



















Preview text:
VỢ CHỒNG A PHỦ
I. MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI. 1. Mở bài :
Sê khốp nhận định: “Một nhà nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy” để đặt
ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó. Và nhà văn Tô Hoài với tình yêu thương con người
vô bờ bến, cũng đã để cuộc đời “phả gió” vào trái tim mình, thôi thúc ông đi tìm kiếm những hạt
bụi vàng lấp lánh sáng chói chứa chan tinh thần nhân đạo mang tên “ Vợ chồng A Phủ”.
2. Kết bài: “Một cuộc thám hiểm thực sự không phải ở chỗ cần một vùng đất nước mà cần một
đôi mắt mới”, và nhà văn Tô Hoài với “đến mắt tinh tế và đầy tinh thương nhân đạo của mình đã
thổi vào “Vợ chồng A Phủ một sức sống bên t mang tên sức sống mãnh liệt của con người. Đề tài
về người lao động năm và một “thứ hạt” quen thuộc được gieo trồng trên mảnh đất văn chương.
Nhưng theo cách chăm sóc, và vun tưới của Tô Hoài, nó đã tạo ra thứ quả ung chúng A Phủ” mới
lạ và hấp dẫn hơn bao giờ hết. Với giá trị một tác phẩm chán chính đạt đến sự xuất sắc, bắt nguồn
từ chính hiện thực cuộc sống “đập vỡ những thiên tượng trong lòng người đọc”, nên dù đã hơn
nửa thế kỉ trôi qua, “Vợ chứng A Phủ” vẫn giữ nguyên vẹn giá trị và luôn là dư vị khó phải trong lòng độc giả
II. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH
Tô Hoài là nhà văn của Hà Nội, ông có những tác phẩm tiêu biểu như Dế mèn phiêu lưu kí, tập
Truyện Tây Bắc, với phong cách tôn trọng sự thật, trần thuật sinh động, khả năng miêu tả tâm lí
và đặc sắc văn hóa. Truyện ngắn được ra đời sau chuyến đi thực tế lên Tây Bắc, kể về . . Đoạn
thích ở . . văn bản được học, thuộc phần… Câu dẫn, câu chuyển. III CÁC NHẬN ĐỊNH HAY
-“Cuộc đời như văn chương” Tô Hoài
-Tsêkhôp, nhà văn người Nga – một bậc thầy về truyện ngắn khẳng đinh: “Theo tôi, viết truyện
ngắn cốt nhất phải tô đậm cái mở đầu và kết luận”
-“Một cuộc thám hiểm thực sự không phải ở chỗ cần một vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới” - Mác-xen Pruxt
-“Tô Hoài là nhà văn của người thường, đời thường, truyện thường.” Nguyễn Đăng Mạnh
-Tô Hoài quan niệm: “ Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đẫ là sự thật thì
không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc.”
-Tô Hoài từng tâm sự: “ Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước
và con người miền Tây đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều.”
-“Văn học là cuộc đời, cuộc đời là nơi xuất phát cũng là đích đi tới của văn học” Tố Hữu
-Nguyên Ngọc khẳng định: “Nghệ thuật là sự vươn tới và níu giữ mãi mãi tính người cho con
người. Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo.” IV YÊU CẦU PHỤ.
1 Nhận xét ngòi bút hiện thực trong nhà văn Tô Hoài.
-Đã làm nổi bật chế độ phong kiến miền núi tàn bạo, độc ác lúc bấy giờ với thế lực cường quyền
và thần quyền cùng những hủ tục lạc hậu: cho vay nặng lãi, cúng trình ma…
- Cuộc sống thống khổ bị bóc lột của người dân miền núi bởi cường quyền và thần quyền, hủ tục
ăn mòn về nhận thức, chai sạn về tinh thần,. . Nhưng ẩn sâu trong họ vẫn là một sức sống mãnh
liệt, nó âm ỉ và chờ thời cơ để bùng phát.
- Càng lách sâu vào hiện thực thì tấm lòng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài càng hiện lên rõ hơn
dưới nỗi đau của nhân vật Mị.
2. Nhận xét tấm lòng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài.
-Nhà văn đã cảm thông với nỗi đau, nỗi bất hạnh, sự thống khổ của nhân vật khi phải sống kiếp
làm dâu, làm thân trâu ngựa trong nhà thống lí.
- Phát hiện và nâng niu, trân trọng những phẩm chất tốt đẹp khát vọng sống, sức sống tiềm tàng, sự vươn lên của Mị.
- Tố cáo tội ác của bọn chúa đất thực dân đã lợi dụng cường quyền, thần quyền và hủ tục miền núi
để đày ải, áp bức bóc lột người lao động
- Và nhà văn cũng tin vào tương lai tươi sáng của Đảng, với quá trình đấu tranh từ tự phát sang tự giác.
3. Nhận xét về sức sống mãnh liệt của người lao động miền núi.
- Dù trong hoàn cảnh nào họ vẫn luôn hướng về sự sống, luôn khao khát sống, chờ cơ hội để bùng
cháy sức ống. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của họ.
- Tâm lòng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài: ông luôn trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp trong tâm
hồn những con người lao động nghèo khổ, qua đó lên án tố có bọn chúa đất thổ ti đã lợi dụng hủ
tục áp bức bóc lột người lao động
- Thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sức sống bền bỉ, cùng khả năng vươn dậy của họ.
4. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong truyện ngắn của Tô Hoài.
-Miêu tả tâm lý đặc sắc, đặt nhân vật trong sự vận động, thể hiện những diễn biến tâm lý hết sức tự nhiên.
- Xây dựng những đối lập để tạo nên sự chuyển biến tâm lý trong nhân vật, thể hiện rõ số phận và khát khao của nhân vật.
5. Vẻ đẹp tâm hồn của người lao động miền núi: -
Cuộc sống của người lao động ở miền núi khi ấy khá là cơ cực nhưng tâm hồn họ lúc nào
cũng hướng về cái thiện -
Ở họ luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt. Họ yêu thích tự do, tràn đầy khát vọng sống và
luôn mưu cầu những hạnh phúc vô cùng chính đáng cho bản thân. -
Truyền thống “thương người như thể thương thân”, luôn yêu thương đồng loại của mình.
6. Niềm tin vào con người: -
Tin vào khả năng vươn dậy, khao khát sống, khao khát yêu và sức sống mãnh liệt, sự phản
kháng của người dân lao động miền núi bấy giờ -
Tin vào con đường giải phóng, ánh sáng của Đảng với chân lý: Ở đâu có áp bức bất công
thì ở đó có sự đấu tranh chống lại nó. Đó là con đường đấu tranh đi từ tự phát đến tự giác đứng lên
V. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN.
1 Hình ảnh Mị trong đoạn văn mở đầu câu truyện.
-Sự dụng hệ thống các đại từ cùng nghĩa và thủ pháp lạ hóa, tác giả đặt nhân vật vào đôi mắt của
những người ở xa về. Vốn quen thuộc nhưng lại trở nên mới lạ, từ xa đến gần, khơi dậy sự tò mò,
từ đó khám phá những bí ẩn của cuộc đời Mị.
-Mị - một cô gái âm thầm, lẻ loi, sống như gắn vào những vật vô tri, vô giác: “ Ai ở xa về, có việc
vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa.”
