ă
m
Pht tin t
10.000.000 đồng
đế
n 50.000.000
đồng
3.4. d
minh h
a các tình hu
ng th
c t
ế
Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội đánh bạc còn gặp nhiều vướng mắc trong
việc xác định tiền đánh bạc định tội danh.
dụ 1 (Đá gà): A t chức một xới đá gà tại vườn nhà nhưng không thu tiền
phí. B, C, D, E mang đến chơi. B C ghép cặp cược nhau 1 trận 2 triệu
đồng. D E ghép cặp cược nhau 1 trận 3 triệu đồng. Công an bắt quả tang
khi h đang đá gà. nhiều quan điểm khác nhau về việc xác định trách
nhiệm hình sự :
Quan điểm 1: A, B, C, D, E không phải chịu trách nhiệm nh sự số tiền
cược của B C (2 triệu) D E (3 triệu) đều dưới mức 5 triệu đồng đ
cấu thành tội đánh bạc.
Quan điểm 2: A, B, C, D, E phải chịu trách nhiệm hình sự tổng số tiền
đánh bạc của B, C, D, E 5 triệu đồng (2 triệu + 3 triệu), đủ mức cấu thành
tội phạm.
Quan điểm 3: A, B, C, D, E phải chịu trách nhiệm hình sự B C mỗi
người b ra 2 triệu (tổng 4 triệu), D E mỗi người bỏ ra 3 triệu (tổng 6
triệu). Do đó, tổng số tiền đánh bạc 10 triệu đồng.
Quan điểm 4: Chỉ D E phải chịu trách nhiệm hình sự số tiền đánh bạc
của họ 6 triệu đồng (3 triệu x 2 người), đủ mức cấu thành tội đánh bạc. B
C không phải chịu trách nhiệm hình sự. A không phạm tội không thu
phí không biết việc cược.
dụ về vụ đá với các quan điểm khác nhau về cách tính tiền đánh bạc
khi các bên cược độc lập trong cùng một "xới" cho thấy một vướng mắc
lớn trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Sự thiếu thống nhất trong cách hiểu
"một lần đánh bạc" hoặc "tổng số tiền dùng đánh bạc" trong các hình thức
không truyền thống th dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm hoặc xử không
công bằng. Điều này kêu gọi sự cần thiết của các hướng dẫn chi tiết hơn từ
Tòa án nhân dân tối cao hoặc quan thẩm quyền đ đảm bảo tính nhất
quán trong việc xác định ngưỡng truy cứu trách nhiệm hình sự.
dụ 2 (Đánh bạc nhiều lần): Nguyễn Văn A độ 5 trận bóng đá thuộc
nhiều giải đấu khác nhau, mỗi trận số tiền đánh bạc c định 4.000.000đ.
Như vậy, một đêm A đánh tổng cộng 20.000.000đ. Trong khi đó, Nguyễn Văn
B chỉ đánh một trận với số tiền 5.000.000đ. Theo quy định hiện hành, A
không phạm tội "Đánh bạc" số tiền đánh bạc mỗi trận dưới 5.000.000đ,
nhưng B lại phạm tội "Đánh bạc".
dụ này về việc đánh bạc nhiều lần với số tiền mỗi lần dưới ngưỡng truy
cứu trách nhiệm hình sự nhưng tổng số tiền lớn một bất cập nghiêm trọng
trong quy định hiện hành. tạo ra sự không ng bằng lỗ hổng pháp lý,
cho phép những đối tượng đánh bạc với tổng số tiền lớn nhưng chia nhỏ
thành nhiều lần để lách luật, trong khi người chỉ đánh một lần với số tiền vừa
đủ lại bị truy cứu. Điều này làm giảm hiệu quả răn đe của pháp luật đối với
các hành vi đánh bạc tính chất thường xuyên, quy lớn nhưng được
thực hiện dưới dạng "nhiều lần nhỏ lẻ", cần được giải quyết bằng các
hướng dẫn cụ thể hơn.
4. Các tình tiết giảm nh miễn trách nhiệm hình sự
Trong quá trình xét xử, việc xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự vai trò quan trọng trong việc thể hóa nh phạt, đảm bảo tính công
bằng nhân đạo của pháp luật.
4.1. Các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự
Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chung áp dụng cho mọi tội phạm, bao
gồm:
Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục
hậu quả.
Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
Tự thú.
Người phạm tội ph nữ thai, người già yếu, người bệnh hiểm nghèo,
hoặc các tình tiết khác quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS.
dụ về giảm nhẹ hình phạt: Trong vụ án Anh Dũng Trần Đăng Nhân
về tội Đánh bạc, cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình
phạt, giảm từ 9 năm xuống còn 7 năm tù. Điều này minh họa cho nguyên tắc
khoan hồng của pháp luật Việt Nam khi các tình tiết giảm nhẹ được áp
dụng đúng đắn.
4.2. Phân tích việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trong thực tiễn xét xử
Trong thực tiễn xét xử các vụ án đánh bạc, việc áp dụng các tình tiết giảm
nhẹ cần được thực hiện một cách chính xác thống nhất để đảm bảo công
bằng.
Về tình tiết "tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu
quả" (Điểm b Khoản 1 Điều 51 BLHS), việc nộp tiền thu lợi bất chính trong vụ
án đánh bạc được coi tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2
Điều 51 BLHS, chứ không phải khoản 1 Điều 51 BLHS. Sự nhầm lẫn trong
việc áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS với việc nộp tiền thu lợi bất chính
trong thực tiễn xét xử cho thấy sự thiếu thống nhất trong nhận thức áp
dụng pháp luật. Điều này thể dẫn đến việc áp dụng hình phạt không đúng
mức, làm giảm nh nghiêm minh của pháp luật hoặc gây ra sự không công
bằng giữa các trường hợp tương tự. Tòa án nhân dân tối cao đã đề xuất hủy
bản án phúc thẩm trong một số trường hợp để rút kinh nghiệm đối với Tòa án
cấp thẩm khi áp dụng sai tình tiết này, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
tuân thủ đúng quy định pháp luật.
Đối với tình tiết "thành khẩn khai báo, tự thú" (Điểm r, s Khoản 1 Điều 51
BLHS), cần phân biệt giữa "tự thú" (tự nguyện ra trình diện trước khi b
phát hiện) "thành khẩn khai báo" (khai báo trung thực sau khi bị bắt).
Trong nhiều vụ án, việc b cáo bị bắt theo Lệnh bắt khẩn cấp sau đó khai
báo chỉ được coi thành khẩn khai báo, không phải tự thú. Sự phân biệt này
ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức độ giảm nhẹ hình phạt.
Ngoài ra, các tình tiết về nhân thân như lao động chính trong gia đình, con
còn nhỏ, bố m tuổi đã lớn cũng thể được xem xét tình tiết giảm nhẹ
theo khoản 2 Điều 51 BLHS.
Việc Tòa án cấp phúc thẩm giảm hình phạt từ giam sang phạt tiền hoặc
giảm thời hạn thể hiện nguyên tắc khoan hồng của pháp luật Việt Nam, đặc
biệt khi các tình tiết giảm nhẹ. Tuy nhiên, nếu việc áp dụng tình tiết giảm
nhẹ không đúng pháp luật (như nhầm lẫn giữa khoản 1 khoản 2 Điều 51
BLHS), thể dẫn đến việc hủy án phúc thẩm để đảm bảo tính nghiêm
minh thống nhất của pháp luật. Điều này cho thấy sự căng thẳng giữa
quyền tự quyết của tòa án sự cần thiết phải tuân thủ nghiêm ngặt các
nguyên tắc pháp lý. Việc Tòa án nhân dân tối cao sẵn sàng hủy bỏ các phán
quyết phúc thẩm những sai sót như vậy nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc giải thích pháp luật chính xác nhu cầu các tòa án cấp dưới phải tuân
thủ nghiêm ngặt các hướng dẫn án lệ.
Bảng 2: Các Tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp
dụng cho Tội Đánh bạc
Lo
i
Tình
Ti
ế
t
Tình ti
ế
t c
th
Căn c pháp
Ghi chú/Ý ngh
ĩ
a
Tăng
n
ng
tính ch
t chuyên nghi
p
Đ
i
m a Kho
n
2 Điu 321
BLHS
Coi đánh bc ngun thu nhp chính hoc
ho
t
độ
ng th
ườ
ng xuyên.
Tin hoc hin vt dùng đánh
b
c tr
giá 50.000.000
đồ
ng tr
lên
Đim b Khon
2
Đ
i
u 321
BLHS
Mc độ nghiêm trng v giá tr tài sn.
S dng mng internet, mng
máy tính, mng vin thông,
ph
ươ
ng ti
n
đ
i
n t
để
ph
m
ti
Đim c Khon
2
Đ
i
u 321
BLHS
Phn ánh tính cht nguy him ca ti phm
công ngh
cao.
Tái ph
m nguy hi
m
Đim d Khon
2 Điu 321
BLHS
Đã b kết án v ti rt nghiêm trng, đc
bit nghiêm trng do c ý hoc đã tái phm
nh
ư
ng ch
ư
a
đượ
c xóa án tích.
Phm ti nhiu ln
Đ
i
m g Kho
n
1 Điu 52
BLHS
Đánh bạc từ 02 lần trở lên tổng số tin, giá tr
hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bc bng
hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu TNHS (t
5.000.000 đồng trở lên).
Gi
m
nh
T nguyn sa cha, bi
th
ườ
ng thi
t h
i ho
c kh
c
phc hu qu
Đim b Khon
1
Đ
i
u 51
BLHS
Áp d
ng khi ng
ườ
i ph
m t
i t
nguy
n kh
c
phc hu qu do hành vi ca mình gây ra.
Thành kh
n khai báo,
ă
n n
ă
n
hi ci
Đim s Khon
1
Đ
i
u 51
BLHS
Khai báo trung th
c v
hành vi ph
m t
i
sau khi b bt.
T
thú
Đim r Khon
1 Điu 51
BLHS
T nguyn ra trình din khai báo trưc
khi b
phát hi
n.
Ng
ườ
i ph
m t
i ph
n
thai, người già yếu, người
Kho
n 1
Đ
i
u
51 BLHS (các
Các yếu t nhân thân đặc bit.
Lo
i
Tình
Ti
ế
t
Tình ti
ế
t c
th
Căn c pháp
Ghi chú/Ý ngh
ĩ
a
b
nh hi
m nghèo, v.v.
đ
i
m khác)
Np tin thu li bt chính
ho
c ti
n ph
t b
sung
Khon 2 Điu
51 BLHS
Tự nguyện giao nộp ít nhất 1/2 số tiền thu li bt
chính hoặc tiền phạt bổ sung.
4.3. Các trường hợp loại trừ/miễn trách nhiệm hình sự
Mặc hành vi đánh bạc trái phép thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
nhưng những trường hợp nhất định người thực hiện hành vi sẽ được
loại trừ hoặc miễn trách nhiệm hình sự.
Các trường hợp không phải chịu trách nhiệm nh sự đối với tội đánh
bạc
Người thực hiện hành vi đánh bạc sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự
nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
Không năng lực trách nhiệm hình sự: Người thực hiện hành vi phạm
tội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc kh năng điều khiển hành vi của mình. Mặc chỉ đề cập
đến bệnh tâm thần, nhưng việc loại trừ trách nhiệm hình sự dựa trên năng
lực nhận thức điều khiển hành vi nguyên tắc bản của luật hình sự.
