Tóm tắt lý thuyết Lịch sử về Nhà nước và Pháp luật phần Việt Nam theo từng chương cụ thể

Tóm tắt lý thuyết Lịch sử về Nhà nước và Pháp luật phần Việt Nam theo từng chương cụ thể của Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD|36477832
PHẦN VIỆT NAM:
Chương 1: Sự hình thành nhà nước và pháp luật đầu tiên ở Việt Nam.
Văn hóa: Phương đông chứng ra đề cao sự đoàn kết trong cộng đồng, chúng ta không có nhu cầu khám
phá do điều kiện tự nhiên thuận lợi nên sống co cụm lành đùm rách=> mâu thuần giữa các tầng
lớp chưa gay gắt.
c. Trị thủy-thủy lợi và chống chiến tranh ( nhu cầu bức thiết):
Điều kiện tự nhiên: nhiều sông hồ, thuận lợi nhưng chịu ảnh hưởng bởi thiên tai.
Nhu cầu của nền kinh tế nông nghiệp: Nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước giữ vai trò chủ đạo, phụ
thuộc rất lớn vào hoạt động trị thủy-thủy lợi=> Trị thủy-thủy lợi đóng vai trò quan trọng trong hội
bấy giờ.
- Vị trí địa lý và nhu cầu thôn tính nhau giữa các thị tộc, bộ lạc: Nhu cầu tự vệ, chống lại mối đe dọa từ
bên ngoài là rất cần thiết. Nhu cầu thôn tính lẫn nhau giữa các thị tộc, bộ lạc xuất hiện.
→ Nhu cầu chống chiến tranh
Do vậy, thủy lợi và chống chiến tranh là những yếu tố thúc đẩy sự ra đời sớm hơn của Nhà nước. Tại
sao? Nhu cầu thủy lợi và chống chiến tranh đòi hỏi sức mạnh của tập thể, đòi hỏi sự tập hợp không chỉ
là của nhiều gia đình nhỏ mà còn là sự liên kết nhiều công xã nông thôn với nhau. Vì vậy, tổ chức rộng
lớn hơn đã hình thành. Tổ chức ấy ra đời cần sự chỉ huy thống nhất của một số người nắm vai trò thủ
lĩnh, những người uy tín, địa vị trong hội giúp dân chống thiên tai, bảo vệ người dân. Như vậy,
nhưng người này, tổ chức này ban đầu được bầu ra chỉ mang tính chất quản lý về xã hội nhưng dần dần
họ nắm nhiều quyền lực trong tay mang sức mạnh công cộng đặc biệt, dẫn đến Nhà nước xuất hiện.
Lưu ý: trị thủy thủy lợi và chống chiến tranh không nắm vai trò quyết định ( mang tính chất hội
lúc đầu chưa có giai cấp thì cũng đã cần phải trị thủy và chống chiến tranh. đây chỉ là yếu tố tác động
nếu không thì nhà nước vẫn ra đời nhưng chậm hơn thôi). Nhân tố quyết định thuộc về mâu
thuẫn giai cấp nếu không có nó thì nn ko ra đời. Mâu thuẫn giai cấp không gay gắt thì nó cần thời gian
để gay gắt và xuất hiện nhà nước từ đấu tranh giai cấp ( cái nào chỉ cần 1 mình nó cũng đủ làm nn xuất
hiện thì nó là yếu tố quyết định.
Chương 2: NGÔ – ĐINH – TIỀN LÊ.
I. TCBMNN:
Tổ chức BMNN khá đơn giản, chưa hoàn thiện vì là những triều đại đầu tiên, thời gian tồn tại ngắn nên
chưa kịp tổ chức BMNN kĩ càng. XH loạn lạc ( giai đoạn vừa mới thoát khỏi hơn 1000 năm bắc thuộc
và chống bắc thuộc. nên coi trọng quân sự ko đủ điều kiện y dựng BMNN.
- Nặng tính hành chính quân sự: vì hoàn cảnh giai đoạn vừa mới thoát khỏi hơn 1000 năm bắc thuộc
chống bắc thuộc nên vẫn còn bất ổn. 10 đơn vị hành chính cũng là 10 đại quân ( mang tính chất hành
chính quân quản). Khi hòa bình thì 10 đơn vị này 10 đơn vị hành chính, khi chiến tranh thì 10 đơn
vị này10 đại quân cung ứng lực lượng quân sự.). Chọn Hoa Lư vì do có vị trí hiểm trở, đồi núi cao
bao quanh cho thấy sự chú trọng của Nhà nước trong giai đoạn y là phòng thủ quốc gia tăng ờng
sức mạnh về quân sự do lúc này nhà Đinh ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh nên đề cao quân sự. Quan
lOMoARcPSD|36477832
lại trong nhà nước chủ yếu các quan do chưa đủ đk mở khoa thi nên vua chọn những người đã
từng cùng vua chiến đấu.
Chương 3: LÝ-TRẦN – HỒ.
I. TCBMNN:
1. Nhà Lý:
Công Uẩn sống trong chùa từ nhỏ nên ông phát triển đạo phật khi ông lên ngôi vua n Đạo phật
trở thành hệ tư tưởng chủ đạo của nước ta lúc bấy giờ. Sau khi ông lên ngôi vua thì dời đô về Đại La (
Thăng Long: thăng long nằm trên vùng đồng bằng nên giúp phát triển kinh tế do phù sa màu mở=> tầm
nhìn xa của Lý Công Uẩn vì 1 nước mạnh là mạnh lên từ kinh tế). Sau đó đổi tên quốc hiệu thành Đại
Việt. Triều Lý là triều đại tiếp tục củng cố và phát triển nền độc lập, bước đầu xây dựng phát triển nhà
nước.
Sau đó Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh nhường ngôi cho chồng=> nhà trần ra đời. Nhà Trần đã 3
lần chiến thắng quân Nguyên-Mông giữ vững độc lập dân tộc.
Tcbmnn bao gồm vua rồi đến tể tướng ( giúp việc cho vua chỉ đứng sau vua nên quyền lực rất lớn) rồi
đến quan đại thần rồi đến các bộ.
+ Hoàng đế nắm vương quyền: lập pháp, hành pháp, pháp, quân đội, ngoại giao quốc phòng cả
thần quyền là chủ tế trong các buổi sinh hoạt nghi thức. Vua chủ trương “ thân dân” xuất phát từ việc
lấy phật giáo làm hệ tư tưởng chủ đạo, thường giảm nhẹ hình phạt cho dân ngoài ra việc lấy phật giáo
làm quốc giáo để phân biệt với Trung Quốc về tôn giáo.
+ Quan đại thần nguồn gốc xuất thân các công thần, cống hiến cho triều đình hoặc đỗ đạt cao
trong các khoa thi, có tâm tài đức.
2. Nhà Trần – Hồ:
- Nhà Hồ thì tổ chức khoa thi nên không mang nặng tính quý tộc thân vương.
- Nhà Trần mang nặng tính quý tộc thân vương ưu điểm là hạn chế sự phản bội.
- Biện pháp củng cố thế lực thời nhà trần:
+ Biến hoàng tộc thành tổ thức hậu thuẫn chính trị của vương triều ( xóa bỏ ảnh hưởng còn xót lại của
nhà ( giết tôn thất, đổi họ lý thành họ nguyễn vì họ trần mới được tham gia BMNN nên họ đổi sau
trần thì những người họ thể tham gia BMNN , vua họ trần cao quý nên những người họ phải
đổi thành họ nguyễn, Họ nguyễn lúc này tầm thường nên Họ lý đổi thì thành sang sang tầm thường.)
+ Gả công chúa cho quốc gia lâm bang ( thiết lập quan hệ ngoại giao), quan tướng giỏi ( thì những
người họ khác họ trần này sẽ thành hoàng tộc và trung thành với vua.
+ Ban phong tước hiệu cho vương hầu họ trần. Quan đại thần đều là họ trần vì muốn bảo vệ quyền lực
tối đa mang nặng quý tộc thân vương nên không chọn được những người tài giỏi nên BMNN không
hiệu quả.
+ Khuyến khích hôn nhân nội tộc ( đảm bảo thuần nhất dòng họ, ngăn chặn chiếm đoạt dòng họ, củng
cố vương quyền nhà vua).
lOMoARcPSD|36477832
TCBMNN chung cho cả trần- hồ:
Hoàng đế nắm vương quyền thần quyền trực tiếp điều hành nhà nước.
Thái thượng hoàng ( CHỈ CÓ Ở NHÀ TRẦN-HỒ) là tư vấn, cố vấn là nguyên thủ tối cao. ( Chính thể
lưỡng đầu: Cha =chưa chết đã đưa con lên cái hay sẽ người hướng dẫn về điều hành đất
nước cho vị hoàng đế mới lên ngôi, tránh tranh chấp giữa các hoàng tử, đảm bảo sự thống trị tập quyền
huyết thống, phát huy được giá trị tập thể giữa 2 người để đưa ra quyết định nhưng cũng có hạn chế là
.việc đưa ra quyết định sẽ bị chậm trễ, đi ngược lại hệ tư tưởng Nho giáo là 1 nước chỉ có 1 vua
Tể tướng gồm 2 người phát huy tính tập thể dưới tể tướng có các quan đại thần.
Dưới nữa là 6 bộ đứng đầu là thượng thư quản lí 6 lĩnh vực.
=> Nhận xét là TCBMNN mở rộng và quy củ hơn Ngô Đinh Tiền Lê.
Số lượng cơ quan chuyên trách nhiều hơn.
Tăng cường tính quý tộc thân vương ( Đặc biệt là nhà trần).
9. Thời nhà trần, Thái thượng hoàng vua cùng cai trị đất nước là biểu hiện của nguyên tắc phân
quyền.
Sai. Nguyên tắc phân quyền là nguyên tắc tam quyền phân lập thành 3 bộ phận chỉ xuất hiệnnhững
quốc gia phương tây. Mục đích chia sẻ quyền lực nhà vua tránh cho vua lạm quyền thì 3 bộ phận này
thành ba bộ phận riêng kiềm chế đối trọng lẫn nhau. Còn Vua thái thượng hoàng chia quyền
lực cơ học chứ ko theo pháp lý ( ko chia thành lập hành tư pháp).
Trắc nghiệm.
1. Hình thức chính thể của nhà nưc thời nhà trần: B. Quân chủ tuyệt đối.
2. quyền lực nhà nước thời Đinh Tiền Lê Lý Trần đều được tổ chức theo nguyên tắc: A.
Tập quyền phi dân chủ. ( mọi quyền lực đều nằm trong tay nhà vua).
3. Thế k thứ 11-14 thời Trần Hồ chính thể quân chủ tuyệt đối bước vào giai đoạn:
B. Củng cố và xây dựng.
4. Nền quân chủ thời Lý có đặc điểm:
C. Quyền lực nhà vua chưa thực sự mang tính chuyên chế, hà khắc. ( chính sách thân dân). 5.
Đặc điểm lưỡng đầu cai trị
c. Trần Hồ.
6. Thời nhà trần chức danh nguyên thủ quốc gia gồm.C. Vua
thái thượng hoàng.
7. Trong TCBMNN Nhà trần hồ, chức danh Thái thượng hoàng: B.
có nhiều thực quyền trong đời sống chính trị.
8. Đội ngũ quan đại thần lý trần hồ có đặc điểm:
lOMoARcPSD|36477832
C. có nhiều thực quyền trong đs chính trị ( do là quý tộc thân vương nên quyền lực lớn, giúp đỡ, trung
thành với vua nhưng can dự tác động đến sự quyết định của vua nên sau này Thời thì vua quyết định
cho những quan đại thần hưởng tiền bạc thay vì quyền lực, không chọn được người tài).
9. Tể tướng thời Lý Trần Hồ:
B. là đội ngũ quan lại có quyền lực lớn trong triều.
Chương 5: Thời kì Lê Sơ: là thời kì đầu hậu lê
II. TCBMNN
1. Thời kỳ đầu Lê Sơ ( 1428-1460) trước cải cách của vua lê thánh tông.
Vua nắm vương quyền và thần quyền.
Dưới vua có các quan đại thần ( tả, hữu tướng quốc, đại hành khiển ( đứng đầu quan văn)) Quan
lại chia thành quan văn và quan võ ( đứng đầu là đại đô đốc).
=> còn mang tính quý tộc thân vương do ảnh hưởng từ triều trần dẫn đến
- quyền lực của nhà vua sẽ bị phân tán trong quý tộc hoàng tộc do ảnh hưởng từ thời trần (
nhượcđiểm), vua ko còn nắm quyền tuyệt đối. Còn địa phương rời rạc “thoán quyền” khỏi trung
ương ( do chưa kịp ổn định nhà nước, địa phương ko nghe lời trung ương).
- Nặng tính quân sự do ra đời trong chiến tranh loạn lạc thắng giặc nhà minh( giống hoàn cảnh ra
đờicủa ngô đinh tiền lê). Mang tính hành chính – quân sự để phòng thủ cho quốc gia.
2. Thời kỳ sau cải cách Lê Thánh Tông:
Cải cách xây dựng dựa trên 3 nguyên tắc:
Nguyên tắc tập quyền: dựa trên tư tưởng ( tôn quân quyền của Nho giáo) là vua nắm lập hành tư pháp
( quyền lực tuyệt đối, duy nhất, 1 nước 1 vua). Thì vua Thánh Tông đã bỏ chức danh tể tướng
thiết chế này tể tướng có quyền lực rất lớn nên cho nó out vì tránh lật đổ nhà vua, thao túng quyền lực
nhà vua. Bỏ các quan cố vấn vì chức năng tư vấn cố vấn cho nhà vua nhiều trường hợp nó sẽ
thao túng quyết định của nhà vua nên cho nó out để ko bị ảnh hưởng để có quyết sách của riêng mình.
Vua trực tiếp quản lý cơ quan chuyên môn mà ko qua cơ quan trung gian nào cả. Giữ lại chức quan đại
thần chỉ giảm số lượng ( người có công với triều đình và quý tộc thân vương) và mấy người này thì ko
còn chức năng trung gian nữa, không còn quyền lực chỉ được lợi ích vật chất , giữ lại nhằm mục đích
là bảo vệ đc lợi ích của quý tộc, những người có công nhưng ko làm ảnh hưởng đến quyền lực nhà vua.
Nguyên tắc tản quyền: xuất phát từ nhu cầu xh cần chuyên môn hóa. Ông hạn chế việc tập trung quá
nhìu quyền lực vào 1 cơ quan để tránh lạm quyền. Mà chia thành nhiều cq chuyên môn chia nhỏ quyền.
Cấp trên chỉ giám sát thoi ở dưới thực hiện
2 nguyên tắc trên ko mâu thuẫn với nhau tập quyền cho vua thoi còn tản quyền tản quyền
chobên dưới nhà vua làm cho nguyên tắc tập quyền hiệu quả n lúc y quyền lực nvua to
nhất.
lOMoARcPSD|36477832
Nguyên tắc pháp chế: ( bắt quan lại tuân theo pháp luật) cao hơn pháp trị ( dùng pháp luật cai trị người
dân) và thấp hơn pháp quyền. Đảm bảo không chỉ người dân phải tuân thủ pháp luật mà quan lại cũng
phải tuân thủ để noi gương cho người dân. Nguyên tắc nhằm bó buộc lại quyền lực của quan lại.
=> Nước đầu có sự tách bạch giữa hoạt động tư pháp và giám sát . Giám sát độc lập với cq khác ( trực
thuộc nhà vua giúp nhà vua buộc đội ngũ quan lại phải tuân theo pl nhà vua nếu ai làm trái thì sd
pháp để xử lí).
2.1. TCBMNN ở trung ương:
Từ sau cải cách Lê Thánh Tông:
Vua nắm vương quyền và thần quyền ( mức độ tập quyền hết vào nhà vua).
Dưới vua Quan đại thần ko còn thực quyền. Không kiêm nhiệm nhiều chức vụ. ( bỏ tể tướng). =>
khéo léo xử lí quý tộc thân vương để quyền lực nhà vua không bị hạn chế.
quan văn phòng gồm hàn lâm viện, đông các viện, trung thư giám ( 3 cq này giúp cho việc ban hành
giấy tờ của vua), hoàng môn tỉnh ( giữ ấn tín cho nhà vua), thư giám ( trông coi thư viện cho nhà
vua).
các quan chuyên môn hóa rất cao, sự kiểm tra giám sát lẫn nhau. Cũng bao gồm lục bộ.
thêm lục tự: nhằm giúp việc cho lục bộ làm những việc lục bộ chưa làm hết nhưng làm việc và chịu
trách nhiệm trước nhà vua.( tai mắt của nhà vua lục bộ, nếu sai phạm sẽ báo ngay cho vua).(
giám sát không chính thức).
Cơ quan giám sát chính thức: ngự sử đài để giảm sát quan lại ở trung ương và địa phương. Và cơ quan
lục khoa là 6 quan chuyên môn giám sát lục bộ. quan giám sát độc lập với quan bị giám sát
và nằm trực tiếp dưới sự quản lý của vua=> Vua coi trọng giám sát để tránh hành vi sai trái của quan.
Có các cơ quan chức năng phát triển nông nghiệp=> vua coi trọng nông nghiệp.
2.2 Địa phương:
Trước cải cách vua Lê Thánh Tông:
Gồm 5 cấp: đạo, Lộ-phủ-trấn( cấp trung gian), Châu, Huyện, ( sl nhiều nên tiu cực n xu hướng
giảm)
Đứng đầu đạo là Viên quan hành khiển.
Sau cải cách của vua Lê Thánh Tông:
Giảm số cấp từ 5 cấp xuống 4 cấp địa phương ( Đạo, phủ, Huyện-Châu ( cấp trung gian), Xã). Ông b
chức Hành khiển ( 1 người đứng đầu các đạo) và ban hành chức Tam Ty đứng đầu các đạo ( gồm 3 bộ
phận thừa, đô, hiến ty => nguyên tắc tản quyền nhằm tăng cường quyền lực cho trung ương đảm nhiệm
ba quyền khác nhau dấu hiệu tam quyền phân lập, chuyên môn hóa). Đổi tên xã quan ( mang nặng
tính quan liêu xa rời dân) thành Xã trưởng sẽ do người dân bầu ra (dân chủ) thay vì cấp trên cử xuống
như trước cải cách=> nhận thức được công chức người phục vụ cho dân quyền lực của họ do
người dân trao cho nên sử dụng đúng quyền lực đó để chăm lo cho dân. Tăng số đạo từ 5
lên 13 vì phân chia quyền lực ra ví dụ 2 đạo cấu kết thì mình die còn 13 đạo thì an toàn hơn.
lOMoARcPSD|36477832
quan giám sát phẩm chật thấp hơn quan bị giám sát nhưng vẫn giám sát được độc lập
với quan bị giám sát trực thuộc chịu sự trách nhiệm trước nhà vua nên không sợ quan bị
giám sát.=> Vua vẫn coi trọng các cơ quan chuyên môn là lục bộ thực hiện hành pháp vì nó ảnh hưởng
đến BMNN sự phát triển nhà nước ( bộ máy hành pháp cồng kềnh nhiều đơn vị, hoạt động liên
tục quyền lực lớn thể tác động đến lập pháp nếu ko kiểm soát dlạm dụng quyền hơn lợi ích
nhóm: người vận hành quyết định nhà vua nên phẩm chật cao hơn ( còn quan giám sát chỉ mục
đích làm hoạt động trơn tru đúng quy trình).
Quy định về hồi tỵ: không cho Anh em họ hàng, anh em ruột, con chú bác cô cậu...làm xã trưởng tránh
thao túng quyền lực, cấu kết lẫn nhau ảnh hưởng quyết định xã trưởng
Hình thức tuyển chọn quan lại: Thi cử ( phổ biến nhất), Tiến cử (Trong thời kì đầu thi cử ko phổ biến
mới sd cái y Cử người chưa kinh nghiệm m quan) , bảo cử ( Trong thời đầu thi cử ko phổ
biến mới sd cái này cử người đã có kinh nghiệm đi làm quan), Tập ấm ( con quan rồi lại làm quan, vẫn
còn giữ cái hình thức này những người này là hoàng tộc , TCBMNN thời này vẫn còn tính quý tộc
thân vương, hạn chế rất nhiều quyền lực ròi, đảm bảo lợi ích cho đại công thần, hoàng thân quốc
thích. Coi trọng nho giáo nên coi trọng quan văn hơn.
Chính sách hồi tỵ: Tránh sd người có quan hệ ruột thịt đang tại chức ( tránh kết bè kết phái), tránh cho
chấm thi nếu có người thân đi thi ( đảm bảo khách quan trong kì thi).