-Một cô con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu sang “ nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện”
nhất làng, cực kì diễm phúc. Thế nhưng Mị không một chút hạnh phúc, Mị quay sợi, thái cỏ ngựa,
dệt vải,. những công việc thật nhàm chán, quẩn quanh, nặng nề đã vắt kiệt sức lao động và giam hãm tinh thần của Mị.
-Lúc nào cũng “ cúi mặt”, “ buồn rười rượi”. Đó là sự nhẫn nhục cam chịu trong nỗi buồn bã và chán nãn.
-Hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với cái gia đình mà Mị đang ở. Sự tương phản ấy báo
hiệu một cuộc đời không bằng phẳng, một số phận nhiều uẩn khúc và một bi kịch của cõi nhân thế
nơi miền núi cao Tây Bắc.
2. Cuộc đời, số phận, tính cách của nhân vật Mị
a.Trước hết, Mị là cô gái có ngoại hình đẹp và nhiều phẩm chất tốt, đáng lẻ có thể sống một
cuộc đời hạnh phúc: Mị là một cô gái xinh đẹp, tự do, hiếu thảo, Mị còn “ thổi lá hay như thổi
sao, có biết bao người mê. Ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Như vậy, Mị đầy đủ yếu tố xứng đáng
được hưởng hạnh phúc. Ấy vậy mà, cái chế độ thực dân miền núi đã lợi dụng cường quyền, thần
quyền và những hủ thục đã đày đọa Mị, đẩy Mị vào chốn “ ngục thất tinh thần”, làm chị mất dần
cả ý thúc đấu tranh, bào mòn đi sự sống và ý thức vươn lên.
Cô Mị với kiếp “ con dâu gạt nợ “ ở nhà thống lí Pá Tra: bề ngoài là con dâu, nhưng bên
trong là một thứ gán nợ, bắt nợ để bù đắp cho khoản tiền mà bố mẹ Mị đã vay của nhà thống lí
nhưng chưa trả được. Điều đau đớn trong thận phận của Mị là ở chỗ: nếu chỉ là con nợ thay cho
nố mẹ thì Mị hoàn toàn có thể hi vọng vào một ngày nào đó sẽ giải thoát sau khi món nợ đã được
thanh toán. Nhưng Mị lại là con dâu, bị cướp về và “cúng trình ma’ ở nhà thống lí.
Một chuỗi thao tác của A Sử nhanh gọn, lạnh lùng, cố tình bóp méo biến dạng như một cạm
bẫy. .( Mị quơ tay lên thì gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ, sờ một ngón thấy có nhẫn, một bàn tay
dắt Mị bước ra, Mị vừa bước ra, lập tức có mấy người choàng đến, nhét vào miệng Mị rồi bịt mắt,
cõng Mị đi - so sánh với giăng trùng vi chờ thuyền đến - so sánh với giăng trùng vi chờ thuyền đến)
Linh hồn Mị đã bị con “ ma” ấy “cai quản”. Đến hết đời, dù món nợ đã được trả, Mị cũng
không bao giờ được giải thoát, được trở về với cuộc sống tự do. Đấy chính là bi kịch trong cuộc đời Mị! •
Đời “ con dâu gạt nợ” của Mị ở nhà thống lí là một quãng đời thêm thảm, tủi cực,
sống mà như đã chết. Ở đó:
-Mị dường như đã bị tê liệt cả lòng yêu đồi, yêu sống lẫn tinh thần phản kháng.
-Mị chỉ là một công cụ lao động.
- Mị âm thầm như một cái bóng.
- Thân phận Mị không bằng con trâu, con ngựa
- Mị như một tù nhân của chốn địa ngục trần gian, đã mất tri giác về cuộc sống.
*Nhà văn không chỉ gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi mà
còn nói lên một sự thật đau xót: dưới ách thống trị của cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục,
người dân ld miền núi TB bị chà đạp một cách tàn nhẫn về tinh thần đến mức tê liệt cảm giác về
sự sống, mất dần ý niệm về cuộc đời, từ những con người có lòng ham sống mãnh liệt trở thành
những người sống mà như đã chết, tẻ nhạt và vô thức như những đồ vật trong nhà. Một sự hủy
diệt ý thức sống của con người, thật đáng sợ!
3. Sự tê liệt sức sống của nhân vật Mị trong lúc làm dâu. a. Khi bố Mị còn sống
- Khi mới bị bắt làm dâu gạt nợ “đêm nào cũng khóc” đây là phản ứng của khát khao hạnh phúc
mà không được dù phản ứng có phần yếu ớt và cam chịu.
- Không chịu được cuộc sống không ra con người Mị đã bỏ trốn, đây là quyết định táo bạo của sức
sống mãnh liệt, bởi nó chiến thắng cả sức mạnh cường quyền và thần quyền.
- Mị cầm lá ngón về gặp cha xin được chết, mong muốn đó cũng chính là biểu hiện của sự sống
mãnh liệt bởi thà chết còn hơn sống không ra sống, sống không được coi như con người.
- Dù sức sống trỗi dậy nhưng vẫn không giúp Mị thay đổi số phận bởi lòng hiếu thảo và món nợ
truyền kiếp Mị vứt lá ngón quay lại nhà thống Lí làm vật hi sinh, sống như đã chết. Đó là biêu hiện của tư duy nô lệ.
*Phê phán những hủ tục cưới xinh, tiếp tay cho bọn nặng lãi, lên án thủ đoạn bóc lột trắng trợn,
thâm độc, lợi dụng hủ tục và nhận thức hạn chế của người dân. b. Khi bố Mị mất
Luận điểm 1: Sự tê liệt về tinh thần ( không muốn chết, tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa
- So sánh Nếu trước đây, khi mới bị bắt về nhà thống lí, Mị còn phản ứng bằng cách tìm đến lá
ngón tự tử, để không phải sống “ kiếp làm dâu gạt nợ” thì nay, “ Lần lần, mấy năm qua, mấy năm
sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử” nữa. Bởi “ ở
lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”.
-Cụm từ chỉ thời gian “ lần lần”, “mấy năm qua”, “mấy năm sau” đã nhấn mạnh trình tự luân hồi
thời gian, cho thấy bước đi thời gian vô cùng chậm → Gợi cho ta cảm giác thời gian tâm lí dài
đằng đẵng. Nó lí giải cho thái độ không muốn chết nữa của Mị: “ Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”.
-Chữ “ quen” mang đến cho người đợc biết bao chua xót, đắng cay của một kiếp người. Khổ là
điều mà vạn kiếp nhân sinh đều muốn tránh, ấy vậy mà Mị laị coi nó như một lẽ đương nhiên của
cuộc đời mình. Thực ra, đó không phải là do Mị muốn như vậy, mà cô gái ấy đã bị tê liệt về cảm
xúc. Mị không còn muốn chết nữa, bởi nếu còn muốn chết nghĩa là còn muốn sống. Chết chỉ là
cách duy nhất giúp Mị thoát khỏi “ trốn địa ngục” này. Nhưng bây giờ, Mị đã tê liệt đến mức không còn muốn chết.
-Thủ pháp lạ hóa: “ Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”. Kiếp con
trâu, con ngựa thì chỉ biết đi theo đuôi ngựa của chồng mà thôi. “ Nghệ thuật là sự mô phỏng
chính xác nhất của tự nhiên”, nó “ bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm connguwofi, là sự tự giải
bày và gửi gắm tâm tư”. Nhà văn Tô Hoài đã khám phá xuất sắc thế giới nội tâm nhân vật Mị chỉ
bằng một câu văn ngắn diễn tả tâm trạng của Mị lúc này, buông xuôi, vô định, cam chịu và chấp
nhận tủi nhục cay đắng.