Điều này cho thấy rằng ngay cả với tội đánh bạc, yếu tố lỗi năng lực chủ
thể vẫn được coi trọng tuyệt đối, đảm bảo rằng chỉ những người đầy đủ
khả năng nhận thức hành vi trái pháp luật mới bị truy cứu.
Chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Theo quy định, người dưới 16
tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.
Hành vi không cấu thành tội phạm: Hành vi đánh bạc dưới mức định
lượng truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới 5.000.000 đồng) không thuộc
các trường hợp đặc biệt (chưa bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc chưa bị
kết án còn vi phạm) thì không cấu thành tội đánh bạc.
Không lỗi cố ý: Nếu hành vi không mục đích được thua bằng tiền
hay hiện vật, tức không yếu tố lỗi cố ý trực tiếp, thì không thể truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.
Không phải đồng phạm: Người ngồi xem đánh bạc không bị coi tội
phạm hay đồng phạm nếu không hành vi cổ vũ, canh gác hoặc cho
người tham gia sới bạc mượn tiền nhằm mục đích đánh bạc. Quy định này
quan trọng để phân định ràng ranh giới giữa người tham gia người
ngoài cuộc, ngăn chặn việc hình sự hóa quá mức. nhấn mạnh yêu cầu
về cả hành vi (actus reus) ý định (mens rea) để xác định trách nhiệm hình
sự, đảm bảo rằng chỉ những người thực sự ý định hành vi góp phần
vào tội phạm mới bị truy cứu.
Các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp
luật
Ngoài các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, Bộ luật Hình sự cũng quy
định c trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự tại Điều 29 các quy
định khác của Bộ luật T tụng hình sự. Các trường hợp này bao gồm: tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, người phạm tội người chưa thành niên
nhiều tình tiết giảm nhẹ, hoặc các trường hợp khác theo quy định của
pháp luật.
5. Phân biệt Tội đánh bạc với các tội danh liên quan
Trong thực tiễn, tội đánh bạc thường bị nhầm lẫn hoặc mối liên h chặt
chẽ với các tội danh khác, đặc biệt tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Việc phân biệt ràng các tội danh này rất
quan trọng để định tội danh chính xác.
5.1. Tội Tổ chức đánh bạc hoặc bạc (Điều 322 BLHS)
Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc được quy định tại Điều 322 B luật Hình
sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Mặc cùng khách thể xâm
phạm trật t công cộng, an toàn hội nếp sống văn minh , nhưng hai tội
danh này những điểm khác biệt cốt lõi về mặt khách quan vai trò của
người phạm tội.
Tội Đánh bạc nh vi trực tiếp tham gia o trò chơi được thua bằng tiền
hoặc tài sản. Người phạm tội người chơi, trực tiếp đặt cược nhận kết
quả thắng thua.
Ngược lại, Tội Tổ chức đánh bạc hành vi ch mưu, cầm đầu, chỉ huy,
cưỡng bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi được thua bằng tiền
hoặc tài sản; hoặc t chức toàn bộ quá trình đánh bạc, như thành lập nhóm
đánh bạc, phân ng, điều hành nhóm, điều khiển các trò chơi, lắp đặt trang
thiết bị, phân công người canh gác, phục vụ. Người tổ chức đánh bạc không
nhất thiết phải trực tiếp tham gia vào việc đặt cược thắng thua.
Tội bạc hành vi sử dụng địa điểm (nhà ở, cửa hàng, khách sạn, phòng
trọ, tàu, xe, thuyền, bè...) hoặc phương tiện thuộc sở hữu hoặc quyền quản
của mình để cho người khác sử dụng m nơi đánh bạc, thường đ thu tiền
"hồ" (phí dịch vụ).
Cả ba tội danh này đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp chủ thể
tương tự nhau về độ tuổi năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên,
mức hình phạt của tội tổ chức đánh bạc hoặc bạc thường cao hơn tội
đánh bạc, phản ánh tính chất nguy hiểm vai trò chủ động trong việc duy trì
tệ nạn.
Sự phân biệt giữa "Tội đánh bạc" (Điều 321) "Tội tổ chức đánh bạc hoặc
bạc" (Điều 322) nằm vai trò mức độ chủ động của người phạm tội.
Điều này phản ánh nguyên tắc thể hóa trách nhiệm hình sự, theo đó người
vai trò tổ chức, tạo điều kiện cho tệ nạn phát triển sẽ phải chịu trách nhiệm
nặng hơn. Tuy nhiên, trong thực tiễn, những trường hợp người bạc
cũng đồng thời tham gia đánh bạc, hoặc người tổ chức đánh bạc sử dụng
chính địa điểm của mình để tổ chức, gây ra sự chồng lấn vướng mắc trong
việc định tội danh. Trong những trường hợp này, việc xác định hành vi nào
chủ yếu, nổi bật nhất cần thiết đ định tội danh chính xác, tránh việc truy
cứu trách nhiệm hình sự p hoặc không đúng bản chất hành vi.
5.2. Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS)
Ranh giới giữa tội đánh bạc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đôi khi rất mong
manh, đặc biệt khi yếu tố gian dối trong quá trình đánh bạc. Án lệ số
06/2022/HS-GĐT ngày 19/4/2022 của Tòa án nhân n cấp cao tại Đà Nẵng
đã làm vấn đ này.
Tình huống án lệ: Bị cáo Nguyễn Thanh G muốn chiếm đoạt tiền của G1, đã
mua dụng cụ đánh bạc gian lận (một cái chén gắn camera, một i đĩa,
bốn con vị được cắt ra từ bộ bài khơ, một điện thoại di động kết nối
với camera giấu trong chén) bàn bạc với Trần Như T, Nguyễn Tiến S đ
thực hiện thủ đoạn gian lận trong quá trình c đĩa. Mục đích của G làm
cho G1 tin tưởng cùng nhau đánh bạc thắng, thua không gian lận trái
phép, từ đó G1 mới tham gia đ các bị cáo điều kiện chiếm đoạt tiền.
Giải pháp pháp lý: Tòa án nhân dân tối cao nhận định rằng việc đánh bạc
trong trường hợp này ch phương thức, thủ đoạn để thực hiện hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, hành vi của các b cáo đã cấu thành tội "Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản" theo Điều 174 Bộ luật Hình sự, chứ không phải tội
"Đánh bạc" theo Điều 321 Bộ luật Hình sự.
Án lệ này kim chỉ nam quan trọng trong việc phân biệt ranh giới giữa tội
đánh bạc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi yếu t gian dối. nhấn
mạnh việc xem xét bản chất mục đích cuối cùng của hành vi phạm tội để
định tội danh chính xác, tránh việc áp dụng sai luật hoặc bỏ lọt tội phạm
nghiêm trọng hơn. Án lệ khẳng định rằng khi ý định chính lừa đảo tài sản
thông qua các thủ đoạn gian dối, hành vi đánh bạc chỉ vỏ bọc hoặc
phương tiện để thực hiện ý định đó, thì tội danh chính phải lừa đảo. Điều
này ngăn chặn việc định tội danh nhẹ hơn so với bản chất nguy hiểm của
hành vi, đồng thời nhấn mạnh yếu tố "thủ đoạn gian dối" cốt lõi để phân
biệt.
Bảng 1: So sánh Tội Đánh bạc, Tội Tổ chức đánh bạc Tội bạc
T
i
Đ
ánh b
c (
Đ
i
u 321
BLHS)
T
i T
ch
c
đ
ánh b
c (
Đ
i
u
322 BLHS)
Ti bc (Điu 322 BLHS)
Trực tiếp tham gia trò chơi
được thua bằng tiền/hiện vật.
Tổ chức, điều hành, chỉ huy việc
đánh bạc; lôi kéo, cưỡng bức
người khác đánh bạc.
Dùng địa điểm, phương tin thuc s
hữu/quản của mình cho ngưi
khác đánh bạc.
Được thua tiền/hiện vật từ
người chơi khác.
Thu lợi bất chính từ việc tổ chức
đánh bạc; duy trì hoạt động đánh
bạc.
Thu lợi bất chính từ vic cho thuê đa
điểm/phương tiện đánh bc (tin h).
dấu hiệu định tội/định
khung (từ 5 triệu đồng trở lên
hoặc dưới 5 triệu đồng nhưng
điều kiện).
thể dấu hiệu định khung tăng
nặng (tổng số tiền/hiện vật dùng
đánh bạc từ 20 triệu đồng trở lên
trong 01 lần).
thể dấu hiệu định khung tăng
nặng (tổng số tiền/hiện vt dùng
đánh bạc từ 20 triệu đồng tr lên
trong 01 lần).
Cải tạo không giam giữ đến
03 m hoặc phạt từ 06
tháng đến 03 năm.
Phạt tiền từ 50 triệu đến 300 triệu
hoặc phạt từ 01 năm đến 05
năm.
Phạt tiền từ 30 triệu đến 200 triu
hoặc cải tạo không giam gi đến 03
năm hoặc phạt từ 06 tháng đến 03
năm.
Phạt tiền từ 10 triệu đến 50
triệu đồng.
Phạt tiền từ 20 triệu đến 100 triệu
đồng hoặc tịch thu một phần/toàn
bộ tài sản.
Pht tin t 10 triu đến 50
tri
u
đồ
ng (th
ườ
ng áp d
ng).
Người chơi trc tiếp
độ bóng đá 5 triu
đồ
ng.
Người lp trang web độ
bóng đá, qun tài khon,
thu ti
n t
ng
ườ
i ch
ơ
i.
Ch nhà cho thuê nhà đ ngưi
khác đến xóc đĩa, thu tin
"h
".
thể đồng thời người tổ
chức hoặc bạc nếu đủ
dấu hiệu cấu thành.
thể đồng thời người bạc
nếu sử dụng địa điểm của mình để
tổ chức.
thể đồng thời ngưi đánh bc
nếu tham gia chơi.
6. Các văn bản hướng dẫn và án lệ liên quan
Để đảm bảo việc áp dụng Điều 321 Bộ luật Hình sự được thống nhất hiệu
quả, các quan tư pháp đã ban hành hoặc đang trong quá trình y dựng
các văn bản hướng dẫn.
Hiện tại, Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao đang được lấy ý kiến đóng góp, nhằm hướng dẫn áp dụng một số quy
định tại Điều 321 Điều 322 của Bộ luật Hình sự. S tồn tại của dự thảo
này cho thấy những ớng mắc sự thiếu ràng trong thực tiễn áp dụng
Điều 321 Điều 322 Bộ luật Hình sự rất lớn, đòi hỏi một hướng dẫn thống
nhất từ cấp cao nhất của ngành pháp. Điều này ng hàm ý rằng bản thân
điều luật, đã được sửa đổi, vẫn còn những khoảng trống hoặc điểm chưa
được làm rõ, đặc biệt trong bối cảnh các hình thức đánh bạc ngày càng trở
nên phức tạp đa dạng. Việc ban hành hướng dẫn chính thức từ Tòa án
nhân dân tối cao cần thiết đ đảm bảo tính nhất quán công bằng trong
xét xử.