Xử lý quan lại: Pháp luật quy định hình phạt cụ thể cho từng loại tội phạm thì cứng nhắc hơn nhưng
tính răn đe cao hơn vua nhắm tới việc quan lại làm đúng quy định pháp luật luôn không cần xem vấn
đề nhân thân thì làm cho quan lại ko được đưa ra quyết định tùy ý ( với từng tội phạm thì hình phạt cụ
thể ví như tù 5 năm ghi tù năm năm luôn khác quy định luật có khung như hiện nay ( từ 3 đến 5 năm
đồ đó)). Khi áp dụng khung như hiện nay có vấn đề chạy án để lấy tình tiết giảm nhẹ để lấy mức dưới
trung bình của khung nên không còn tính răn đe. Việc đưa khung là để tòa án linh hoạt để đưa bản án
phù hợp nhân thân, tình huống.
NHẬN ĐỊNH:
1. Tổ chức cấp “Đạo” thời kỳ đầu nhà đơn vị hành chính theo nguyên tắc “Trung ương tập
quyền” kết hợp với “chính sách quân quản”.
Sai. Thời đầu quyền lực địa phương lớn và viên quan hành kiểm của các đạo ( 5 đạo cả ớc)
toàn bộ quyền lực nên lấn át cả quyền lực trung ương sẽ ít lại, hạn chế quyền lực trung ương. Nên
Sau cải cách vua Thánh ng vua mới chia nhiều đạo hơn để quyền lực tập trung hết vào trung
ương. Lê sơ ra đời trong chiến tranh nên vẫn còn quân quản 5 đạo đồng thời là 5 đơn vị quân sự
2. Việc vua Thánh Tông cho phép người n trực tiếp bầu ra chức danh trưởng biểu hiện
củanguyên tắc “ tản quyền”.
Đúng. Xã quan trước đây do cấp quan cử thì thẩm quyền bầu cấp trên nay xã tởng là do người
dân thì chuyển giao quyền lực từ cấp trên xuống cấp dưới. Tản quyền có hai hình thức là ngang ( tam
ty) và dọc đây là tản quyền dọc chuyển chức năng nhiệm vụ của cấp trên xuống cấp dưới cấp trên (cấp
trung ương) chỉ còn giám sát thoi.
3. hình chính quyền quân quản được thiết lập vào giai đoạn đầu của mỗi vương triều.
lOMoARcPSD|36477832
Sai. Không phải thời kì nào triều đại nào cũng vậy. Ví dụ Lý Trần Hồ hoàn cảnh ra đời không phải từ
chiến tranh, Vương triều nào từ chiến tranh thì mới quân quản để ổn định tình hình đất nước.
Hoặc nhà trần 3 lần đại thắng quân nguyên mông cũng đề cao quân sự mới chống giặc được cũng
đề cao tính chất quân quản thì suy ra thời kì đầu ko có chiến tranh nhà trần không coi trọng quân quản
nhưng vào giữa thời gian tồn tại có chiến tranh nên mới coi trọng quân quản nên không phải khi nào
cũng xuất hiện vào gd đầu. Thời kì cúi của nhà Hồ chống giặc minh thì cũng là mô hình quân quản.
4. Vua Thánh Tông thực hiện nguyên tắc tản quyền trong TCBMNN đồng thời chấp
nhậnquyền lực của mình bị hạn chế.
Sai. Nguyên tắc tản quyền không áp dụng với vua vua nắm mọi quyền lực áp dụng với các
thiết chế bên dưới nhà vua. Mục đích của tản quyền tránh lạm dụng quyền lực trong đội ngũ quan
lại, việc chia sẻ quyền lực bên dưới làm tập trung quyền lực cho nhà vua.
5. Chức danh quan đại thần ới thời vua Thánh Tông rất nhiều quyền hạn tham gia
hoạchđịnh chính sách nhà nước.
Sai. các chức danh thời Vua Thánh ng quan đại thần số lượng ít hữu danh thực nhằm
bảo vệ lợi ích quan đại thần chứ không có quyền lực gì cả.
6. Nguyên tắc phân quyn được áp dụng trong BMNN thời vua Lê Thánh tông.
Sai. Phân quyền là chia theo pháp lý chế để kiểm soát lẫn nhau còn tản quyền là chia cơ học để
tránh lạm dụng quyền lực và quyền lực của vua thời kì y là tuyệt đối nên không là phân quyền. Phân
quyền là hạn chế quyền lực nhà vua nhưng vua tki y không bị hạn chế quyền lực. Vn không áp dụng
nguyên tắc phân quyền vì mình theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
7. Trong cải cách BMNN thời vua Thánh Tông, nguyên tắc “tản quyền” được áp dụng nhằm hạnchế
tình trạng lạm quyền của đội ngũ quan lại.
Đúng. Mục đích của tản quyền một chức quan nếu nhiều quyền lực thì lạm quyền n cần chia
nhỏ quyền lực ra.
8. Cải cách chính quyền cấp của vua Thánh Tông góp phần đưa chính quyền gần dân hơn.Đúng.
Khi mà xã trưởng sẽ được dân bầu ra.
9. Để thực hiện nguyên tắc tôn quân quyền” một cách triệt để, Vua Thánh Tông đã không
chothành lập các cơ quan giám sát ở địa phương.
Sai. Cơ quan giám sát ở cấp đạo ( địa phương) : ty ngự sử của ngự sử đài cử xuống địa phương, hiến ty
10. Lục khoa là cơ quan giám sát tối cao ở triều đình dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Sai. Ngự sử đài mới quan giám sát tối cao. Nhà vua một thiết chế chứ ko là cơ quan giám sát
tối cao. Lục khoa là cơ quan giám sát chuyên môn để giám sát lục bộ.
11. Dưới thời trần, chính quyền trung ương được tổ chức không dựa trên quan hệ huyết thống.Sai.
12. Tể tướng không phải là chức danh luôn tồn tại trong BMNN các triều đại phong kiến Việt Nam.
Đúng. Thời kì lê sơ dưới cải cách vua lê thánh tông ko có tể tướng.
lOMoARcPSD|36477832
13. Dưới thời Trần, đội ngũ quan đại thần có quyền lực rất hạn chế.Sai. Quyền lực quan đại thần rất
lớn.
14. Tể tướng dưới thời Lý Trần Hồ là một viên quan có quyền lực chính trị rất lớn.
Sai. Thời kì trần hồ thì 2 viên quan giữ chức tể tướng
15. Lục tự là cơ quan có chức năng hành pháp dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Đúng . Công việc chính thức của lục tự giúp việc cho lục bộ làm những việc lục bộ ch làm hết
lục bộ thực hiện chức năng hành pháp nên lục tự cũng bản chất chức năng hành pháp, còn lục
khoa là cơ quan giám sát lục bộ.
16. Lục tự và Hiến Ty là cơ quan giám sát ở địa phương dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Sai. Lục tự là cơ quan giúp việc cho lục bộ ko có chức năng giám sát mà là chức năng hành pháp thiết
chế ở trung ương và nó là giúp việc cho lục bộ.
17. Nguyên tắc cải cách cơ bản nhất trong tổ chức BMNN thời vua Thánh Tông nguyên tắc
tảnquyền.
Sai. 3 nguyên tắc: tập quyền, tản quyền, pháp chế. ông thực hiện tập quyền nhiều nhất quan
trọng nhất đó là cải cách cơ bản nhất vì cả tản quyền ( chia quyền lực cũng để tập trung quyền lực vào
vua) pháp chế( người dân quan đều phải tuân theo m uy quyền vua tăng lên làm tôn quân quyền)
khi thực hiện đều giúp cho tập quyền hơn. Tản quyền và pháp chế Đều xoay quanh tập quyền.
Chương 6. Nhà Nguyễn:
2. TCBMNN Ở TW:
Vẫn lấy nho giáo làm tư tưởng chủ đạo với nguyên tắc “ tôn quân quyền”.
Thiết chế hoàng đế vẫn nắm vương quyền và thần quyền và đạt đến đỉnh cao độc tôn đế quyền. Đặt lệ
“ tứ bất: nhằm phân chia quyền lực: ko lập tể tướng, ko lập hoàng hậu ( trừ gia long, bảo đại, ko lập vì
hoàng hậu thì thường hoàng hậu con của viên quan lớn trong triều vua bị ép lập thì làm cho
quyền lực vị quan đó càng lớn làm đe dọa đến quyền lực nhà vua, tránh ngoại thích chuyên quyền phía
sau hoàng hậu thường 1 gia tộc rất lớn ảnh hưởng đến chính trị, con hoàng hậu sẽ thái tử lên
ngôi vua sau này, nên vua ko muốn chia sẻ quyền lực), ko lập thái tử vì mở đường chọn dòng thứ được
lên ngôi chọn đc người tài ngoài ra còn có lí do khi có chức danh thái tử thì khi vua còn sống đã có sự
kéo bè kéo cánh đứng về thái tử nịnh nọt thái tử vì người ta bt vua chết thái tử lên ngôi vua ch chết mà
đã sự lăm le quyền lực, ko lập trạng nguyên trạng nguyên tài giỏi bậc thầy thiên hạ nên khi ông
nói ra thì uy tín làm dân tin tưởng thì nếu ông ko đồng thuận với vua thì ý kiến của ông sẽ ảnh hưởng
đến lòng dân ảnh hưởng quyền lực vua. Lệ tứ bất này cực đoan khi muốn tập trung quyền lực nhà vua
làm cho quyền lực nhà vua cao hơn 1 bậc so vs thời vua lê thành tông=> độc tôn đế quyền.
Thiết chế hội đồng đình thần: quan trọng trong thời gia long, có nhiều chiến thuật trong các trận chiến
tranh. Hết chiến tranh thì vua minh mạng hạn chế quyền tư vấn của những người này ít đi.
Quan đại thần: chỉ dưới thời vua tự đức mới tể tướng gọi phụ chính đại thần n mấy vua
nguyễn khác ko có.
lOMoARcPSD|36477832
Nội các: cơ quan thực hiện chức năng văn phòng, hành chính.
mật viện: thành lập dưới thời vua minh mạng, chức năng vấn tối cao cho vua về an ninh chính
trị.
Lục bộ: để quản các lĩnh vực chức năng hành pháp, ngoài thực hiện hành pháp thì còn thực hiện chính
sách lục bộ tương thông ( điểm mới dưới thời nhà nguyễn) là các bộ hỗ trợ lẫn nhau để thực hiện hoạt
động quản nên phối hợp đời sống xh các lĩnh vực đều liên quan tới nhau ko thể cắt cơ học
để quản lí đc vì ko đảm bảo hiệu quả hoạt động của các lĩnh vực nhưng nếu ko tách bạch ra thì chồng
chéo cha chung ko ai khóc, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Cơ quan giám sát: Đô sát viện là cq ngang bộ giám sát tw và địa phương ( chức năng giống ngự sử đài
thời lê). Còn có Kinh lược sứ: giống 1 đoàn thanh tra ví dụ như dân kêu oan hay mất mùa thì vua sẽ cử
đoàn này đi xem và về báo cho vua. Còn có lục khoa giám sát chuyên môn đối với lục bộ.
quan tư pháp: Trung ương có bộ hình và công đồng, Kinh đô có đại lý tự và tam pháp ty, tỉnh thì
án sát, phủ huyện châu thì quan đứng đầu đơn vị hành chính thực hiện xét xử luôn.
3. TCBMNN ở địa phương:
- Từ 1802 đến 1830: 30 năm đầu nhà Nguyễn trước cải cách vua minh mạng:
Áp dụng nguyên tắc TW tản quyền ( trung ương tản quyền cho địa phương, buộc tản quyền vì cấp cao
nhất ở địa phương là cấp thành gồm bắc thành và gia định thành đứng đầu là viên quan tổng trấn có sắc
ấn riêng ( thường là vua mới có) nên quyền lực cực lớn tổng chỉ huy quân đội biểu hiện nét cho
trung ương tản quyền nhưng vua ko làm khác được vì 30 năm đầu này sau chiến tranh nhà nguyễn chưa
đủ mạnh chưa ổn định để thâu tóm quyền lực địa phương nên phải để địa phương tự quản và mô hình
quân quản quy như triều đình thu nhỏ ( thiết lập do chiến tranh loạn lạc hoàn cảnh ra đời nhà
nguyễn là chiến tranh nhờ đánh thắng nhà Tây Sơn để lên ngôi).
Cấp trấn – dinh: người đứng đầu đa số là quan võ mang tc quân quản. Thời kì này đã bắt đầu chia theo
chiều dọc từ trung ương đến địa phương ( gồm các quan lại, binh, hình ,hữu thừa, hộ, lễ ,công những
cái này là tên của các bộ ở trung ương.
Cấp phủ - huyện – châu: người đứng đầu thực hiện cả xét xử lẫn quản lí.
Cấp tổng- xã: đứng đầu là tổng trưởng, xã trưởng thì do dân bầu ra.
- từ năm 1831 đến 1884: sau cải cách vua minh mạng
Bãi bỏ cấp thành lãnh thổ quá lớn quyền lực quan quá lớn => Thành lập cấp tỉnh cả nước chia
thành 30 tỉnh và 1 phủ thừa thiên => tản quyền ở địa phương=> chính quyền TW tập quyền.
Xóa bỏ cấp trấn dinh.
Còn Cấp phủ- huyện châu
Còn Cấp tổng- xã => giảm từ 4 cấp còn 3 cấp. Nhận
xét:
- Nhà Nguyễn đã y dựng được một bộ máy quản hành chính gọn nhẹ, hiệu quả theo tiêu chí
quânchủ trung ương tập quyền tuyệt đối. Giải thích: Chứng minh cho quần chủ trung ương tập quyền
lOMoARcPSD|36477832
tuyệt đối: thời knhà Nguyễn đặt lệ “Tứ bất” nhằm hạn chế sự phân chia quyền lực để tập trung
quyền lực tuyệt đối vào tay vua. Bộ máy quản hành chính gọn nhẹ, hiệu quả phát huy được hiệu
quả trong giai đoạn đầu, nhưng càng về sau thì bộ máy quá đơn giản không đủ đáp ứng tình hình đặt
ra với nhà Nguyễn. Đây là một trong những nguyên nhân lý giải vì sao nhà Nguyễn nhanh chóng rơi
vào cục diện nửa phong kiến, bị thực dân Pháp can thiệp rất sâu vào hoạt động nhà nước.
(Nếu như thời Ngô – Đinh – Tiền Lê là giai đoạn xây dựng, thiết lập nền quân chủ chuyên chế, thời Lý
- Trần - Hồ là giai đoạn cũng cố chính thể quân chủ chuyên chế, đến thời kỳ Lê sơ là phát triển chính
thể quân chủ chuyên chế, nhà Nguyễn đỉnh cao của chế độ trung ương tập quyền - quyền lực tập
trung tuyệt đối vào đế quyền”).
Chương 7: BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC:
SỰ KẾT HỢP GIỮA ĐỨC TRỊ VÀ PHÁP TRỊ:
- Pháp luật đã thể chế tư tưởng kính thiên ái dân của Nho giáo:
Bộ Luật còn thể hiện tư tưởng nhân đạo trong chính sách hình sự đối với người già, trẻ em, người tàn
tật, phụ nữ (các điều 16, 680). Trong đêm trường trung cổ ngột ngạt, điều đó mang lại lợi ích thiết thực
cho dân chúng và cả cho sự phát triển của xã hội.
tưởng đức trị cho rằng sự an nguy, hưng phế, trị loạn của xã hội hoàn toàn phụ thuộc vào tư cách,
năng lực của người cầm quyền. Đội ngũ quan lại trong chế độ quân chủ là những người phụ tác đắc lực
giúp nhà vua thực thi quyền lực trong các lĩnh vực. Mọi chủ trương và chính sách cai trị do nhà vua để
xuất và ban hành thực thì được đến đầu hoàn toàn phụ thuộc vào đội ngũ quan lại có tư chất, năng lực
hay yếu kém, suy thoái. Bởi vậy, nhằm xây dựng đội ngũ quan lại vừa trung thành với triều đại vừa có
cách năng lực thực hiện được các mục tiêu cai trị của nhà nước, thông qua pháp luật, nhà vua
thường quy định chặt chẽ trách nhiệm của quan lại ở từng cương vị cụ thể Điều đó được thể hiện rất
trong Quốc triều hình luật.
Thứ nhất, pháp luật phong kiến quy định trách nhiệm của quan lại trước nhà vua. trách nhiệm của quan
lại trước nhà vưa được Quốc triều hình luật quy định thành những nghĩa vụ mà quan lại phải thực hiện.
- Nghĩa vphải báo cáo trung thực với nhà vua kết quả tình trạng của công việc, của lĩnh vực
đượcgiao thực hiện hay quản lý. Nếu báo cáo sai sự thật dù bằng lời nói hay bằng văn bản đều bị xử
tội biếm hay tội đồ; không phải việc mật mà đây là việc mật thì bị xử nặng hơn một bậc (điều
520). Khi tấu trình nhà vua việc gì "trước sau điền đảo không giống nhau", việc nặng bị tội đồ hay
lưu, việc nhẹ bị biếm (Điều 236).
- Nghĩa vụ phải tôn kính và quy phục vua trong cả lời nói, việc làm. Vua là người thay trời trị dân vàcó
quyền lực, thần khí thiêng liêng vì vậy các quan phải tôn kính và quy phục vuaViên quan nào nếu tỏ
ra bất kỳ lời nói tâu việc gì lầm phạm đến tên vua hay tên huý của vua thì bị phạt xuy; viết phạm vào
tên huý thì bị phạt trượng; đặt tên chính hay tên tự phạm vào chữ ký thì bị tội lưu, tội tử (Điều 125).
- Nghĩa vụ phải làm tròn bổn phận ở cương vị được giao. Bộ luật có tới 260/722 điều quy định quanlại
(cả văn và võ) phải hoàn thành chức trách của mình, mọi vi phạm đều bị nghiêm trị.
- Các quan chức cương vị nào không những phải làm tròn bổn phận của mình còn không đượcvượt
quá chức phận. Pháp luật phong kiến Việt Nam nhiều điều khoản nghiêm trị hành vi lạm quyền
lOMoARcPSD|36477832
của quan lại. Những người viết sắc mệnh ban chức tước cố ý thêm bớt phẩm trật thì bị tội đó.;
người nhận sắc mẹnh mà tự ý tấy chữa thì bị tội lưu (Điều 202).
Thứ hai: Pháp luật phong kiến quy định trách nhiệm của quan lại đối với bản thân và đồng liêu.
Trong chế độ quân chủ, quan chức được coi là bậc "phụ mẫu chỉ dân".
Hơn nữa, nguyên tắc tu, tế, trị, bình của tưởng đức trị đòi hỏi quan chức phải nêu tấm gương sáng
về đạo đức cho dân chúng noi theo. Đòi hỏi đó được pháp luật thể chế thành những nghĩa vụ cụ thể của
quan lại đối với bản thân và đồng liêu.
Nghĩa vụ giữ mình thanh liêm của quan lại: Quốc triều đình luật thông qua các điều khoản nhằm trừng
trị quan lại có hành vì tư lợi khi thực hiện công vụ hoặc ăn hối lộ. Các vị quan coi đối việc chở đồ vật
cống mà chở lần vật riêng để buôn bán thì xử tội đồ, mang những vật cấm xử tội lưu (Điều 224). Các
quan vâng mệnh đi sử nước ngoài mà chỉ châm về việc mua bán thì phải tômị biếm hay đồ (Điều 221).
Những quan mượn cháu người khác để được tập ấm làm hạng sắc dịch thì cũng được coi như tội giấu
giếm dân đình (Điều 214). Những hành vi cậy chức quyển lạm chiếm ruộng đất, tài sản của công cũng
bị nghiêm trị. Các quan đại thần và quan chức trong chiều lạm chiếm quá phần đất đã quy định
thì bị tômị 50 roi biếm 1 tư, có vườn ao rồi còn chiếm đất nơi khác bị tăng thêm tội một bậc (Điều 226).
- Nghĩa vụ giữ lễ nghi, phép tắc nghiêm cần.
Lễ đối với từng cá nhân là sự khắc kỉ, tiếp dục, tu thân, là cách tiếp vật, đối nhân xử thể để giữ trọn đạo
cương thường. tưởng đức trị của Nho gia cho rằng "đi m quan thi hành pháp lệnh, không lẽ
không uy nghiêm... Bởi thế cho nên quân tử dung mạo phải cung, trong bụng phải kính, giữ gìn pháp
độ... để m sáng rõ lễ". Mặt khác, muốn làm tròn bổn phận giáo hoá dân chúng, quan lại càng phải giữ
nghiệm lễ nghỉ, phép tắc. Quốc triều hình luật trừng phạt nghiêm khắc quan lại vi phạm nghĩa vụ này.
Các quan viên trong khi hội họp bàn việc ng đường mà nói càn không hợp lễ hay cười đùa ốn ào
làm rối trật tự sẽ bị phạt trượng nếu là lỗi nhẹ, nếu lỗi nặng thì xử biếm hay bãi chức (Điều 239). Các
quan viên m việc ở sở mình mà ngói đứng không đúng phép thì xử tội biếm hay phạt (Điều 129). Các
quan có bổn phận phải làm việc công ở nha môn, nếu làm việc công tại nhà riêng thì xử biếm hay cách
chức. Khi ra công đường m việc quan chức nào để đầu trần, áo chỉnh tề thì bị xử đánh trượng hay
biếm (Điều 240). Vì phải nêu tấm gương cho dân chúng trong việc giữ gìn lễ ghi phép tắc n quan lại
bị cấm thực hiện nhiều
Thứ ba, Pháp luật phong kiến Việt Nam quy định trách nhiệm của quan lại đối với dân.