Luận điểm 2: Sự tê liệt về thể xác ( không nghĩ, chỉ biết vùi đầu vào công việc).
- So sánh Mị đã từng rất tha thiết sống và ý thức về con người mình. Khi bị bắt về làm dâu, Mị
quyết liệt phản ứng bằng cách “ có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Một hôm, Mị
trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố, Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở”. Khi
còn khóc, tức là ý niệm về sự sống vẫn còn. Nhưng đó, là cô Mị của nhiều năm trước, là cô Mị khi bố vẫn còn sống.
-Còn Mị bây giờ chỉ “ cúi mặt, không nghĩ ngợi”. Mị có ý thức, vì cô ấy vẫn còn tồn tại. Nhưng
đau đớn thay, đó là ý thức về những công việc nối tiếp nhau đến nhàm chán, “lúc nào cũng chỉ
nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mắt, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại
làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa đi
nương bẻ bắp”. Hàng chuỗi những công việc cứ như cái “ vòng quay kén”, ăn vào nhả tơ. Nó quẩn
quanh , nó nhàm chán, nó tẻ nhạt như chính cuộc đời Mị.Quan trọng hơn là nó lặp đi lặp lại như
một vòng tuần hoàn không lối thoát đã được ấn định cho Mị, “ dù đi haí củi, bung ngô, lúc nào
cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế”
- Hàng loạt các công việc được liệt kê dài “như bản án” tố cáo sư” độc ác” của cha con thống lí Pá
Tra. Thế nhưng, ở cái xã hội thực dân miền núi ấy, làm sao có thể mang ra tố cáo? Mà nó chỉ càng
làm cho nỗi thống khổ tỏng Mị nhân lên. Nó là minh chứng cho sự đày đọa về thể xác, khi Mị
phải làm việc quần quật cả ngày lẫn đêm. “ Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm nó còn được đứng
gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này” trong đó có Mị chỉ biết “ vùi đầu vào công việc” không
bằng kiếp con trâu, con ngựa.
- Thậm chí, Mị chỉ nhớ đi nhớ lại, làm đi làm lại những việc nối tiếp nhau. Nói là Mị nhớ nhưng
không phải là những rung cảm, cảm xúc bình thường ở một con người bình thường. Mị cnhớ một
cách máy móc những gì diễn ra theo một thói quen với sự lặp lại quẩn quanh, Mị nhớ một cách vô
hồn vô cảm tựa như một vòng tròn tù túng không lối thoát.
Luận điểm 3: Mị tê liệt về nhận thức( buông xuôi không không nói và chờ chết)
-Quả thật trên cuộc đời này, không có nỗi đau nào bằng “ nỗi đau nhân thế, sự đời éo le”. Chính
sự tê liệt về thể xác và tinh thần đã làm Mị mất dần đi nhận thức về con người mình, và đó cũng
chính là sự tê liệt về “ nhận thức”- là làn ranh để một con người từng rất quyết liệt cầu xin bố
“đừng bán con cho nhà giàu” trở thành “ gỗ đá vô tri”.
-Điều đó được hiện lên qua ý văn: “ Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong
xó cửa. Tác giả sự dụng phép so sánh mang tính vật hóa kết hợp tính từ gợi dáng vẻ lầm lủi nặng
nề, hướng về phía trước trong vô thức. Chính xúc cảm về nỗi đau ấy đã thôi thúc nhà văn làm nên
“ những điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến vậy, mọi thế lục của tội ác cũn không giết được
sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng và mãnh liệt.”
Nhưng đó là câu chuyện của đêm tình mùa xuân, của đêm đông cắt dây cởi trói cứu A Phủ, là khi
sức sống trong Mị đã trỗi dậy và lương tri của Mị đã thức tỉnh.
- Còn tại đây, với hình ảnh Mị buông xuôi, chờ chết, Mị ngồi im trong căn buồng kín mít “ có một
chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. Đến bao giờ chết thì thôi” là một chi tiết như “ giày
xéo” tâm can người đọc. Gợi nên mối liên hệ duy nhất và rất mỏng manh giữa Mị với thế giới bên
ngoài, dù làm tê liệt về nhận thức, rơi vào lối sống cam chịu nhưng vẫn đủ sức kéo dài sự tồn tại của Mị trong vô thức.
- Chi tiết ấy không đơn thuần chỉ miêu tả căn buồng Mị nằm, mà nó còn là sự hiện thân cho chốn
địa ngục trần gian – nơi chồn vùi đi tuổi xuân, “hút” dần nhựa sống của Mị. Cái con ma nhà thống
lí có sức mạnh thật ghê gớm, nó đã in hằn và ăn sâu vào tâm trí của Mị, ăn mòn nhận thức của Mị,
để Mị mãi đắm chìm trong suy nghĩ “ đã cúng trình ma nhà nó thì chỉ có nước rũ xương ở đây
thôi”. Nên Mị, đã “ ngồi trong đó mà trông ra. Bao giờ chết thì thôi”, mất hết tinh thần phản
kháng, mất hết ý nghĩ về sự tự do hay cả ý niệm về sự vùng lên.
4. Sức sống mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân
Chuyển đoạn. Dù cuộc sống thống khổ, trong Mị vẫn mãnh liệt một sức sống tiềm tàng và khát
vọng tự do, hạnh phúc. Khát vọng ấy đã bùng cháy lên khi mùa xuân đến trên đất Hồng Ngài.
Đúng như Tô Hoài nhận định “Kỳ lạ thay, dẫu trong mọi cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác
cũng không tiêu diệt được sức sống con người. Đói khổ, lay lắt, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng mãnh liệt”.
a. Sức sống tiềm tàng của Mị cũng như diễn biến tâm trạng của nhân vật này bắt đầu đến từ
những tín hiệu mùa xuân, tín hiệu đêm tình:
- Mùa xuân năm ấy thật đặc biệt: “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng vàng ửng…”
- Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng
của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra
như những con bướm sặc sỡ và chắc chắn không thể thiếu được “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay
ngoài đường”. Chính những hình ảnh và âm thanh ấy tạo nên không gian tươi tắn, rực rỡ, tràn đầy
sức sống, đầy lãng mạn; nó như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị.
– Khi nghe tiếng sáo gọi bạn “lấp ló ngoài đầu núi”: Mị thấy trái tim mình “thiết tha, bổi hổi”, Mị
ngồi “nhẩm thầm” lời bài hát của người đang thổi sáo. Tiếng sáo ấy đã lâu rồi không thổi, bài hát
ấy từ lâu cũng đã quên. Nhưng hôm nay Mị vẫn nhớ, vẫn thuộc, vẫn nhẩm thầm. Vậy là Mị chưa
có nghĩa đã hoàn toàn vô cảm. Hay nói đúng hơn, chính tiếng sáo là tác nhân đã lay động sâu xa
tâm hồn Mị và đánh thức quá khứ cùng hiện tại của Mị. Tiếng sáo là một ẩn dụ cho tự do, cho tuổi
trẻ và ký ức đẹp tươi của cô gái trẻ người Mèo. Tiếng sáo cũng chính là men tình đã đánh thức
tâm hồn và lý trí của Mị.
b. Sau khi nghe tiếng sáo: “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”.
-Đây thực chất là một “cuộc nổi loạn nhân tính” của Mị. Cách uống ấy là sự dồn nén của những
ẩn ức, phẫn uất nên uống rượu mà cứ như nuốt cay nuốt hận vào lòng. Mị phản kháng, mong mỏi
được như bao người khác.
- Và lúc say, men rượu chính là nhịp cầu đánh thức “nhịp sống” mà Mị đã bỏ quên bấy lâu nay.
- Ai đó đã từng nói về sức mạnh của rượu trần gian: “ Một khi rượu không đủ sức làm người ta
quên thì nó sẽ đánh thức cả con tim lẫn lí trí”, và rượu đã đánh thức con tim lẫn lí trí của Mị, làm
cho Mị như “đang sống về ngày trước”. Cái ngày Mị còn trẻ, Mị được tự do, vui vẻ bên bố; cái
ngày “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiều người mê, ngày
đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.
- Khẳng định giá trị của nhân vật- bông hoa đẹp và tài năng bậc nhất. Thông qua dòng hoài ức, thể
hiện tâm hồn vô cùng nhạy cảm và tinh tế. Nhưng đối lập với ký ức tươi đẹp ấy là hiện tại đầy tủi
nhục của Mị “A Sử chẳng bao giờ cho Mị đi chơi tết”.
c.Khát vọng tự do, hạnh phúc còn được thể hiện qua tâm trạng của Mị khi ở trong buồng.
-Tiếng sao đã đánh thức tâm hồn Mị, đưa Mị từ cõi quên về cõi nhớ. Tiếng sao đánh thức 1 đoạn
đời tươi đẹp đã qua của Mị, để rồi khi càng sống trong cái quá khứ tươi đẹp ấy, Mị lại càng đau
đớn hơn trước cái thân phận, trước cuộc đời đau khổ của mình.
- Mị đứng dậy bước từ từ vào buồng_ trạng thái nặng nề, chậm chạp, mệt mỏi_ động từ, theo thói
quen, tư duy nô lệ được hình thành ngay khi làm dâu, lúc này rượu chưa ngấm sâu vào.
- Cái sức mạnh của thần quyền đã làm cho Mị ý thức rằng: Cái kiếp của Mị, cái cuộc đời của Mị
phải là cái căn buồng chỉ “có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng
chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” này, và “ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà
trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”.
- Ám ảnh nhất trong truyện ngắn có lẽ là hình ảnh “ô cửa lỗ vuông bằng bàn tay”. Đó là hình ảnh
gián tiếp miêu tả cuộc sống địa ngục trần gian của Mị. Ngoài ô cửa ấy là thiên đường mùa xuân,
tình yêu, tự do đang vẫy gọi. Còn phía sau bức tường ấy Mị đang bị cầm tù tuổi trẻ và tình yêu, hạnh phúc.
- Mị không còn ý thức được thời gian “không nhớ vào nhà thống lý Pá Tra đã bao nhiêu năm”; Mị
cũng mất hết ý niệm về không gian “không biết sương hay là nắng”. Giữa thiên đường và địa ngục
chỉ cách nhau có một bàn tay, vậy mà cuối cùng Mị cũng không thể nào thoát ra được.
- Bằng tài năng quan sát và năng lực miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo – Tô Hoài đã làm người đọc
xúc động mãnh liệt trước những chuyển biến tâm lý giàu cung bậc cảm xúc ở Mị.
Vẫn cái quán tính ngồi xuống giường và nhìn ra ô cửa lỗ vuông. Nhưng trong cái nhìn khắc khoải,
đau đáu của Mị hôm nay, người đọc thấy ẩn sâu đằng sau đôi mắt ấy là cả một khát vọng mãnh
liệt – khát vọng TỰ DO.
Mị đang sống về ngày trước “đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui
sướng như những đêm tết ngày trước”
+Từ láy “phơi phới” kết hợp với phép so sánh “như những đêm tết ngày trước” đã miêu tả thật
chân thật niềm háo hức say mê của Mị khi tìm lại được quãng đời thanh xuân đã mất của mình.
Mị cũng nhận ra rằng: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ”. Điệp ngữ “trẻ lắm” rồi lại “còn trẻ” tạo nên
nhịp điệu gấp gáp, dồn dập cho thấy trong lời độc thoại nội tâm của Mị là nỗi mừng vui, hạnh
phúc của Mị khi ý thức được giá trị bản thân mình. Mị chợt thốt lên “Mị muốn đi chơi”.
-Bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi ngày Tết. “Huống chi A Sử với Mị, không có lòng mà vẫn
phải ở với nhau”. Nhưng càng ý thức được mình rõ ràng bao nhiều thì Mị lại càng cảm thấy đau đớn hơn bấy nhiêu.
-Nỗi đau của cuộc sống tù đọng khiến Mị muốn chết, “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị
sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra.
-Điều này thể hiện chiều sâu trong tâm hồn Mị, cô đã sống thực sự với chú mình, cô cảm phân cái
cuộc sống vô nghĩa, tù đọng này.
-“Muốn chết” chính là biểu hiện của “lòng ham sống”. Khao khát đến ánh sáng, tìm kiếm sự thay
đổi, cho thấy sự phản kháng trong vô thức bất chấp A Sử.
- Cũng như trước đây Mị muốn ăn lá ngón để chết, mà vì thương bố không thể chết được vậy.
Trong hiện tại, Mị “muốn chết" là muốn thoát khỏi cuộc sống nô lệ, thoát khỏi cái số kiếp con
trâu, con ngựa, muốn thoát khỏi cái cuộc đời tăm tối này. Nếu cuộc đời làm dâu gạt nợ khiến Mị
muốn chết, thì quá khứ hạnh phúc lại thắp lên ngọn lửa của sự sống, giữ cho cuộc đời Mị khỏi lần
vào “thung lũng" của chốn địa ngục.
d. Khát vọng tự do không chỉ tồn tại trong suy nghĩ mà còn thể hiện trong hành động:
-Đúng lúc Mị tuyệt vọng thì tiếng sáo lại đến “tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài
đường”. Sáo nâng hồn Mị, kéo Mị dậy, nhấc bổng Mị lên để thăng hoa cùng khát vọng tự do.
-Ở đoạn văn tiếp theo, Tô Hoài chủ yếu miêu tả hành động của Mị.
+Mị thắp lên ngọn đèn trong căn phòng tăm tối như thắp lên cả cuộc đời mình.
+ Khoảnh khắc ngọn đèn được sáng lên cũng là khoảnh khắc tâm hồn Mị như bùng cháy. Mị thoát
ra khỏi thực tại, tâm hồn Mị “đang rập rờn tiếng sáo”. Khát vọng tự do lại trỗi dậy “Mị muốn đi
chơi. Mị cũng sắp đi chơi”.
+Hành động của Mị cũng trở nên gấp gáp hơn, mãnh liệt hơn “Mị cuốn lại tóc; Mị với tay lấy cái
váy hoa; Mị rút thêm cái áo”.
+ Hàng loạt động từ được Tô Hoài huy động để tả hành động: đến, xắn, bỏ, đi chơi, cuốn, với, lấy,
rút… đã diễn tả được sự quyết liệt cũng như lòng yêu tự do đang hối thúc bên trong Mị. Mị quên
đi sự hiện diện của A Sử. Nói đúng hơn khát vọng tự do trong Mị đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi.
A Sử hỏi, Mị không nghe, A Sử trói, Mị không biết. Thể xác của Mị nằm đây giữa bốn bức tường
lạnh lẽo còn linh hồn Mị thì đã ở ngoài kia – nơi thiên đường mùa xuân đang vẫy gọi.
*Thể xác bị trói buộc, bị cầm tù nhưng Mị không còn cảm nhận được nó nữa, vì sức mạnh tinh
thần của Mị đã chiến thắng nỗi đau về thể xác. Tiếng sáo và men tình vẫn dìu Mị đi trong đêm
tình mùa xuân rạo rực, đắm say. Có lúc tiếng sáo rập rờn trong tâm hồn Mị khiến Mị “vùng bước
đi”. Đây là chi tiết nghệ thuật độc đáo thể hiện sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt của Mị.
-Tô Hoài rất tinh tế khi miêu tả hành động Mị – “Mị vùng bước đi”.
+Thực chất hành động này là sự tác động của tiếng sáo. Sức níu gọi của tiếng sáo, men tình từ
tiếng sáo tha thiết quá. Nó đã làm Mị quên đi thực tại ê chề, tủi nhục của bản thân.
+ Tiếng sáo đưa Mị vượt qua bốn bức tường lạnh lẽo để dạo chơi trong thế giới của tự do. Khát
vọng sống, khát vọng tự do làm Mị quên đi nỗi đau thể xác hay nói đúng hơn sức mạnh tinh thần
trong Mị đã chiến thắng nỗi đau về thể xác.
+ Chi tiết “Mị vùng bước đi” đã minh chứng được sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị. Đó
không còn là cô Mị vẫn “cúi mặt mặt buồn rười rượi” nữa mà đã là một cô Mị giàu năng lượng sống.
+“Mị vùng bước đi” nghĩa là Mị không sống trong thực tại, Mị đang sống trong men tình, trong
những giai âm tiếng sáo gọi bạn yêu. Tâm hồn ấy đang đến với tự do, đang tràn trề nỗi yêu đương của tuổi trẻ.
+ Nhưng cũng chính tiếng sáo cũng làm cho Mị ý thức sâu sắc hơn về thực tại. Khi “Mị vùng
bước đi” sự đau nhức của thể xác đưa Mị về với hiện tại. Tiếng sáo vụt mất rồi chỉ còn tiếng chân
ngựa đạp vào vách. Âm thanh của tiếng chân ngựa là âm thanh của hiện thực, âm thanh của tiếng
sáo là âm thanh của giấc mộng.
+ Hiện thực đập vỡ giấc mộng của Mị làm tiếng sáo vụt tan biến đưa Mị từ thiên đường trở lại địa
ngục để thổn thức nhận ra rằng “mình không bằng con ngựa”. Hành động của A Sử.
Bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hay tay Mị, xách cả một thúng sợi dday ra trói đứng Mị
vào cột nhà, tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho MỊ không cúi, không nghiên
đầu được nữa, trói xong A Sử thắt nối cái thắt lưng xanh ra ngoài rồi tắt đền, đi ra, khép buồng lại.
Hệ thống v dày đặtc, nhịp văn nhanh mang tính chất của lời trần thuật khách quan_ thể hiện
bản chất lạnh lùng, tàn bạo, ngang ngược của giải cấp thống trị, muốn cầm tù cả thể xác lẫn tinh thần Tâm trạng
- Sử dụng trạng từ chỉ time, chia chỉ 1 đêm ngắn ngủi thành nhiều khoảng thời gian
+ Đây là khoảng thời gian tâm lí đằng đẵng, nặng nề vô tận_nhấn mạnh ấn tượng kinh hoàng
trong tâm thức của nhân vật.
+Đều là khoảng time không được xác định củ thể, thể hiện sự mơ hồ, hỗn loạn trong nhận thức
+ Use hệ hống cách hình ảnh mang tính chất đối lập giữa say và tỉnh *Say
- nghe tiếng sáo: hiện thực + quá khứ_ khao khát về thời kì tự do
- vùng bước đi: hoàn toàn tự do về mặt tinh thần bất chấp thể xác bị trói buộc
- tâm trạng: bồi hồi, nồng nàn tha thiết nhớ_ tâm hồn tinh tế và nhạy cảm giá trị đặc biệt của thời
thanh xuân không thể bị vùi lấp *Tỉnh
- nghe chân ngựa đạp vào vách, gãi chân,. _ những âm thanh cụ thể quen thuộc _ thấm thía sâu sắc thân phận
- khóc: nhận thức thực tế vô cùng tàn khốc nỗi bất lực và cay đắng
- tâm trạng: tay chân đau, dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt_ nỗi đau về thể xác, tủi nhục về tinh thần
_ Tái hiện trạng thái đang xen mơ hồ và phức tạp
+ Nghệ thuật trần thuật nửa trực tiếp, hóa thân vào nhân vật để thể hiện cảm xúc và tâm trạng.
+ Sáng tạo những câu văn dài ngắn, co duỗi_khắc họa bức tranh nội tâm phức tạp và đầy bất ổn của nhân vật.
+ Use thủ pháp liên tưởng và so sánh.
+ Cuối đoạn văn Tô Hoài để lại một chi tiết nhỏ nhưng lại có ý nghĩa to lớn. Đó chính là chi tiết
Mị nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể, đời trước ở nhà thống lý có một người trói vợ rồi bỏ đi
chơi ba ngày, khi trở về thì vợ chết rồi. Nghĩ thế, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay chết. Mị đã
từng muốn chết, bây giờ lại sợ chết. Sợ chết là biểu hiện cao độ nhất của lòng ham sống.
+Đêm tình mùa xuân đi qua, Mị vẫn trở về với ô cửa lỗ vuông, với tảng đá cạnh tàu ngựa, vẫn
những công việc đầu năm, giữa năm, cuối mùa vẽ ra trước mắt. Nhưng tâm trạng và hành động
của Mị trong đêm tình mùa xuân giống như một tia lửa nhỏ mà “một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu
đám cháy ngày mai” (Lỗ Tấn). Tia lửa ấy sẽ bùng cháy vào cái đêm cởi trói cho A Phủ và cùng
anh trốn khỏi Hồng Ngài sau này. • Chi tiết tiêu biểu
- Đối với đoạn văn
+ Tiếng sao xuất hiện từ đầu với sự vang vọng trong không gian, là sợi dây kết nối quá khứ và hiện tại
+ Góp phần tạo dựng một không khí lãng mạn, trữ tình, bay bổng, đặc trưng mùa xuân
+ Mở ra một nét mới trong hiểu biết về đời sống vùng cap - Đối với tác giả
+ Nắm bắt linh hồn của văn hóa vùng núi cao, tìm heieur và tái hiện xuất sắc những đặc sắc đặc
trưng vùng miền núi tiêu biểu
+ Thể hiện khả năng đi sâu chueyern biến mơ hồ trong nội tâm nhân vật; từ một khách thể bên
ngoài rút ngắn và xóa bỏ khoảng cách trở thành một phàn bên trong, khơi dậy sức sống tiềm tàng của nhân vật.
+ Tác giả đã miêu tả chân thực những nét sinh hoạt của đồng bào dân tộc thiểu số, tái hiện các
hoạt động cộng đồng, với giọng văn mềm mại, gợi cảm, giam cầm chất thơ
- Đối với nhân vật Mị
+ Hé lộ Mị không chỉ là cô gái xinh đẹp mà còn rất đõi tài hoa xứn đáng bông hoa nổi bật nhất của bản Hồng Ngài
+ Đánh dấu sự khởi đầu của quá trình nổi dậy một cách tự phát, với chuỗi hành động thôi thúc của tiếng sao với men rượu
+ Đem đến những khoảnh khắc tự do tinh thần hiếm hoi, bất chapas thể xác bị trói buộc, một lần
nữa tiếng sao làm cho tâm hồn Mị được hồi sinh, thể hiện sự thất bại giai cấp thống trị không thể
vùi dập sức sống tiềm tang của con người.
5. Sức sống mãnh liệt trong đêm mùa đông.
a. Tầm quan trọng của ngọn lửa.
- Đặc trưng của đêm đông trên núi cao: dài và buồn khác với nhận thức thông thường thời gian
tâm lí, dấu hiệu duy trì đời sống tinh thần. Hé lộ tình trạng lẻ loi cô đơn.
- Hành động: mỗi đêm, không biết bao nhiêu lần dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng
+ V lặp đi lặp lại nhiều lần trong khoảng thời gian dài _ thể hiện vai trò quan trọng của ngọn lửa
đối với đời sống tinh thần của Mị: đó là động lwujc để giúp Mị chống chọi đêm đông, đem lại
sánh sáng, điểm tựa, hơi ấm.
+ Ngọn lửa-là đối tượng duy nhất để Mị chia sẻ, người bạn tri âm tri kỉ.
+ Có cơ hội để chứng kiến, và giải cứu A Phủ_ từ đó thay đổi cuộc đời
b. Diễn biến tâm trạng.
* Đoạn 1. “ Thường khi đến gà gáy. . nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đem trước.”
- Hành động thổi lửa: đến gà gáy sáng, chớp mắt từng lúc.
+ Hành động lặp đi lặp lại nhiều lần và suốt cả mùa đông_ thói quen phản xạ theo quán tính.
+ Tầm quan trong không thể thiếu của ngọn lửa.
+ Duy trì điểm sáng tinh thần trong vô thức, đằng sau vẻ ngoài chai sạn.
+ Dấu hiệu ấp ủ dồn nén đầy tâm sự.
- Nhìn sang A Phủ: chỉ là theo bản năng, sự tò mò, hiếu kì >< thổi lửa hơ tay, vẫn trở dậy sưởi, chỉ
biết mình và ngọn lửa_ Mị đắm chìm trong thế giới cô độc và lẻ loi, Mị thờ ơ và dửng dưng mọi bi kịch bên ngoài
+ Cảnh tượng quen thuộc, thường thấy mà bản thân Mị cũng từng trải qua nên không lấy gì làm lạ.
+ Phương thức tự vệ mang tính chất bản năng của kẻ yếu.
+ Bản thân Mị đã chịu nhiều nỗi đau và bi kịch chồng chất, vượt qua giới hạn chịu đựng, vì đó
không thể sang sẻ thêm bất hạnh của người khác.
+ Môi trường sống nhà tù giữa điện ngục trần gian không phải là nơi tồn tại của tình người.
- Bị A Sử đánh ngã xuống cửa bếp >< vẫn sưởi như đêm trước _ thực trạng cuộc hôn nhân bất
bình đẳng, giá trị thấp hèn của con người đặc biệt là người phụ nữ, tố cáo bản chất thấp hèn của
giai cấp thống trị muốn giam hãm tinh thần của con người_ Mị coi trọng điểm tựa tinh thần, sức
phản kháng mãnh liệt và lâu dài, cho thấy tầm quan trọng không thể thay thế.
*Đoạn 2: “ Lúc ấy đã khuya . . cũng không thấy sợ”
- Hành động: thổi lửa khi đã khuya, nhà đã ngủ yên_ gợi nên không gian yên lặng, tỉnh mịch_
nhấn tận cùng của nổi lẻ loi và cô đơn_ tầm quan trọng của ngọn lửa.
+ Nhấn mạnh sự khác biệt với các đàn bà cùng cảnh: phải chịu đựng về thể xác, bi kịch tinh thần.
- Trông thấy dòng nước mắt của A Phủ.
+ Đó là hành động theo thói quen, tò mò, rất tự nhiên của Mị
+ “ dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” _ đó là chi tiết tiêu biểu được
miêu tả tỉ mỉ ( phương pháp quay chậm + quay cận cảnh) tạo nên bước ngoặt trong tâm lí nhân vật.
+ A Phủ: tận cùng của nỗi tuyệt vọng, cay đắng và tủy nhục khi giá trị của bản thân vô cùng rẻ
mạc, hy vọng sống ngày càng cạn kiệt, buộc phải đối mặt với cái chết không thể tránh khỏi.
+ Mị: “chợt nhớ lại năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải chịu trói đứng như thế. Nhiều lần khóc,
nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”
* Khơi dậy hồi ức về đêm xuân kinh hoàng, Mị cũng đã từng thắm thía sự cay đắng của thân phận
mất tự do và nỗi sợ hãi cái chết giống như A Phủ_ thương cảm chính mình.
+ “ Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết
người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này,” Hình dung một cái kết cục bi thảm, không thể tránh
khỏi của A Phủ, đố chính là biểu hiện của sự đồng cảm, sự thấu hiểu của người cùng cảnh.
+ “ Chúng nó thật độc ác”: nhận thấy bản chất tàn bạo, coi rẻ mạng người của thống lí Pá Tra xem
cái chết là vô lí, vì nhận thấy sự ưu tú và giá trị rẻ mạt của con người. Nhưng Mị chấp nhận cái
chết của bản thân không phải đã cũng trình ma, mà là tư duy phân biệt giới tính, thói quen nô lệ.
- Đám than vạc hẳn lửa: “Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng
tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo
là Mị đã cởi trói cho nó, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ. .”
+ Tái hiện những chuỗi kí ức có thể buồn vui, kinh hoàng, như cuốn phim quay chậm
+ Hình dung trước tương lai bi thảm khi A Phủ bỏ trốn, khi vừa lóe lên ý định giải cứu A Phủ
+ Mị chưa đủ can đảm thực hiện, bởi vì lúc này Mị còn chìm đắm trong nỗi sợ hãi, ám ảnh những
thủ đoạn tàn bạo của thần quyền và cường quyền.
* Đoạn 3: “ Lúc ấy. . hết”.
- Quá trình chuyển biến tâm lí: thờ ơ- cảm xúc- suy nghĩ- hành động
- Hành động giải cứu A Phủ
+ Hoàn cảnh: “ trong nhà tối bưng” thời gian vô cùng gấp rút đảm bảo độ bí mật và an toàn tuyệt
đối. Điều này Mị cần phải thật can đảm, có kĩ năng chính xác, nhanh chóng.
+ Chuỗi động tác: “ Mị rón rén bước lại, rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây, thì thào, nghẹn
lại”_ trong khoảnh khắc với sự yên lặng tuyệt đối, tuy thực hiện lần đầu nhưng không được phép
sai lầm. Cho thấy tình yêu thương con người đã vượt qua nỗi sợ hãi. Tuy nhiên, Mị chỉ thúc giục
A Phủ chạy trốn._ Mị đã chấp nahanj đánh đổi sự sống của bản thân, chịu sự chi phối của tư
tưởng nô lê, dù rằng đã có hành động vô cùng cao thượng.
-Mị chạy trốn cùng A Phủ.
+ Đối mặt với hiểm nguy Mị cũng hốt hoảng “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Câu văn tách thành
một dòng riêng nằm chơi vơi ở giữa những câu chữ ngổn ngang. Theo "nguyên lý tảng băng trôi"
của Hemingway – hình ảnh Mỹ đứng lặng chỉ là phần nổi của tảng băng, còn ẩn sau những câu
chữ và hành động ấy của Mị là cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội: Đi hay ở ? Sống hay là chết? Tự
do hay nô lệ ? Cuối cùng tiếng gọi tự do đã vẫy gọi, hối thúc Mị.
+ Trong giây phút đối diện với bản án tử hình ấy, lòng ham sống mãnh liệt đã thúc giục Mị chạy
theo A Phủ. Đoạn văn tiếp theo miêu tả hành động Mị toàn những động từ mạnh: “vụt chạy –
băng đi – đuổi kịp – đã lăn – chạy – chạy xuống – nói – thở”. Những động từ mạnh ấy đã giúp Tô
Hoài nhìn thấy được nội lực và sức phản kháng mạnh mẽ cháy bùng trong Mị. Nếu đêm tình mùa
xuân là “tia lửa nhớ” thi hành động chạy theo A Phủ của Mị thực sự đã trở thành “đám cháy lớn”.
+ Cuối cùng Mị đã có sự lựa chọn đúng đắn khi mà khát vọng sống trỗi dậy thật mãnh liệt, Mị vụt
chạy theo A Phủ, cũng có nghĩa là chạy thoát cuộc đời nô lệ, đến với ánh sáng của tự do. Bước
chân Mị như đạp đổ thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến bao năm qua đè nặng lên Mị. Mị đã
nói trong cơn gió thốc: “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”.
+ Sau bao năm câm lặng trong nhà thống lý, Mị dường như quên đi tiếng nói của đồng loại. Thì
nay, khi nói ra được câu nói đầu tiên thì đó lại là câu nói thể hiện lòng ham sống, khát vọng tự do
đến mãnh liệt. Và chính lòng ham sống, khát khao tự do, hạnh phúc đã chiến thắng sức mạnh của
cường quyền và thần quyền. Nhận xét:
Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính
nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị
tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của
người phụ nữ Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của
Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và
ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng
thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức công thì
ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật qua
đó tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.
c. Bài văn mẫu hay của Thầy Phan Danh Hiếu.
* Lúc đầu nhìn thấy A Phủ bị trói đứng vào cột, Mị không mảy may mủi lòng, không cảm
xúc “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”.
+ Tâm trạng Mị lúc đầu là trạng thái VÔ CẢM: Sau đêm tình mùa xuân, Mị trở lại với kiếp
sống chai sạn, băng giá, tê liệt về cả thể xác lẫn tinh thần. Những gì xảy ra xung quanh, Mị không
cần biết, không đoái hoài, không quan tâm. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện. Kể cả lúc ra
sưởi lửa, bị: “A Sử đánh ngã xuống cửa bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm
trước”. Mị vô cảm với chính bản thân mình, không còn cảm nhận được nỗi đau đớn của thể xác,
không còn cảm nhận được sự nhục nhã về tinh thần. Thể xác bị chà đạp, tinh thần bị lăng nhục,
nhưng Mị vẫn dửng dưng, không tức giận, tủi hờn hay sợ hãi. Khi Mị vô cảm với chính mình
cũng là lúc mà Mị chẳng còn thiết tha đến mọi thứ xung quanh. Mị vô cảm luôn với cả đồng loại
của mình:“nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Các từ ngữ “thản nhiên”, “cũng thế
thôi” cho thấy sự thản nhiên, vô tâm đến lạnh lùng, vô cảm đến tàn nhẫn của Mị. Đắng cay cho Mị
– cô đã đánh mất luôn cả tình thương, lòng nhân ái mà bất cứ ở người phụ nữ nào cũng có. Mị chỉ
biết, chỉ còn ở với ngọn lửa. Lửa cũng cô đơn, Mị cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy thức sưởi ấm
cho nhau trong những đêm đông dài lạnh lẽo.
* Sau đó, tâm trạng Mị có sự thay đổi từ trạng thái vô cảm đến đồng cảm bởi giọt nước
mắt của A Phủ, bởi sự thức dậy của lòng thương người:
Có nhà phê bình cho rằng: “Khi tình thương chạm vào trái tim thì cho dù sỏi đá cũng thành châu
lệ”. Quả đúng như vậy, dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương
người trong Mị. Chính nhờ ngọn lửa đêm ấy, Mị lé mắt trông sang và nhìn thấy: “một dòng nước
mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Dòng nước mắt ấy là nước mắt của
kẻ đang hấp hối, nước mắt của một thân phận nô lệ đang bất lực, tủi nhục trước số phận. Nước
mắt A Phủ không chỉ chảy xuống đôi gò má xạm đen của anh mà còn chảy vào cả trái tim băng
giá của Mị. Trái tim vốn chỉ còn biết giá băng lại được dòng nước mắt ấy của A Phủ chạm đến.
Và giọt nước mắt ấy đã làm tan đi giá băng của trái tim Mị, đập vỡ bức tường vô hình cầm tù trái
tim Mị; đã thức dậy trong Mị lòng thương người cùng cảnh ngộ. Khi lòng thương người trỗi dậy,
là lúc trái tim Mị quặn đau khi “trông người lại ngẫm đến mình”. Mị chợt “nhớ lại đêm năm trước
A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống
cổ, không lau đi được”. Nhà văn không nói đến nỗi đau đớn về thể xác của A Phủ, không nói đến
nỗi tủi nhục của A Phủ nhưng tất cả điều đó lại hiện lên tất cả qua suy nghĩ của Mị. Mị đã cảm
nhận nỗi đau của A Phủ bằng chính nỗi đau của mình. Tài liệu này của thầy Phan Danh Hiếu
Từ đó Mị nhận thức rõ và căm thù sự độc ác của nhà Thống lí Pá Tra: Mị thốt lên “Trời ơi,
nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà
ngày trước cũng ở cái nhà này”. Mị nhận ra giá trị của con người, giá trị được sống nhưng lại bị
bắt chết. Từ nhận thức về thân phận con người, Mị nguyền rủa cha con nhà thống lí “Chúng nó
thật độc ác”. Khi một kẻ đang trong tình trạng mất hết ý thức lại nhận ra nguyên nhân của cái khổ
mà mình gánh chịu thì đúng là một cuộc lội ngược dòng của ý thức. Chắc chắn, ý thức này sẽ trỗi
dậy, sẽ phản kháng mãnh liệt chứ không dừng lại ở đây.
Từ lòng thương người và lòng căm thù, Mị nhận ra sự độc ác và bất công. Mị phản kháng
mãnh liệt cả trong suy nghĩ và hành động: từ cảnh ngộ của mình và những người đàn bà bị
hành hạ ngày trước, đến cảnh đau đớn và bất lực của A Phủ trước mắt, Mị nhận thấy “chúng nó
thật độc ác”, thấy “người kia việc gì mà phải chết”. Đó là sự nhận thức mang tính lý trí chứ không
phải là cảm tính nữa. Mị độc thoại với chính mình: “Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia
chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi
thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi… Người kia việc gì phải chết?” Đoạn văn có sự
điệp đi điệp lại một loạt từ “chết” như chính nỗi ám ảnh của Mị về cái chết. Và đặt mình cùng A
Phủ lên bàn cân của số phận. Mị thấy, Mị có chết cũng là tất yếu vì “Ta là thân đàn bà”; “Nó đã
bắt ta về cúng trình ma nhà nó rồi thì đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ đến APhủ, Mị thấy phi
lí “người kia việc gì mà phải chết”. Trong suy nghĩ ấy, Mị đã nghiêng hết phần sống của mình cho
A Phủ. Đó là tấm lòng nhân ái bao la của cô gái vùng cao Tây Bắc. Mị trân trọng giá trị con
người, mạng sống con người. Lòng thương người thức dậy trong Mị và đang hình thành hành
động. Tài liệu này của thầy Phan Danh Hiếu
Mị tưởng tượng rằng: “như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy
bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái
cọc ấy”. Nếu như ngày trước Mị đã từng sợ chết thì bây giờ cái chết với Mị không còn là điều
đáng sợ nữa. Điều gì đã làm cho Mị không sợ hãi? Phải chăng đó là lúc: Lòng thương người
trong Mị đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Tình thương ấy khiến cô đi đến hành động cởi trói
cho A Phủ: “Mị lấy con dao chấu nhỏ, cắt từng nút dây mây”. Cuối cùng thì Mị đã cởi trói cho A
Phủ. Nhưng hành động cởi trói ấy cũng là hành động mà Mị tự giải thoát cho chính mình. Đây
cũng là sự tất yếu của quá trình đấu tranh tâm lý.
*Đoạn văn cuối cùng tác giả diễn tả sự quật khởi của Mị với sức sống tiềm tàng mãnh liệt,
sức phản kháng quyết liệt:
Đối mặt với hiểm nguy Mị cũng hốt hoảng “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Câu văn tách thành
một dòng riêng nằm chơi vơi ở giữa những câu chữ ngổn ngang. Theo “nguyên lý tảng băng trôi”
– hình ảnh Mị đứng lặng chỉ là phần nổi còn ẩn sau những câu chữ và hành động ấy của Mị là
cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội: sống hay là chết; tự do hay nô lệ; đi hay ở ? Cuối cùng tiếng gọi tự do đã vẫy gọi Mị.
Trong giây phút đối diện với bản án tử hình ấy lòng ham sống mãnh liệt đã thúc giục Mị chạy
theo A Phủ. Đoạn văn tiếp theo miêu tả hành động Mị toàn những động từ mạnh: “vụt chạy –
băng đi – đuổi kịp – đã lăn – chạy – chạy xuống – nói – thở”. Những động từ mạnh ấy đã giúp Tô
Hoài nhìn thấy được nội lực và sức phản kháng mạnh mẽ cháy bùng trong Mị. “Một tia lửa nhỏ
hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai” (Lỗ Tấn) – nếu đêm tình mùa xuân là “tia lửa nhỏ” thì
hành động chạy theo APhủ của Mị thực sự đã trở thành “đám cháy”. Cuối cùng Mị đã có sự lựa
chọn đúng đắn khi mà khát vọng sống trỗi dậy thật mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ, cũng có
nghĩa là chạy thoát cuộc đời nô lệ, đến với ánh sáng của tự do. Bước chân Mị như đạp đổ thần
quyền của bọn lãnh chúa phong kiến bao năm qua đè nặng lên Mị. Mị đã nói trong cơn gió thốc
“A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là câu nói thể hiện lòng ham sống, khát vọng tự do đến
mãnh liệt trong Mị. Sau bao nhiêu năm bị thần quyền, cường quyền đè nặng làm Mị dường như
quên đi tiếng nói của đồng loại thì nay Mị đã sống lại. Và câu nói đầu tiên Mị nói được cũng lại là
câu nói đòi tự do, đòi được sống. Tài liệu này của thầy Phan Danh Hiếu
*Nhận xét về sự thay đổi trong tâm trạng của Mị:
Từ trạng thái vô cảm, Mị đã đồng cảm với nỗi đau thân phận của A Phủ. Đây là sự chuyển biến
lớn trong tâm lý của Mị dẫn đến thay đổi cục diện của tác phẩm. Qua sự thay đổi này Tô Hoài đã
khẳng định được chân lý: “sức mạnh lớn nhất mà nhân loại có được chính là lòng yêu thương con
người”. Từ đồng cảm, Mị đã đi đến hành động táo bạo, quyết liệt – “cởi trói cho A Phủ”. Đây
không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát
vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải
thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm
tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Đó chính là sức phản
kháng mạnh mẽ của nhân vật và cũng là sự mở đường của nhà văn đưa nhân vật tới chân trời mới.
*Miêu tả sự hồi sinh của Mị qua hai chi tiết trên, Tô Hoài đã mang đến những nét mới trong
cảm hứng nhân đạo của văn học hiện thực phê phán sau năm 1945.
– “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con
người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con
người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con
người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để
bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu). Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”,
nhà văn Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy khi mang đến cho người đọc một hình tượng
nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt mà không thế lực nào có thể dập tắt được.
– Nhà văn đặt niềm tin vào con người, vào sức vươn dậy của nhân vật Mị. Nếu bức chân dung
của những người nông dân trước cách mạng mà ta bắt gặp đâu đó như ở Chí Phèo, lão Hạc, anh
Pha, chị Dậu,… tất cả đều bị dồn vào bước đường cùng. Những bức chân dung kia hoàn toàn
thiếu ánh sáng của Đảng của cách mạng chiếu rọi, thì nhà văn Tô Hoài lại phản chiếu vào nhân
vật của mình ánh sáng của cách mạng và ý thức của thời đại. Nhà văn đã bước qua được những
giới hạn của dòng văn học hiện thực phê phán trước Cách mạng để giải phóng số phận nhân vật.
Mặt khác, việc Mị cởi trói cho A Phủ có thể coi như một chiếc bản lề khép mở hai thế giới.
Nó khép lại thế giới tăm tối của cuộc sống trâu ngựa, nô lệ ở Hồng Ngài. Nó mở ra một cuộc sống
tươi sáng ở Phiềng Sa. Hành động Mị cởi trói cho A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài đến với tiếng gọi
của Cách mạng là một mốc son chói lọi trong tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của Tô Hoài
nói riêng và của các nhà văn sau cách mạng nói chung. Như vậy tiếng kêu cứu của Nam Cao trước
cách mạng đã được Tô Hoài hồi đáp bằng cách giải phóng cho số phận con người, hướng con
người đến ánh sáng của tự do.
*Thành công của tác giả Tô Hoài trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Mị đó là: Thành
công của Tô Hoài trong việc xây dựng nhân vật Mị đó là: Nhà văn có biệt tài miêu tả tâm lý nhân
vật sắc sảo nhất là những diễn biến tâm trạng đầy phức tạp của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ.
Nghệ thuật trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên đầy
ấn tượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng
tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ…nhà văn đã tạo tình huống truyện độc đáo,
hấp dẫn; cách miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tài tình, hợp lí tạo nên sự thay đổi số phận nhân
vật một cách thuyết phục.
6. Hình tượng nhân vật A Phủ a. Số phận.
- Là người Háng- bla, người duy nhất sống sót dau dịch đậu mùa, trốn khỏi cánh đồng thấp_ bất
hạnh, gan bướng, sức sống mãnh liệt.