Bên cạnh đó, các văn bản như Thông liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC-BCA-BQP-BTP, ngày 15/12/2021, về tổ chức phiên tòa trực tuyến,
không trực tiếp ớng dẫn nội dung Điều 321, nhưng một văn bản quan
trọng trong tố tụng hình sự liên quan đến các vụ án đánh bạc, đặc biệt trong
bối cảnh công nghệ phát triển.
Luật Minh Khuê giới thiệu một số án lệ tiêu biểu liên quan đến tội
đánh bạc:
Án l số 06/2022/HS-GĐT ngày 19/4/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng về vụ án “Đánh bạc” đối với các bị cáo Nguyễn Thanh G, Trần Như
T Nguyễn Tiến S một án lệ quan trọng, làm ranh giới giữa tội đánh
bạc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi yếu tố gian dối.
Tình huống án lệ: Bị cáo G, với ý định chiếm đoạt tiền của G1, đã mua bộ
dụng cụ đánh bạc gian lận (chén gắn camera, đĩa, con vị) bàn bạc thống
nhất với T S cùng thực hiện thủ đoạn gian lận trong quá trình xóc đĩa. Mục
đích là làm cho G1 tin tưởng rằng việc đánh bạc công bằng để G1 tham gia,
từ đó các bị cáo thể chiếm đoạt tiền.
Giải pháp pháp lý: Tòa án nhân dân tối cao đã nhận định rằng việc đánh bạc
trong trường hợp này ch phương thức, thủ đoạn để thực hiện hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, hành vi phạm tội của Nguyễn Thanh G, Trần
Như T Nguyễn Tiến S đã cấu thành tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo
quy định tại Điều 174 B luật nh sự, ch không phải tội "Đánh bạc" theo
Điều 321 Bộ luật Hình sự.
Ý nghĩa của án lệ: Án lệ này kim chỉ nam quan trọng trong việc phân biệt
ranh giới giữa tội đánh bạc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi yếu t
gian dối. nhấn mạnh việc xem xét bản chất mục đích cuối cùng của
hành vi phạm tội để định tội danh chính xác, tránh việc áp dụng sai luật hoặc
bỏ lọt tội phạm nghiêm trọng hơn. Án l này hướng dẫn các quan tố tụng
phải đi sâu vào ý định của người phạm tội: nếu ý định chính chiếm đoạt i
sản bằng thủ đoạn gian dối, thì vỏ bọc đánh bạc, tội danh vẫn phải
lừa đảo.
dụ về đánh bạc trực tuyến: Bản án số 91 ngày 31/05/2025 của TAND TP
Đà Nẵng về tội Tổ chức đánh bạc một dụ điển hình. Trong vụ án này,
các bị cáo Nguyễn Tấn C, Nguyễn Thanh X, Đặng Ngọc H2 đã tổ chức độ
bóng đá qua mạng internet với tổng số tiền tổ chức đánh bạc lên đến hàng
chục tỷ đồng (Nguyễn Tấn C 41.283.338.319 đồng, Nguyễn Thanh X
Đặng Ngọc H2 37.023.294.019 đồng). Bị cáo Nguyễn Thanh V2 tham gia
đánh bạc với tổng số tiền hơn 1 tỷ đồng (1.150.898.900 đồng).
Các bản án về đánh bạc trực tuyến với số tiền giao dịch lên đến hàng chục tỷ
đồng cho thấy quy nh chất nguy hiểm ngày càng tăng của loại tội
phạm này. Điều này củng cố thêm do sao "sử dụng mạng internet, mạng
máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử" được quy định nh tiết
tăng nặng định khung tại Điều 321 Bộ luật Hình sự. Quy giao dịch khổng
lồ này phản ánh khả năng lan rộng nhanh chóng mức đ thiệt hại kinh tế
tiềm tàng của cờ bạc trực tuyến. cũng cho thấy thách thức lớn trong việc
truy vết dòng tiền, xác định vai trò của từng đối tượng trong các đường dây
phức tạp, đòi hỏi các quan chức năng phải nâng cao năng lực điều tra
tội phạm công nghệ cao.
7. Một s vướng mắc kiến ngh giải pháp hoàn thiện
Trong quá trình tham gia giải quyết các vụ án hình sự về tội đánh bạc, Luật
Minh Khuê nhận thấy thực tiễn áp dụng Điều 321 B luật Hình sự về tội đánh
bạc vẫn còn đối mặt với nhiều vướng mắc bất cập, ảnh hưởng đến tính
thống nhất hiệu qu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thứ nhất, vấn đ xác định chính c tiền, hiện vật dùng đánh bạc, đặc biệt
trong các hình thức phức tạp: Một trong những khó khăn lớn nhất việc xác
định chính xác tổng số tiền hoặc giá trị hiện vật dùng để đánh bạc, đặc biệt
trong các hình thức độ, số đề, đánh bạc trực tuyến. Việc truy vết dòng
tiền giao dịch qua mạng, xác định giá trị thực của các hiện vật không phải tiền
mặt, hoặc quy đổi c hình thức ợc phức tạp thành giá tr tiền t cụ thể
thách thức lớn đối với quan điều tra. Ngoài ra, việc xác định "một lần
đánh bạc" đối với các hình thức độ, số đề khi nhiều đợt chơi trong một
kỳ/trận đấu cũng gây ra nhiều tranh cãi quan điểm khác nhau trong thực
tiễn.
Thứ hai, xử hành vi đánh bạc nhiều lần mỗi lần số tiền không đủ định
lượng truy cứu trách nhiệm hình sự: Như đã phân tích dụ Nguyễn Văn A
B , quy định hiện hành tạo ra sự bất hợp không công bằng. Đây
một trong những bất cập lớn nhất được nêu bật từ thực tiễn, cho thấy sự
thiếu đồng bộ giữa mục tiêu phòng chống tội phạm hiệu quả thực thi pháp
luật. Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến tính công bằng n tạo ra kẽ
hở cho các đối tượng lợi dụng để lách luật, gây khó khăn cho công tác điều
tra, truy tố. Lỗ hổng pháp này cho phép những đối tượng đánh bạc chuyên
nghiệp lách luật bằng cách chia nhỏ các giao dịch, làm suy yếu tính răn đe
của pháp luật đòi hỏi một giải pháp pháp lý ràng.
Thứ ba, vướng mắc trong việc xử vật chứng, đặc biệt tài sản chung vợ
chồng: Việc xử vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm được quy định tại
Điều 47 B luật Hình sự. Tuy nhiên, trong trường hợp tài sản chung của vợ
chồng được một bên dùng làm ng cụ, phương tiện phạm tội, việc xử trở
nên phức tạp. D thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng
dẫn xử tài sản chung vợ chồng trong trường hợp này quy định việc tịch thu
toàn bộ công cụ, phương tiện phạm tội đó không phụ thuộc vào việc
người vợ/chồng của người phạm tội lỗi hay không. Tuy nhiên, nếu người
vợ/chồng tranh chấp về quyền sở hữu hoặc yêu cầu bồi thường một phần
giá trị tài sản chung, thì sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật về t
tụng dân sự.
Việc xử tài sản chung vợ chồng khi một bên dùng làm công cụ phạm tội
một vấn đề phức tạp, đòi hỏi sự cân bằng giữa việc tịch thu tang vật tội phạm
bảo vệ quyền lợi của người không liên quan. Dự thảo Nghị quyết cố gắng
giải quyết vấn đ này bằng cách ưu tiên tịch thu nhưng mở ra khả năng giải
quyết tranh chấp dân sự, cho thấy sự phức tạp trong việc áp dụng biện pháp
pháp trong các mối quan hệ tài sản gia đình. Điều này nhấn mạnh sự cần
thiết của các hướng dẫn chi tiết để đảm bảo cả tính nghiêm minh của pháp
luật sự công bằng cho các bên liên quan.
Thư tư, thách thức từ sự đa dạng tinh vi của c hình thức đánh bạc mới:
Sự xuất hiện liên tục của các hình thức đánh bạc mới, đặc biệt là đánh bạc
trực tuyến, sử dụng tiền ảo, hoặc các phương thức giao dịch phức tạp (như
chuyển khoản qua nhiều lớp tài khoản trung gian, sử dụng điện t quốc tế)
gây khó khăn lớn cho việc thu thập chứng cứ, xác định giá trị tiền đánh bạc
truy vết dòng tiền. Điều này đòi hỏi các quan chức năng phải liên tục
cập nhật kiến thức, ng nghệ phương pháp điều tra.
Từ thực tiễn trên, thể rút ra những kiến ngh giải pháp cụ thể đ ng
cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội đánh bạc, cần những
kiến nghị giải pháp đồng bộ từ việc hoàn thiện pháp luật đến nâng cao
năng lực thực thi ý thức cộng đồng.
Một là, đề xuất sửa đổi, bổ sung c quy định của Bộ luật Hình sự các văn
bản hướng dẫn để khắc phục vướng mắc
Về cách xác định tiền, hiện vật dùng đánh bạc: Cần hướng dẫn chi
tiết hơn về cách tính tổng số tiền/hiện vật trong các trường hợp đánh bạc
nhiều lần nhưng mỗi lần dưới định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự,
hoặc trong các hình thức độ, số đề phức tạp để đảm bảo tính công bằng
thống nhất. Việc thiếu hướng dẫn cụ thể về ch tổng hợp số tiền đánh
bạc trong các trường hợp "phạm tội nhiều lần" tạo ra một lỗ hổng pháp
lớn, cho phép các đối tượng đánh bạc chuyên nghiệp lách luật bằng cách
chia nhỏ các giao dịch. Đây một vấn đề cấp bách cần được giải quyết
bằng các văn bản hướng dẫn giá trị pháp cao (ví dụ: Nghị quyết của
Hội đồng Thẩm phán TANDTC) để đảm bảo pháp luật được thực thi công
bằng hiệu quả, đồng thời ngăn chặn việc lợi dụng kẽ hở này.
Về xử vật chứng tài sản chung vợ chồng: Cần hoàn thiện hướng
dẫn đ đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người không liên quan trong tài
sản chung, đồng thời vẫn đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong
việc tịch thu tang vật tội phạm.
Hai là, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, t xử tội đánh
bạc
Nâng cao năng lực cho cán bộ thực thi pháp luật: Cần đào tạo chuyên
sâu về tội phạm ng nghệ cao, kỹ năng điều tra tài chính truy vết ng
tiền trong các vụ án đánh bạc trực tuyến. Điều này bao gồm việc trang bị
kiến thức về công nghệ blockchain, tiền ảo các phương thức giao dịch
điện t phức tạp.
Tăng cường hợp tác liên ngành quốc tế: Đặc biệt quan trọng trong
các vụ án đánh bạc xuyên quốc gia, liên quan đến nhiều đối tượng, địa bàn
máy chủ đặt nước ngoài. Việc phối hợp chặt chẽ giữa các quan
công an, viện kiểm sát, tòa án các t chức quốc tế yếu tố then chốt để
phá vỡ các đường dây đánh bạc lớn.
Ứng dụng công nghệ trong điều tra: Khuyến khích đầu vào việc sử
dụng c ng cụ phân tích dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo để phát hiện xử
các đường y đánh bạc phức tạp, t động hóa quá trình thu thập
phân ch chứng cứ điện tử.