Tư tưởng "kính thiên ái dần" xuất phát từ chủ trương đức trị đã đặt ra cho quan lại - với tư cách là phụ
mẫu của dân, là những người thay vua chăm nuôi dần trách nhiệm nặng nề. Điều đó đã được xác định
trong kinh điển Nho giáo Quốc triều hình luật đã nhiều điều khoản quy định cụ thể trách nhiệm
của quan lại đối với dân qua các nghĩa vụ sau:
- Nghĩa vụ phải làm cho dân giàu.
Muốn làm cho dân giàu, các quan phải lo bảo vệ tài sản cho dân, trừ diệt trộm cướp, đảm bảo trật tự xã
hômị cho dân yên ổn làm ăn, nếu để trộm cướp tụ họp trong hạt thì bị bãi chức hay đó; không bắt trộm
cướp không tâu trình thì phải xử tăng tội một bậc (Điều 248). Theo điều 458 thì quan phường
không kịp thời truy bắt kẻ cướp tại bản xã, bản phường khi có vụ việc xảy ra thì btội đó, nếu là trộm
lOMoARcPSD|36477832
thì phải tội hai bậc. Quan chức các địa phương phải khuyến khích dân chăm lo sản xuất nông nghiệp,
đảm bảo chia ruộng ng cho dân kịp thời vụ (Điều 347); ruộng đất công hoang hoá phải tâu xin để
chia cho dân khai khẩn, cày cấy, (Điều 350).
- Nghĩa vụ phải làm cho dân nhiều,
Muốn làm cho dân nhiều, các quan phải biết hưng lợi, trừ hại cho dân để dân an cư lạc nghiệp, không
phải lưu tán. Các quan không m tròn nghĩa vụ này sẽ bị bãi chức hoặc bị đổ (Điều 284). Các nhà
vương công quyển thế quan chức không được tự tiện thích chữ vào dân định làm cho mình,
làm trái bị phạt 3 tư, phạt tiền 150 quan; vi phạm nặng thì phạt 5 tư, phạt tiền 500 quan. Điều 294 quy
định đối với những người dân thường đau ốm không có nơi nương tựa thì xã quan ở đó phải "dựng lều
lên giữ gìn, săn sóc cho họ cơm cháo thuốc men, cốt cao cứu sống họ, không được bỏ mặc họ
rên rỉ khốn khổ”, trái lệnh thì quan phường phải tội biếm hay bãi chức. Những người góa vợ, goá
chồng, mồ côi, người tàn tật nặng và người nghèo khó. không thể tự mình nuôi sống được thì quan sở
tại phải thu nuôi họ, nếu bỏ rơi họ thì bị xử 50 roi, biếm 1 tư (Điều 295).
- Nghĩa vụ giáo hoá dân.
Khi thì hành chức trách của mình, các quan nhất là các quan ở phủ huyện, phải luôn chú trọng giáo hoá
dân đạo luân thường bằng lễ giáo bằng chính cách của mình. Nếu chưa giáo hoá dân, chưa dạy
cho dân điều hay nên làm điều dở nên tránh mà đã trừng phạt dần thì là quan bạo ngược. Vì vậy, Điều
297 quy định: những người hiếu hữu, cùng đàn trinh liệt không tâu lên để ban thưởng, hay
những kẻ loạn luân trái đạo không tâu lên để trị tội thì quan lộ, quan huyện bị xử tội biếm hay
phạt. Nếu quan chức saytửu sắc, nêu gương xấu cho dân chúng sẽ bị biếm hay bãi chức (Điều 637).
Đức trị coi lễ là biện pháp chủ yếu để cai trị và giáo hoá dân chúng. lễ chính là việc quy tắc hoá những
chuẩn mực đạo đức trong gia đình, trong xã hội, những thuần phong mĩ tục nhằm hướng con người tới
sự hoàn thiện nhân cách. Làm cho dân giữ được lễ là dã củng cố, bảo vệ được nền tảng đạo đức làm
sở cho trật tự phong kiến trong gia đình hội. Vì vậy, lễ nghĩ Nho giáo được thể chế thành nhiều
quy định trong Quốc triều hình luật.
- Luật phong kiến Việt Nam quy định chặt chẽ lễ nghi trong gia đình trong xã hội và trừng phạtnghiêm
khắc những người xâm hại lễ nghi.
Trong gia đình, đạo của con em đối với cha anh là hiếu để, đạo của vợ chống đối với nhau là tiết nghĩa,
tam tòng. Lễ giáo trong phạm vi gia đình được luật hoá thành những quy định trong Quốc hình luật
nhằm xác định rõ địa vị, quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể trong từng mối quan hệ cụ thể để ai ở địa
vị nào phải làm tròn phận sự của mình ở địa vị ấy. Quốc triểu hình luật quy định xử phạt người chống
tội lưu, tội tử nếu phạm tội gian dâm hoặc quyến rũ con gái chưa chống trong khi người vợ chỉ bị phạt
lưu với tội gian dâm (Điều 401, 402). Với tội thông gian. Bộ Luật quy định chỉ trừng phạt người chống
trong khi người vợ (Điều 405). Người chồng cũng bị trừng phạt khi có hành vi ngược đãi đánh vợ đến
mức bị thương; giết vợ bị khép vào tội bắt mục - là một trong 10 trọng tội của cổ luật Việt Nam (Điều
482).
Nghĩa vụ của các con đối với cha mẹ được Bộ Luật quy định chặt chẽ với những chế tài nghiêm khắc
khi vi phạm. Với cha mẹ, các con những nghĩa vụ sau: Nghĩa vụ vâng lời dạy bảo của cha mẹ
(Điều 506), nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ (Điều 506), nghĩa vụ tôn kính cha mẹ (Điều 475, 504, 511).
lOMoARcPSD|36477832
Người con nào vì phạm các nghĩa vụ trên sẽ bị tội đồ, tội lưu; vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ tôn kính
cha mẹ sẽ bị giảo.
Trong quan hệ anh em, tông pháp gia trưởng nho gia coi trọng sự hoà thuận và đòi hỏi người em phải
kính thuận, phục tùng anh em quyền của người anh là" quyền huynh thế phụ". vậy, Quốc triều
hình luật xử biếm 2 tư nếu em lăng mạ anh chị; xử đồ, lưu nếu đánh hoặc đánh bị thương anh chị (Điều
477), Bộ luật nghiêm trị những người cố tình gây sự bất hoà giữa anh em đến mức phải kiện cáo nhau
(Điều 512). Ngoài ra, Bộ Luật cũng quy định các nghĩa vụ và các biện pháp chế tài trừng phạt các cháu
khi vi phạm các nghĩa vụ các biện pháp chế tài trừng phạt các chấu khi phạm các nghĩa vụ đối
với ông bà tương tự như đối với cha mẹ; quy định vợ lẽ, phải tôn kính vợ cả như tôn kính chồng (Điều
481); quy định cháu phải tôn kính bác, chú, cô, thím... nếu vi phạm bị trừng phạt (Điều 477, 483).
Những quy định trên cho thấy Bộ Luật nghiêm trị những hành vi vi phạm nghĩa vụ đối với các thât
thuộc bể trên trong gia đình. Với các vi phạm này chỉ cần dấu hiệu hành vi là đã trừng phạt với các chế
tài thích đáng.
Trong xã hội, lễ giáo Nho đề cao đạo thấy trò, coi thấy ngang với vua và cha. Luật Lê sơ đã quy định:
"Răn con em về đạo thờ thấy học, khi gặp thấy phải kính cẩn lễ phép, không được khinh nhờn, ai trái
lệnh sẽ khép vào tội bất kính". Vì thế, Quốc triều hình luật quy định học trò mà đánh hoặc lăng mạ thấy
sẽ bị xử nặng hơn đánh hoặc lăng mạ người thường 3 bậc (Điều 489).
Bộ Luật đã bảo vệ giá trị đạo đức và thuần phong tục truyền thống của dân tộc như lòng hiếu thảo,
sự tôn kính ông bà cha mẹ của con cháu; sự hoà thuận chung thủy giữa vợ chồng đã được đúc kết bằng
thành ngữ "thuận vợ thuận chồng", "trai nể vợ gái sợ chồng"; sự kính nhường hoà thuận giữa anh chị
em trong nhà theo lối ứng xử chị ngã em nâng, truyền thống tôn sự trọng đạo. Đồng thời, các chế tài
nghiêm khắc m theo mỗi vi phạm lễ nghĩ gia đình trong Bộ luật có tác động rất lớn đến sự tự điều
chỉnh hành vi của các thành viên gia đình, khiến họ sớm ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm với bản
thân, gia đình và làm tròn bổn phận ở từng địa vị cụ thể trong gia đình. Chính ở khía cạnh này, Bộ luật
đã hỗ trợ đắc lực cho sự giáo dục đạo đức trong gia đình trong hội đã dùng pháp luật để xây dựng,
củng cố những chuẩn mực giá trị đạo đức truyền thống bởi những vi phạm đạo đức lnghi gia
đình không chỉ bị lương tâm cắn rứt, bị xã hội lên án mà còn bị phát luật trừng phạt bằng các chế tài cụ
thể thích đáng.
Bảo vệ quyền lợi cho nhóm người yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức.
Ảnh hưởng từ tư tưởng nho giáo: Đối với Lê Thánh Tông, Nho giáo trước hết là tư tưởng
mang tính chính trị là dùng chính trị để gây đạo đức, cho nên ông rất coi trọng phần chính trị trong
đạo Nho. Ông thấu hiểu những triết lý của đạo Nho về vũ trụ, về sự biến đổi, về đạo đức, đưa
những giáo lý đó vào cuộc sống với mục đích làm cho dân cường, nước thịnh, mọi việc đều trật tự,
ngay ngắn, hợp lẽ trời và hợp lòng người.
- Ảnh hưởng chính cuộc đời của Lê Thành Tông: Lê Thánh Tông sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh
vô cùng khó khăn. Thuở nhỏ, ông sống lưu lạc cùng mẹ trong những người dân nghèo, chịu ơn cứu
mạng và lại chịu ảnh hưởng mạnh từ đường lối chính trị nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và mẹ là bà
lOMoARcPSD|36477832
Ngô Thị Ngọc Dao, là một vị vua rất gần gũi, quan tâm đến đời sống của nhân dân, đặc biệt là đối
với nhóm đối tượng yếu thế.
* Những quy định bảo vệ quyền lợi người phụ nữ:
- Trong Hôn nhân gia đình:
+ Điều 338; Điều 320. Đây là một quy định tiến bộ, nhằm hạn chế tình trạng người giàu có quyền
lực ức hiếp lấy người phụ nữ trái với ý chí của họ, nếu thực hiện hành vi này thì sẽ bị xử biếm hoặc
đồ.
+ Điều 167 (Hình thức thuận tình ly hôn) Nếu như trước đây chỉ có người chồng được quyền bỏ
vợ thì đến thời Lê Sơ, người vợ cũng có quyền thỏa thuận với chồng về cuộc hôn nhân của mình,
cho thấy người phụ nữ cũng đã có được tiếng nói trong gia đình.
+ Điều 310 Ngay cả khi luật bắt buộc người chồng phải bỏ vợ ngoài ý muốn chủ quan. Người
chồng không thể ly hôn được nếu như khi phạm vào điều thất xuất người vợ đang ở trong ba trường
hợp (tam bất khứ): đã để tang nhà chồng 3 năm; khi lấy nhau nghèo mà sau giàu có; khi lấy nhau có
bà con mà khi bỏ lại không có bà con để trở về. Đồng thời, khi hai bên vợ chồng đang có tang cha
mẹ thì vấn đề ly hôn cũng không được đặt ra.
- Phân chia thừa kế tài sản:
+ Thông thường, nếu ly hôn không do lỗi của người vợ thì phần tài sản riêng (gồm cả điền sản và tư
trang), người vợ có quyền mang về nhà mình. Từ đó cho thấy người phụ nữ sau khi lấy chồng vẫn
có quyền sở hữu tài sản riêng chứ không thuộc hết về nhà chồng. Khi ly hôn, con cái thường thuộc
về chồng, nhưng nếu muốn giữ con, người vợ có quyền đòi chia một nửa số con.
+ Điều 388, 391 Từ đó cho thấy, trong quyền thừa kế tài sản của cha mẹ để lại, pháp luật nhà Lê
không phân biệt con trai - con gái. Tất cả đều được chia đều cho nhau bảo đảm sự bình đẳng giữa
con trai, con gái. Ngoài ra, con gái cũng có thể là người giữ hương hỏa.
- Về bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của người phụ nữ
+ Điều 403, 404 quy định xử rất nặng đối với những trường hợp xâm phạm thân thể, tiết hạnh của
người phụ nữ.
+ Điều 409, 680 Trong trường hợp người phụ nữ có việc liên quan đến kiện tụng hoặc bị tội thì
họ vẫn được bảo vệ ở mức độ nhất định.
- Về áp dụng các loại hình phạt
+ 450, 429, 441 mức xử phạt đối với phụ nữ còn nhẹ hơn đàn ông, phụ nữ thì được giảm nhẹ, như
việc xử lý tội ăn trộm, ăn cướp
lOMoARcPSD|36477832
+ Điều 1 Về việc áp dụng hình phạt "ngũ hình", có sự phân biệt giữa đàn ông và đàn bà, không áp
dụng hình phạt "trượng" cho đàn bà và áp dụng riêng từng loại tội "đồ" cho đàn ông và đàn bà. Vì
hình phạt quá hà khắc nặng nề nên pháp luật cũng cân nhắc từng loại hình phạt được áp dụng riêng
cho đàn ông và đàn bà để đảm bảo tính mạng, sức khỏe cho người phụ nữ yếu đuối. + Phụ nữ phạm
tội không bị áp dụng hình phạt trượng hình trượng hình chỉ áp dụng cho đàn ông, riêng lưu hình thì
đàn bà chỉ bị đánh roi, thích chữ vào mặt, bắt phải làm việc nhưng không phải đeo xiềng xích như
đàn ông; đàn bà phải tội tử hình trở xuống, nếu đang có thai thì phải để sinh đẻ sau 100 ngày mới
được đem hành hình. Nếu ngục quan làm trái luật thì phải chịu tội.
* Bảo vệ quyền lợi của người già, trẻ em
- Nguyên tắc hồi tố đặc biệt
+ Điều 16, 17, 665 nguyên tắc hồi tố được áp dụng, tức là trẻ em, người già cả, vẫn phải chịu
trách nhiệm pháp lý về những hành vi của mình nhưng họ được xử tội theo hướng có lợi nhất. Điều
đó thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật và phù hợp với truyền thống đạo lý kính già,
yêu trẻ của dân tộc Việt Nam.
- Người già: khi bị xử tội sẽ theo hướng có lợi nhất, tức so với cùng một hành vi phạm tội nhưngngười
già phạm tội thì mức xử tội sẽ nhẹ hơn. Cụ thể, những hình phạt được áp dụng tùy vào từng tội phạm
sẽ là được người khác chuộc về bằng tiền, phạm trọng tội thì phải thông qua sự xem xét của nhà vua,
không hành hình đối với những tội bị xử chết
- Trẻ em: Điểm chú ý ở quy định về xử tội trẻ em là tư duy của những nhà làm luật thời kỳ này rấtgần
với tư duy pháp luật hiện đại khi coi trẻ em, người chưa thành niên là những người chưa trưởng thành
do họ còn non nớt về thể chất trí tuệ. Do vậy, trẻ em cần được đối xử khác với cách đối xử dành
cho người đã thành niên, cần được bảo vệ chăm sóc đặc biệt + Điều 604, 605 Bảo vệ trẻ em
trong các trường hợp
+ Điều 377, 378, 379 đây là tư duy rất tiền bộ, bởi tài sản của trẻ em có được từ cha mẹ ruột
minh sẽ được bảo vệ tối đa các lợi ích liên quan. Những hành vi liên quan đến điền sản đều phải
có sự xin phép từ nhiều đối tượng và nhiều lần, cao nhất là quan.
* Bảo vệ quyền lợi của dân tộc thiểu số
+ Điều 40; 451 sự tôn trong các luật tục của họ, khi một người dân tộc thiểu số phạm tội với một
người dân tộc thiểu số khác thì sẽ dùng phong tục của nơi ấy để định tội.
+ Điều 72 bảo vệ đối với người dân tộc thiểu số, cấm các hành động phạm pháp với họ, đặc biệt
là bảo vệ họ trước sự sách nhiễu của quan lại.
lOMoARcPSD|36477832
+ Điều 164 đảm bảo quan lại không lạm dụng quyền lực, tùy tiện bắt giam đối với người dân tộc
thiểu số. Qua đây có thể thấy Bộ luật Hồng Đức đã có những sự bảo vệ nhất định đối người nhóm
người thiểu số, hạn chế quan lại lạm quyền, sách nhiễu người dân. Bộ luật Hồng Đức còn xử tội
với cả những quan lộ huyện che giấu, khi biết chuyện mà không tâu. Từ đó tạo ra cơ chế giám sát,
đảm bảo quyền lợi cho người dân tộc thiểu số và đảm bảo điều luật được thi hành có hiệu quả. +
Điều 531, 595, 703 Bộ luật Hồng Đức rất quan tâm và đã có nhiều quy định và sử dụng nhiều cơ
chế để bảo vệ một cách hiệu quả quyền lợi của các nhóm xã hội yếu thế.
* Bảo vệ quyền lợi người tàn tật, người cô quả không nơi nương tựa
+ Điều 17 Có thể thấy rằng, BLHĐ đã quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của người khuyết tật, người
cô quả không nơi nương tựa bằng các quy định như cho họ hưởng quy định về miễn giảm trách nhiệm
hình sự, chuộc tội bằng tiền, không bị tra khảo, đánh đập …
* Bảo vệ quyền lợi của các nhóm xã hội yếu thế khác
+ Điều 363, 365, 291, 490 Bảo vệ tỳ, người địa vị thấp kém trong hội
* Nhận xét:
- ưu điểm, Bộ luật Hồng Đức đã nhiều quy định sử dụng nhiều chế để bảo vệ một cáchhiệu
quả quyền lợi của các nhóm xã hội yếu thế. hiện tính nhân đạo, tư duy hiện đại, thể hiện sự quan tâm
đến các đối tượng yếu thế trong xã hội, có những quy định cụ thể bảo vệ nhóm đối tượng người già,
trẻ em, người khuyết tật.
Tính nhân đạo trong bộ luật Hồng Đức
Ảnh hưởng từ tư tưởng nho giáo: Đối với Lê Thánh Tông, Nho giáo trước hết là tư tưởng mang tính
chính trị là dùng chính trị để gây đạo đức, cho nên ông rất coi trọng phần chính trị trong đạo Nho.
Ông thấu hiểu những triết lý của đạo Nho về vũ trụ, về sự biến đổi, về đạo đức, đưa những giáo lý
đó vào cuộc sống với mục đích làm cho dân cường, nước thịnh, mọi việc đều trật tự, ngay ngắn,
hợp lẽ trời và hợp lòng người.
- Ảnh hưởng chính cuộc đời của Lê Thành Tông: Lê Thánh Tông sinh ra và lớn lên trong hoàn
cảnh vô cùng khó khăn. Thuở nhỏ, ông sống lưu lạc cùng mẹ trong những người dân nghèo, chịu ơn
cứu mạng và lại chịu ảnh hưởng mạnh từ đường lối chính trị nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và mẹ là
bà Ngô Thị Ngọc Dao, là một vị vua rất gần gũi, quan tâm đến đời sống của nhân dân, đặc biệt là
đối với nhóm đối tượng yếu thế. * Các quy định có tính nhân đạo - Đối với người phạm tội:
+ Điều 16, 17 Qua các quy định trên cho thấy Quốc triều hình luật đã thể hiện chính sách hình sự
đặc biệt nhân đạo đối với những người phạm tội là người già và trẻ em, người bị tàn tật, miễn cho
lOMoARcPSD|36477832
họ phải chịu hình phạt tàn ác bằng cách cho họ được chuộc tội bằng tiền hoặc tha tội nếu họ không
phạm vào tội thập ác, tội phản nghịch hay tội giết người với hình phạt quy định là tử hình. Bộ luật
Hồng Đức đã thay hình phạt tù thành phạt tiền đối với những tội nhẹ đối với các người phạm tội là
người “dễ bị tổn thương” trong xã hội. Triều đình đã thực hiện nguyên tắc chiếu cố theo tuổi tác và
đối với người tàn tật, trẻ em trong Quốc Triều Hình Luật, là một trong những nguyên tắc tiến bộ
nhất thời Hậu Lê thể hiện sự nhân đạo của giai cấp thống trị.