Ba là, kiến nghị về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao
nhận thức cộng đồng
Tăng cường truyền thông về tác hại của t nạn đánh bạc: Tổ chức các
chiến dịch tuyên truyền sâu rộng về những hậu quả tiêu cực của cờ bạc đối
với nhân, gia đình hội, đặc biệt các hình thức đánh bạc trực
tuyến đang ngày càng phổ biến.
Giáo dục cộng đồng về các quy định pháp luật liên quan: Phổ biến kiến
thức pháp luật về tội đánh bạc, c dấu hiệu nhận biết hành vi trái phép
các hình phạt tương ng, giúp người dân nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật chủ động phòng tránh.
8. Một s câu hỏi thường gặp (FAQs) v tội đánh bạc
8.1. Hình phạt khi đánh bạc bị giữ trên chiếu bạc 10 triệu?
Căn cứ theo điều 321, Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy
định về tội đánh bạc, về tội này hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền
giá trị từ 5.000.000 đồng trở lên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy,
hành vi đánh bạc giá trị hơn 10 triệu đồng (trên 5.000.000 đồng) đã thoả
mãn tội đánh bạc nêu trên, nên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nhẹ sẽ b
phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, nặng sẽ bị phạt từ 06 tháng đến
03 năm. Kèm theo đó còn thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng.
8.2 Cách tính số tiền đánh bạc như thế nào?
Cách tính tiền, giá trị vật dùng để đánh bạc thì không tính tổng số tiền, giá trị
hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, phải căn cứ từng
lần để xem xét như sau:
Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh
bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới 5.000.000
đồng) không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách
nhiệm hình sự (đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ
luật hình sự, chưa được xoá án tích còn vi phạm) thì người đánh bạc
không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Đánh bạc;
Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của lần đánh bạc
nào bằng hoặc trên mức tối thiểu đ truy cứu trách nhiệm hình sự (t
5.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội Đánh bạc đối với lần đánh bạc đó;
Trường hợp đánh bạc từ 02 lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng
đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu

Preview text:

Tội đánh bạc theo quy định Điều 321 Bộ Luật Hình sự
Hoạt động này thường là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác như
tín dụng đen, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trộm cắp, cướp giật, và gây rối trật
tự công cộng. Những hậu quả này làm suy yếu đạo đức xã hội, phá vỡ hạnh
phúc gia đình và tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp đối với an ninh trật tự.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và sự phát triển vượt bậc của khoa học công
nghệ, đặc biệt là internet và các phương tiện điện tử, các hình thức đánh bạc
ngày càng trở nên đa dạng, tinh vi và khó kiểm soát hơn. Điều này đặt ra
những thách thức to lớn cho các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm đánh bạc, đòi hỏi một khung pháp lý vững
chắc và khả năng thích ứng cao.
Việc nghiên cứu chuyên sâu và áp dụng đúng đắn các quy định pháp luật về
tội đánh bạc là yếu tố then chốt để đảm bảo công bằng, răn đe tội phạm và
bảo vệ an ninh trật tự xã hội. Một sự hiểu biết toàn diện về tội danh này giúp
các cơ quan tố tụng nhận diện chính xác hành vi phạm tội, áp dụng đúng
mức hình phạt và các biện pháp tư pháp phù hợp. Ngoài ra, việc phân tích
chuyên sâu còn giúp nhận diện những vướng mắc, bất cập phát sinh trong
thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ đó, có thể đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tội phạm
đánh bạc trong bối cảnh các thủ đoạn phạm tội ngày càng phức tạp.
1. Khái niệm và các dấu hiệu của Tội đánh bạc
1.1. Định nghĩa về "đánh bạc trái phép"
"Đánh bạc trái phép" được định nghĩa là hành vi được thực hiện dưới bất kỳ
hình thức nào với mục đích được, thua bằng tiền hay hiện vật mà không
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định
trong giấy phép được cấp. Điều này nhấn mạnh tính chất "trái phép" là yếu tố
cốt lõi để phân biệt hành vi đánh bạc bị cấm với các hoạt động giải trí hợp
pháp. Hành vi đánh bạc cấu thành tội phạm khi có ít nhất 02 người trở lên
cùng tham gia, có sự thỏa thuận thắng thua bằng tiền hoặc hiện vật có giá trị.
Điều 321 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật
số 12/2017/QH14, là căn cứ pháp lý cốt lõi để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với hành vi đánh bạc trái phép. Điều luật này quy định chi tiết về các điều
kiện cấu thành tội phạm, các khung hình phạt tương ứng với mức độ nghiêm
trọng của hành vi, cũng như các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Việc
nắm vững các quy định tại Điều 321 là nền tảng để phân tích sâu hơn về tội danh này.
Tội đánh bạc được quy định cụ thể tại Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015,
sửa đổi, bổ sung năm 2017, với nội dung như sau:
"Điều 321. Tội đánh bạc
1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được
thua thắng bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến
dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt
vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại
Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy
định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà
còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử để phạm tội; d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng
đến 50.000.000 đồng."

Điều luật này được cấu trúc thành ba khoản rõ ràng. Khoản 1 quy định khung
hình phạt cơ bản và các điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự ở mức độ
ít nghiêm trọng hơn. Khoản 2 quy định các tình tiết định khung tăng nặng, áp
dụng cho các trường hợp phạm tội có tính chất nghiêm trọng hơn, với mức
hình phạt tù cao hơn. Khoản 3 quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền, có thể
được áp dụng kèm theo hình phạt chính.
1.2. Các hình thức đánh bạc phổ biến và đặc điểm nhận diện
Các hình thức đánh bạc vô cùng đa dạng, từ truyền thống đến hiện đại, tinh vi.
Các hình thức truyền thống bao gồm tổ tôm, xóc đĩa, bài tây, bầu cua, xì lát,
binh xập xám. Với sự phát triển của công nghệ, các hình thức đánh bạc hiện
đại đã xuất hiện và trở nên phổ biến như chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ
đua ngựa, chọi gà, và đặc biệt là đánh bạc trực tuyến thông qua mạng
internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, hoặc các phương tiện điện tử khác.
Việc pháp luật không liệt kê cụ thể các hình thức đánh bạc mà sử dụng cụm
từ "dưới bất kỳ hình thức nào" thể hiện sự linh hoạt và khả năng thích ứng
của quy định pháp luật trước sự phát triển không ngừng của các thủ đoạn
đánh bạc mới. Điều này cho phép cơ quan chức năng có thể xử lý các hình
thức đánh bạc chưa từng được biết đến hoặc mới phát sinh. Tuy nhiên, chính
sự khái quát này cũng là nguyên nhân dẫn đến những vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng, khi các cơ quan tố tụng phải tự diễn giải và xác định liệu một
hành vi cụ thể có phải là đánh bạc trái phép hay không. Sự thiếu cụ thể này
đôi khi tạo ra thách thức trong việc đảm bảo tính nhất quán trong quá trình
điều tra, truy tố và xét xử.
1.3. Phân biệt đánh bạc trái phép với các hoạt động giải trí hợp pháp có yếu tố may rủi
Trong xã hội có nhiều hoạt động giải trí có yếu tố may rủi nhưng không bị coi
là đánh bạc trái phép. Điển hình là các hoạt động được Nhà nước cho phép
như chơi xổ số, lô tô, hoặc các trò chơi tại casino hợp pháp. Tiêu chí phân
biệt chủ yếu giữa hành vi đánh bạc trái phép và các hoạt động giải trí hợp
pháp nằm ở tính hợp pháp của hoạt động đó. Một hoạt động được coi là hợp
pháp khi nó được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép và được thực
hiện đúng với các quy định trong giấy phép được cấp. Nếu không có sự cho
phép này hoặc có sự cho phép nhưng thực hiện sai quy định, hành vi đó sẽ bị
coi là đánh bạc trái phép và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Phân tích các yếu tố cấu thành tội đánh bạc
Để cấu thành tội đánh bạc, hành vi phải thỏa mãn đầy đủ bốn yếu tố cấu
thành tội phạm: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể. 2.1. Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội đánh bạc thể hiện qua hành vi đánh bạc trái phép
dưới bất kỳ hình thức nào, có tính chất được thua bằng tiền hoặc hiện vật.
Đây là dấu hiệu bắt buộc để xác định tội phạm.
Ngưỡng truy cứu trách nhiệm hình sự được xác định dựa trên giá trị tiền
hoặc hiện vật dùng đánh bạc. Hành vi đánh bạc cấu thành tội phạm khi tiền
hoặc hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.
Đặc biệt, pháp luật quy định các trường hợp mà hành vi đánh bạc vẫn bị truy
cứu trách nhiệm hình sự ngay cả khi giá trị tiền hay hiện vật dưới 5.000.000
đồng. Đó là khi người phạm tội đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi
đánh bạc hoặc hành vi quy định tại Điều 322 (Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá
bạc) của Bộ luật Hình sự, nhưng chưa được xóa án tích mà còn tiếp tục vi
phạm. Tương tự, nếu người đó đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức
đánh bạc/gá bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì cũng sẽ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự. Quy định này thể hiện rõ chính sách hình sự của
Nhà nước nhằm phòng ngừa và trấn áp tội phạm tái phạm. Nó cho thấy pháp
luật không chỉ quan tâm đến mức độ thiệt hại tức thời của hành vi mà còn đặc
biệt chú trọng đến lịch sử hành vi của đối tượng, coi trọng tính chất "tệ nạn"
của hành vi đánh bạc. Đây là một cơ chế răn đe mạnh mẽ đối với những
người cố tình vi phạm pháp luật nhiều lần, nhằm ngăn chặn họ tiếp tục gây ra
những ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội. Để thực hiện hiệu quả quy định này,
việc theo dõi và chia sẻ thông tin về tiền án, tiền sự giữa các cơ quan hành
chính và tư pháp là vô cùng quan trọng.
Cách xác định tiền, hiện vật dùng vào đánh bạc cũng được quy định cụ thể.
"Tiền hoặc hiện vật dùng vào đánh bạc" bao gồm: 
Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc. 
Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người đánh bạc mà có căn cứ xác
định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc. 
Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã
được hoặc sẽ được dùng đánh bạc.
Đối với các hình thức đánh bạc đặc thù như chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ
đua ngựa, một lần chơi được hiểu là việc tham gia chơi trong một lô đề, một
trận bóng đá, hoặc một kỳ đua ngựa. Trong đó, người chơi có thể chơi làm
nhiều đợt và trách nhiệm hình sự sẽ được xác định đối với tổng số tiền, giá trị
hiện vật dùng để chơi trong các đợt đó. Đối với người đánh bạc dưới hình
thức cá độ, đánh đề, tiền và hiện vật được xác định bằng tổng số tiền đã bỏ
ra cộng với số tiền thắng được. Còn đối với chủ đề, chủ cá độ, tiền và hiện
vật được xác định bằng tổng số tiền họ đã nhận được từ người chơi và số
tiền họ đã trả cho người trúng.
Định nghĩa mở rộng về "tiền hoặc hiện vật dùng vào đánh bạc" không chỉ giới
hạn ở số tiền/hiện vật có mặt tại chiếu bạc mà còn bao gồm cả những tài sản
có căn cứ xác định được dùng hoặc sẽ dùng vào việc đánh bạc (trên người,
nơi khác). Điều này cho thấy nỗ lực của pháp luật nhằm bao quát toàn bộ giá
trị kinh tế của hành vi đánh bạc, ngăn chặn việc tẩu tán hoặc che giấu tài sản
liên quan. Nếu chỉ tính số tiền tại chiếu bạc, các hình thức đánh bạc trực
tuyến quy mô lớn hoặc các giao dịch dựa trên tín dụng/nợ nần sẽ khó bị truy
tố hiệu quả. Tuy nhiên, việc xác định "có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ
được dùng" có thể gây ra tranh cãi trong thực tiễn, đòi hỏi bằng chứng vững
chắc và sự đánh giá cẩn trọng từ các cơ quan tố tụng để tránh việc mở rộng
quá mức phạm vi truy cứu trách nhiệm hình sự. 2.2. Mặt chủ quan
Tội đánh bạc được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức
rõ hành vi đánh bạc của mình là trái pháp luật, bị cấm và mong muốn thực
hiện hành vi đó để được thua bằng tiền hoặc hiện vật. Động cơ phạm tội
thường là sát phạt nhau, tư lợi, và mục đích cuối cùng là nhằm chiếm đoạt
tiền hoặc tài sản từ người thua bạc. Yếu tố lỗi cố ý là bắt buộc để cấu thành
tội phạm này, nếu không có lỗi cố ý thì không thể truy cứu trách nhiệm hình sự.
2.3. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội đánh bạc là người đạt độ tuổi theo luật định và có năng lực
trách nhiệm hình sự. Theo quy định của Bộ luật Hình sự, người từ đủ 16 tuổi
trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc. Điều này có nghĩa là
người dưới 16 tuổi, dù có thực hiện hành vi đánh bạc, cũng sẽ không bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội này.
2.4. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội đánh bạc là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ khỏi hành vi phạm tội. Đối với tội đánh bạc, hành vi này xâm phạm nghiêm
trọng đến trật tự công cộng, an toàn xã hội và nếp sống văn minh của xã hội.
Việc xác định khách thể là "trật tự công cộng, an toàn xã hội và nếp sống văn
minh" thay vì chỉ đơn thuần là tài sản cho thấy pháp luật Việt Nam coi đánh
bạc không chỉ là hành vi gây thiệt hại về kinh tế mà còn là một tệ nạn xã hội
sâu sắc, ảnh hưởng đến đạo đức, lối sống và an ninh xã hội. Điều này phản
ánh quan điểm phòng ngừa tội phạm trên diện rộng, không chỉ dừng lại ở việc
bảo vệ quyền sở hữu mà còn hướng đến việc duy trì ổn định xã hội và các
giá trị văn hóa. Quan điểm này khẳng định rằng đánh bạc làm suy yếu cấu
trúc xã hội, gây ra những vấn đề như nợ nần, phá sản, và các tội phạm liên
quan, do đó cần được trấn áp mạnh mẽ để bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng.
3. Khung hình phạt đối với tội đánh bạc
Điều 321 Bộ luật Hình sự quy định hai khung hình phạt chính và một hình
phạt bổ sung đối với tội đánh bạc, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi.
3.1. Khung hình phạt cơ bản
Theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS đối với các trường hợp đánh bạc
trái phép mà tiền hay hiện vật dùng đánh bạc trị giá từ 5.000.000 đồng đến
dưới 50.000.000 đồng, hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng người phạm tội đã
bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án về tội đánh bạc/tổ chức đánh
bạc/gá bạc mà chưa được xóa án tích, thì người phạm tội sẽ bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Đây là
khung hình phạt áp dụng cho các hành vi đánh bạc ở mức độ ít nghiêm trọng hơn.
3.2. Khung hình phạt tăng nặng
Căn cứ khoản 2 Điều 321 BLHS phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau đây, người phạm tội sẽ bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm :
a) Có tính chất chuyên nghiệp: Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội coi
việc đánh bạc là nguồn thu nhập chính hoặc là hoạt động thường xuyên của
mình. Việc "có tính chất chuyên nghiệp" là một tình tiết tăng nặng đặc biệt
quan trọng, cho thấy sự phân biệt rõ ràng giữa người chơi cờ bạc thông
thường và những đối tượng sống dựa vào hoạt động cờ bạc, thường là
những người tổ chức hoặc tham gia vào các đường dây cờ bạc lớn. Điều này
nhấn mạnh mục tiêu của pháp luật là trấn áp các hoạt động cờ bạc có tổ
chức, quy mô lớn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự xã hội. Để chứng
minh tính chất chuyên nghiệp, cơ quan điều tra thường phải thu thập bằng
chứng về các giao dịch tài chính lặp lại, tần suất hoạt động và lối sống của cá
nhân, thể hiện sự phụ thuộc vào nguồn thu nhập bất hợp pháp này.
b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên: Đây
là ngưỡng giá trị tài sản rất lớn, phản ánh mức độ nghiêm trọng của hành vi
phạm tội. Khi số tiền hoặc hiện vật đạt đến ngưỡng này, hậu quả kinh tế gây
ra cho xã hội và cá nhân là đáng kể, do đó mức hình phạt cũng được tăng nặng tương ứng.
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử để phạm tội:
Đây là một tình tiết tăng nặng được bổ sung để
phản ánh sự phát triển của tội phạm công nghệ cao và nỗ lực của pháp luật
trong việc kiểm soát các hình thức đánh bạc trực tuyến. Việc đưa "sử dụng
mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử" vào
làm tình tiết định khung tăng nặng cho thấy sự nhận thức rõ ràng của nhà làm
luật về tính chất nguy hiểm và khó kiểm soát của tội phạm đánh bạc trên
không gian mạng. Các hình thức đánh bạc trực tuyến có khả năng lan rộng
nhanh chóng, thu hút số lượng lớn người tham gia và giá trị giao dịch khổng
lồ, gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn so với đánh bạc truyền thống. Điều này
cũng đặt ra yêu cầu cao hơn về năng lực điều tra tội phạm công nghệ cao
cho các cơ quan chức năng, bao gồm khả năng truy vết dữ liệu, phân tích
giao dịch điện tử và hợp tác quốc tế.
d) Tái phạm nguy hiểm: Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội đã bị kết
án về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, hoặc đã tái phạm
nhưng chưa được xóa án tích. Sự phân biệt giữa "tái phạm nguy hiểm" và
"phạm tội nhiều lần" (tình tiết tăng nặng chung quy định tại Điều 52 BLHS, áp
dụng khi đánh bạc từ 02 lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh
bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách
nhiệm hình sự ) cho thấy một hệ thống phân loại mức độ nguy hiểm của hành
vi tái phạm. "Phạm tội nhiều lần" tập trung vào số lần thực hiện hành vi, trong
khi "tái phạm nguy hiểm" tập trung vào tính chất nghiêm trọng của các tiền án
trước đó, thể hiện sự coi thường pháp luật một cách cố ý và liên tục. Tuy
nhiên, trong thực tiễn, việc áp dụng tình tiết "phạm tội nhiều lần" khi mỗi lần
đánh bạc dưới định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng tổng số tiền
lớn vẫn còn vướng mắc, tạo ra sự không công bằng và lỗ hổng pháp lý. 3.3. Hình phạt bổ sung
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000
đồng đến 50.000.000 đồng. Đây là hình phạt bổ sung nhằm tăng cường tính
răn đe, tước đoạt một phần lợi ích bất chính mà người phạm tội có được.
Bảng 3: Thống kê các mức tiền/hiện vật dùng đánh bạc và khung hình
phạt tương ứng theo Điều 321 BLHS
Mc tin/hin Đ Khung hình pht
Hình pht bsung
iu kin khác
vt dùng đánh bc chính
(có tháp dng)
Cải tạo không giam Phạt tiền từ Từ 5.000.000 đồng đế
giữ đến 03 năm hoặc 10.000.000 đồng n dưới Không
phạt tù từ 06 tháng đến 50.000.000 50.000.000 đồng đến 03 năm đồng
Đã bị xử phạt VPHC về hành Cải tạo không giam Phạt tiền từ Dưới 5.000.000
vi này hoặc Điều 322 BLHS, giữ đến 03 năm hoặc 10.000.000 đồng đồng
chưa được xóa án tích mà
phạt tù từ 06 tháng đến 50.000.000 còn vi phạm đến 03 năm đồng
Đã bị kết án về tội này
Cải tạo không giam Phạt tiền từ Dưới 5.000.000 hoặc Điều 322 BLHS, chưa
giữ đến 03 năm hoặc 10.000.000 đồng đồng
được xóa án tích mà còn vi phạt tù từ 06 tháng đến 50.000.000 phạm đến 03 năm đồng Từ 50.000.000 Không Phạt tù từ 03 năm Phạt tiền từ
Mc tin/hin Đ Khung hình pht
Hình pht bsung
iu kin khác
vt dùng đánh bc chính
(có tháp dng) đồng trở lên đến 07 năm 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng Phạt tiền từ Phạt tù từ 03 năm 10.000.000 đồng
Bất kỳ giá trị nào Có tính chất chuyên nghiệp đến 07 năm đến 50.000.000 đồng
Sử dụng mạng internet, mạng Phạt tiền từ
máy tính, mạng viễn thông, Phạt tù từ 03 năm 10.000.000 đồng
Bất kỳ giá trị nào phương tiện điện tử để đến 07 năm đến 50.000.000 phạm tội đồng Phạt tiền từ Phạt tù từ 03 năm 10.000.000 đồng
Bất kỳ giá trị nào Tái phạm nguy hiểm đến 07 năm đến 50.000.000 đồng
3.4. Ví dminh ha các tình hung thc tế
Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội đánh bạc còn gặp nhiều vướng mắc trong
việc xác định tiền đánh bạc và định tội danh.
Ví dụ 1 (Đá gà): A tổ chức một xới đá gà tại vườn nhà nhưng không thu tiền
phí. B, C, D, E mang gà đến chơi. B và C ghép cặp cược nhau 1 trận 2 triệu
đồng. D và E ghép cặp cược nhau 1 trận 3 triệu đồng. Công an bắt quả tang
khi họ đang đá gà. Có nhiều quan điểm khác nhau về việc xác định trách nhiệm hình sự : 
Quan điểm 1: A, B, C, D, E không phải chịu trách nhiệm hình sự vì số tiền
cược của B và C (2 triệu) và D và E (3 triệu) đều dưới mức 5 triệu đồng để
cấu thành tội đánh bạc. 
Quan điểm 2: A, B, C, D, E phải chịu trách nhiệm hình sự vì tổng số tiền
đánh bạc của B, C, D, E là 5 triệu đồng (2 triệu + 3 triệu), đủ mức cấu thành tội phạm. 
Quan điểm 3: A, B, C, D, E phải chịu trách nhiệm hình sự vì B và C mỗi
người bỏ ra 2 triệu (tổng 4 triệu), D và E mỗi người bỏ ra 3 triệu (tổng 6
triệu). Do đó, tổng số tiền đánh bạc là 10 triệu đồng. 
Quan điểm 4: Chỉ D và E phải chịu trách nhiệm hình sự vì số tiền đánh bạc
của họ là 6 triệu đồng (3 triệu x 2 người), đủ mức cấu thành tội đánh bạc. B
và C không phải chịu trách nhiệm hình sự. A không phạm tội vì không thu
phí và không biết việc cá cược.