- Nhân đạo với người gặp khó khăn đặc biệt;
+ Điều 294 Điều luật này đã thể hiện rõ tính nhân đạo khi quy định về cách đối nhân xử thế, đặc
biệt là đối với những người có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt. Họ là những người kém may mắn
trong cuộc sống, chính vì vậy quan bản phường ở địa phương đó - những người có đủ điều kiện để
chăm sóc, giúp đỡ những người khó khăn - có trách nhiệm phải che chở, cưu mang, không được bỏ
mặc họ. Qua quy định này ta cũng có thể nhìn thấy được truyền thống đoàn kết, yêu thương giúp đỡ
nhau, “lá lành đùm lá rách” của dân tộc Việt Nam đã được hình thành từ rất lâu.
- Nhân đạo đối với phụ nữ trẻ em: mặc quyền lợi của người phụ nữ vẫn bị ảnh hưởng bởi giai
cấp, quan niệm “trọng nam khinh nữ” các chế định phong kiến xưa nhưng đã được đề cao, quan
tâm và bảo vệ hơn so với những bộ luật của các triều đại trước.
bảo vệ người phụ nữ mang thai thì còn bảo vệ cả trẻ em, cho những sinh linh vô tội có cơ hội được
sống quyền cơ bản của con người – mặc dù là con của người phạm tội.
- Nhân đạo đối với các đối tượng khác:
+ Điều 435, 71, 531, 595, 40
* Nhận xét
Mặc dù mang bản chất giai cấp phong kiến nhưng Bộ luật Hồng Đức lại chứa đựng nhiều yếu tố
tiến bộ với những quy phạm bảo vệ quyền lợi của người dân, của tầng lớp ới, của tì, người cô
quả, tật …
Đặc biệt, Bộ luật này còn có một số quy định bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, người dân tộc
thiểu số, điều đó phản ánh truyền thống nhân đạo, truyền thống tôn trọng phụ nữ, tư tưởng “lấy
dân làm gốc”, lấy làng xã làm nền tảng của quốc gia. Tính dân tộc trong quy định của BLHĐ a.
Pháp luật về dân sự
a.1. Pháp luật về hôn nhân - gia đình
Bộ luật Hồng Đức vẫn có những nét đặc trưng của dân tộc Việt Nam, pháp luật ớc ta lúc bấy giờ vẫn
một sđiều thoát ly khỏi tưởng Nho giáo. Chẳng hạn như: Theo Nho giáo, “tam tòngchỉ mối
lOMoARcPSD|36477832
quan hệ giữa phụ nữ với nam giới trong gia đình và ngoài xã hội, đó là cha, chồng, con trai (ở nhà theo
cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con), đề cao sự phục tùng một chiều, sự thuỷ chung tuyệt
đối của phụ nữ đối với nam giới. Quốc triều Hình luật n tiếp thu truyền thống tôn trọng người phụ
nữ của dân tộc ta. Quốc triều Hình luật thừa nhận nhận quyn ly hôn của người vợ trong một số trường
hợp nhất định: Chồng vi phạm nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ quan hệ vợ chồng (Điều 308), người
chồng mắng giết mẹ vợ vô lý (Điều 333) thì vợ có quyền ly hôn.
Bên cạnh đó, Bộ luật Hồng Đức thừa nhận quyền tài sản riêng của người phụ nữ. Quyền sở hữu nhân
của vợ được đặt ra khi hôn nhân chấm dứt do chồng chết hoặc trong trường hợp ly hôn không do lỗi
người vợ; tài sản ruộng đất của hai vợ chồng tạo n trong thời kỳ hôn nhân được chia m hai phần
bằng nhau, vợ chồng mỗi người một phần; vợ thể thừa kế tài sản ruộng đất trong trường hợp:
Chồng chết nhưng chưa con; vợ chồng đã con nhưng chồng chết, con cũng chết…Điều này thể
hiện tính nhân đạo, bác ái, xuất phát từ phong tục, truyền thống tình nghĩa vợ chồng của dân tộc ta,
nhằm bảo vệ quyền lợi tối thiểu của người vợ phù hợp với đạo lý người Việt.
Quốc triều Hình luật còn tiếp thu truyền thống con cháu được quyền ra riêng khi cha mẹ còn sống.
Theo pháp luật Trung Quốc, đây tội đại bất hiếu. Tuy nhiên, pháp luật triều chấp nhận điều đó.
Điều 347 quy định con cái đủ 15 tuổi được cấp ruộng đất để tự nuôi sống bản thân. Do sự kết hợp các
phong tục tập quán lâu đời của của Việt Nam với đạo đức Nho giáo hòa nhập chúng vào hệ thống pháp
luật của triều đình mối quan hệ cha mẹ con cái trong Quốc Triều hình luật không tính chất
tuyệt đối phục tùng, tuyệt đối định đoạt như Nho giáo. a.2. Pháp luật về thừa kế
Chế định thừa kế trong Quốc triều hình luật tôn trọng phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta: Pháp luật quy định, trước khi chia thừa kế di sản của cha mẹ, các con phải dành 1/20 di sản làm
hương hỏa thờ cúng cha mẹ. Thờ cúng là việc thể hiện tấm lòng tôn kính ông bà, cha mẹ của con cháu.
Đây là truyền thống tốt đẹp, là bản sắc văn hóa của người Việt.
Chế định thừa kế trong Quốc triều hình luật những quy định không chỉ mang tính pháp n
mang tính đạo lý: Cổ luật quy định những người không nghe lệnh ông bà, cha mẹ thì mất quyền thừa
kế. Đây là quy định không chỉ mang tính pháp lý mà còn mang tính đạo lý, giáo dục con cháu phải biết
vâng lời ông bà, cha mẹ, không được tranh giành của cải dẫn đến mất đoàn kết trong gia đình.
Xuất phát từ tinh thần đoàn kết đó, pháp luật sẽ điều chỉnh việc nhường quyền thừa kế giữa những
người thừa kế với nhau. Việc nhường quyền thừa kế thể hiện tinh thần nhường cơm sẻ áo cho nhau, “lá
lành đùm lá rách”. Đây là truyền thống yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa những người có quan hệ gia
đình.
Như vậy, tính dân tộc độc đáo và đặc sắc đã làm cho Bộ Luật Hồng Đức không chỉ là ng cụ thống trị
của riêng giai cấp thống trị mà thực sự thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân thông qua các phong
tục tập quán truyền thống. Đó là điểm tiến bộ và độc đáo của nhà Lê. Nó thể hiện tính độc lập, sáng tạo
của những nhà lập pháp triều Lê, đồng thời sự thể hiện của quốc gia chủ quyền. b. Pháp luật về
hình sự
b.1. Đề cao truyền thống đạo hiếu, trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ, nếu làm trái có thể bị trừng
trị rất nặng.
lOMoARcPSD|36477832
Theo Điều 7 Bộ luật Hồng Đức, thậm chí cha mẹ phạm tội cũng không được tố cáo còn phải che
giấu, nếu làm trái bị xử tử hay lưu. Có thể thấy rằng, quan hệ giữa cha mẹ và con cái rất được Bộ luật
Hồng Đức chú trọng. Đặc biệt, truyền thống hiếu nghĩa có tầm quan trọng rất lớn. Điều 2 bộ luật Hồng
Đức xem hành vi không phụng dưỡng, kính trọng cha mẹ thuộc nhóm Thập ác tội với mức hình phạt
rất nặng. Theo Hồng Đức thiện chính thư thì tội bất hiếu thể bị áp dụng hình phạt tử được thực
hiện dưới hình thức lăng trì.
b.2. Tính dân tộc thể hiện trong nguyên tắc miễn giảm trách nhiệm hình sự Điều
này được thể hiện trong những quy định sau đây.
Điều 18. Phàm phạm tội chưa bị phát giác tự thú trước, thì được tha tội. Điều 485. Điều 499.
thể thấy rằng, Bộ luật Hồng Đức chủ trương: Chủ động tự thú trước khi phạm tội bị phát giác thì
được tha tội, trừ tội thập ác giết người. Thực hiện hành vi trong trường hợp tự vệ chính đáng (do
ông bà, cha mẹ bị đánh) hoặc hành vi lầm lỡ đều thể được xem t giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Những quy định y cho thấy sự tiến bộ và nhân văn của Bộ luật Hồng Đức thể hiện truyền thống nhân
đạo, khoan hồng, “đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại” của dân tộc ta. b.3. Bộ luật Hồng
Đức có quy định về thập ác bất xá
Tội thập ác ở đây là những tội xâm hại đến vương quyền của nhà vua, đến trật tự xã hội của Nho giáo,
bao gồm: mưu phản, mưu nghịch, mưu loạn, ác nghịch, bất đạo, đại bất kính, bất hiếu, bất mục, bất
nghĩa, nội loạn. Thông qua việc lên án những hành vi nói trên, bên cạnh việc bảo về quyền lợi cho giai
cấp thống trị thì còn cho thấy Bộ luật Hồng Đức phần nào đề cao các truyền thống; u nước, đoàn kết
chống giặc ngoại xâm; tội bất nghĩa (dân đánh, giết quan, trò đánh, giết thầy, vợ không để tang chồng):
Truyền thống nhân đạo, có lòng yêu thương, độ lượng, sống nghĩa tình; Đánh, giết ông bà, cha mẹ
hay người thân thuộc khác trong gia đình; tội bất hiếu (mắng nhiếc, không nuôi dưỡng, không để tang
ông bà, cha mẹ); tội bất mục (gả bán người thân từ hàng phải đtang từ 3 tháng trở lên); tội nội loạn
(gian dâm với những người thân có nghĩa vụ để tang): Truyền thống gia đình của dân tộc Việt Nam,
kính trên nhường dưới, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, con cháu hiếu kính ông bà cha mẹ, anh em hòa
thuận với nhau.
* Nguyên nhân:
Nguyên nhân khách quan:
Bộ luật Hồng Đức mang đậm tính dân tộc bởi lẽ nhà Lê sơ được thành lập là kết quả của cuộc
kháng chiến chống quân Minh của dân tộc. Ý thức về sự độc lập, toàn vẹn lãnh thổ từ lâu đã hình
thành tiềm tàng trong nhận thức của mỗi người dân đất Việt. ý thức tự tôn dân tộc đã ảnh hưởng và
chi phối cả lĩnh vực lập pháp. Bộ Quốc triều Hình luật tinh hoa của luật pháp thời Lê sơ đã tiếp
thu tư tưởng truyền thống dân tộc, một nền văn hoá phát triển không thua kém Trung hoa. Chính vì
thế, tính dân tộc được thể hiện rất rõ trong Quốc triều Hình luật.
Nguyên nhân chủ quan:
lOMoARcPSD|36477832
Vua Lê Thánh Tông là vị vua lớn lên từ nhân dân, nên tư tưởng của ông lúc bấy giờ là “lấy lân
làm gốc”, lấy làng xã làm nền tảng của quốc gia… TÍNH PHÁP CHẾ:
Nguyên nhân:Đội ngũ quan lại trong chế độ quân chủ những người phụ tác đắc lực giúp nhà vua thực
thi quyền lực trong các lĩnh vực. Mọi chủ trương và chính sách cai trị do nhà vua để xuất và ban hành
thực thì được đến đầu hoàn toàn phụ thuộc vào đội ngũ quan lại có tư chất, năng lực hay yếu kém, suy
thoái. Bởi vậy, nhằm y dựng đội ngũ quan lại vừa trung thành với triều đại vừa có cách và năng
lực thực hiện được các mục tiêu cai trị của nhà nước, thông qua pháp luật, nhà vua thường quy định
chặt chẽ trách nhiệm của quan lại ở từng cương vị cụ thể Điều đó được thể hiện rất rõ trong Quốc triều
hình luật. Pháp chế là pháp luật để người dân và quan lại tuân theo.
Thứ nhất, pháp luật phong kiến quy định trách nhiệm của quan lại trước nhà vua. trách nhiệm ca quan
lại trước nhà vưa được Quốc triều hình luật quy định thành những nghĩa vụ mà quan lại phải thực hiện.
- Nghĩa vụ phải báo cáo trung thực với nhà vua kết quả và tình trạng của công việc, của lĩnh vực
đượcgiao thực hiện hay quản lý. Nếu báo cáo sai sự thật bằng lời nói hay bằng văn bản đều bị xử
tội biếm hay tội đồ; không phải việc mật đây việc mật thì bị xử nặng hơn một bậc (điều
520). Khi tấu trình nhà vua việc gì mà "trước sau điền đảo không giống nhau", việc nặng bị tội đồ hay
lưu, việc nhẹ bị biếm (Điều 236).
- Nghĩa vụ phải tôn kính và quy phục vua trong cả lời nói, việc làm. Vua là người thay trời trị dân
vàcó quyền lực, thần khí thiêng liêng vì vậy các quan phải tôn kính và quy phục vuaViên quan nào nếu
tỏ ra bất klời nói tâu việc gì lầm phạm đến tên vua hay tên huý của vua thì bị phạt xuy; viết phạm vào
tên huý thì bị phạt trượng; đặt tên chính hay tên tự phạm vào chữ ký thì bị tội lưu, tội tử (Điều 125).
- Nghĩa vụ phải làm tròn bổn phận cương vị được giao. Bộ luật tới 260/722 điều quy định
quanlại (cả văn và võ) phải hoàn thành chức trách của mình, mọi vi phạm đều bị nghiêm trị.
- Các quan chức cương vị nào không những phải làm tròn bổn phận của mình còn không
đượcvượt quá chức phận. Pháp luật phong kiến Việt Nam có nhiều điều khoản nghiêm trị hành vi lạm
quyền của quan lại. Những người viết sắc mệnh ban chức tước cố ý thêm bớt phẩm trật thì bị tội
đó.; người nhận sắc mẹnh mà tự ý tấy chữa thì bị tội lưu (Điều 202).
Thứ hai: Pháp luật phong kiến quy định trách nhiệm của quan lại đối với bản thân và đồng liêu.
Trong chế độ quân chủ, quan chức được coi là bậc "phụ mẫu chỉ dân".
Hơn nữa, nguyên tắc tu, tế, trị, bình của tưởng đức trị đòi hỏi quan chức phải nêu tấm gương sáng
về đạo đức cho dân chúng noi theo. Đòi hỏi đó được pháp luật thể chế thành những nghĩa vụ cụ thể của
quan lại đối với bản thân và đồng liêu.
Nghĩa vụ giữ mình thanh liêm của quan lại: Quốc triều đình luật thông qua các điều khoản nhằm trừng
trị quan lại có hành vì tư lợi khi thực hiện công vụ hoặc ăn hối lộ. Các vị quan coi đối việc chở đồ vật
cống mà chở lần vật riêng để buôn bán thì xử tội đồ, mang những vật cấm xử tội lưu (Điều 224). Các
quan vâng mệnh đi sử nước ngoài mà chỉ châm về việc mua bán thì phải tômị biếm hay đồ (Điều 221).
Những quan mượn cháu người khác để được tập ấm làm hạng sắc dịch thì cũng được coi như tội giấu
giếm dân đình (Điều 214). Những hành vi cậy chức quyển lạm chiếm ruộng đất, tài sản của công cũng
lOMoARcPSD|36477832
bị nghiêm trị. Các quan đại thần và quan chức trong chiều lạm chiếm quá phần đất đã quy định
thì bị tômị 50 roi biếm 1 tư, có vườn ao rồi còn chiếm đất nơi khác bị ng thêm tội một bậc (Điều 226).
- Nghĩa vụ giữ lễ nghi, phép tắc nghiêm cần.
Lễ đối với từng cá nhân là sự khắc kỉ, tiếp dục, tu thân, là cách tiếp vật, đối nhân xử thể để giữ trọn đạo
cương thường. tưởng đức trị của Nho gia cho rằng "đi m quan thi hành pháp lệnh, không lẽ
không uy nghiêm... Bởi thế cho nên quân tử dung mạo phải cung, trong bụng phải kính, giữ gìn pháp
độ... để m sáng rõ lễ". Mặt khác, muốn làm tròn bổn phận giáo hoá dân chúng, quan lại càng phải giữ
nghiệm lễ nghỉ, phép tắc. Quốc triều hình luật trừng phạt nghiêm khắc quan lại vi phạm nghĩa vụ này.
Các quan viên trong khi hội họp bàn việc ng đường mà nói càn không hợp lễ hay cười đùa ốn ào
làm rối trật tự sẽ bị phạt trượng nếu là lỗi nhẹ, nếu lỗi nặng thì xử biếm hay bãi chức (Điều 239). Các
quan viên m việc ở sở mình mà ngói đứng không đúng phép thì xử tội biếm hay phạt (Điều 129). Các
quan có bổn phận phải làm việc công ở nha môn, nếu làm việc công tại nhà riêng thì xử biếm hay cách
chức. Khi ra công đường m việc quan chức nào để đầu trần, áo chỉnh tề thì bị xử đánh trượng hay
biếm (Điều 240). Vì phải nêu tấm gương cho dân chúng trong việc giữ gìn lễ ghi phép tắc n quan lại
bị cấm thực hiện nhiều
Thứ ba, Pháp luật phong kiến Việt Nam quy định trách nhiệm của quan lại đối với dân.
Tư tưởng "kính thiên ái dần" xuất phát từ chủ trương đức trị đã đặt ra cho quan lại - với tư cách là phụ
mẫu của dân, là những người thay vua chăm nuôi dần trách nhiệm nặng nề. Điều đó đã được xác định
trong kinh điển Nho giáo Quốc triều hình luật đã nhiều điều khoản quy định cụ thể trách nhiệm
của quan lại đối với dân qua các nghĩa vụ sau:
- Nghĩa vụ phải làm cho dân giàu.
Muốn làm cho dân giàu, các quan phải lo bảo vệ tài sản cho dân, trừ diệt trộm cướp, đảm bảo trật tự xã
hômị cho dân yên ổn làm ăn, nếu để trộm cướp tụ họp trong hạt thì bị bãi chức hay đó; không bắt trộm
cướp không tâu trình thì phải xử tăng tội một bậc (Điều 248). Theo điều 458 thì quan phường
không kịp thời truy bắt kẻ cướp tại bản xã, bản phường khi có vụ việc xảy ra thì bị tội đó, nếu là trộm
thì phải tội hai bậc. Quan chức các địa phương phải khuyến khích dân chăm lo sản xuất nông nghiệp,
đảm bảo chia ruộng ng cho dân kịp thời vụ (Điều 347); ruộng đất công hoang hoá phải tâu xin để
chia cho dân khai khẩn, cày cấy, (Điều 350).
- Nghĩa vụ phải làm cho dân nhiều,
Muốn làm cho dân nhiều, các quan phải biết hưng lợi, trừ hại cho dân để dân an cư lạc nghiệp, không
phải lưu tán. Các quan không m tròn nghĩa vụ này sẽ bị bãi chức hoặc bị đổ (Điều 284). Các nhà
vương công quyển thế quan chức không được tự tiện thích chữ vào dân định làm cho mình,
làm trái bị phạt 3 tư, phạt tiền 150 quan; vi phạm nặng thì phạt 5 tư, phạt tiền 500 quan. Điều 294 quy
định đối với những người dân thường đau ốm không có nơi nương tựa thì xã quan ở đó phải "dựng lều
lên giữ gìn, săn sóc cho họ cơm cháo thuốc men, cốt cao cứu sống họ, không được bỏ mặc họ
rên rỉ khốn khổ”, trái lệnh thì quan phường phải tội biếm hay bãi chức. Những người góa vợ, goá
chồng, mồ côi, người tàn tật nặng và người nghèo khó. không thể tự mình nuôi sống được thì quan sở
tại phải thu nuôi họ, nếu bỏ rơi họ thì bị xử 50 roi, biếm 1 tư (Điều 295).
lOMoARcPSD|36477832
- Nghĩa vụ giáo hoá dân.
Khi thì hành chức trách của mình, các quan nhất là các quan ở phủ huyện, phải luôn chú trọng giáo hoá
dân đạo luân thường bằng lễ giáo bằng chính cách của mình. Nếu chưa giáo hoá dân, chưa dạy
cho dân điều hay nên làm điều dở nên tránh mà đã trừng phạt dần thì là quan bạo ngược. Vì vậy, Điều
297 quy định: những người hiếu hữu, cùng đàn trinh liệt không tâu lên để ban thưởng, hay
những kẻ loạn luân trái đạo không tâu lên để trị tội thì quan lộ, quan huyện bị xử tội biếm hay
phạt. Nếu quan chức saytửu sắc, nêu gương xấu cho dân chúng sẽ bị biếm hay bãi chức (Điều 637).
| 1/22

Preview text:

lOMoARcPSD| 36477832 PHẦN VIỆT NAM:
Chương 1: Sự hình thành nhà nước và pháp luật đầu tiên ở Việt Nam.
Văn hóa: Phương đông chứng ra đề cao sự đoàn kết trong cộng đồng, chúng ta không có nhu cầu khám
phá do điều kiện tự nhiên thuận lợi nên sống co cụm lá lành đùm lá rách=> mâu thuần giữa các tầng lớp chưa gay gắt.
c. Trị thủy-thủy lợi và chống chiến tranh ( nhu cầu bức thiết):
Điều kiện tự nhiên: nhiều sông hồ, thuận lợi nhưng chịu ảnh hưởng bởi thiên tai.