Ví dụ về vụ đá gà với các quan điểm khác nhau về cách tính tiền đánh bạc
khi các bên cá cược độc lập trong cùng một "xới" cho thấy một vướng mắc
lớn trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Sự thiếu thống nhất trong cách hiểu
"một lần đánh bạc" hoặc "tổng số tiền dùng đánh bạc" trong các hình thức
không truyền thống có thể dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm hoặc xử lý không
công bằng. Điều này kêu gọi sự cần thiết của các hướng dẫn chi tiết hơn từ
Tòa án nhân dân tối cao hoặc cơ quan có thẩm quyền để đảm bảo tính nhất
quán trong việc xác định ngưỡng truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ví dụ 2 (Đánh bạc nhiều lần): Nguyễn Văn A cá độ 5 trận bóng đá thuộc
nhiều giải đấu khác nhau, mỗi trận số tiền đánh bạc xác định là 4.000.000đ.
Như vậy, một đêm A đánh tổng cộng 20.000.000đ. Trong khi đó, Nguyễn Văn
B chỉ đánh một trận với số tiền 5.000.000đ. Theo quy định hiện hành, A
không phạm tội "Đánh bạc" vì số tiền đánh bạc mỗi trận dưới 5.000.000đ,
nhưng B lại phạm tội "Đánh bạc".
Ví dụ này về việc đánh bạc nhiều lần với số tiền mỗi lần dưới ngưỡng truy
cứu trách nhiệm hình sự nhưng tổng số tiền lớn là một bất cập nghiêm trọng
trong quy định hiện hành. Nó tạo ra sự không công bằng và lỗ hổng pháp lý,
cho phép những đối tượng đánh bạc với tổng số tiền lớn nhưng chia nhỏ
thành nhiều lần để lách luật, trong khi người chỉ đánh một lần với số tiền vừa
đủ lại bị truy cứu. Điều này làm giảm hiệu quả răn đe của pháp luật đối với
các hành vi đánh bạc có tính chất thường xuyên, quy mô lớn nhưng được
thực hiện dưới dạng "nhiều lần nhỏ lẻ", và cần được giải quyết bằng các
hướng dẫn cụ thể hơn.
4. Các tình tiết giảm nhẹ và miễn trách nhiệm hình sự
Trong quá trình xét xử, việc xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự có vai trò quan trọng trong việc cá thể hóa hình phạt, đảm bảo tính công
bằng và nhân đạo của pháp luật.
4.1. Các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự
Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chung áp dụng cho mọi tội phạm, bao gồm: 
Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả. 
Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.  Tự thú. 
Người phạm tội là phụ nữ có thai, người già yếu, người có bệnh hiểm nghèo,
hoặc các tình tiết khác quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS.
Ví dụ về giảm nhẹ hình phạt: Trong vụ án Lê Anh Dũng và Trần Đăng Nhân
về tội Đánh bạc, cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình
phạt, giảm từ 9 năm xuống còn 7 năm tù. Điều này minh họa cho nguyên tắc
khoan hồng của pháp luật Việt Nam khi có các tình tiết giảm nhẹ được áp dụng đúng đắn.
4.2. Phân tích việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trong thực tiễn xét xử
Trong thực tiễn xét xử các vụ án đánh bạc, việc áp dụng các tình tiết giảm
nhẹ cần được thực hiện một cách chính xác và thống nhất để đảm bảo công bằng.
Về tình tiết "tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu
quả" (Điểm b Khoản 1 Điều 51 BLHS), việc nộp tiền thu lợi bất chính trong vụ
án đánh bạc được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2
Điều 51 BLHS, chứ không phải khoản 1 Điều 51 BLHS. Sự nhầm lẫn trong
việc áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS với việc nộp tiền thu lợi bất chính
trong thực tiễn xét xử cho thấy sự thiếu thống nhất trong nhận thức và áp
dụng pháp luật. Điều này có thể dẫn đến việc áp dụng hình phạt không đúng
mức, làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật hoặc gây ra sự không công
bằng giữa các trường hợp tương tự. Tòa án nhân dân tối cao đã đề xuất hủy
bản án phúc thẩm trong một số trường hợp để rút kinh nghiệm đối với Tòa án
cấp sơ thẩm khi áp dụng sai tình tiết này, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
tuân thủ đúng quy định pháp luật.
Đối với tình tiết "thành khẩn khai báo, tự thú" (Điểm r, s Khoản 1 Điều 51
BLHS), cần phân biệt rõ giữa "tự thú" (tự nguyện ra trình diện trước khi bị
phát hiện) và "thành khẩn khai báo" (khai báo trung thực sau khi bị bắt).
Trong nhiều vụ án, việc bị cáo bị bắt theo Lệnh bắt khẩn cấp và sau đó khai
báo chỉ được coi là thành khẩn khai báo, không phải tự thú. Sự phân biệt này
có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức độ giảm nhẹ hình phạt.
Ngoài ra, các tình tiết về nhân thân như là lao động chính trong gia đình, con
còn nhỏ, bố mẹ tuổi đã lớn cũng có thể được xem xét là tình tiết giảm nhẹ
theo khoản 2 Điều 51 BLHS.
Việc Tòa án cấp phúc thẩm giảm hình phạt từ tù giam sang phạt tiền hoặc
giảm thời hạn tù thể hiện nguyên tắc khoan hồng của pháp luật Việt Nam, đặc
biệt khi có các tình tiết giảm nhẹ. Tuy nhiên, nếu việc áp dụng tình tiết giảm
nhẹ không đúng pháp luật (như nhầm lẫn giữa khoản 1 và khoản 2 Điều 51
BLHS), nó có thể dẫn đến việc hủy án phúc thẩm để đảm bảo tính nghiêm
minh và thống nhất của pháp luật. Điều này cho thấy sự căng thẳng giữa
quyền tự quyết của tòa án và sự cần thiết phải tuân thủ nghiêm ngặt các
nguyên tắc pháp lý. Việc Tòa án nhân dân tối cao sẵn sàng hủy bỏ các phán
quyết phúc thẩm vì những sai sót như vậy nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc giải thích pháp luật chính xác và nhu cầu các tòa án cấp dưới phải tuân
thủ nghiêm ngặt các hướng dẫn và án lệ.
Bảng 2: Các Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp
dụng cho Tội Đánh bạc Loi Tình
Tình tiết cth Căn cpháp Ghi chú/Ý nghĩa lý Tiết Điểm a Khoản Tăng
Coi đánh bạc là nguồn thu nhập chính hoặc
Có tính chất chuyên nghiệp 2 Điều 321 nng
hoạt động thường xuyên. BLHS
Tiền hoặc hiện vật dùng đánh Điểm b Khoản
bạc trị giá 50.000.000 đồng trở 2 Điều 321
Mức độ nghiêm trọng về giá trị tài sản. lên BLHS
Sử dụng mạng internet, mạng Điểm c Khoản
máy tính, mạng viễn thông,
Phản ánh tính chất nguy hiểm của tội phạm 2 Điều 321
phương tiện điện tử để phạm công nghệ cao. BLHS tội
Điểm d Khoản Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, đặc Tái phạm nguy hiểm 2 Điều 321
biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc đã tái phạm BLHS
nhưng chưa được xóa án tích.
Đánh bạc từ 02 lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị
Điểm g Khoản hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng Phạm tội nhiều lần 1 Điều 52 BLHS
hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu TNHS (từ 5.000.000 đồng trở lên).
Tự nguyện sửa chữa, bồi Điểm b Khoản Gim
Áp dụng khi người phạm tội tự nguyện khắc
thường thiệt hại hoặc khắc 1 Điều 51 nh
phục hậu quả do hành vi của mình gây ra. phục hậu quả BLHS Điểm s Khoản
Thành khẩn khai báo, ăn năn
Khai báo trung thực về hành vi phạm tội 1 Điều 51 hối cải sau khi bị bắt. BLHS
Điểm r Khoản Tự nguyện ra trình diện và khai báo trước Tự thú 1 Điều 51 khi bị phát hiện. BLHS
Người phạm tội là phụ nữ có
Khoản 1 Điều Các yếu tố nhân thân đặc biệt.
thai, người già yếu, người có 51 BLHS (các Loi Tình
Tình tiết cth Căn cpháp Ghi chú/Ý nghĩa lý Tiết bệnh hiểm nghèo, v.v. điểm khác)
Nộp tiền thu lợi bất chính
Khoản 2 Điều Tự nguyện giao nộp ít nhất 1/2 số tiền thu lợi bất hoặc tiền phạt bổ sung 51 BLHS
chính hoặc tiền phạt bổ sung.
4.3. Các trường hợp loại trừ/miễn trách nhiệm hình sự
Mặc dù hành vi đánh bạc trái phép có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
nhưng có những trường hợp nhất định mà người thực hiện hành vi sẽ được
loại trừ hoặc miễn trách nhiệm hình sự.
Các trường hợp không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội đánh bạc
Người thực hiện hành vi đánh bạc sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự
nếu thuộc một trong các trường hợp sau: 
Không có năng lực trách nhiệm hình sự: Người thực hiện hành vi phạm
tội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Mặc dù chỉ đề cập
đến bệnh tâm thần, nhưng việc loại trừ trách nhiệm hình sự dựa trên năng
lực nhận thức và điều khiển hành vi là nguyên tắc cơ bản của luật hình sự.
Điều này cho thấy rằng ngay cả với tội đánh bạc, yếu tố lỗi và năng lực chủ
thể vẫn được coi trọng tuyệt đối, đảm bảo rằng chỉ những người có đầy đủ
khả năng nhận thức hành vi trái pháp luật mới bị truy cứu. 
Chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Theo quy định, người dưới 16
tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc. 
Hành vi không cấu thành tội phạm: Hành vi đánh bạc dưới mức định
lượng truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới 5.000.000 đồng) và không thuộc
các trường hợp đặc biệt (chưa bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc chưa bị
kết án mà còn vi phạm) thì không cấu thành tội đánh bạc. 
Không có lỗi cố ý: Nếu hành vi không có mục đích được thua bằng tiền
hay hiện vật, tức là không có yếu tố lỗi cố ý trực tiếp, thì không thể truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc. 
Không phải là đồng phạm: Người ngồi xem đánh bạc không bị coi là tội
phạm hay đồng phạm nếu không có hành vi cổ vũ, canh gác hoặc cho
người tham gia sới bạc mượn tiền nhằm mục đích đánh bạc. Quy định này
là quan trọng để phân định rõ ràng ranh giới giữa người tham gia và người
ngoài cuộc, ngăn chặn việc hình sự hóa quá mức. Nó nhấn mạnh yêu cầu
về cả hành vi (actus reus) và ý định (mens rea) để xác định trách nhiệm hình
sự, đảm bảo rằng chỉ những người thực sự có ý định và hành vi góp phần
vào tội phạm mới bị truy cứu.
Các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật
Ngoài các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, Bộ luật Hình sự cũng quy
định các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự tại Điều 29 và các quy
định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các trường hợp này bao gồm: tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, người phạm tội là người chưa thành niên
và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, hoặc các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
5. Phân biệt Tội đánh bạc với các tội danh liên quan
Trong thực tiễn, tội đánh bạc thường bị nhầm lẫn hoặc có mối liên hệ chặt
chẽ với các tội danh khác, đặc biệt là tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc và tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Việc phân biệt rõ ràng các tội danh này là rất
quan trọng để định tội danh chính xác.
5.1. Tội Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Điều 322 BLHS)
Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc được quy định tại Điều 322 Bộ luật Hình
sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Mặc dù có cùng khách thể là xâm
phạm trật tự công cộng, an toàn xã hội và nếp sống văn minh , nhưng hai tội
danh này có những điểm khác biệt cốt lõi về mặt khách quan và vai trò của người phạm tội.
Tội Đánh bạc là hành vi trực tiếp tham gia vào trò chơi được thua bằng tiền
hoặc tài sản. Người phạm tội là người chơi, trực tiếp đặt cược và nhận kết quả thắng thua.
Ngược lại, Tội Tổ chức đánh bạc là hành vi chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy,
cưỡng bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi có được thua bằng tiền
hoặc tài sản; hoặc tổ chức toàn bộ quá trình đánh bạc, như thành lập nhóm
đánh bạc, phân công, điều hành nhóm, điều khiển các trò chơi, lắp đặt trang
thiết bị, phân công người canh gác, phục vụ. Người tổ chức đánh bạc không
nhất thiết phải trực tiếp tham gia vào việc đặt cược thắng thua.
Tội Gá bạc là hành vi sử dụng địa điểm (nhà ở, cửa hàng, khách sạn, phòng
trọ, tàu, xe, thuyền, bè...) hoặc phương tiện thuộc sở hữu hoặc quyền quản lý
của mình để cho người khác sử dụng làm nơi đánh bạc, thường là để thu tiền "hồ" (phí dịch vụ).
Cả ba tội danh này đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp và có chủ thể
tương tự nhau về độ tuổi và năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên,
mức hình phạt của tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thường cao hơn tội
đánh bạc, phản ánh tính chất nguy hiểm và vai trò chủ động trong việc duy trì tệ nạn.
Sự phân biệt giữa "Tội đánh bạc" (Điều 321) và "Tội tổ chức đánh bạc hoặc
gá bạc" (Điều 322) nằm ở vai trò và mức độ chủ động của người phạm tội.
Điều này phản ánh nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, theo đó người
có vai trò tổ chức, tạo điều kiện cho tệ nạn phát triển sẽ phải chịu trách nhiệm
nặng hơn. Tuy nhiên, trong thực tiễn, có những trường hợp người gá bạc
cũng đồng thời tham gia đánh bạc, hoặc người tổ chức đánh bạc sử dụng
chính địa điểm của mình để tổ chức, gây ra sự chồng lấn và vướng mắc trong
việc định tội danh. Trong những trường hợp này, việc xác định hành vi nào là
chủ yếu, nổi bật nhất là cần thiết để định tội danh chính xác, tránh việc truy
cứu trách nhiệm hình sự kép hoặc không đúng bản chất hành vi.
5.2. Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS)
Ranh giới giữa tội đánh bạc và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đôi khi rất mong
manh, đặc biệt khi có yếu tố gian dối trong quá trình đánh bạc. Án lệ số
06/2022/HS-GĐT ngày 19/4/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
đã làm rõ vấn đề này.
Tình huống án lệ: Bị cáo Nguyễn Thanh G muốn chiếm đoạt tiền của G1, đã
mua dụng cụ đánh bạc gian lận (một cái chén có gắn camera, một cái đĩa,
bốn con vị được cắt ra từ bộ bài tú lơ khơ, một điện thoại di động có kết nối
với camera giấu trong chén) và bàn bạc với Trần Như T, Nguyễn Tiến S để
thực hiện thủ đoạn gian lận trong quá trình xóc đĩa. Mục đích của G là làm
cho G1 tin tưởng là cùng nhau đánh bạc thắng, thua không có gian lận dù trái
phép, từ đó G1 mới tham gia để các bị cáo có điều kiện chiếm đoạt tiền.
Giải pháp pháp lý: Tòa án nhân dân tối cao nhận định rằng việc đánh bạc
trong trường hợp này chỉ là phương thức, thủ đoạn để thực hiện hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội "Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản" theo Điều 174 Bộ luật Hình sự, chứ không phải tội
"Đánh bạc" theo Điều 321 Bộ luật Hình sự.
Án lệ này là kim chỉ nam quan trọng trong việc phân biệt ranh giới giữa tội
đánh bạc và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi có yếu tố gian dối. Nó nhấn
mạnh việc xem xét bản chất và mục đích cuối cùng của hành vi phạm tội để
định tội danh chính xác, tránh việc áp dụng sai luật hoặc bỏ lọt tội phạm
nghiêm trọng hơn. Án lệ khẳng định rằng khi ý định chính là lừa đảo tài sản
thông qua các thủ đoạn gian dối, và hành vi đánh bạc chỉ là vỏ bọc hoặc
phương tiện để thực hiện ý định đó, thì tội danh chính phải là lừa đảo. Điều
này ngăn chặn việc định tội danh nhẹ hơn so với bản chất nguy hiểm của
hành vi, đồng thời nhấn mạnh yếu tố "thủ đoạn gian dối" là cốt lõi để phân biệt.
Bảng 1: So sánh Tội Đánh bạc, Tội Tổ chức đánh bạc và Tội Gá bạc
Ti Đánh bc (Điu 321 Ti Tchc đánh bc (Điu Tiêu chí
Ti Gá bc (Điu 322 BLHS) BLHS) 322 BLHS)
Tổ chức, điều hành, chỉ huy việc Dùng địa điểm, phương tiện thuộc sở Hành vi
Trực tiếp tham gia trò chơi khách quan
đánh bạc; lôi kéo, cưỡng bức
hữu/quản lý của mình cho người
được thua bằng tiền/hiện vật. người khác đánh bạc. khác đánh bạc.
Thu lợi bất chính từ việc tổ chức
Được thua tiền/hiện vật từ
Thu lợi bất chính từ việc cho thuê địa Mc đích
đánh bạc; duy trì hoạt động đánh người chơi khác.
điểm/phương tiện đánh bạc (tiền hồ). bạc.
Là dấu hiệu định tội/định
Có thể là dấu hiệu định khung tăng Có thể là dấu hiệu định khung tăng Giá tr
khung (từ 5 triệu đồng trở lên nặng (tổng số tiền/hiện vật dùng
nặng (tổng số tiền/hiện vật dùng tin/hin vt
hoặc dưới 5 triệu đồng nhưng đánh bạc từ 20 triệu đồng trở lên đánh bạc từ 20 triệu đồng trở lên có điều kiện). trong 01 lần). trong 01 lần).
Phạt tiền từ 30 triệu đến 200 triệu
Cải tạo không giam giữ đến
Phạt tiền từ 50 triệu đến 300 triệu Khung hình
hoặc cải tạo không giam giữ đến 03
pht cơ bn 03 năm hoặc phạt tù từ 06
hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05
năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 tháng đến 03 năm. năm. năm.
Phạt tiền từ 20 triệu đến 100 triệu
Hình pht bPhạt tiền từ 10 triệu đến 50
Phạt tiền từ 10 triệu đến 50 sung
đồng hoặc tịch thu một phần/toàn triệu đồng.
triệu đồng (thường áp dụng). bộ tài sản.
Người chơi trực tiếp cá Người lập trang web cá độ
Chủ nhà cho thuê nhà để người Ví d độ bóng đá 5 triệu
bóng đá, quản lý tài khoản, khác đến xóc đĩa, thu tiền đồng.
thu tiền từ người chơi. "hồ".
Có thể đồng thời là người tổ Có thể đồng thời là người gá bạc Khnăng
Có thể đồng thời là người đánh bạc
chng ln chức hoặc gá bạc nếu có đủ
nếu sử dụng địa điểm của mình để nếu tham gia chơi. dấu hiệu cấu thành. tổ chức.
6. Các văn bản hướng dẫn và án lệ liên quan
Để đảm bảo việc áp dụng Điều 321 Bộ luật Hình sự được thống nhất và hiệu
quả, các cơ quan tư pháp đã ban hành hoặc đang trong quá trình xây dựng
các văn bản hướng dẫn.
Hiện tại, có Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao đang được lấy ý kiến đóng góp, nhằm hướng dẫn áp dụng một số quy
định tại Điều 321 và Điều 322 của Bộ luật Hình sự. Sự tồn tại của dự thảo
này cho thấy những vướng mắc và sự thiếu rõ ràng trong thực tiễn áp dụng
Điều 321 và Điều 322 Bộ luật Hình sự là rất lớn, đòi hỏi một hướng dẫn thống
nhất từ cấp cao nhất của ngành tư pháp. Điều này cũng hàm ý rằng bản thân
điều luật, dù đã được sửa đổi, vẫn còn những khoảng trống hoặc điểm chưa
được làm rõ, đặc biệt trong bối cảnh các hình thức đánh bạc ngày càng trở
nên phức tạp và đa dạng. Việc ban hành hướng dẫn chính thức từ Tòa án
nhân dân tối cao là cần thiết để đảm bảo tính nhất quán và công bằng trong xét xử.
Bên cạnh đó, các văn bản như Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC-BCA-BQP-BTP, ngày 15/12/2021, về tổ chức phiên tòa trực tuyến,
dù không trực tiếp hướng dẫn nội dung Điều 321, nhưng là một văn bản quan
trọng trong tố tụng hình sự liên quan đến các vụ án đánh bạc, đặc biệt trong
bối cảnh công nghệ phát triển.
Luật Minh Khuê giới thiệu một số án lệ tiêu biểu có liên quan đến tội đánh bạc:
Án lệ số 06/2022/HS-GĐT ngày 19/4/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng về vụ án “Đánh bạc” đối với các bị cáo Nguyễn Thanh G, Trần Như
T và Nguyễn Tiến S là một án lệ quan trọng, làm rõ ranh giới giữa tội đánh
bạc và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi có yếu tố gian dối.
Tình huống án lệ: Bị cáo G, với ý định chiếm đoạt tiền của G1, đã mua bộ
dụng cụ đánh bạc gian lận (chén gắn camera, đĩa, con vị) và bàn bạc thống
nhất với T và S cùng thực hiện thủ đoạn gian lận trong quá trình xóc đĩa. Mục
đích là làm cho G1 tin tưởng rằng việc đánh bạc là công bằng để G1 tham gia,
từ đó các bị cáo có thể chiếm đoạt tiền.
Giải pháp pháp lý: Tòa án nhân dân tối cao đã nhận định rằng việc đánh bạc
trong trường hợp này chỉ là phương thức, thủ đoạn để thực hiện hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, hành vi phạm tội của Nguyễn Thanh G, Trần
Như T và Nguyễn Tiến S đã cấu thành tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo
quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự, chứ không phải tội "Đánh bạc" theo
Điều 321 Bộ luật Hình sự.