Nhu cầu của nền kinh tế nông nghiệp: Nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước giữ vai trò chủ đạo, phụ
thuộc rất lớn vào hoạt động trị thủy-thủy lợi=> Trị thủy-thủy lợi đóng vai trò quan trọng trong xã hội bấy giờ.
- Vị trí địa lý và nhu cầu thôn tính nhau giữa các thị tộc, bộ lạc: Nhu cầu tự vệ, chống lại mối đe dọa từ
bên ngoài là rất cần thiết. Nhu cầu thôn tính lẫn nhau giữa các thị tộc, bộ lạc xuất hiện.
→ Nhu cầu chống chiến tranh
Do vậy, thủy lợi và chống chiến tranh là những yếu tố thúc đẩy sự ra đời sớm hơn của Nhà nước. Tại
sao? Nhu cầu thủy lợi và chống chiến tranh đòi hỏi sức mạnh của tập thể, đòi hỏi sự tập hợp không chỉ
là của nhiều gia đình nhỏ mà còn là sự liên kết nhiều công xã nông thôn với nhau. Vì vậy, tổ chức rộng
lớn hơn đã hình thành. Tổ chức ấy ra đời cần sự chỉ huy thống nhất của một số người nắm vai trò thủ
lĩnh, những người có uy tín, địa vị trong xã hội giúp dân chống thiên tai, bảo vệ người dân. Như vậy,
nhưng người này, tổ chức này ban đầu được bầu ra chỉ mang tính chất quản lý về xã hội nhưng dần dần
họ nắm nhiều quyền lực trong tay mang sức mạnh công cộng đặc biệt, dẫn đến Nhà nước xuất hiện.
Lưu ý: trị thủy thủy lợi và chống chiến tranh không nắm vai trò quyết định ( mang tính chất xã hội vì
lúc đầu chưa có giai cấp thì cũng đã cần phải trị thủy và chống chiến tranh. đây chỉ là yếu tố tác động
vì nếu không có nó thì nhà nước vẫn ra đời nhưng chậm hơn thôi). Nhân tố quyết định thuộc về mâu
thuẫn giai cấp nếu không có nó thì nn ko ra đời. Mâu thuẫn giai cấp không gay gắt thì nó cần thời gian
để gay gắt và xuất hiện nhà nước từ đấu tranh giai cấp ( cái nào chỉ cần 1 mình nó cũng đủ làm nn xuất
hiện thì nó là yếu tố quyết định.
Chương 2: NGÔ – ĐINH – TIỀN LÊ. I. TCBMNN:
Tổ chức BMNN khá đơn giản, chưa hoàn thiện vì là những triều đại đầu tiên, thời gian tồn tại ngắn nên
chưa kịp tổ chức BMNN kĩ càng. XH loạn lạc ( giai đoạn vừa mới thoát khỏi hơn 1000 năm bắc thuộc
và chống bắc thuộc. nên coi trọng quân sự ko đủ điều kiện xây dựng BMNN.
- Nặng tính hành chính – quân sự: vì hoàn cảnh giai đoạn vừa mới thoát khỏi hơn 1000 năm bắc thuộc
và chống bắc thuộc nên vẫn còn bất ổn. 10 đơn vị hành chính cũng là 10 đại quân ( mang tính chất hành
chính quân quản). Khi hòa bình thì 10 đơn vị này là 10 đơn vị hành chính, khi chiến tranh thì 10 đơn
vị này là 10 đại quân cung ứng lực lượng quân sự.). Chọn Hoa Lư vì do có vị trí hiểm trở, đồi núi cao
bao quanh cho thấy sự chú trọng của Nhà nước trong giai đoạn này là phòng thủ quốc gia tăng cường
sức mạnh về quân sự do lúc này nhà Đinh ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh nên đề cao quân sự. Quan lOMoARcPSD| 36477832
lại trong nhà nước chủ yếu là các quan võ do chưa đủ đk mở khoa thi nên vua chọn những người đã
từng cùng vua chiến đấu.
Chương 3: LÝ-TRẦN – HỒ. I. TCBMNN: 1. Nhà Lý:
Lý Công Uẩn sống trong chùa từ nhỏ nên ông phát triển đạo phật khi ông lên ngôi vua nên Đạo phật
trở thành hệ tư tưởng chủ đạo của nước ta lúc bấy giờ. Sau khi ông lên ngôi vua thì dời đô về Đại La (
Thăng Long: thăng long nằm trên vùng đồng bằng nên giúp phát triển kinh tế do phù sa màu mở=> tầm
nhìn xa của Lý Công Uẩn vì 1 nước mạnh là mạnh lên từ kinh tế). Sau đó đổi tên quốc hiệu thành Đại
Việt. Triều Lý là triều đại tiếp tục củng cố và phát triển nền độc lập, bước đầu xây dựng phát triển nhà nước.
Sau đó Lý Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh và nhường ngôi cho chồng=> nhà trần ra đời. Nhà Trần đã 3
lần chiến thắng quân Nguyên-Mông giữ vững độc lập dân tộc.
Tcbmnn bao gồm vua rồi đến tể tướng ( giúp việc cho vua chỉ đứng sau vua nên quyền lực rất lớn) rồi
đến quan đại thần rồi đến các bộ.
+ Hoàng đế nắm vương quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp, quân đội, ngoại giao quốc phòng và cả
thần quyền là chủ tế trong các buổi sinh hoạt nghi thức. Vua chủ trương “ thân dân” xuất phát từ việc
lấy phật giáo làm hệ tư tưởng chủ đạo, thường giảm nhẹ hình phạt cho dân ngoài ra việc lấy phật giáo
làm quốc giáo để phân biệt với Trung Quốc về tôn giáo.
+ Quan đại thần nguồn gốc xuất thân là các công thần, có cống hiến cho triều đình hoặc đỗ đạt cao
trong các khoa thi, có tâm tài đức. 2. Nhà Trần – Hồ:
- Nhà Hồ thì tổ chức khoa thi nên không mang nặng tính quý tộc thân vương.
- Nhà Trần mang nặng tính quý tộc thân vương ưu điểm là hạn chế sự phản bội.
- Biện pháp củng cố thế lực thời nhà trần:
+ Biến hoàng tộc thành tổ thức hậu thuẫn chính trị của vương triều ( xóa bỏ ảnh hưởng còn xót lại của
nhà lý ( giết tôn thất, đổi họ lý thành họ nguyễn vì họ trần mới được tham gia BMNN nên họ đổi sau
trần thì những người họ lý có thể tham gia BMNN , vua họ trần cao quý nên những người họ lý phải
đổi thành họ nguyễn, Họ nguyễn lúc này tầm thường nên Họ lý đổi thì thành sang sang tầm thường.)
+ Gả công chúa cho quốc gia lâm bang ( thiết lập quan hệ ngoại giao), quan tướng giỏi ( thì những
người họ khác họ trần này sẽ thành hoàng tộc và trung thành với vua.
+ Ban phong tước hiệu cho vương hầu họ trần. Quan đại thần đều là họ trần vì muốn bảo vệ quyền lực
tối đa mang nặng quý tộc thân vương nên không chọn được những người tài giỏi nên BMNN không hiệu quả.
+ Khuyến khích hôn nhân nội tộc ( đảm bảo thuần nhất dòng họ, ngăn chặn chiếm đoạt dòng họ, củng
cố vương quyền nhà vua). lOMoARcPSD| 36477832
TCBMNN chung cho cả trần- hồ:
Hoàng đế nắm vương quyền thần quyền trực tiếp điều hành nhà nước.
Thái thượng hoàng ( CHỈ CÓ Ở NHÀ TRẦN-HỒ) là tư vấn, cố vấn là nguyên thủ tối cao. ( Chính thể
lưỡng đầu: Cha =chưa chết mà đã đưa con lên có cái hay là sẽ có người hướng dẫn về điều hành đất
nước cho vị hoàng đế mới lên ngôi, tránh tranh chấp giữa các hoàng tử, đảm bảo sự thống trị tập quyền
huyết thống, phát huy được giá trị tập thể giữa 2 người để đưa ra quyết định nhưng cũng có hạn chế là
.việc đưa ra quyết định sẽ bị chậm trễ, đi ngược lại hệ tư tưởng Nho giáo là 1 nước chỉ có 1 vua
Tể tướng gồm 2 người phát huy tính tập thể dưới tể tướng có các quan đại thần.
Dưới nữa là 6 bộ đứng đầu là thượng thư quản lí 6 lĩnh vực.
=> Nhận xét là TCBMNN mở rộng và quy củ hơn Ngô Đinh Tiền Lê.
Số lượng cơ quan chuyên trách nhiều hơn.
Tăng cường tính quý tộc thân vương ( Đặc biệt là nhà trần).
9. Thời nhà trần, Thái thượng hoàng và vua cùng cai trị đất nước là biểu hiện của nguyên tắc phân quyền.
Sai. Nguyên tắc phân quyền là nguyên tắc tam quyền phân lập thành 3 bộ phận chỉ xuất hiện ở những
quốc gia phương tây. Mục đích là chia sẻ quyền lực nhà vua tránh cho vua lạm quyền thì 3 bộ phận này
thành ba bộ phận riêng và kiềm chế đối trọng lẫn nhau. Còn Vua và thái thượng hoàng là chia quyền
lực cơ học chứ ko theo pháp lý ( ko chia thành lập hành tư pháp). Trắc nghiệm.
1. Hình thức chính thể của nhà nước thời nhà trần: B. Quân chủ tuyệt đối.
2. quyền lực nhà nước thời Đinh Tiền Lê Lý Trần đều được tổ chức theo nguyên tắc: A.
Tập quyền phi dân chủ. ( mọi quyền lực đều nằm trong tay nhà vua).
3. Thế kỷ thứ 11-14 thời Lý Trần Hồ chính thể quân chủ tuyệt đối bước vào giai đoạn:
B. Củng cố và xây dựng.
4. Nền quân chủ thời Lý có đặc điểm:
C. Quyền lực nhà vua chưa thực sự mang tính chuyên chế, hà khắc. ( chính sách thân dân). 5.
Đặc điểm lưỡng đầu cai trị c. Trần Hồ.
6. Thời nhà trần chức danh nguyên thủ quốc gia gồm.C. Vua và thái thượng hoàng.
7. Trong TCBMNN Nhà trần hồ, chức danh Thái thượng hoàng: B.
có nhiều thực quyền trong đời sống chính trị.
8. Đội ngũ quan đại thần lý trần hồ có đặc điểm: lOMoARcPSD| 36477832
C. có nhiều thực quyền trong đs chính trị ( do là quý tộc thân vương nên quyền lực lớn, giúp đỡ, trung
thành với vua nhưng can dự tác động đến sự quyết định của vua nên sau này Thời Lê thì vua quyết định
cho những quan đại thần hưởng tiền bạc thay vì quyền lực, không chọn được người tài).
9. Tể tướng thời Lý Trần Hồ:
B. là đội ngũ quan lại có quyền lực lớn trong triều.
Chương 5: Thời kì Lê Sơ: là thời kì đầu hậu lê II. TCBMNN
1. Thời kỳ đầu Lê Sơ ( 1428-1460) trước cải cách của vua lê thánh tông.
Vua nắm vương quyền và thần quyền.
Dưới vua có các quan đại thần ( tả, hữu tướng quốc, đại hành khiển ( đứng đầu quan văn)) Quan
lại chia thành quan văn và quan võ ( đứng đầu là đại đô đốc).
=> còn mang tính quý tộc thân vương do ảnh hưởng từ triều trần dẫn đến -
quyền lực của nhà vua sẽ bị phân tán trong quý tộc hoàng tộc do ảnh hưởng từ thời trần (
nhượcđiểm), và vua ko còn nắm quyền tuyệt đối. Còn địa phương rời rạc “thoán quyền” khỏi trung
ương ( do chưa kịp ổn định nhà nước, địa phương ko nghe lời trung ương). -
Nặng tính quân sự do ra đời trong chiến tranh loạn lạc thắng giặc nhà minh( giống hoàn cảnh ra
đờicủa ngô đinh tiền lê). Mang tính hành chính – quân sự để phòng thủ cho quốc gia.
2. Thời kỳ sau cải cách Lê Thánh Tông:
Cải cách xây dựng dựa trên 3 nguyên tắc:
Nguyên tắc tập quyền: dựa trên tư tưởng ( tôn quân quyền của Nho giáo) là vua nắm lập hành tư pháp
( quyền lực tuyệt đối, duy nhất, 1 nước 1 vua). Thì vua Lê Thánh Tông đã bỏ chức danh tể tướng vì
thiết chế này tể tướng có quyền lực rất lớn nên cho nó out vì tránh lật đổ nhà vua, thao túng quyền lực
nhà vua. Bỏ các cơ quan cố vấn vì chức năng là tư vấn cố vấn cho nhà vua vì nhiều trường hợp nó sẽ
thao túng quyết định của nhà vua nên cho nó out để ko bị ảnh hưởng để có quyết sách của riêng mình.
Vua trực tiếp quản lý cơ quan chuyên môn mà ko qua cơ quan trung gian nào cả. Giữ lại chức quan đại
thần chỉ giảm số lượng ( người có công với triều đình và quý tộc thân vương) và mấy người này thì ko
còn chức năng trung gian nữa, không còn quyền lực chỉ được lợi ích vật chất , giữ lại nhằm mục đích
là bảo vệ đc lợi ích của quý tộc, những người có công nhưng ko làm ảnh hưởng đến quyền lực nhà vua.
Nguyên tắc tản quyền: xuất phát từ nhu cầu xh cần chuyên môn hóa. Ông hạn chế việc tập trung quá
nhìu quyền lực vào 1 cơ quan để tránh lạm quyền. Mà chia thành nhiều cq chuyên môn chia nhỏ quyền.
Cấp trên chỉ giám sát thoi ở dưới thực hiện 2
nguyên tắc trên ko mâu thuẫn với nhau vì tập quyền cho vua thoi còn tản quyền là tản quyền
chobên dưới nhà vua làm cho nguyên tắc tập quyền có hiệu quả hơn vì lúc này quyền lực nhà vua to nhất. lOMoARcPSD| 36477832
Nguyên tắc pháp chế: ( bắt quan lại tuân theo pháp luật) cao hơn pháp trị ( dùng pháp luật cai trị người
dân) và thấp hơn pháp quyền. Đảm bảo không chỉ người dân phải tuân thủ pháp luật mà quan lại cũng
phải tuân thủ để noi gương cho người dân. Nguyên tắc nhằm bó buộc lại quyền lực của quan lại.
=> Nước đầu có sự tách bạch giữa hoạt động tư pháp và giám sát . Giám sát độc lập với cq khác ( trực
thuộc nhà vua giúp nhà vua buộc đội ngũ quan lại phải tuân theo pl nhà vua nếu ai làm trái thì sd tư pháp để xử lí). 2.1. TCBMNN ở trung ương:
Từ sau cải cách Lê Thánh Tông:
Vua nắm vương quyền và thần quyền ( mức độ tập quyền hết vào nhà vua).
Dưới vua có Quan đại thần ko còn thực quyền. Không kiêm nhiệm nhiều chức vụ. ( bỏ tể tướng). =>
khéo léo xử lí quý tộc thân vương để quyền lực nhà vua không bị hạn chế.
Cơ quan văn phòng gồm hàn lâm viện, đông các viện, trung thư giám ( 3 cq này giúp cho việc ban hành
giấy tờ của vua), hoàng môn tỉnh ( giữ ấn tín cho nhà vua), bí thư giám ( trông coi thư viện cho nhà vua).
Có các cơ quan chuyên môn hóa rất cao, có sự kiểm tra giám sát lẫn nhau. Cũng bao gồm lục bộ. Có
thêm lục tự: nhằm giúp việc cho lục bộ làm những việc mà lục bộ chưa làm hết nhưng làm việc và chịu
trách nhiệm trước nhà vua.( là tai mắt của nhà vua ở lục bộ, nếu có sai phạm sẽ báo ngay cho vua).(
giám sát không chính thức).
Cơ quan giám sát chính thức: ngự sử đài để giảm sát quan lại ở trung ương và địa phương. Và cơ quan
lục khoa là 6 cơ quan chuyên môn giám sát lục bộ. Cơ quan giám sát độc lập với cơ quan bị giám sát
và nằm trực tiếp dưới sự quản lý của vua=> Vua coi trọng giám sát để tránh hành vi sai trái của quan.
Có các cơ quan chức năng phát triển nông nghiệp=> vua coi trọng nông nghiệp. 2.2 Địa phương:
Trước cải cách vua Lê Thánh Tông:
Gồm 5 cấp: đạo, Lộ-phủ-trấn( cấp trung gian), Châu, Huyện, Xã ( sl nhiều nên tiu cực nên xu hướng giảm)
Đứng đầu đạo là Viên quan hành khiển.
Sau cải cách của vua Lê Thánh Tông:
Giảm số cấp từ 5 cấp xuống 4 cấp địa phương ( Đạo, phủ, Huyện-Châu ( cấp trung gian), Xã). Ông bỏ
chức Hành khiển ( 1 người đứng đầu các đạo) và ban hành chức Tam Ty đứng đầu các đạo ( gồm 3 bộ
phận thừa, đô, hiến ty => nguyên tắc tản quyền nhằm tăng cường quyền lực cho trung ương đảm nhiệm
ba quyền khác nhau có dấu hiệu tam quyền phân lập, chuyên môn hóa). Đổi tên xã quan ( mang nặng
tính quan liêu xa rời dân) thành Xã trưởng sẽ do người dân bầu ra (dân chủ) thay vì cấp trên cử xuống
như trước cải cách=> nhận thức được công chức là người phục vụ cho dân vì quyền lực của họ là do
người dân trao cho nên sử dụng đúng quyền lực đó để chăm lo cho dân. Tăng số đạo từ 5
lên 13 vì phân chia quyền lực ra ví dụ 2 đạo cấu kết thì mình die còn 13 đạo thì an toàn hơn. lOMoARcPSD| 36477832
Cơ quan giám sát có phẩm chật thấp hơn cơ quan bị giám sát nhưng vẫn giám sát được vì nó độc lập
với cơ quan bị giám sát và trực thuộc và chịu sự trách nhiệm trước nhà vua nên không sợ cơ quan bị
giám sát.=> Vua vẫn coi trọng các cơ quan chuyên môn là lục bộ thực hiện hành pháp vì nó ảnh hưởng
đến BMNN sự phát triển nhà nước ( vì bộ máy hành pháp là cồng kềnh nhiều đơn vị, hoạt động liên
tục quyền lực lớn có thể tác động đến lập pháp nếu ko kiểm soát dễ lạm dụng quyền hơn vì lợi ích
nhóm: người vận hành quyết định nhà vua nên phẩm chật cao hơn ( còn cơ quan giám sát chỉ là mục
đích làm hoạt động trơn tru đúng quy trình).
Quy định về hồi tỵ: không cho Anh em họ hàng, anh em ruột, con chú bác cô cậu...làm xã trưởng tránh
thao túng quyền lực, cấu kết lẫn nhau ảnh hưởng quyết định xã trưởng
Hình thức tuyển chọn quan lại: Thi cử ( phổ biến nhất), Tiến cử (Trong thời kì đầu thi cử ko phổ biến
mới sd cái này Cử người chưa có kinh nghiệm làm quan) , bảo cử ( Trong thời kì đầu thi cử ko phổ
biến mới sd cái này cử người đã có kinh nghiệm đi làm quan), Tập ấm ( con quan rồi lại làm quan, vẫn
còn giữ cái hình thức này vì những người này là hoàng tộc , TCBMNN thời này vẫn còn tính quý tộc
thân vương, hạn chế rất nhiều quyền lực ròi, nó đảm bảo lợi ích cho đại công thần, hoàng thân quốc
thích. Coi trọng nho giáo nên coi trọng quan văn hơn.
Chính sách hồi tỵ: Tránh sd người có quan hệ ruột thịt đang tại chức ( tránh kết bè kết phái), tránh cho
chấm thi nếu có người thân đi thi ( đảm bảo khách quan trong kì thi).
Xử lý quan lại: Pháp luật quy định hình phạt cụ thể cho từng loại tội phạm thì cứng nhắc hơn nhưng
tính răn đe cao hơn vua nhắm tới việc quan lại làm đúng quy định pháp luật luôn không cần xem vấn
đề nhân thân thì làm cho quan lại ko được đưa ra quyết định tùy ý ( với từng tội phạm thì hình phạt cụ
thể ví như tù 5 năm ghi tù năm năm luôn khác quy định luật có khung như hiện nay ( từ 3 đến 5 năm
đồ đó)). Khi áp dụng khung như hiện nay có vấn đề chạy án để lấy tình tiết giảm nhẹ để lấy mức dưới
trung bình của khung nên không còn tính răn đe. Việc đưa khung là để tòa án linh hoạt để đưa bản án
phù hợp nhân thân, tình huống. NHẬN ĐỊNH:
1. Tổ chức cấp “Đạo” thời kỳ đầu nhà Lê Sơ là đơn vị hành chính theo nguyên tắc “Trung ương tập
quyền” kết hợp với “chính sách quân quản”.
Sai. Vì Thời kì đầu quyền lực địa phương lớn và viên quan hành kiểm của các đạo ( có 5 đạo ở cả nước)
có toàn bộ quyền lực nên lấn át cả quyền lực trung ương sẽ ít lại, hạn chế quyền lực trung ương. Nên
Sau cải cách vua Lê Thánh Tông vua mới chia nhiều đạo hơn để quyền lực tập trung hết vào trung
ương. Lê sơ ra đời trong chiến tranh nên vẫn còn quân quản 5 đạo đồng thời là 5 đơn vị quân sự
2. Việc vua Lê Thánh Tông cho phép người dân trực tiếp bầu ra chức danh xã trưởng là biểu hiện
củanguyên tắc “ tản quyền”.
Đúng. Xã quan trước đây là do cấp quan cử thì thẩm quyền bầu là cấp trên nay xã trưởng là do người
dân thì chuyển giao quyền lực từ cấp trên xuống cấp dưới. Tản quyền có hai hình thức là ngang ( tam
ty) và dọc đây là tản quyền dọc chuyển chức năng nhiệm vụ của cấp trên xuống cấp dưới cấp trên (cấp
trung ương) chỉ còn giám sát thoi.
3. Mô hình chính quyền quân quản được thiết lập vào giai đoạn đầu của mỗi vương triều. lOMoARcPSD| 36477832
Sai. Không phải thời kì nào triều đại nào cũng vậy. Ví dụ Lý Trần Hồ hoàn cảnh ra đời không phải từ
chiến tranh, Vương triều nào có từ chiến tranh thì nó mới quân quản để ổn định tình hình đất nước.
Hoặc nhà trần 3 lần đại thắng quân nguyên mông cũng đề cao quân sự mới chống giặc được và cũng
đề cao tính chất quân quản thì suy ra thời kì đầu ko có chiến tranh nhà trần không coi trọng quân quản
nhưng vào giữa thời gian tồn tại có chiến tranh nên mới coi trọng quân quản nên không phải khi nào
cũng xuất hiện vào gd đầu. Thời kì cúi của nhà Hồ chống giặc minh thì cũng là mô hình quân quản.
4. Vua Lê Thánh Tông thực hiện nguyên tắc “ tản quyền “ trong TCBMNN là đồng thời chấp
nhậnquyền lực của mình bị hạn chế.
Sai. Nguyên tắc tản quyền không áp dụng với vua vì vua nắm mọi quyền lực mà nó áp dụng với các
thiết chế bên dưới nhà vua. Mục đích của tản quyền là tránh lạm dụng quyền lực trong đội ngũ quan
lại, việc chia sẻ quyền lực bên dưới làm tập trung quyền lực cho nhà vua.
5. Chức danh quan đại thần dưới thời vua Lê Thánh Tông có rất nhiều quyền hạn và tham gia
hoạchđịnh chính sách nhà nước.
Sai. Vì các chức danh thời Vua Lê Thánh Tông quan đại thần số lượng ít có hữu danh vô thực nhằm
bảo vệ lợi ích quan đại thần chứ không có quyền lực gì cả.
6. Nguyên tắc phân quyền được áp dụng trong BMNN thời vua Lê Thánh tông.
Sai. Phân quyền là chia theo pháp lý và cơ chế để kiểm soát lẫn nhau còn tản quyền là chia cơ học để
tránh lạm dụng quyền lực và quyền lực của vua thời kì này là tuyệt đối nên không là phân quyền. Phân
quyền là hạn chế quyền lực nhà vua nhưng vua tki này không bị hạn chế quyền lực. Vn không áp dụng
nguyên tắc phân quyền vì mình theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
7. Trong cải cách BMNN thời vua Lê Thánh Tông, nguyên tắc “tản quyền” được áp dụng nhằm hạnchế
tình trạng lạm quyền của đội ngũ quan lại.
Đúng. Mục đích của tản quyền vì một chức quan nếu có nhiều quyền lực thì lạm quyền nên cần chia nhỏ quyền lực ra.
8. Cải cách chính quyền cấp xã của vua Lê Thánh Tông góp phần đưa chính quyền gần dân hơn.Đúng.
Khi mà xã trưởng sẽ được dân bầu ra.
9. Để thực hiện nguyên tắc “ tôn quân quyền” một cách triệt để, Vua Lê Thánh Tông đã không
chothành lập các cơ quan giám sát ở địa phương.
Sai. Cơ quan giám sát ở cấp đạo ( địa phương) : ty ngự sử của ngự sử đài cử xuống địa phương, hiến ty
10. Lục khoa là cơ quan giám sát tối cao ở triều đình dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Sai. Ngự sử đài mới là cơ quan giám sát tối cao. Nhà vua là một thiết chế chứ ko là cơ quan giám sát
tối cao. Lục khoa là cơ quan giám sát chuyên môn để giám sát lục bộ.
11. Dưới thời trần, chính quyền trung ương được tổ chức không dựa trên quan hệ huyết thống.Sai.
12. Tể tướng không phải là chức danh luôn tồn tại trong BMNN các triều đại phong kiến Việt Nam.
Đúng. Thời kì lê sơ dưới cải cách vua lê thánh tông ko có tể tướng. lOMoARcPSD| 36477832
13. Dưới thời Lý Trần, đội ngũ quan đại thần có quyền lực rất hạn chế.Sai. Quyền lực quan đại thần rất lớn.
14. Tể tướng dưới thời Lý Trần Hồ là một viên quan có quyền lực chính trị rất lớn.
Sai. Thời kì trần hồ thì 2 viên quan giữ chức tể tướng
15. Lục tự là cơ quan có chức năng hành pháp dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Đúng . Công việc chính thức của lục tự là giúp việc cho lục bộ làm những việc mà lục bộ ch làm hết
mà lục bộ thực hiện chức năng hành pháp nên lục tự cũng có bản chất chức năng hành pháp, còn lục
khoa là cơ quan giám sát lục bộ.
16. Lục tự và Hiến Ty là cơ quan giám sát ở địa phương dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Sai. Lục tự là cơ quan giúp việc cho lục bộ ko có chức năng giám sát mà là chức năng hành pháp thiết
chế ở trung ương và nó là giúp việc cho lục bộ.
17. Nguyên tắc cải cách cơ bản nhất trong tổ chức BMNN thời vua Lê Thánh Tông là nguyên tắc tảnquyền.
Sai. Có 3 nguyên tắc: tập quyền, tản quyền, pháp chế. Và ông thực hiện tập quyền nhiều nhất quan
trọng nhất đó là cải cách cơ bản nhất vì cả tản quyền ( chia quyền lực cũng để tập trung quyền lực vào
vua) và pháp chế( người dân và quan đều phải tuân theo làm uy quyền vua tăng lên làm tôn quân quyền)
khi thực hiện đều giúp cho tập quyền hơn. Tản quyền và pháp chế Đều xoay quanh tập quyền.
Chương 6. Nhà Nguyễn: 2. TCBMNN Ở TW:
Vẫn lấy nho giáo làm tư tưởng chủ đạo với nguyên tắc “ tôn quân quyền”.
Thiết chế hoàng đế vẫn nắm vương quyền và thần quyền và đạt đến đỉnh cao độc tôn đế quyền. Đặt lệ
“ tứ bất: nhằm phân chia quyền lực: ko lập tể tướng, ko lập hoàng hậu ( trừ gia long, bảo đại, ko lập vì
có hoàng hậu thì thường hoàng hậu là con của viên quan lớn trong triều và vua bị ép lập thì làm cho
quyền lực vị quan đó càng lớn làm đe dọa đến quyền lực nhà vua, tránh ngoại thích chuyên quyền phía
sau hoàng hậu thường là 1 gia tộc rất lớn ảnh hưởng đến chính trị, con hoàng hậu sẽ là thái tử và lên
ngôi vua sau này, nên vua ko muốn chia sẻ quyền lực), ko lập thái tử vì mở đường chọn dòng thứ được
lên ngôi chọn đc người tài ngoài ra còn có lí do khi có chức danh thái tử thì khi vua còn sống đã có sự
kéo bè kéo cánh đứng về thái tử nịnh nọt thái tử vì người ta bt vua chết thái tử lên ngôi vua ch chết mà
đã có sự lăm le quyền lực, ko lập trạng nguyên vì trạng nguyên tài giỏi bậc thầy thiên hạ nên khi ông
nói ra thì uy tín làm dân tin tưởng thì nếu ông ko đồng thuận với vua thì ý kiến của ông sẽ ảnh hưởng
đến lòng dân ảnh hưởng quyền lực vua. Lệ tứ bất này cực đoan khi muốn tập trung quyền lực nhà vua
làm cho quyền lực nhà vua cao hơn 1 bậc so vs thời vua lê thành tông=> độc tôn đế quyền.
Thiết chế hội đồng đình thần: quan trọng trong thời gia long, có nhiều chiến thuật trong các trận chiến
tranh. Hết chiến tranh thì vua minh mạng hạn chế quyền tư vấn của những người này ít đi.
Quan đại thần: chỉ dưới thời vua lê tự đức mới có tể tướng gọi là phụ chính đại thần còn mấy vua nguyễn khác ko có. lOMoARcPSD| 36477832
Nội các: cơ quan thực hiện chức năng văn phòng, hành chính.
Cơ mật viện: thành lập dưới thời vua minh mạng, chức năng tư vấn tối cao cho vua về an ninh chính trị.
Lục bộ: để quản lí các lĩnh vực chức năng hành pháp, ngoài thực hiện hành pháp thì còn thực hiện chính
sách lục bộ tương thông ( điểm mới dưới thời nhà nguyễn) là các bộ hỗ trợ lẫn nhau để thực hiện hoạt
động quản lí nên phối hợp vì đời sống xh các lĩnh vực đều có liên quan tới nhau và ko thể cắt cơ học
để quản lí đc vì ko đảm bảo hiệu quả hoạt động của các lĩnh vực nhưng nếu ko tách bạch ra thì chồng
chéo cha chung ko ai khóc, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Cơ quan giám sát: Đô sát viện là cq ngang bộ giám sát tw và địa phương ( chức năng giống ngự sử đài
thời lê). Còn có Kinh lược sứ: giống 1 đoàn thanh tra ví dụ như dân kêu oan hay mất mùa thì vua sẽ cử
đoàn này đi xem và về báo cho vua. Còn có lục khoa giám sát chuyên môn đối với lục bộ.
Cơ quan tư pháp: Trung ương có bộ hình và công đồng, Kinh đô có đại lý tự và tam pháp ty, tỉnh thì có
án sát, phủ huyện châu thì quan đứng đầu đơn vị hành chính thực hiện xét xử luôn.
3. TCBMNN ở địa phương:
- Từ 1802 đến 1830: 30 năm đầu nhà Nguyễn trước cải cách vua minh mạng:
Áp dụng nguyên tắc TW tản quyền ( trung ương tản quyền cho địa phương, buộc tản quyền vì cấp cao
nhất ở địa phương là cấp thành gồm bắc thành và gia định thành đứng đầu là viên quan tổng trấn có sắc
ấn riêng ( thường là vua mới có) nên quyền lực cực kì lớn tổng chỉ huy quân đội biểu hiện rõ nét cho
trung ương tản quyền nhưng vua ko làm khác được vì 30 năm đầu này sau chiến tranh nhà nguyễn chưa
đủ mạnh chưa ổn định để thâu tóm quyền lực địa phương nên phải để địa phương tự quản lí và mô hình
quân quản quy mô như triều đình thu nhỏ ( thiết lập do chiến tranh loạn lạc vì hoàn cảnh ra đời nhà
nguyễn là chiến tranh nhờ đánh thắng nhà Tây Sơn để lên ngôi).
Cấp trấn – dinh: người đứng đầu đa số là quan võ mang tc quân quản. Thời kì này đã bắt đầu chia theo
chiều dọc từ trung ương đến địa phương ( gồm các cơ quan lại, binh, hình ,hữu thừa, hộ, lễ ,công những
cái này là tên của các bộ ở trung ương.
Cấp phủ - huyện – châu: người đứng đầu thực hiện cả xét xử lẫn quản lí.
Cấp tổng- xã: đứng đầu là tổng trưởng, xã trưởng thì do dân bầu ra.
- từ năm 1831 đến 1884: sau cải cách vua minh mạng
Bãi bỏ cấp thành vì lãnh thổ quá lớn và quyền lực quan quá lớn => Thành lập cấp tỉnh cả nước chia
thành 30 tỉnh và 1 phủ thừa thiên => tản quyền ở địa phương=> chính quyền TW tập quyền. Xóa bỏ cấp trấn dinh.
Còn Cấp phủ- huyện châu
Còn Cấp tổng- xã => giảm từ 4 cấp còn 3 cấp. Nhận xét:
- Nhà Nguyễn đã xây dựng được một bộ máy quản lý hành chính gọn nhẹ, hiệu quả theo tiêu chí
quânchủ trung ương tập quyền tuyệt đối. Giải thích: Chứng minh cho quần chủ trung ương tập quyền lOMoARcPSD| 36477832
tuyệt đối: thời kỳ nhà Nguyễn đặt lệ “Tứ bất” nhằm hạn chế sự phân chia quyền lực để tập trung
quyền lực tuyệt đối vào tay vua. Bộ máy quản lý hành chính gọn nhẹ, hiệu quả phát huy được hiệu
quả trong giai đoạn đầu, nhưng càng về sau thì bộ máy quá đơn giản không đủ đáp ứng tình hình đặt
ra với nhà Nguyễn. Đây là một trong những nguyên nhân lý giải vì sao nhà Nguyễn nhanh chóng rơi
vào cục diện nửa phong kiến, bị thực dân Pháp can thiệp rất sâu vào hoạt động nhà nước.
(Nếu như thời Ngô – Đinh – Tiền Lê là giai đoạn xây dựng, thiết lập nền quân chủ chuyên chế, thời Lý
- Trần - Hồ là giai đoạn cũng cố chính thể quân chủ chuyên chế, đến thời kỳ Lê sơ là phát triển chính
thể quân chủ chuyên chế, nhà Nguyễn là đỉnh cao của chế độ trung ương tập quyền - quyền lực tập
trung tuyệt đối vào đế quyền”).
Chương 7: BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC:
SỰ KẾT HỢP GIỮA ĐỨC TRỊ VÀ PHÁP TRỊ:
- Pháp luật đã thể chế tư tưởng kính thiên ái dân của Nho giáo:
Bộ Luật còn thể hiện tư tưởng nhân đạo trong chính sách hình sự đối với người già, trẻ em, người tàn
tật, phụ nữ (các điều 16, 680). Trong đêm trường trung cổ ngột ngạt, điều đó mang lại lợi ích thiết thực
cho dân chúng và cả cho sự phát triển của xã hội.
Tư tưởng đức trị cho rằng sự an nguy, hưng phế, trị loạn của xã hội hoàn toàn phụ thuộc vào tư cách,
năng lực của người cầm quyền. Đội ngũ quan lại trong chế độ quân chủ là những người phụ tác đắc lực
giúp nhà vua thực thi quyền lực trong các lĩnh vực. Mọi chủ trương và chính sách cai trị do nhà vua để
xuất và ban hành thực thì được đến đầu hoàn toàn phụ thuộc vào đội ngũ quan lại có tư chất, năng lực
hay yếu kém, suy thoái. Bởi vậy, nhằm xây dựng đội ngũ quan lại vừa trung thành với triều đại vừa có
tư cách và năng lực thực hiện được các mục tiêu cai trị của nhà nước, thông qua pháp luật, nhà vua
thường quy định chặt chẽ trách nhiệm của quan lại ở từng cương vị cụ thể Điều đó được thể hiện rất rõ
trong Quốc triều hình luật.
Thứ nhất, pháp luật phong kiến quy định trách nhiệm của quan lại trước nhà vua. trách nhiệm của quan
lại trước nhà vưa được Quốc triều hình luật quy định thành những nghĩa vụ mà quan lại phải thực hiện.
- Nghĩa vụ phải báo cáo trung thực với nhà vua kết quả và tình trạng của công việc, của lĩnh vực
đượcgiao thực hiện hay quản lý. Nếu báo cáo sai sự thật dù bằng lời nói hay bằng văn bản đều bị xử
tội biếm hay tội đồ; không phải việc cơ mật mà đây là việc cơ mật thì bị xử nặng hơn một bậc (điều
520). Khi tấu trình nhà vua việc gì mà "trước sau điền đảo không giống nhau", việc nặng bị tội đồ hay
lưu, việc nhẹ bị biếm (Điều 236).
- Nghĩa vụ phải tôn kính và quy phục vua trong cả lời nói, việc làm. Vua là người thay trời trị dân vàcó
quyền lực, thần khí thiêng liêng vì vậy các quan phải tôn kính và quy phục vuaViên quan nào nếu tỏ
ra bất kỳ lời nói tâu việc gì lầm phạm đến tên vua hay tên huý của vua thì bị phạt xuy; viết phạm vào
tên huý thì bị phạt trượng; đặt tên chính hay tên tự phạm vào chữ ký thì bị tội lưu, tội tử (Điều 125).
- Nghĩa vụ phải làm tròn bổn phận ở cương vị được giao. Bộ luật có tới 260/722 điều quy định quanlại
(cả văn và võ) phải hoàn thành chức trách của mình, mọi vi phạm đều bị nghiêm trị.
- Các quan chức ở cương vị nào không những phải làm tròn bổn phận của mình mà còn không đượcvượt
quá chức phận. Pháp luật phong kiến Việt Nam có nhiều điều khoản nghiêm trị hành vi lạm quyền lOMoARcPSD| 36477832
của quan lại. Những người viết sắc mệnh ban chức tước mà cố ý thêm bớt phẩm trật thì bị tội đó.;
người nhận sắc mẹnh mà tự ý tấy chữa thì bị tội lưu (Điều 202).
Thứ hai: Pháp luật phong kiến quy định trách nhiệm của quan lại đối với bản thân và đồng liêu.
Trong chế độ quân chủ, quan chức được coi là bậc "phụ mẫu chỉ dân".
Hơn nữa, nguyên tắc tu, tế, trị, bình của tư tưởng đức trị đòi hỏi quan chức phải nêu tấm gương sáng
về đạo đức cho dân chúng noi theo. Đòi hỏi đó được pháp luật thể chế thành những nghĩa vụ cụ thể của
quan lại đối với bản thân và đồng liêu.
Nghĩa vụ giữ mình thanh liêm của quan lại: Quốc triều đình luật thông qua các điều khoản nhằm trừng
trị quan lại có hành vì tư lợi khi thực hiện công vụ hoặc ăn hối lộ. Các vị quan coi đối việc chở đồ vật
cống mà chở lần vật riêng để buôn bán thì xử tội đồ, mang những vật cấm xử tội lưu (Điều 224). Các
quan vâng mệnh đi sử nước ngoài mà chỉ châm về việc mua bán thì phải tômị biếm hay đồ (Điều 221).
Những quan mượn cháu người khác để được tập ấm làm hạng sắc dịch thì cũng được coi như tội giấu
giếm dân đình (Điều 214). Những hành vi cậy chức quyển lạm chiếm ruộng đất, tài sản của công cũng
bị nghiêm trị. Các quan đại thần và quan chức trong chiều mà lạm chiếm quá phần đất ở đã quy định
thì bị tômị 50 roi biếm 1 tư, có vườn ao rồi còn chiếm đất nơi khác bị tăng thêm tội một bậc (Điều 226).
- Nghĩa vụ giữ lễ nghi, phép tắc nghiêm cần.
Lễ đối với từng cá nhân là sự khắc kỉ, tiếp dục, tu thân, là cách tiếp vật, đối nhân xử thể để giữ trọn đạo
cương thường. Tư tưởng đức trị của Nho gia cho rằng "đi làm quan thi hành pháp lệnh, không có lẽ
không uy nghiêm... Bởi thế cho nên quân tử dung mạo phải cung, trong bụng phải kính, giữ gìn pháp
độ... để làm sáng rõ lễ". Mặt khác, muốn làm tròn bổn phận giáo hoá dân chúng, quan lại càng phải giữ
nghiệm lễ nghỉ, phép tắc. Quốc triều hình luật trừng phạt nghiêm khắc quan lại vi phạm nghĩa vụ này.
Các quan viên trong khi hội họp bàn việc ở công đường mà nói càn không hợp lễ hay cười đùa ốn ào
làm rối trật tự sẽ bị phạt trượng nếu là lỗi nhẹ, nếu lỗi nặng thì xử biếm hay bãi chức (Điều 239). Các
quan viên làm việc ở sở mình mà ngói đứng không đúng phép thì xử tội biếm hay phạt (Điều 129). Các
quan có bổn phận phải làm việc công ở nha môn, nếu làm việc công tại nhà riêng thì xử biếm hay cách
chức. Khi ra công đường làm việc quan chức nào để đầu trần, áo chỉnh tề thì bị xử đánh trượng hay
biếm (Điều 240). Vì phải nêu tấm gương cho dân chúng trong việc giữ gìn lễ ghi phép tắc nên quan lại
bị cấm thực hiện nhiều
Thứ ba, Pháp luật phong kiến Việt Nam quy định trách nhiệm của quan lại đối với dân.
Tư tưởng "kính thiên ái dần" xuất phát từ chủ trương đức trị đã đặt ra cho quan lại - với tư cách là phụ
mẫu của dân, là những người thay vua chăm nuôi dần trách nhiệm nặng nề. Điều đó đã được xác định
trong kinh điển Nho giáo và Quốc triều hình luật đã có nhiều điều khoản quy định cụ thể và trách nhiệm
của quan lại đối với dân qua các nghĩa vụ sau:
- Nghĩa vụ phải làm cho dân giàu.
Muốn làm cho dân giàu, các quan phải lo bảo vệ tài sản cho dân, trừ diệt trộm cướp, đảm bảo trật tự xã
hômị cho dân yên ổn làm ăn, nếu để trộm cướp tụ họp trong hạt thì bị bãi chức hay đó; không bắt trộm
cướp và không tâu trình thì phải xử tăng tội một bậc (Điều 248). Theo điều 458 thì quan xã phường
không kịp thời truy bắt kẻ cướp tại bản xã, bản phường khi có vụ việc xảy ra thì bị tội đó, nếu là trộm lOMoARcPSD| 36477832
thì phải tội hai bậc. Quan chức các địa phương phải khuyến khích dân chăm lo sản xuất nông nghiệp,
đảm bảo chia ruộng công cho dân kịp thời vụ (Điều 347); ruộng đất công hoang hoá phải tâu xin để
chia cho dân khai khẩn, cày cấy, (Điều 350).
- Nghĩa vụ phải làm cho dân nhiều,
Muốn làm cho dân nhiều, các quan phải biết hưng lợi, trừ hại cho dân để dân an cư lạc nghiệp, không
phải lưu tán. Các quan không làm tròn nghĩa vụ này sẽ bị bãi chức hoặc bị đổ (Điều 284). Các nhà
vương công quyển thế và quan chức không được tự tiện thích chữ vào dân định làm nô tì cho mình,
làm trái bị phạt 3 tư, phạt tiền 150 quan; vi phạm nặng thì phạt 5 tư, phạt tiền 500 quan. Điều 294 quy
định đối với những người dân thường đau ốm không có nơi nương tựa thì xã quan ở đó phải "dựng lều
lên mà giữ gìn, săn sóc và cho họ cơm cháo thuốc men, cốt cao cứu sống họ, không được bỏ mặc họ
rên rỉ khốn khổ”, trái lệnh thì quan phường xã phải tội biếm hay bãi chức. Những người góa vợ, goá
chồng, mồ côi, người tàn tật nặng và người nghèo khó. không thể tự mình nuôi sống được thì quan sở
tại phải thu nuôi họ, nếu bỏ rơi họ thì bị xử 50 roi, biếm 1 tư (Điều 295).
- Nghĩa vụ giáo hoá dân.
Khi thì hành chức trách của mình, các quan nhất là các quan ở phủ huyện, phải luôn chú trọng giáo hoá
dân đạo luân thường bằng lễ giáo và bằng chính tư cách của mình. Nếu chưa giáo hoá dân, chưa dạy
cho dân điều hay nên làm điều dở nên tránh mà đã trừng phạt dần thì là quan bạo ngược. Vì vậy, Điều
297 quy định: Có những người hiếu hữu, cùng đàn bà trinh liệt mà không tâu lên để ban thưởng, hay
có những kẻ loạn luân trái đạo mà không tâu lên để trị tội thì quan lộ, quan huyện bị xử tội biếm hay
phạt. Nếu quan chức say mê tửu sắc, nêu gương xấu cho dân chúng sẽ bị biếm hay bãi chức (Điều 637).
Đức trị coi lễ là biện pháp chủ yếu để cai trị và giáo hoá dân chúng. lễ chính là việc quy tắc hoá những
chuẩn mực đạo đức trong gia đình, trong xã hội, những thuần phong mĩ tục nhằm hướng con người tới
sự hoàn thiện nhân cách. Làm cho dân giữ được lễ là dã củng cố, bảo vệ được nền tảng đạo đức làm cơ
sở cho trật tự phong kiến trong gia đình và xã hội. Vì vậy, lễ nghĩ Nho giáo được thể chế thành nhiều
quy định trong Quốc triều hình luật.
- Luật phong kiến Việt Nam quy định chặt chẽ lễ nghi trong gia đình trong xã hội và trừng phạtnghiêm
khắc những người xâm hại lễ nghi.
Trong gia đình, đạo của con em đối với cha anh là hiếu để, đạo của vợ chống đối với nhau là tiết nghĩa,
tam tòng. Lễ giáo trong phạm vi gia đình được luật hoá thành những quy định trong Quốc hình luật
nhằm xác định rõ địa vị, quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể trong từng mối quan hệ cụ thể để ai ở địa
vị nào phải làm tròn phận sự của mình ở địa vị ấy. Quốc triểu hình luật quy định xử phạt người chống
tội lưu, tội tử nếu phạm tội gian dâm hoặc quyến rũ con gái chưa chống trong khi người vợ chỉ bị phạt
lưu với tội gian dâm (Điều 401, 402). Với tội thông gian. Bộ Luật quy định chỉ trừng phạt người chống
trong khi người vợ (Điều 405). Người chồng cũng bị trừng phạt khi có hành vi ngược đãi đánh vợ đến
mức bị thương; giết vợ bị khép vào tội bắt mục - là một trong 10 trọng tội của cổ luật Việt Nam (Điều 482).
Nghĩa vụ của các con đối với cha mẹ được Bộ Luật quy định chặt chẽ với những chế tài nghiêm khắc
khi có vi phạm. Với cha mẹ, các con có những nghĩa vụ sau: Nghĩa vụ vâng lời dạy bảo của cha mẹ
(Điều 506), nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ (Điều 506), nghĩa vụ tôn kính cha mẹ (Điều 475, 504, 511). lOMoARcPSD| 36477832
Người con nào vì phạm các nghĩa vụ trên sẽ bị tội đồ, tội lưu; vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ tôn kính cha mẹ sẽ bị giảo.
Trong quan hệ anh em, tông pháp gia trưởng nho gia coi trọng sự hoà thuận và đòi hỏi người em phải
kính thuận, phục tùng anh em vì quyền của người anh là" quyền huynh thế phụ". Vì vậy, Quốc triều
hình luật xử biếm 2 tư nếu em lăng mạ anh chị; xử đồ, lưu nếu đánh hoặc đánh bị thương anh chị (Điều
477), Bộ luật nghiêm trị những người cố tình gây sự bất hoà giữa anh em đến mức phải kiện cáo nhau
(Điều 512). Ngoài ra, Bộ Luật cũng quy định các nghĩa vụ và các biện pháp chế tài trừng phạt các cháu
khi vi phạm các nghĩa vụ và các biện pháp chế tài trừng phạt các chấu khi vì phạm các nghĩa vụ đối
với ông bà tương tự như đối với cha mẹ; quy định vợ lẽ, phải tôn kính vợ cả như tôn kính chồng (Điều
481); quy định cháu phải tôn kính bác, chú, cô, thím... nếu vi phạm bị trừng phạt (Điều 477, 483).
Những quy định trên cho thấy Bộ Luật nghiêm trị những hành vi vi phạm nghĩa vụ đối với các thât
thuộc bể trên trong gia đình. Với các vi phạm này chỉ cần dấu hiệu hành vi là đã trừng phạt với các chế tài thích đáng.
Trong xã hội, lễ giáo Nho đề cao đạo thấy trò, coi thấy ngang với vua và cha. Luật Lê sơ đã quy định:
"Răn con em về đạo thờ thấy học, khi gặp thấy phải kính cẩn lễ phép, không được khinh nhờn, ai trái
lệnh sẽ khép vào tội bất kính". Vì thế, Quốc triều hình luật quy định học trò mà đánh hoặc lăng mạ thấy
sẽ bị xử nặng hơn đánh hoặc lăng mạ người thường 3 bậc (Điều 489).
Bộ Luật đã bảo vệ giá trị đạo đức và thuần phong mĩ tục truyền thống của dân tộc như lòng hiếu thảo,
sự tôn kính ông bà cha mẹ của con cháu; sự hoà thuận chung thủy giữa vợ chồng đã được đúc kết bằng
thành ngữ "thuận vợ thuận chồng", "trai nể vợ gái sợ chồng"; sự kính nhường hoà thuận giữa anh chị
em trong nhà theo lối ứng xử chị ngã em nâng, truyền thống tôn sự trọng đạo. Đồng thời, các chế tài
nghiêm khắc kèm theo mỗi vi phạm lễ nghĩ gia đình trong Bộ luật có tác động rất lớn đến sự tự điều
chỉnh hành vi của các thành viên gia đình, khiến họ sớm có ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm với bản
thân, gia đình và làm tròn bổn phận ở từng địa vị cụ thể trong gia đình. Chính ở khía cạnh này, Bộ luật
đã hỗ trợ đắc lực cho sự giáo dục đạo đức trong gia đình trong xã hội đã dùng pháp luật để xây dựng,
củng cố những chuẩn mực và giá trị đạo đức truyền thống bởi vì những vi phạm đạo đức lễ nghi gia
đình không chỉ bị lương tâm cắn rứt, bị xã hội lên án mà còn bị phát luật trừng phạt bằng các chế tài cụ thể thích đáng.
Bảo vệ quyền lợi cho nhóm người yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức.
Ảnh hưởng từ tư tưởng nho giáo: Đối với Lê Thánh Tông, Nho giáo trước hết là tư tưởng
mang tính chính trị là dùng chính trị để gây đạo đức, cho nên ông rất coi trọng phần chính trị trong
đạo Nho. Ông thấu hiểu những triết lý của đạo Nho về vũ trụ, về sự biến đổi, về đạo đức, đưa
những giáo lý đó vào cuộc sống với mục đích làm cho dân cường, nước thịnh, mọi việc đều trật tự,
ngay ngắn, hợp lẽ trời và hợp lòng người.
- Ảnh hưởng chính cuộc đời của Lê Thành Tông: Lê Thánh Tông sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh
vô cùng khó khăn. Thuở nhỏ, ông sống lưu lạc cùng mẹ trong những người dân nghèo, chịu ơn cứu
mạng và lại chịu ảnh hưởng mạnh từ đường lối chính trị nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và mẹ là bà lOMoARcPSD| 36477832
Ngô Thị Ngọc Dao, là một vị vua rất gần gũi, quan tâm đến đời sống của nhân dân, đặc biệt là đối
với nhóm đối tượng yếu thế.
* Những quy định bảo vệ quyền lợi người phụ nữ:
- Trong Hôn nhân – gia đình:
+ Điều 338; Điều 320. Đây là một quy định tiến bộ, nhằm hạn chế tình trạng người giàu có quyền
lực ức hiếp lấy người phụ nữ trái với ý chí của họ, nếu thực hiện hành vi này thì sẽ bị xử biếm hoặc đồ.
+ Điều 167 (Hình thức thuận tình ly hôn) Nếu như trước đây chỉ có người chồng được quyền bỏ
vợ thì đến thời Lê Sơ, người vợ cũng có quyền thỏa thuận với chồng về cuộc hôn nhân của mình,
cho thấy người phụ nữ cũng đã có được tiếng nói trong gia đình.
+ Điều 310 Ngay cả khi luật bắt buộc người chồng phải bỏ vợ ngoài ý muốn chủ quan. Người
chồng không thể ly hôn được nếu như khi phạm vào điều thất xuất người vợ đang ở trong ba trường
hợp (tam bất khứ): đã để tang nhà chồng 3 năm; khi lấy nhau nghèo mà sau giàu có; khi lấy nhau có
bà con mà khi bỏ lại không có bà con để trở về. Đồng thời, khi hai bên vợ chồng đang có tang cha
mẹ thì vấn đề ly hôn cũng không được đặt ra.
- Phân chia thừa kế tài sản:
+ Thông thường, nếu ly hôn không do lỗi của người vợ thì phần tài sản riêng (gồm cả điền sản và tư
trang), người vợ có quyền mang về nhà mình. Từ đó cho thấy người phụ nữ sau khi lấy chồng vẫn
có quyền sở hữu tài sản riêng chứ không thuộc hết về nhà chồng. Khi ly hôn, con cái thường thuộc
về chồng, nhưng nếu muốn giữ con, người vợ có quyền đòi chia một nửa số con.
+ Điều 388, 391 Từ đó cho thấy, trong quyền thừa kế tài sản của cha mẹ để lại, pháp luật nhà Lê
không phân biệt con trai - con gái. Tất cả đều được chia đều cho nhau bảo đảm sự bình đẳng giữa
con trai, con gái. Ngoài ra, con gái cũng có thể là người giữ hương hỏa.
- Về bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của người phụ nữ
+ Điều 403, 404 quy định xử rất nặng đối với những trường hợp xâm phạm thân thể, tiết hạnh của người phụ nữ.
+ Điều 409, 680 Trong trường hợp người phụ nữ có việc liên quan đến kiện tụng hoặc bị tội thì
họ vẫn được bảo vệ ở mức độ nhất định.
- Về áp dụng các loại hình phạt
+ 450, 429, 441 mức xử phạt đối với phụ nữ còn nhẹ hơn đàn ông, phụ nữ thì được giảm nhẹ, như
việc xử lý tội ăn trộm, ăn cướp lOMoARcPSD| 36477832
+ Điều 1 Về việc áp dụng hình phạt "ngũ hình", có sự phân biệt giữa đàn ông và đàn bà, không áp
dụng hình phạt "trượng" cho đàn bà và áp dụng riêng từng loại tội "đồ" cho đàn ông và đàn bà. Vì
hình phạt quá hà khắc nặng nề nên pháp luật cũng cân nhắc từng loại hình phạt được áp dụng riêng
cho đàn ông và đàn bà để đảm bảo tính mạng, sức khỏe cho người phụ nữ yếu đuối. + Phụ nữ phạm
tội không bị áp dụng hình phạt trượng hình trượng hình chỉ áp dụng cho đàn ông, riêng lưu hình thì
đàn bà chỉ bị đánh roi, thích chữ vào mặt, bắt phải làm việc nhưng không phải đeo xiềng xích như
đàn ông; đàn bà phải tội tử hình trở xuống, nếu đang có thai thì phải để sinh đẻ sau 100 ngày mới
được đem hành hình. Nếu ngục quan làm trái luật thì phải chịu tội.
* Bảo vệ quyền lợi của người già, trẻ em
- Nguyên tắc hồi tố đặc biệt
+ Điều 16, 17, 665 nguyên tắc hồi tố được áp dụng, tức là trẻ em, người già cả, vẫn phải chịu
trách nhiệm pháp lý về những hành vi của mình nhưng họ được xử tội theo hướng có lợi nhất. Điều
đó thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật và phù hợp với truyền thống đạo lý kính già,
yêu trẻ của dân tộc Việt Nam.
- Người già: khi bị xử tội sẽ theo hướng có lợi nhất, tức so với cùng một hành vi phạm tội nhưngngười
già phạm tội thì mức xử tội sẽ nhẹ hơn. Cụ thể, những hình phạt được áp dụng tùy vào từng tội phạm
sẽ là được người khác chuộc về bằng tiền, phạm trọng tội thì phải thông qua sự xem xét của nhà vua,
không hành hình đối với những tội bị xử chết
- Trẻ em: Điểm chú ý ở quy định về xử tội trẻ em là tư duy của những nhà làm luật thời kỳ này rấtgần
với tư duy pháp luật hiện đại khi coi trẻ em, người chưa thành niên là những người chưa trưởng thành
do họ còn non nớt về thể chất và trí tuệ. Do vậy, trẻ em cần được đối xử khác với cách đối xử dành
cho người đã thành niên, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt + Điều 604, 605 Bảo vệ trẻ em trong các trường hợp
+ Điều 377, 378, 379 đây là tư duy rất tiền bộ, bởi tài sản của trẻ em có được từ cha mẹ ruột
minh sẽ được bảo vệ tối đa các lợi ích liên quan. Những hành vi liên quan đến điền sản đều phải
có sự xin phép từ nhiều đối tượng và nhiều lần, cao nhất là quan.
* Bảo vệ quyền lợi của dân tộc thiểu số
+ Điều 40; 451 có sự tôn trong các luật tục của họ, khi một người dân tộc thiểu số phạm tội với một
người dân tộc thiểu số khác thì sẽ dùng phong tục của nơi ấy để định tội.
+ Điều 72 bảo vệ đối với người dân tộc thiểu số, cấm các hành động phạm pháp với họ, đặc biệt
là bảo vệ họ trước sự sách nhiễu của quan lại. lOMoARcPSD| 36477832
+ Điều 164 đảm bảo quan lại không lạm dụng quyền lực, tùy tiện bắt giam đối với người dân tộc
thiểu số. Qua đây có thể thấy Bộ luật Hồng Đức đã có những sự bảo vệ nhất định đối người nhóm
người thiểu số, hạn chế quan lại lạm quyền, sách nhiễu người dân. Bộ luật Hồng Đức còn xử tội
với cả những quan lộ huyện che giấu, khi biết chuyện mà không tâu. Từ đó tạo ra cơ chế giám sát,
đảm bảo quyền lợi cho người dân tộc thiểu số và đảm bảo điều luật được thi hành có hiệu quả. +
Điều 531, 595, 703 Bộ luật Hồng Đức rất quan tâm và đã có nhiều quy định và sử dụng nhiều cơ
chế để bảo vệ một cách hiệu quả quyền lợi của các nhóm xã hội yếu thế.
* Bảo vệ quyền lợi người tàn tật, người cô quả không nơi nương tựa
+ Điều 17 Có thể thấy rằng, BLHĐ đã quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của người khuyết tật, người
cô quả không nơi nương tựa bằng các quy định như cho họ hưởng quy định về miễn giảm trách nhiệm
hình sự, chuộc tội bằng tiền, không bị tra khảo, đánh đập …
* Bảo vệ quyền lợi của các nhóm xã hội yếu thế khác
+ Điều 363, 365, 291, 490 Bảo vệ nô tỳ, người có địa vị thấp kém trong xã hội * Nhận xét:
- ưu điểm, Bộ luật Hồng Đức đã có nhiều quy định và sử dụng nhiều cơ chế để bảo vệ một cáchhiệu
quả quyền lợi của các nhóm xã hội yếu thế. hiện tính nhân đạo, tư duy hiện đại, thể hiện sự quan tâm
đến các đối tượng yếu thế trong xã hội, có những quy định cụ thể bảo vệ nhóm đối tượng người già,
trẻ em, người khuyết tật.
Tính nhân đạo trong bộ luật Hồng Đức
Ảnh hưởng từ tư tưởng nho giáo: Đối với Lê Thánh Tông, Nho giáo trước hết là tư tưởng mang tính
chính trị là dùng chính trị để gây đạo đức, cho nên ông rất coi trọng phần chính trị trong đạo Nho.
Ông thấu hiểu những triết lý của đạo Nho về vũ trụ, về sự biến đổi, về đạo đức, đưa những giáo lý
đó vào cuộc sống với mục đích làm cho dân cường, nước thịnh, mọi việc đều trật tự, ngay ngắn,
hợp lẽ trời và hợp lòng người.
- Ảnh hưởng chính cuộc đời của Lê Thành Tông: Lê Thánh Tông sinh ra và lớn lên trong hoàn
cảnh vô cùng khó khăn. Thuở nhỏ, ông sống lưu lạc cùng mẹ trong những người dân nghèo, chịu ơn
cứu mạng và lại chịu ảnh hưởng mạnh từ đường lối chính trị nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và mẹ là
bà Ngô Thị Ngọc Dao, là một vị vua rất gần gũi, quan tâm đến đời sống của nhân dân, đặc biệt là
đối với nhóm đối tượng yếu thế. * Các quy định có tính nhân đạo - Đối với người phạm tội:
+ Điều 16, 17 Qua các quy định trên cho thấy Quốc triều hình luật đã thể hiện chính sách hình sự
đặc biệt nhân đạo đối với những người phạm tội là người già và trẻ em, người bị tàn tật, miễn cho lOMoARcPSD| 36477832
họ phải chịu hình phạt tàn ác bằng cách cho họ được chuộc tội bằng tiền hoặc tha tội nếu họ không
phạm vào tội thập ác, tội phản nghịch hay tội giết người với hình phạt quy định là tử hình. Bộ luật
Hồng Đức đã thay hình phạt tù thành phạt tiền đối với những tội nhẹ đối với các người phạm tội là
người “dễ bị tổn thương” trong xã hội. Triều đình đã thực hiện nguyên tắc chiếu cố theo tuổi tác và
đối với người tàn tật, trẻ em trong Quốc Triều Hình Luật, là một trong những nguyên tắc tiến bộ
nhất thời Hậu Lê thể hiện sự nhân đạo của giai cấp thống trị.
- Nhân đạo với người gặp khó khăn đặc biệt;
+ Điều 294 Điều luật này đã thể hiện rõ tính nhân đạo khi quy định về cách đối nhân xử thế, đặc
biệt là đối với những người có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt. Họ là những người kém may mắn
trong cuộc sống, chính vì vậy quan bản phường ở địa phương đó - những người có đủ điều kiện để
chăm sóc, giúp đỡ những người khó khăn - có trách nhiệm phải che chở, cưu mang, không được bỏ
mặc họ. Qua quy định này ta cũng có thể nhìn thấy được truyền thống đoàn kết, yêu thương giúp đỡ
nhau, “lá lành đùm lá rách” của dân tộc Việt Nam đã được hình thành từ rất lâu.
- Nhân đạo đối với phụ nữ và trẻ em: mặc dù quyền lợi của người phụ nữ vẫn bị ảnh hưởng bởi giai
cấp, quan niệm “trọng nam khinh nữ” và các chế định phong kiến xưa nhưng đã được đề cao, quan
tâm và bảo vệ hơn so với những bộ luật của các triều đại trước.
bảo vệ người phụ nữ mang thai thì còn bảo vệ cả trẻ em, cho những sinh linh vô tội có cơ hội được
sống – quyền cơ bản của con người – mặc dù là con của người phạm tội.
- Nhân đạo đối với các đối tượng khác:
+ Điều 435, 71, 531, 595, 40 * Nhận xét
Mặc dù mang bản chất giai cấp phong kiến nhưng Bộ luật Hồng Đức lại chứa đựng nhiều yếu tố
tiến bộ với những quy phạm bảo vệ quyền lợi của người dân, của tầng lớp dưới, của nô tì, người cô quả, tật …
Đặc biệt, Bộ luật này còn có một số quy định bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, người dân tộc
thiểu số, điều đó phản ánh truyền thống nhân đạo, truyền thống tôn trọng phụ nữ, tư tưởng “lấy
dân làm gốc”, lấy làng xã làm nền tảng của quốc gia. Tính dân tộc trong quy định của BLHĐ a. Pháp luật về dân sự
a.1. Pháp luật về hôn nhân - gia đình
Bộ luật Hồng Đức vẫn có những nét đặc trưng của dân tộc Việt Nam, pháp luật nước ta lúc bấy giờ vẫn
có một số điều thoát ly khỏi tư tưởng Nho giáo. Chẳng hạn như: Theo Nho giáo, “tam tòng” chỉ mối lOMoARcPSD| 36477832
quan hệ giữa phụ nữ với nam giới trong gia đình và ngoài xã hội, đó là cha, chồng, con trai (ở nhà theo
cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con), đề cao sự phục tùng một chiều, sự thuỷ chung tuyệt
đối của phụ nữ đối với nam giới. Quốc triều Hình luật còn tiếp thu truyền thống tôn trọng người phụ
nữ của dân tộc ta. Quốc triều Hình luật thừa nhận nhận quyền ly hôn của người vợ trong một số trường
hợp nhất định: Chồng vi phạm nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ quan hệ vợ chồng (Điều 308), người
chồng mắng giết mẹ vợ vô lý (Điều 333) thì vợ có quyền ly hôn.
Bên cạnh đó, Bộ luật Hồng Đức thừa nhận quyền tài sản riêng của người phụ nữ. Quyền sở hữu cá nhân
của vợ được đặt ra khi hôn nhân chấm dứt do chồng chết hoặc trong trường hợp ly hôn không do lỗi
người vợ; tài sản ruộng đất của hai vợ chồng tạo nên trong thời kỳ hôn nhân được chia làm hai phần
bằng nhau, vợ và chồng mỗi người một phần; vợ có thể thừa kế tài sản ruộng đất trong trường hợp:
Chồng chết nhưng chưa có con; vợ chồng đã có con nhưng chồng chết, con cũng chết…Điều này thể
hiện tính nhân đạo, bác ái, xuất phát từ phong tục, truyền thống tình nghĩa vợ chồng của dân tộc ta,
nhằm bảo vệ quyền lợi tối thiểu của người vợ phù hợp với đạo lý người Việt.
Quốc triều Hình luật còn tiếp thu truyền thống con cháu được quyền ra ở riêng khi cha mẹ còn sống.
Theo pháp luật Trung Quốc, đây là tội đại bất hiếu. Tuy nhiên, pháp luật triều Lê chấp nhận điều đó.
Điều 347 quy định con cái đủ 15 tuổi được cấp ruộng đất để tự nuôi sống bản thân. Do sự kết hợp các
phong tục tập quán lâu đời của của Việt Nam với đạo đức Nho giáo hòa nhập chúng vào hệ thống pháp
luật của triều đình mà mối quan hệ cha mẹ và con cái trong Quốc Triều hình luật không có tính chất
tuyệt đối phục tùng, tuyệt đối định đoạt như Nho giáo. a.2. Pháp luật về thừa kế
Chế định thừa kế trong Quốc triều hình luật tôn trọng phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta: Pháp luật quy định, trước khi chia thừa kế di sản của cha mẹ, các con phải dành 1/20 di sản làm
hương hỏa thờ cúng cha mẹ. Thờ cúng là việc thể hiện tấm lòng tôn kính ông bà, cha mẹ của con cháu.
Đây là truyền thống tốt đẹp, là bản sắc văn hóa của người Việt.
Chế định thừa kế trong Quốc triều hình luật có những quy định không chỉ mang tính pháp lý mà còn
mang tính đạo lý: Cổ luật quy định những người không nghe lệnh ông bà, cha mẹ thì mất quyền thừa
kế. Đây là quy định không chỉ mang tính pháp lý mà còn mang tính đạo lý, giáo dục con cháu phải biết
vâng lời ông bà, cha mẹ, không được vì tranh giành của cải mà dẫn đến mất đoàn kết trong gia đình.
Xuất phát từ tinh thần đoàn kết đó, pháp luật sẽ điều chỉnh việc nhường quyền thừa kế giữa những
người thừa kế với nhau. Việc nhường quyền thừa kế thể hiện tinh thần nhường cơm sẻ áo cho nhau, “lá
lành đùm lá rách”. Đây là truyền thống yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa những người có quan hệ gia đình.
Như vậy, tính dân tộc độc đáo và đặc sắc đã làm cho Bộ Luật Hồng Đức không chỉ là công cụ thống trị
của riêng giai cấp thống trị mà thực sự thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân thông qua các phong
tục tập quán truyền thống. Đó là điểm tiến bộ và độc đáo của nhà Lê. Nó thể hiện tính độc lập, sáng tạo
của những nhà lập pháp triều Lê, đồng thời là sự thể hiện của quốc gia có chủ quyền. b. Pháp luật về hình sự
b.1. Đề cao truyền thống đạo hiếu, trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ, nếu làm trái có thể bị trừng trị rất nặng. lOMoARcPSD| 36477832
Theo Điều 7 Bộ luật Hồng Đức, thậm chí cha mẹ phạm tội cũng không được tố cáo mà còn phải che
giấu, nếu làm trái bị xử tử hay lưu. Có thể thấy rằng, quan hệ giữa cha mẹ và con cái rất được Bộ luật
Hồng Đức chú trọng. Đặc biệt, truyền thống hiếu nghĩa có tầm quan trọng rất lớn. Điều 2 bộ luật Hồng
Đức xem hành vi không phụng dưỡng, kính trọng cha mẹ thuộc nhóm Thập ác tội với mức hình phạt
rất nặng. Theo Hồng Đức thiện chính thư thì tội bất hiếu có thể bị áp dụng hình phạt tử và được thực
hiện dưới hình thức lăng trì.
b.2. Tính dân tộc thể hiện trong nguyên tắc miễn giảm trách nhiệm hình sự Điều
này được thể hiện trong những quy định sau đây.
Điều 18. Phàm phạm tội chưa bị phát giác mà tự thú trước, thì được tha tội. Điều 485. Điều 499. Có
thể thấy rằng, Bộ luật Hồng Đức chủ trương: Chủ động tự thú trước khi phạm tội mà bị phát giác thì
được tha tội, trừ tội thập ác và giết người. Thực hiện hành vi trong trường hợp tự vệ chính đáng (do
ông bà, cha mẹ bị đánh) hoặc hành vi lầm lỡ đều có thể được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Những quy định này cho thấy sự tiến bộ và nhân văn của Bộ luật Hồng Đức thể hiện truyền thống nhân
đạo, khoan hồng, “đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại” của dân tộc ta. b.3. Bộ luật Hồng
Đức có quy định về thập ác bất xá
Tội thập ác ở đây là những tội xâm hại đến vương quyền của nhà vua, đến trật tự xã hội của Nho giáo,
bao gồm: mưu phản, mưu nghịch, mưu loạn, ác nghịch, bất đạo, đại bất kính, bất hiếu, bất mục, bất
nghĩa, nội loạn. Thông qua việc lên án những hành vi nói trên, bên cạnh việc bảo về quyền lợi cho giai
cấp thống trị thì còn cho thấy Bộ luật Hồng Đức phần nào đề cao các truyền thống; Yêu nước, đoàn kết
chống giặc ngoại xâm; tội bất nghĩa (dân đánh, giết quan, trò đánh, giết thầy, vợ không để tang chồng):
Truyền thống nhân đạo, có lòng yêu thương, độ lượng, sống có nghĩa tình; Đánh, giết ông bà, cha mẹ
hay người thân thuộc khác trong gia đình; tội bất hiếu (mắng nhiếc, không nuôi dưỡng, không để tang
ông bà, cha mẹ); tội bất mục (gả bán người thân từ hàng phải để tang từ 3 tháng trở lên); tội nội loạn
(gian dâm với những người thân mà có nghĩa vụ để tang): Truyền thống gia đình của dân tộc Việt Nam,
kính trên nhường dưới, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, con cháu hiếu kính ông bà cha mẹ, anh em hòa thuận với nhau. * Nguyên nhân: Nguyên nhân khách quan:
Bộ luật Hồng Đức mang đậm tính dân tộc bởi lẽ nhà Lê sơ được thành lập là kết quả của cuộc
kháng chiến chống quân Minh của dân tộc. Ý thức về sự độc lập, toàn vẹn lãnh thổ từ lâu đã hình
thành tiềm tàng trong nhận thức của mỗi người dân đất Việt. ý thức tự tôn dân tộc đã ảnh hưởng và
chi phối cả lĩnh vực lập pháp. Bộ Quốc triều Hình luật – tinh hoa của luật pháp thời Lê sơ đã tiếp
thu tư tưởng truyền thống dân tộc, một nền văn hoá phát triển không thua kém Trung hoa. Chính vì
thế, tính dân tộc được thể hiện rất rõ trong Quốc triều Hình luật. Nguyên nhân chủ quan: lOMoARcPSD| 36477832
Vua Lê Thánh Tông là vị vua lớn lên từ nhân dân, nên tư tưởng của ông lúc bấy giờ là “lấy lân
làm gốc”, lấy làng xã làm nền tảng của quốc gia… TÍNH PHÁP CHẾ:
Nguyên nhân:Đội ngũ quan lại trong chế độ quân chủ là những người phụ tác đắc lực giúp nhà vua thực
thi quyền lực trong các lĩnh vực. Mọi chủ trương và chính sách cai trị do nhà vua để xuất và ban hành
thực thì được đến đầu hoàn toàn phụ thuộc vào đội ngũ quan lại có tư chất, năng lực hay yếu kém, suy
thoái. Bởi vậy, nhằm xây dựng đội ngũ quan lại vừa trung thành với triều đại vừa có tư cách và năng
lực thực hiện được các mục tiêu cai trị của nhà nước, thông qua pháp luật, nhà vua thường quy định
chặt chẽ trách nhiệm của quan lại ở từng cương vị cụ thể Điều đó được thể hiện rất rõ trong Quốc triều
hình luật. Pháp chế là pháp luật để người dân và quan lại tuân theo.
Thứ nhất, pháp luật phong kiến quy định trách nhiệm của quan lại trước nhà vua. trách nhiệm của quan
lại trước nhà vưa được Quốc triều hình luật quy định thành những nghĩa vụ mà quan lại phải thực hiện. -
Nghĩa vụ phải báo cáo trung thực với nhà vua kết quả và tình trạng của công việc, của lĩnh vực
đượcgiao thực hiện hay quản lý. Nếu báo cáo sai sự thật dù bằng lời nói hay bằng văn bản đều bị xử
tội biếm hay tội đồ; không phải việc cơ mật mà đây là việc cơ mật thì bị xử nặng hơn một bậc (điều
520). Khi tấu trình nhà vua việc gì mà "trước sau điền đảo không giống nhau", việc nặng bị tội đồ hay
lưu, việc nhẹ bị biếm (Điều 236). -
Nghĩa vụ phải tôn kính và quy phục vua trong cả lời nói, việc làm. Vua là người thay trời trị dân
vàcó quyền lực, thần khí thiêng liêng vì vậy các quan phải tôn kính và quy phục vuaViên quan nào nếu
tỏ ra bất kỳ lời nói tâu việc gì lầm phạm đến tên vua hay tên huý của vua thì bị phạt xuy; viết phạm vào
tên huý thì bị phạt trượng; đặt tên chính hay tên tự phạm vào chữ ký thì bị tội lưu, tội tử (Điều 125). -
Nghĩa vụ phải làm tròn bổn phận ở cương vị được giao. Bộ luật có tới 260/722 điều quy định
quanlại (cả văn và võ) phải hoàn thành chức trách của mình, mọi vi phạm đều bị nghiêm trị. -
Các quan chức ở cương vị nào không những phải làm tròn bổn phận của mình mà còn không
đượcvượt quá chức phận. Pháp luật phong kiến Việt Nam có nhiều điều khoản nghiêm trị hành vi lạm
quyền của quan lại. Những người viết sắc mệnh ban chức tước mà cố ý thêm bớt phẩm trật thì bị tội
đó.; người nhận sắc mẹnh mà tự ý tấy chữa thì bị tội lưu (Điều 202).
Thứ hai: Pháp luật phong kiến quy định trách nhiệm của quan lại đối với bản thân và đồng liêu.
Trong chế độ quân chủ, quan chức được coi là bậc "phụ mẫu chỉ dân".
Hơn nữa, nguyên tắc tu, tế, trị, bình của tư tưởng đức trị đòi hỏi quan chức phải nêu tấm gương sáng
về đạo đức cho dân chúng noi theo. Đòi hỏi đó được pháp luật thể chế thành những nghĩa vụ cụ thể của
quan lại đối với bản thân và đồng liêu.
Nghĩa vụ giữ mình thanh liêm của quan lại: Quốc triều đình luật thông qua các điều khoản nhằm trừng
trị quan lại có hành vì tư lợi khi thực hiện công vụ hoặc ăn hối lộ. Các vị quan coi đối việc chở đồ vật
cống mà chở lần vật riêng để buôn bán thì xử tội đồ, mang những vật cấm xử tội lưu (Điều 224). Các
quan vâng mệnh đi sử nước ngoài mà chỉ châm về việc mua bán thì phải tômị biếm hay đồ (Điều 221).
Những quan mượn cháu người khác để được tập ấm làm hạng sắc dịch thì cũng được coi như tội giấu
giếm dân đình (Điều 214). Những hành vi cậy chức quyển lạm chiếm ruộng đất, tài sản của công cũng lOMoARcPSD| 36477832
bị nghiêm trị. Các quan đại thần và quan chức trong chiều mà lạm chiếm quá phần đất ở đã quy định
thì bị tômị 50 roi biếm 1 tư, có vườn ao rồi còn chiếm đất nơi khác bị tăng thêm tội một bậc (Điều 226).
- Nghĩa vụ giữ lễ nghi, phép tắc nghiêm cần.
Lễ đối với từng cá nhân là sự khắc kỉ, tiếp dục, tu thân, là cách tiếp vật, đối nhân xử thể để giữ trọn đạo
cương thường. Tư tưởng đức trị của Nho gia cho rằng "đi làm quan thi hành pháp lệnh, không có lẽ
không uy nghiêm... Bởi thế cho nên quân tử dung mạo phải cung, trong bụng phải kính, giữ gìn pháp
độ... để làm sáng rõ lễ". Mặt khác, muốn làm tròn bổn phận giáo hoá dân chúng, quan lại càng phải giữ
nghiệm lễ nghỉ, phép tắc. Quốc triều hình luật trừng phạt nghiêm khắc quan lại vi phạm nghĩa vụ này.
Các quan viên trong khi hội họp bàn việc ở công đường mà nói càn không hợp lễ hay cười đùa ốn ào
làm rối trật tự sẽ bị phạt trượng nếu là lỗi nhẹ, nếu lỗi nặng thì xử biếm hay bãi chức (Điều 239). Các
quan viên làm việc ở sở mình mà ngói đứng không đúng phép thì xử tội biếm hay phạt (Điều 129). Các
quan có bổn phận phải làm việc công ở nha môn, nếu làm việc công tại nhà riêng thì xử biếm hay cách
chức. Khi ra công đường làm việc quan chức nào để đầu trần, áo chỉnh tề thì bị xử đánh trượng hay
biếm (Điều 240). Vì phải nêu tấm gương cho dân chúng trong việc giữ gìn lễ ghi phép tắc nên quan lại
bị cấm thực hiện nhiều
Thứ ba, Pháp luật phong kiến Việt Nam quy định trách nhiệm của quan lại đối với dân.
Tư tưởng "kính thiên ái dần" xuất phát từ chủ trương đức trị đã đặt ra cho quan lại - với tư cách là phụ
mẫu của dân, là những người thay vua chăm nuôi dần trách nhiệm nặng nề. Điều đó đã được xác định
trong kinh điển Nho giáo và Quốc triều hình luật đã có nhiều điều khoản quy định cụ thể và trách nhiệm
của quan lại đối với dân qua các nghĩa vụ sau:
- Nghĩa vụ phải làm cho dân giàu.
Muốn làm cho dân giàu, các quan phải lo bảo vệ tài sản cho dân, trừ diệt trộm cướp, đảm bảo trật tự xã
hômị cho dân yên ổn làm ăn, nếu để trộm cướp tụ họp trong hạt thì bị bãi chức hay đó; không bắt trộm
cướp và không tâu trình thì phải xử tăng tội một bậc (Điều 248). Theo điều 458 thì quan xã phường
không kịp thời truy bắt kẻ cướp tại bản xã, bản phường khi có vụ việc xảy ra thì bị tội đó, nếu là trộm
thì phải tội hai bậc. Quan chức các địa phương phải khuyến khích dân chăm lo sản xuất nông nghiệp,
đảm bảo chia ruộng công cho dân kịp thời vụ (Điều 347); ruộng đất công hoang hoá phải tâu xin để
chia cho dân khai khẩn, cày cấy, (Điều 350).
- Nghĩa vụ phải làm cho dân nhiều,
Muốn làm cho dân nhiều, các quan phải biết hưng lợi, trừ hại cho dân để dân an cư lạc nghiệp, không
phải lưu tán. Các quan không làm tròn nghĩa vụ này sẽ bị bãi chức hoặc bị đổ (Điều 284). Các nhà
vương công quyển thế và quan chức không được tự tiện thích chữ vào dân định làm nô tì cho mình,
làm trái bị phạt 3 tư, phạt tiền 150 quan; vi phạm nặng thì phạt 5 tư, phạt tiền 500 quan. Điều 294 quy
định đối với những người dân thường đau ốm không có nơi nương tựa thì xã quan ở đó phải "dựng lều
lên mà giữ gìn, săn sóc và cho họ cơm cháo thuốc men, cốt cao cứu sống họ, không được bỏ mặc họ
rên rỉ khốn khổ”, trái lệnh thì quan phường xã phải tội biếm hay bãi chức. Những người góa vợ, goá
chồng, mồ côi, người tàn tật nặng và người nghèo khó. không thể tự mình nuôi sống được thì quan sở
tại phải thu nuôi họ, nếu bỏ rơi họ thì bị xử 50 roi, biếm 1 tư (Điều 295). lOMoARcPSD| 36477832
- Nghĩa vụ giáo hoá dân.
Khi thì hành chức trách của mình, các quan nhất là các quan ở phủ huyện, phải luôn chú trọng giáo hoá
dân đạo luân thường bằng lễ giáo và bằng chính tư cách của mình. Nếu chưa giáo hoá dân, chưa dạy
cho dân điều hay nên làm điều dở nên tránh mà đã trừng phạt dần thì là quan bạo ngược. Vì vậy, Điều
297 quy định: Có những người hiếu hữu, cùng đàn bà trinh liệt mà không tâu lên để ban thưởng, hay
có những kẻ loạn luân trái đạo mà không tâu lên để trị tội thì quan lộ, quan huyện bị xử tội biếm hay
phạt. Nếu quan chức say mê tửu sắc, nêu gương xấu cho dân chúng sẽ bị biếm hay bãi chức (Điều 637).