Ý nghĩa của án lệ: Án lệ này là kim chỉ nam quan trọng trong việc phân biệt
ranh giới giữa tội đánh bạc và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi có yếu tố
gian dối. Nó nhấn mạnh việc xem xét bản chất và mục đích cuối cùng của
hành vi phạm tội để định tội danh chính xác, tránh việc áp dụng sai luật hoặc
bỏ lọt tội phạm nghiêm trọng hơn. Án lệ này hướng dẫn các cơ quan tố tụng
phải đi sâu vào ý định của người phạm tội: nếu ý định chính là chiếm đoạt tài
sản bằng thủ đoạn gian dối, thì dù có vỏ bọc là đánh bạc, tội danh vẫn phải là lừa đảo.
Ví dụ về đánh bạc trực tuyến: Bản án số 91 ngày 31/05/2025 của TAND TP
Đà Nẵng về tội Tổ chức đánh bạc là một ví dụ điển hình. Trong vụ án này,
các bị cáo Nguyễn Tấn C, Nguyễn Thanh X, Đặng Ngọc H2 đã tổ chức cá độ
bóng đá qua mạng internet với tổng số tiền tổ chức đánh bạc lên đến hàng
chục tỷ đồng (Nguyễn Tấn C là 41.283.338.319 đồng, Nguyễn Thanh X và
Đặng Ngọc H2 là 37.023.294.019 đồng). Bị cáo Nguyễn Thanh V2 tham gia
đánh bạc với tổng số tiền hơn 1 tỷ đồng (1.150.898.900 đồng).
Các bản án về đánh bạc trực tuyến với số tiền giao dịch lên đến hàng chục tỷ
đồng cho thấy quy mô và tính chất nguy hiểm ngày càng tăng của loại tội
phạm này. Điều này củng cố thêm lý do vì sao "sử dụng mạng internet, mạng
máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử" được quy định là tình tiết
tăng nặng định khung tại Điều 321 Bộ luật Hình sự. Quy mô giao dịch khổng
lồ này phản ánh khả năng lan rộng nhanh chóng và mức độ thiệt hại kinh tế
tiềm tàng của cờ bạc trực tuyến. Nó cũng cho thấy thách thức lớn trong việc
truy vết dòng tiền, xác định vai trò của từng đối tượng trong các đường dây
phức tạp, và đòi hỏi các cơ quan chức năng phải nâng cao năng lực điều tra tội phạm công nghệ cao.
7. Một số vướng mắc và kiến nghị giải pháp hoàn thiện
Trong quá trình tham gia giải quyết các vụ án hình sự về tội đánh bạc, Luật
Minh Khuê nhận thấy thực tiễn áp dụng Điều 321 Bộ luật Hình sự về tội đánh
bạc vẫn còn đối mặt với nhiều vướng mắc và bất cập, ảnh hưởng đến tính
thống nhất và hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thứ nhất, vấn đề xác định chính xác tiền, hiện vật dùng đánh bạc, đặc biệt
trong các hình thức phức tạp: Một trong những khó khăn lớn nhất là việc xác
định chính xác tổng số tiền hoặc giá trị hiện vật dùng để đánh bạc, đặc biệt
trong các hình thức cá độ, số đề, và đánh bạc trực tuyến. Việc truy vết dòng
tiền giao dịch qua mạng, xác định giá trị thực của các hiện vật không phải tiền
mặt, hoặc quy đổi các hình thức cá cược phức tạp thành giá trị tiền tệ cụ thể
là thách thức lớn đối với cơ quan điều tra. Ngoài ra, việc xác định "một lần
đánh bạc" đối với các hình thức cá độ, số đề khi có nhiều đợt chơi trong một
kỳ/trận đấu cũng gây ra nhiều tranh cãi và quan điểm khác nhau trong thực tiễn.
Thứ hai, xử lý hành vi đánh bạc nhiều lần mà mỗi lần số tiền không đủ định
lượng truy cứu trách nhiệm hình sự: Như đã phân tích ở ví dụ Nguyễn Văn A
và B , quy định hiện hành tạo ra sự bất hợp lý và không công bằng. Đây là
một trong những bất cập lớn nhất được nêu bật từ thực tiễn, cho thấy sự
thiếu đồng bộ giữa mục tiêu phòng chống tội phạm và hiệu quả thực thi pháp
luật. Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến tính công bằng mà còn tạo ra kẽ
hở cho các đối tượng lợi dụng để lách luật, gây khó khăn cho công tác điều
tra, truy tố. Lỗ hổng pháp lý này cho phép những đối tượng đánh bạc chuyên
nghiệp lách luật bằng cách chia nhỏ các giao dịch, làm suy yếu tính răn đe
của pháp luật và đòi hỏi một giải pháp pháp lý rõ ràng.
Thứ ba, vướng mắc trong việc xử lý vật chứng, đặc biệt là tài sản chung vợ
chồng: Việc xử lý vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm được quy định tại
Điều 47 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, trong trường hợp tài sản chung của vợ
chồng được một bên dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, việc xử lý trở
nên phức tạp. Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng
dẫn xử lý tài sản chung vợ chồng trong trường hợp này quy định việc tịch thu
toàn bộ công cụ, phương tiện phạm tội đó mà không phụ thuộc vào việc
người vợ/chồng của người phạm tội có lỗi hay không. Tuy nhiên, nếu người
vợ/chồng có tranh chấp về quyền sở hữu hoặc yêu cầu bồi thường một phần
giá trị tài sản chung, thì sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Việc xử lý tài sản chung vợ chồng khi một bên dùng làm công cụ phạm tội là
một vấn đề phức tạp, đòi hỏi sự cân bằng giữa việc tịch thu tang vật tội phạm
và bảo vệ quyền lợi của người không liên quan. Dự thảo Nghị quyết cố gắng
giải quyết vấn đề này bằng cách ưu tiên tịch thu nhưng mở ra khả năng giải
quyết tranh chấp dân sự, cho thấy sự phức tạp trong việc áp dụng biện pháp
tư pháp trong các mối quan hệ tài sản gia đình. Điều này nhấn mạnh sự cần
thiết của các hướng dẫn chi tiết để đảm bảo cả tính nghiêm minh của pháp
luật và sự công bằng cho các bên liên quan.
Thư tư, thách thức từ sự đa dạng và tinh vi của các hình thức đánh bạc mới:
Sự xuất hiện liên tục của các hình thức đánh bạc mới, đặc biệt là đánh bạc
trực tuyến, sử dụng tiền ảo, hoặc các phương thức giao dịch phức tạp (như
chuyển khoản qua nhiều lớp tài khoản trung gian, sử dụng ví điện tử quốc tế)
gây khó khăn lớn cho việc thu thập chứng cứ, xác định giá trị tiền đánh bạc
và truy vết dòng tiền. Điều này đòi hỏi các cơ quan chức năng phải liên tục
cập nhật kiến thức, công nghệ và phương pháp điều tra.
Từ thực tiễn trên, có thể rút ra những kiến nghị và giải pháp cụ thể để nâng
cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội đánh bạc, cần có những
kiến nghị và giải pháp đồng bộ từ việc hoàn thiện pháp luật đến nâng cao
năng lực thực thi và ý thức cộng đồng.
Một là, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật Hình sự và các văn
bản hướng dẫn để khắc phục vướng mắc 
Về cách xác định tiền, hiện vật dùng đánh bạc: Cần có hướng dẫn chi
tiết hơn về cách tính tổng số tiền/hiện vật trong các trường hợp đánh bạc
nhiều lần nhưng mỗi lần dưới định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự,
hoặc trong các hình thức cá độ, số đề phức tạp để đảm bảo tính công bằng
và thống nhất. Việc thiếu hướng dẫn cụ thể về cách tổng hợp số tiền đánh
bạc trong các trường hợp "phạm tội nhiều lần" tạo ra một lỗ hổng pháp lý
lớn, cho phép các đối tượng đánh bạc chuyên nghiệp lách luật bằng cách
chia nhỏ các giao dịch. Đây là một vấn đề cấp bách cần được giải quyết
bằng các văn bản hướng dẫn có giá trị pháp lý cao (ví dụ: Nghị quyết của
Hội đồng Thẩm phán TANDTC) để đảm bảo pháp luật được thực thi công
bằng và hiệu quả, đồng thời ngăn chặn việc lợi dụng kẽ hở này. 
Về xử lý vật chứng là tài sản chung vợ chồng: Cần hoàn thiện hướng
dẫn để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người không liên quan trong tài
sản chung, đồng thời vẫn đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong
việc tịch thu tang vật tội phạm.
Hai là, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử tội đánh bạc 
Nâng cao năng lực cho cán bộ thực thi pháp luật: Cần đào tạo chuyên
sâu về tội phạm công nghệ cao, kỹ năng điều tra tài chính và truy vết dòng
tiền trong các vụ án đánh bạc trực tuyến. Điều này bao gồm việc trang bị
kiến thức về công nghệ blockchain, tiền ảo và các phương thức giao dịch điện tử phức tạp. 
Tăng cường hợp tác liên ngành và quốc tế: Đặc biệt quan trọng trong
các vụ án đánh bạc xuyên quốc gia, liên quan đến nhiều đối tượng, địa bàn
và máy chủ đặt ở nước ngoài. Việc phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
công an, viện kiểm sát, tòa án và các tổ chức quốc tế là yếu tố then chốt để
phá vỡ các đường dây đánh bạc lớn. 
Ứng dụng công nghệ trong điều tra: Khuyến khích và đầu tư vào việc sử
dụng các công cụ phân tích dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo để phát hiện và xử
lý các đường dây đánh bạc phức tạp, tự động hóa quá trình thu thập và
phân tích chứng cứ điện tử.
Ba là, kiến nghị về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao nhận thức cộng đồng 
Tăng cường truyền thông về tác hại của tệ nạn đánh bạc: Tổ chức các
chiến dịch tuyên truyền sâu rộng về những hậu quả tiêu cực của cờ bạc đối
với cá nhân, gia đình và xã hội, đặc biệt là các hình thức đánh bạc trực
tuyến đang ngày càng phổ biến. 
Giáo dục cộng đồng về các quy định pháp luật liên quan: Phổ biến kiến
thức pháp luật về tội đánh bạc, các dấu hiệu nhận biết hành vi trái phép và
các hình phạt tương ứng, giúp người dân nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật và chủ động phòng tránh.
8. Một số câu hỏi thường gặp (FAQs) về tội đánh bạc
8.1. Hình phạt khi đánh bạc bị giữ trên chiếu bạc 10 triệu?
Căn cứ theo điều 321, Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 có quy
định về tội đánh bạc, về tội này hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền mà có
giá trị từ 5.000.000 đồng trở lên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy,
hành vi đánh bạc có giá trị là hơn 10 triệu đồng (trên 5.000.000 đồng) đã thoả
mãn tội đánh bạc nêu trên, nên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nhẹ sẽ bị
phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, nặng sẽ bị phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm. Kèm theo đó còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
8.2 Cách tính số tiền đánh bạc như thế nào?
Cách tính tiền, giá trị vật dùng để đánh bạc thì không tính tổng số tiền, giá trị
hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ từng lần để xem xét như sau: 
Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh
bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới 5.000.000
đồng) và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách
nhiệm hình sự (đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ
luật hình sự, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm) thì người đánh bạc
không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Đánh bạc; 
Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của lần đánh bạc
nào bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ
5.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội Đánh bạc đối với lần đánh bạc đó; 
Trường hợp đánh bạc từ 02 lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng
đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu