








Preview text:
VỢ CHỒNG A PHỦ Tô Hoài
I. Kiến thức cơ bản
1. Khái quát về tác giả, tác phẩm - Tác giả:
+ Là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỷ lục trong nền văn học Việt Nam hiện đại;
+ Có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về các phong tục, tập quán. .
+ Đặc biệt, có tình cảm sâu nặng với người đồng bào miền núi Tây bắc. Chính nhà văn từng thốt lên “Đất nước
và con người miền tây để thương để nhớ cho tôi nhiều quá”. Tình cảm ấy đã giúp nhà văn viết thành công tác phẩm Vợ chồng A Phủ. - Tác phẩm:
+ Hoàn cảnh sáng tác: Vợ chồng A Phủ là kết quả của chuyến đi thực tế kéo dài 8 tháng của nhà văn Tô Hoài
cùng bộ đội vào giải phóng Tây bắc năm 1952;
+ Xuất xứ: Rút trong tập “Truyện Tây bắc” ( gồm ba truyện: “Cứu đất cứu Mường”, “Mường Giơn”, “Vợ chồng A Phủ”)
+ Bố cục: gồm 2 phần => Phần 1: Mị và A Phủ ở Hồng Ngài;
=> Phần 2: Mị và A Phủ ở Phiềng Sa.
+ Vị trí đoạn trích thuộc phần 1 của tác phẩm. 2. Tóm tắt:
Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo (Mị và A Phủ)
- Mị xinh đẹp, yêu đời, hiếu thảo, có tài năng, có khát vọng tự do, . . con dâu gạt nợ
- Lúc đầu Mị phản kháng, khóc, định ăn lá ngón tự tử. Về sau, Mị chai sạn, không còn cảm giác về sự sống “lùi
lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”
- Mùa xuân Mị muốn đi chơi Tết, bị A Sử trói đứng vào cột nhà.
- Còn A Phủ là một chàng trai mồ côi, nghèo, có sức sống mãnh liệt, mùa xuân A Phủ đi chơi, vì bất bình A Sử
=> đánh => bị bắt, bị phạt vạ => người ở gạt nợ.
- Một lần A Phủ mải bẫy nhím, để hổ vồ mất một con bò => A Phủ bị đánh, trói đứng đến gần chết.
- Mị cắt dây trói cho A Phủ => Phiềng Sa
- Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, giác ngộ, đi theo cách mạng . . làm chủ cuộc đời. .
3. Chủ đề: Qua số phận của nhân vật Mị và A Phủ, Tô Hoài đã phản ánh cuộc sống khổ cực của những người
nghèo bị áp bức ở miền núi Tây Bắc trước cách mạng tháng Tám, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng,
mãnh liệt, khả năng vùng dậy đấu tranh từ tự phát đến tự giác để thay đổi cuộc đời, tìm đến với tự do dưới ánh sáng của cách mạng.
4. Đặc sắc nghệ thuật: Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật:
- Truyện có lối trần thuật hấp dẫn, linh hoạt, lôi cuốn người đọc, tác giả kể chuyện không theo tính tuyến tính
mà hiện tại, ngược về quá khứ trở lại hiện tại,. .
- Giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế đượm màu sắc và phong vị dân tộc, khi kể số phận nhân vật nhà văn kể với
giọng trầm buồn, thấm đẫm tình cảm và lòng yêu thương.
- Ngôn ngữ vừa giàu tính tạo hình, vừa giàu chất thơ.
- Đặc biệt thành công nhất là nghệ thuật miêu tả tâm lý và hành động nhân vật. Tác giả đã miêu tả nội tâm của
nhân vật bằng thủ pháp đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa bên ngoài và bên trong theo phép biện chứng tâm hồn.
- Ngoài ra Tô Hoài còn chú ý lựa chọn những chi tiết tiêu biểu, đặc sắc.
=> Giải nhất giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1954-1955. II/ Phân tích 1. Nhân vật Mị
1.1 / Vị trí, hoàn cảnh xuất hiện nhân vật
+ Mị là nhân vật chính, trung tâm, là linh hồn của tác phẩm
+ Mị xuất hiện ngay từ những dòng đầu tiên của tác phẩm với cách kể chuyện trầm buồn.
+ Trong không gian: Nhà thống lý Pá Tra, bên tảng đá trước cửa bên cạnh tàu ngựa. Đó là không gian hẹp, cố
định, quen thuộc, tăm tối, gợi cuộc đời tù hãm, bế tắc, luẩn quẩn…Thời gian "Đã mấy năm", nhưng "từ năm nào cô không nhớ …"
+ Với dáng vẻ: “cúi mặt”, “mặt buồn rười rượi”, hình ảnh cô đối lập với sự giàu có của nhà thống lý Pá Tra
“Nhà Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều
bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”. Hình ảnh cô Mị như lẫn vào với những vật vô tri, mang thân phận như trâu
ngựa. Không phải ngẫu nhiên mà Mị lại xuất hiện cạnh những vật vô tri, vô giác bởi chính cô cũng là một con
người đang chết ngay khi còn sống: không cảm nhận, không buồn vui. Mị là hiện thân của nỗi khốn khổ, tủi
cực nhất của người dân lao động; là nạn nhân của dưới ách thống trị của thực dân và lãnh chúa phong kiến miền núi Tậy Bắc.
=> Chỉ bằng một vài lời giới thiệu ngắn gọn, Tô Hoài đã tạo ra được một tình huống có vấn đề, lôi cuốn hấp dẫn người đọc.
=> Như vậy, ngay ở đoạn văn đầu tiên đọc Tô Hoài đã để lại được ấn tượng cho người đọc và một cô Mị với
nỗi buồn héo hắt, câm lặng như đá và thân phận không bằng trâu ngựa.
1.2 Quãng đời đau khổ, tủi nhục
*Trước khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lý: Mị là một bông hoa rực rỡ của núi rừng Tây bắc, có nhiều
phẩm chất đẹp, đáng trân trọng của người miền núi:
- Xinh đẹp: nhà văn Tô Hoài không miêu tả trực tiếp cô Mị xinh đẹp như thế nào nhưng chỉ qua chi tiết “trai
đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị” người đọc cũng phần nào thấy được sự cuốn hút của cô gái Mèo xinh đẹp.
- Tài năng: Mị có tài thổi sáo, thổi lá khiến bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị, đây là tài năng hé lộ
một đời sống nội tâm phong phú, mạnh mẽ.
- Vẻ đẹp nổi bật ở Mị chính là sự chăm chỉ, cần cù, yêu lao động, yêu tự do. Mị chấp nhận cuộc sống vất vả,
công việc cực nhọc, chấp nhận làm nương để trả nợ thay cha chứ không chịu làm dâu gạt nợ nhà giàu.
- Đặc biệt Mị còn có trái tim giàu sức sống, thanh xuân cô đã yêu và được yêu với những kỷ niệm hẹn hò thời thiếu nữ.
- Ngoài ra nhân vật Mị còn khiến người đọc thực sự xúc động về sự hiếu thảo của mình. Mặc dù luôn khao khát
tự do, không chấp nhận cuộc sống tù túng, giam hãm trong nhà thống lý Pá Tra nhưng cuối cùng Mị đã từ bỏ ý
định ăn lá ngón tự tử vì thương cha già không có tiền trả nợ. Hành động vứt nắm lá ngón để quay về với cuộc
sống trâu ngựa trong nhà thống lý Pá Tra đã lám ánh lên vẻ đẹp của lòng hiếu thảo. Mị đã chấp nhận cuộc sống
bị đày đoạ, đau khổ đến tận cùng để đổi lấy bình yên cho cha.
=> Bằng tấm lòng yêu thương, trân trọng Tô Hoài đã dùng mật ngọt của ngôn ngữ để tạo nên chân dung một cô
gái đẹp người, đẹp nết. Những phẩm chất này mở ra cơ hội để Mị có thể được hưởng một cuộc sống hạnh phúc
và trên thực tế cơ hội này cũng đã chớm nở bằng việc Mị đã có người yêu. Một tình yêu đẹp với chàng trai
cùng bản. Nhưng hạnh phúc chưa kịp mở ra thì cánh cửa của nó đã đóng sầm lại đẩy Mị vào cuộc sống tối tăm, đau khổ, tủi nhục.
* Khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra - Nguyên nhân:
+ Trực tiếp: => Gia đình Mị nghèo, có món nợ truyền kiếp với nhà thống lý Pá Tra, cha mẹ Mị nghèo, lấy nhau
phải vay tiền của thống lý, mỗi năm phải trả lãi một nương ngô, nhiều đến khi mẹ Mị chết vẫn chưa trả xong nợ.
=> Lợi dụng hủ tục cướp vợ của người Mèo, A Sử đã bắt Mị về làm vợ.
+ Sâu xa: do bản chất dã man, vô nhân đạo của giai cấp thống trị miền núi trước cách mạng tháng Tám 1945.
Chế độ ấy điển hình là cha con thống lý Pá Tra, đã coi rẻ giá trị con người không bằng súc vật, đồ vật, chế độ
ấy đã dùng thủ đoạn cho vay nặng lãi để trùm bóng đen lên số phận của người nông dân từ đời này qua đời khác.
=> con dâu gạt nợ: Mị mang tiếng là con dâu nhà giàu nhưng Mị còn khổ hơn con nợ, nếu con nợ còn có cơ hội
được giải thoát khi trả hết nợ, còn Mị phải trả nợ hết cuộc đời mình đến khi chết thì thôi.
- Lúc đầu khi mới về làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra:
+ Mị phản kháng số phận: đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử => Đây là lần thứ nhất Mị định ăn
lá ngón tự tử. Đó là một hành động tiêu cực nhưng không thể nào khác của một cô Mị yêu đời, ham sống. Khi
cô Mị không được sống cuộc đời tự do, phải sống chịu đựng bất hạnh, không được coi là con người thì cô muốn
chấm dứt sự sống ấy nghĩa là cô vẫn còn có sức phản kháng, vẫn còn muốn khao khát cuộc sống tốt đẹp hơn.
+ Vì thương cha nên Mị đã ném nắm lá ngón đi và tiếp tục sống 1 cuộc đời bị chà đạp cả về thể xác lẫn tinh thần.
- Về sau, Mị đã tê liệt hoàn toàn sức sống, chai sạn, trơ lì, vô cảm và không còn tinh thần phản kháng.
+ Bị chà đạp về thể xác, bị bóc lột sức lao động: Mị trên danh nghĩa là con dâu nhưng thực chất là nô lệ không
công, Mị trở thành công cụ lao động cho nhà thống lý. Nhà văn Tô Hoài đã liệt kê công việc Mị phải làm quanh
năm: “Tết xong thi lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì gặt đay, xe dây, đến mùa thì đi nương bẻ bắp và dù lúc
đi hái củi, lúc bung ngô lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi”. Câu văn dài cùng với
việc liệt kê hàng loạt các công việc hàng năm khiến cho người đọc có thể hình dung được về vòng quay triền
miên, liên tiếp, nặng nề mà Mị phải thực hiện. Mị đã trở thành công cụ câm lặng để làm giàu cho nhà thống lý”.
=> Tiếp theo nhà văn còn sử dụng lối so sánh vừa tương đồng vừa giáng cấp để diễn tả nỗi đau thân phận Mị.
Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa, thậm chí không bằng con trâu, con ngựa vì trâu ngựa ngày làm còn có
lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Còn Mị phải vùi đầu vào công việc cả ngày lẫn đêm.
+ Bị chà đạp về tinh thần: nỗi khổ về tinh thần còn đau đớn hơn về thể xác. Mị không chỉ phải làm nô lệ về
mặt thể xác mà cô còn bị nô lệ hoá về mặt tinh thần. Ngay khi bị bắt về làm dâu Mị đã phải trải qua một nghi lễ
hết sức khủng khiếp đó là bị đem cúng trình ma. Đối với những người dân nơi đây, hành động này khiến họ tin
rằng mình đã trở thành ma nhà thống lý không thể thoát ra được.
++ Cô Mị ở nhà thống lý dần trở nên cam chịu, câm lặng, cúi đầu chấp nhận tất cả đau khổ. Điều đó được nhà
văn Tô Hoài thể hiện qua hình ảnh so sánh: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó
cửa”. Con rùa trong quan niệm dân gian, vốn là một loài vật tượng trưng cho sức chịu đựng, nhẫn nại, tầng bị
áp bức, đè nén. Vì vậy ông cha vẫn thường nói: “Thương thay thân phận con rùa / Lên đình cõng hạc xuống
chùa đội bia”. Do đó hình ảnh so sánh cô Mị với con rùa càng tô đậm thêm thân phận nhỏ bé, đáng thương cùng
thái độ cam chịu, chấp nhận cúi đầu sống trong đau khổ của Mị.
++ Cùng với hình ảnh con rùa là hình ảnh của cửa sổ nơi căn buồng Mị nằm “một chiếc cửa sổ một lỗ vuông
bằng bàn tay” lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, nghĩa là không phân biệt được ngày hay đêm, nghĩa là
khi ở trong căn buồng ấy Mị không còn có cảm nhận về thời gian, sự sống, mất hết tri giác về sự sống. Đây
chính là nhà tù ngột ngạt, tăm tối giam hãm tuổi thanh xuân của Mị. Ở trong căn buồng ấy Mị đã mất hết cảm
xúc, ý thức. Biểu hiện cao nhất của sự tê liệt cảm xúc đó là Mị không còn nghĩ đến cái chết như trước đây nữa.
Mặc dù cha cô đã chết, cô không còn điều gì ràng buộc nữa, ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi, sống hay chết không còn có ý nghĩa gì.
=> Cuộc sống ở nhà thống lý đã làm cho Mị biến đổi sâu sắc: Mị từ một cô gái có lòng ham sống mãnh liệt, trở
thành một người sống mà như đã chết, tẻ nhạt, vô thức như đồ vật trong nhà.
Phản ánh cuộc sống đau khổ, đoạ đầy tủi nhục của Mị ở nhà thống lý Pá Tra trước hết Tô Hoài đã
đem đến cho tác phẩm của mình giá trị hiện thực sâu sắc. Qua nhân vật Mị, nhà văn đã khát quát số phận
đau khổ, bi thương của người nông dân miền núi trước 1945. Đó cũng là lý do cùng với Mị, Tô Hoài còn
xây dựng các nhân vật khác trong truyện như chị dâu chưa già lưng đã còng xuống và nỗi ám ảnh về câu
chuyện đã từng có người đàn bà bị trói đứng cho đến chết trong nhà thống lý.
Số phận của Mị còn mang ý nghĩa tố cáo, phê phán mạnh mẽ bản chất độc ác, tham lam của giai
cấp thống trị ở miền núi.
Đằng sau câu chuyện, người đọc còn thấy trái tim nhân đạo cao cả của Tô Hoài bởi nhà văn đã trải
mình ra để đồng cảm, xót thương cho số phận nhân vật.
1.3. Sức sống tiềm tàng
Khi viết về quãng đời đau khổ, bi thảm của Mị, người đọc đã có thể nhận thấy giá trị hiện thực, giá trị
nhân đạo của tác phẩm. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đây thì “Vợ chồng A Phủ” chưa có điểm gì khác so với
các tác phẩm trước cách mạng như “Tắt đèn”, “Lão Hạc”, “Chí Phèo”,. . Trong tác phẩm, bên cạnh việc khắc
hoạ cuộc sống cực khổ của người nông dân miền núi, Tô Hoài còn có cái nhìn mới mẻ khi đi sâu khai thác sức
sống tiềm tàng, mãnh liệt ở những con người nhỏ bé, đáng thương mà điển hình là Mị, sức sống của Mị đã
được nhà văn khai thác trong hai đoạn đặc sắc là đêm tình mùa xuân và đêm đông cứu A phủ
* Sức sống tiềm tàng:
+ Là sức sống tiềm ẩn bên trong con người không dễ nhận ra, nếu có điều kiện thuận lợi nó sẽ trỗi dậy mạnh mẽ
trở thành hành động và khao khát.
+ Nhà văn Tô Hoài đã nhận ra Mị có sức sống tiềm tàng, mãnh liệt: Bề ngoài Mị lạnh lùng, dửng dưng vô cảm
do bị áp bức quá nặng nề nhưng bên trong con người Mị vẫn tiềm ẩn 1 sức sống mạnh mẽ, sức sống ấy nó
giống như một hòn than âm ỉ dưới lớp tro tàn để đến khi có ngoại cảnh tác động nó bùng cháy dữ dội. Mãnh liệt
nhất là vào đêm mùa xuân nghe tiếng sáo và đêm mùa đông cắt dây trói cứi A Phủ.
*Trong đêm mùa xuân, có ba yếu tố quan trọng tác động đến Mị: Không khí ngày xuân, tiếng sáo, men
rượu => Mị thay đổi.
- Vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc
+ Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trên vùng núi cao Tây Bắc được Tô Hoài miêu tả bằng những rung cảm
mãnh liệt trở nên rất thơ mộng và mang vẻ đẹp rất riêng đầy quyến rũ. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết vào lúc thời
tiết khắc nghiệt, gió thổi cỏ gianh vàng ửng. Gió và rét rất dữ dội nhưng không ngăn nổi những sắc màu rực rỡ
của thiên nhiên, không ngăn nổi cái rạo rực của lòng người. Cả bản làng sáng bừng trong sắc màu của ngô, lúa,
của trái bí đỏ, của cỏ gianh vàng ửng cùng với những sắc màu rực rỡ của “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi
trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ.” Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Âm thanh tiếng
cưới đùa của trẻ con, âm thanh tiếng sáo trai gái tụ tập đánh pao, đánh quay.
- Đặc biệt, Tô Hoài đã dụng công xây dựng hai chi tiết độc đáo là tiếng sáo và mẹn rượu. Đó là hai chi tiết đắt
giá dẫn dắt sự hồi sinh của Mị để giúp cho người đọc thấy một linh hồn cựa quậy dưới lớp xác đã băng.
*Diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị Trước khi bị trói
- Biểu hiện đầu tiên của sự hồi sinh sức sống trong lòng Mị là chi tiết: nghe tiếng sáo rủ bạn đi chơi lấp ló
ngoài đầu núi, Mị nghe tiếng sáo vọng lại “thiết tha bổi hổi”, Mị đã ngồi “nhẩm thầm bài hát của người đang
thổi”.=> Chứng tỏ tâm hồn Mị không còn lạnh giá, tê liệt mà cảm xúc đã bắt đầu thức dậy, cô Mị sau bao ngày
câm lặng đã cất tiếng nói dù đó chỉ là “lời thì thầm mùa xuân” một bản tình ca Tây Bắc của những kẻ yêu nhau:
“Mày có con trai con gái rồi/ Mày đi làm nương/ Tao không có con trai con gái/ Tao đi tìm người yêu”.
- Mị uống rượu. Cùng với tiếng sáo là men rượu, tiếng sáo đã làm cho Mị mạnh mẽ hơn và có một hành động
nổi loạn: uống rượu. Mị “lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát” => cách uống rượu của Mị không phải là để
thưởng thức mà uống như để đã khát, đã thèm, như nuốt cay nuốt đắng vào lòng, uống để quên đi những ngày
tháng khổ cực đã qua. Mị uống như thể muốn mượn cay mượn đắng của rượu để làm với đi cay đắng trong lòng mình.
- Lòng Mị sống lại những ngày trước khi còn hạnh phúc. Men rượu đã đưa Mị từ cõi quên về cõi nhớ, cô đã
thoát khỏi thực tại bằng việc nhớ về quá khứ đẹp đẽ. Mị nhớ lại tài thổi sáo của mình, nhớ lại quãng đời hạnh
phúc trước kia. Ngày ấy, Mị là người con gái xinh đẹp, tài hoa, yêu đời, chỉ cần một chiếc lá là “Mị uốn chiếc
lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Ngày ấy, Mị có “biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi
theo Mị”. Những hồi ức thanh xuân tươi đẹp ấy sống dậy cho thấy Mị đã bắt đầu thức tỉnh, Mị đã ý thức được
về sự tồn tại, về cuộc đời của mình. Mị không còn sống một cách bất động, vô hồn ở nhà thống lí, sức sống
mãnh liệt đang trỗi dậy trong tâm hồn Mị và khát vọng sống như ngọn lửa đã làm bừng sáng lại tâm hồn Mị.
Nhà văn Tô Hoài ở đây thực sự đã chứng tỏ sự am hiểu về tâm lí, tính cách của người dân vùng cao Tây Bắc.
- Mị ý thức rằng mình vẫn còn trẻ. Rượu tan, người về hết, Mị ngồi trơ một mình giữa nhà rồi Mị bước vào
buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trắng trắng. Căn buồng ấy chính là thực tại, là
ngục thất giam cầm tuổi thanh xuân và hủy hoại hạnh phúc của Mị. Cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng kia vốn là
những hình ảnh nhiều sức gợi, thể hiện Mị đã tê liệt đến mức quên cả ý niệm về không gian, thời gian. Nhưng
giờ đây khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc mãnh liệt khiến Mị có thể phá tan mọi gông cùm, áp chế. Để
lúc này “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước ”. Quá khứ và hiện
tại như đan xen khiến Mị trở lại là cô Mị trẻ trung, yêu đời ngày nào để Mị nhận ra bây giờ Mị vẫn còn rất trẻ
và Mị muốn được đi chơi “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Mị còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn
khao khát, còn muốn yêu thương.
- Mị nhận thức về hiện thực phũ phàng là cuộc hôn nhân không tình yêu. Khát vọng sống như ngọn lửa
bùng cháy mãnh liệt bao nhiêu thì Mị lại phẫn uất bấy nhiêu. Phẫn uất và đau khổ cho thân phận và số phận trớ
trêu đầy bi kịch. Mị nhớ ra chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi. Mị nhận ra những người phụ nữ có chồng vẫn
đi chơi ngày Tết: “Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau
mà vẫn phải ở với nhau!” Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. Còn gì đau
khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem
mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như con vật.
- Khi ý thức sống, khát vọng tự do hạnh phúc trỗi dậy mạnh mẽ, ý nghĩ về cái chết lại xuất hiện. “nếu có
nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay” đây là lần thứ hai trong cuộc đời Mị nghĩ đến cái chết.
+ Liên hệ mở rộng: Phải chăng cũng giống như Chí Phèo của Nam Cao, khi nhân tính trở lại Chí không còn
muốn sống độc ác, sống kiếp của con quỷ dữ nữa, nhưng cũng không thể quay lại làm người lương thiện do đó
Chí chọn cái chết. Cô Mị cũng vậy, khi sự ham sống, khát khao hạnh phúc, tự do trong con người Mị đã hồi
sinh, Mị không chấp nhận thực tại cay đắng nên đã tìm đến với cái chết nghĩa là Mị đã lại ý thức được nỗi khổ
của bản thân, Mị muốn chấm dứt cuộc sống trâu ngựa, muốn sống cho ra sống.
=> Sức sống trỗi dậy trong tâm hồn cô Mị tựa như những đợt sóng ào ạt, đợt sau mạnh mẽ hơn đợt trước. Từ
những cảm xúc, ý muốn Mị đã đi đến hành động
- Mị muốn đi chơi. Tô Hoài đã miêu tả hàng loạt phản ứng của Mị giống như phản ứng dây chuyền, đầu tiên
Mị thắp đèn: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Mị sửa soạn đi chơi:
“Mị quấn lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa vắt ở phía trong vách, Mị rút thêm cái áo”. Hành động ngỡ như đột
ngột, nhưng nó là kết quả tất yếu của sự tác động qua lại giữa hoàn cảnh và tâm lí nhân vật. Không phải bỗng
dưng mà Tô Hoài chọn hành động thắp đèn làm hành động đầu tiên sau khi người con gái lặng câm ấy thức tỉnh,
bởi trong hoàn cảnh này ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn
đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài
kia đang dập dìu tiếng sáo.
=> Bằng những câu văn ngắn, nhịp gấp, Tô Hoài đã cho người đọc thấy sức sống mạnh mẽ đang trỗi dậy, ý
muốn đi chơi và sửa soạn đi chơi là biểu hiện rõ nét nhất cho khát vọng tự do, tình yêu, hạnh phúc của Mị (cô
hành động như một con người tự do đang chuẩn bị, sửa soạn để vượt ngục) Khi bị A Sử trói:
- Hành động trói: Giữa lúc hoạt động sống trong Mị trào sôi thì cũng là lúc nó bị vùi dập dã man bởi A Sử. Cả
A Sử và Mị đều thản nhiên, A Sử chỉ hỏi đúng một câu “mày muốn đi chơi à”, sau đó A Sử không hỏi thêm
nữa, trói đứng Mị vào cột nhà, sau đó tắt đèn, khép cửa đi ra => A Sử thản nhiên khi hành động bởi đây là một
việc bình thường, quen thuộc diễn ra trong nhà thống lý Pá Tra, thậm chí có một người trói vợ ba ngày. ., Mị
không chống cự vì lúc này có thể tâm hồn Mị đang đi theo những tiếng sáo, đang sống với những khao khát
tuổi trẻ nên Mị không ý thức được thực tại.
- Hình ảnh Mị khi bị trói: Mị bị trói đứng vào cột nhà suốt cả đêm, Tóc bị cuốn lên cột làm cho Mị không cúi,
không nghiêng được đầu nữa.=> Đây là hình ảnh đáng thương của đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng
Ngài. Mị là một nhân chứng sống có ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ tội ác của giai cấp thống trị vùng cao. Mị phải
chịu nỗi đau đớn về mặt thể xác, nỗi đau đớn này rất dễ kéo Mị trở lại với thực tại với cảnh ngộ đầy éo le của Mị.
- Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị khi bị trói:
+ Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo
những cuộc chơi, những đám chơi: “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào. .”. Mị vùng bước đi.
=> Như vậy hành động của A Sử chỉ trói được thể xác, không cầm tù được tâm hồn Mị. Nó chỉ ngăn cản được
hành động đi chơi của Mị chứ không thể dìm xuống cái sức sống mãnh liệt đang trào dâng lên trong tâm hồn
người phụ nữ Tây bắc này. Tâm hồn Mị vẫn đi theo những cuộc chơi, đám chơi. Chỉ đến khi Mị vùng bước đi,
Mị mới biết mình đang bị trói. Điều này chứng tỏ, Mị không hề biết mình đang bị trói hoặc có thể biết bị trói
nhưng đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác.
=> Khi bị trói sức sống ở Mị không bị lụi tàn. Nhà văn Tô Hoài đã có niềm tin vào khát vọng của tuổi trẻ, sức
sống tiềm tàng mạnh mẽ của tuổi trẻ lao động miền núi, không dây trói nào buộc được, không thế lực tàn ác nào
tiêu diệt được. Chính vì vậy, ông Tô Hoài đã nhận xét: “Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi
thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người, lay lắt, đói khổ, nhục nhã Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt”.
- Tiếp theo, nỗi đau về thể xác khi bị trói cùng với tiếng chân ngựa đạp vào vách trở về với thực tại đầy đau đớn
của mình. Mị ý thức rất rõ về thân phận “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” => đây là một cảm
nhận chua xót, cay đắng về thân phận chẳng khác nào súc vật khi Mị ở nhà thống lý Pá Tra.
-Mị sợ chết Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng hành động của Mị trong đêm mùa
xuân. Đó là chi tiết: “Mị tỉnh dậy và mới lại chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này và Mị đã
sợ chết” “Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết”.
=> Khi ý thức trở lại với Mị, Mị lại nghĩ đến cái chết, chi tiết này không có gì mâu thuẫn với chi tiết Mị nghĩ
muốn ăn lá ngón tự tử. Bởi: muốn chết, sợ chết với cô Mị đều là biểu hiện của khát vọng sống cho ra sống. Mị
muốn chết vì Mị muốn chấm dứt cuộc sống thân trâu ngựa, còn sợ chết đồng nghĩa với khát vọng sống mãnh
liệt. Tâm trạng độc lập, muốn chết, sợ chết của nhân vật Mị một mặt là để phản ánh tâm trạng phức tạp trong
Mị, mặt khác là để làm nổi bật sự sống mạnh mẽ trong cô Mị trong đêm mùa xuân. Như vậy rõ ràng là cường
quyền và thần quyền tàn bạo không thể dập tắt nổi khát vọng hạnh phúc, tình yêu của Mị. Cuộc nổi loạn tuy
không thành công nhưng nó đã cho người đọc thấy sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong con người Mị. Sức sống
trong Mị vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm trong lòng đại dương. Nói như nhà văn Lỗ Tấn "Một tia lửa
hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai". Để rồi những đợt sóng ngầm ấy cuối cùng trở thành bão táp, tia lửa
ấy rồi đã hóa thành đám cháy lớn vào đêm Mị cắt dây trói cho A Phủ rồi chạy trốn. Tiểu kết:
Bằng sự am hiểu về phong tục tập quán đặc biệt là thế giới nội tâm nhân vật, Tô Hoài đã miêu tả sinh
động, tinh tế diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm mùa xuân để làm nổi bật sức sống tiềm ẩn,
hồi sinh trong Mị. Mị không còn là con ruà lùi lũi nuôi trong xó cửa nữa mà Mị trở thành cánh én phơi phới
giữa trời xuân. Mị không phải là ngọn đèn leo lét chỉ chờ giây phút chợt tắt mà là một hòn than hồng âm ỉ dưới
lớp tro tàn, chỉ cần một ngọn gió thổi qua là bùng thành ngọn lửa. Mị cũng giống như cây hoa đào khẳng khiu
nhưng bên trong âm thầm dòng chảy nhựa sống, để đến khi xuân về bật lên sức sống mãnh liệt.
Phát hiện và miêu tả sức sống tiềm tàng của Mị, Tô Hoài đã thể hiện lòng yêu thương trĩu mến khi ông
nhận ra bên trong con người bị đoạ đầy vẫn ẩn chứa những phẩm chất tốt đẹp, sức sống mãnh liệt, để sau này
họ có thể thay đổi cuộc đời mình => giá trị nhân đạo của tác phẩm.
1.4. Sức phản kháng mãnh liệt (Đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ).
Hoàn cảnh thức tỉnh:
Sau đêm tình mùa xuân, khát vọng sống của Mị bị dập tắt. Những tưởng Mị sẽ hoàn toàn trở lên câm
lặng, sẽ mãi mãi lầm lũi và cứ thế mà chết đi, mà trở thành một con ma trong nhà thống lí. Cho đến những đêm mùa đông rét mướt ấy.
Đêm đông trên rẻo cao lạnh, dài và buồn nên Mị có thói quen trở dậy đốt lửa, hơ tay, hơ lưng. Mỗi đêm,
Mị dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần bởi nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị đến chết
héo. Từ chỉ thời gian mỗi đêm, không biết bao nhiêu lần: gợi thói quen lặp đi lặp lại như một bản năng, ăn vào
vô thức. Đó là bản năng tìm tới hơi ấm, ánh sáng. Mị chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa: điệp từ “chỉ” diễn tả nét
nghĩa tồn tại ít ỏi. Trong văn hóa nhân loại, ngọn lửa thường là vật biểu trưng cho ánh sáng, sự sống. Ở đây,
ngọn lửa ngầm ẩn sự hiện hữu tuy tối thiểu nhưng dai dẳng của sức sống trong Mị. Có lần A Sử bắt gặp và
đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước. Từ vẫn tiếp tục nhấn mạnh
niềm khát sống bền bỉ. Hình tượng ngọn lửa là nguồn sáng- nguồn ấm-nguồn sống duy nhất đồng thời tiềm sâu
sức sống dai dẳng, bền bỉ, bất chấp của Mị.
Diễn biến tâm trạng và hành động
* Ban đầu khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng Mị vẫn thản nhiên, lạnh lùng
- Lối viết văn của nhà văn Tô Hoài đã tạo được ra những khoảng trống, chỗ trắng để người đọc tự lấp đầy, cụ
thể hoá những điểm chưa xác định. Sở dĩ khi nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay là vì:
+ Khách quan: đây là cảnh thường gặp trong nhà thống lý Pá Tra, Mị cũng đã từng bị trói, thậm chí còn có
người bị trói đến chết.
+ Chủ quan: Mị cũng đã từng bị trói và có thể Mị ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi, không nhận ra nỗi khổ
của người khác, không đủ sức quan tâm đến nỗi khổ của người khác.
=> Mị và A Phủ gặp nhau trong hoàn cảnh khốc liệt và éo le. Mị và A Phủ là những số phận con người đau khổ
cùng chung giai cấp, chung cảnh ngộ, thân phận, cùng một nỗi đau như nhau nhưng vì đã quá quen với hiện
thực trong nhà thống lý Pá Tra, cộng với nỗi khổ của bản thân mình và trạng thái tâm hồn lúc này nên nếu “A
Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi lửa hơ tay, chỉ biết đến ngọn lửa. Ba
chữ cũng thế thôi tách riêng thành một nhịp, lời văn nửa trực tiếp đã tái hiện chính xác thái độ lạnh lùng đến vô
cảm của Mị. Lúc này, Mị không chỉ khước từ quyền sống của chính mình mà còn không quan tâm đến cả sự sống của đồng loại.
* Về sau, khi nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má xạm đen lại của A Phủ, Mị đã thay đổi.
- Trước hết, dòng nước mắt của A Phủ:
+ Hình ảnh dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xạm đen lại của A Phủ là một hình ảnh rất thực,
có ý nghĩa tố cáo tội ác của giai cấp thống trị vùng cao.
+ Dòng nước mắt lấp lánh bởi có ánh lửa chiếu vào. Từ “bò xuống” miêu tả nước mắt chảy chậm không phải
dòng dòng. Phải chăng A Phủ đã cố kìm nén nước mắt nhưng trước cảnh ngộ hiện tại của bản thân, một người
như A Phủ đã phải nhỏ nước mắt. Hình ảnh này rất phù hợp với tính cách của A Phủ.
+ Nước mắt là biểu tượng của nỗi đau, A Phủ khóc cho cảnh ngộ của mình, đau đớn cho tình cảnh cùng đường
của mình. Đây là tiếng khóc của một con hổ bị sa bẫy, khóc vì ý thức được tình cảnh cùng đường của mình.
Dòng nước mắt của A Phủ đã có tác động rất lớn đến tâm hồn Mị, dẫn đến sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực.
- Tâm trạng và hành động của Mị:
+ Mị thương mình, nhớ lại quá khứ đau đớn, tủi nhục của chính mình, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử
trói Mị “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được”.
+ Mị thương A Phủ, nhớ đến người đàn bà bị trói đến chết, Dạng thức cảm thán đã cho thấy Mị không còn thờ
ơ, vô cảm với đồng loại mà trong tâm hồn cô đã dấy lên một tình thương yêu mãnh liệt. Tâm lí này cho thấy
phẩm chất nhân hậu tiềm ẩn trong tâm hồn người phụ nữ cùng khổ.
+ Nhận thức: Chúng nó thật độc ác
Cùng với lòng thương người, Mị đã nhận ra bản chất tàn ác, vô nhân đạo của cha con nhà thống lý. Chỉ vì bị hổ
ăn mất một con bò mà một người thanh niên khoẻ mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng
mình thay cho con bò. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ chỉ bằng, thậm chí không bằng một con vật.
Thân phận của Mị thì có khác gì A Phủ, cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống,
tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa. Ngày
trước, chúng còn tàn ác khi trói một người đàn bà đến chết trong nhà này. Từ số phận của A Phủ, của chính
mình và người đàn bà ngày trước, Mị bỗng nhận thức ra rằng “Chung nó thật độc ác”. Mị nhận thấy rõ sự độc
ác của cha con thống lý Pá Tra “nó thật độc ác”.
+ Mị nghĩ đến tương lai gần của A Phủ, Mị lo A Phủ sẽ cầm chắc cái chết “cơ chừng này chỉ đêm mai là
người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị ý thức rất rõ thân phận, cảnh ngộ éo le của mình: “chỉ
còn biết đợi ngày rũ xương ở đây”.Mị nhận thấy cái chết của A Phủ là bất công, nghịch lý “ta là. . .người kia việc gì phải thế”.
=> Như vậy, chi tiết giọt nước mắt là một chi tiết đắt giá đã thay đổi tâm hồn cô Mị, khiến cô từ vô cảm đến
đồng cảm, từ đồng cảnh đến đồng cảm. Vợ chồng A Phủ đến nay vẫn còn sức sống mạnh mẽ phải chăng bởi những chi tiết nhỏ ấy.
- Hành động cắt dây trói cứu A Phủ
+ Ngay cả khi Mị hình dung nếu A Phủ trốn đi được, Mị sẽ bị trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy,
Mị cũng không thấy sợ => Lòng nhân hậu đã giúp cho Mị quên đi bản thân mình để nghĩ đến sự sống của A
Phủ, lòng thương ấy lớn hơn cả nỗi thương thân, đã dẫn đến hành động táo bạo, bất ngờ làm thay đổi cả cuộc đời Mị và A Phủ.
+ Nhà văn miêu tả hành động cắt dây trói cứu A Phủ: “Mị rón rén bước lại. Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”.
+ Nguyên nhân dẫn tới hành động: Sự đồng cảm giai cấp, tình yêu thương đồng loại, nhận thức tỉnh táo của
lòng căm thù đã dẫn tới hành động táo bạo, dũng cảm, bất ngờ mà hợp lý, logic với tính cách nhân vật. Đây là
hành động được xem như tất yếu, một biểu hiện của sức sống mạnh mẽ.
+ Ý nghĩa: Hành động này đã cởi bỏ xiềng xích cho Vợ chồng A Phủ và cũng là cởi bỏ xiềng xích cho Mị.
Cùng một lúc Mị đã có sức mạnh để chiến thắng ba nhà tù: nhà tù của cường quyền, sức mạnh của thần quyền
và lễ giáo phong kiến. Hành động này của Mị phù hợp với quy luật phát triển của cuộc sống: có áp bức => có
đấu tranh, tức nước thì vỡ bờ.
- Những lời nói và hành động sau khi cắt dâu trói cứu A Phủ:
+ “Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng” đây là nét tâm lý bình thường,
dễ hiểu. Trong hốt hoảng Mị giục A Phủ “đi ngay. .” rồi Mị “nghẹn lại”. Có lẽ lúc này cô mới nhận ra thực sự
nhận ra mình đã làm một việc ghê gớm.
+ “Mị đứng lặng trong bóng tối” -> câu văn rất đặc biệt, đứng riêng thành một dòng. Mị đang đứng lặng nhưng
bên trong con người Mị đang chứa đầy bão giông. Mị đang có sự đấu tranh để lựa chọn và rất nhanh chóng, Mị
quyết định chạy theo A Phủ.
+ Tô Hoài đã miêu tả hành động của Mị trong những câu văn ngắn cùng những động từ mạnh mẽ, gấp gáp “Mị
cũng vụt chạy ra. . Mị vẫn băng đi. . .Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy. . ” Chính khát khao sống bùng lên đã
thôi thúc bước chân Mị.
+ Lời nói: “A Phủ cho tôi đi” cho thấy không còn những dòng độc thoại nội tâm, lần đầu tiên Mị lên tiếng và đó
là tiếng nói của khát khao sống. Mị đã thực sự kinh hoàng trước cái chết cận kề “ở đây thì chết mất” => cứu
A Phủ và chạy theo A Phủ là cách tự cứu mình, là hành động phản kháng lại những áp bức, bất công ở đời, là
một biểu hiện cao nhất của sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.
Như vậy, Tô Hoài không chỉ nhìn thấy nét đẹp trong tâm hồn của người lao động Tây bắc mà còn thấy được
con đường tự giác của người dân Tây bắc trước số phận khổ đau. Những người lao động nô lệ chỉ thực sự thoát
khỏi xiềng xích khi họ đứng lên cởi trói cho chính mình.
- Liên hệ: Cùng chạy ra ngoài trời trong đêm tối, nhưng Mị khác hẳn chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố.
Nếu chị Dậu chạy ra ngoài “trời tối đen như mực, tối như cái tiền đồ của chị” thì Mị chạy ra ngoài trời tối để
thoát khỏi bóng tối đến với ánh sáng. Mị đã thoát khỏi thung lũng đau thương để đến với cánh đồng vui, thoát
khỏi đêm đen nô lệ để đến với ánh sáng tự do. Đây là hướng vận độngkhác nhau của văn học hiện thực cách
mạng sau 1945 với văn học hiện thực trước 1945. Đây cũng là giá trị nhân đạo mới mẻ của tác phẩm.
+ Qua nhân vật Mị, Tô Hoài đã phản ánh chân thực cuộc sống khổ cực của người lao động nghèo bị áp bức ở
miền núi trước Cách mạng tháng Tám. Từ đó tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, Đồng thời, phát hiện và khẳng
định sức sống tiềm tàng mãnh lieetjbeen trong con người bị áp bức, để họ vùng dậy phản kháng từ tự phát đến
tự giác, để tìm đến với cuộc sống tự do dưới ánh sáng của Đảng. Đây là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu
sắc, mới mẻ của tác phẩm.
2. Phân tích nhân vật A Phủ
a. Tuổi thơ và lai lịch
- A Phủ có một tuổi thơ bơ vơ và đau khổ
- A Phủ là người Háng Bla nhưng dịch đậu mùa đã cướp đi người thân của A Phủ và A Phủ bị người làng bán
cho người Thái dưới cánh đồng. Nhưng A Phủ không chịu đã trốn đi là lưu lạc đến Hồng Ngài.
=> Ngay từ nhỏ A Phủ đã là một mầm sống mãnh liệt, không chịu khuất phục số phận.
b. Trưởng thành: A Phủ trở thành một chàng trai người Mèo có những phẩm chất đẹp của người lao động
- Lao động giỏi, khoẻ mạnh: Ở Hồng Ngài đi làm cho nhà người, từ mùa này sang mùa khác, chẳng bao lâu A
Phủ đã lớn lên và trở thành một chàng trai khỏe mạnh, tài giỏi (biết làm nhiều việc). Biết “đục lưỡi cày, biết
đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. A Phủ “khoẻ, chạy nhanh như ngựa” “con gái trong làng nhiều
người mê” nhiều người nói: “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”.
- Tâm hồn: yêu đời, tự tin, vượt lên hoàn cảnh: mùa xuân đến, dù biết mình nghèo, không cha, không mẹ,
không ruộng nương tiền bạc, khó mà lấy được vợ nhưng A Phủ vẫn mang con pao, con yến cùng trai bản đi tìm người yêu.
=> Với lối so sánh mộc mạc, cụ thể, Tô Hoài đã làm nổi bật vẻ đẹp và phẩm chất của A Phủ theo quan điểm người lao động.
c. Bước ngoặt khổ đau *Nguyên nhân:
- Đánh A Sử: Do tính tình phóng khoáng, bướng bỉnh và yêu lẽ phải, chính nghĩa nên A Phủ đã dám đánh lại
con nhà quan khi hắn phá đám chơi ngày Tết. “A Phủ đã xông tới, nắm cái vòng cổ đập đầu xuống xé vai áo đánh tới tấp”.
=> bị bắt, bị trói và ném giữa nhà thống lí.
- A Phủ đã trải qua một cảnh xử kiện vô lí, dã man, đậm màu sắc trung cổ.
+ Nơi xử kện: nhà thống lí, quanh mấy cái bàn đền thuốc phiện.
+ Người xử kiện: chính là cha của nạn nhân, thống lí Pá tra – ng đi kiện.
+ Cách xử kiện: thống lí hút xong một đợt thuốc phiện => gọi A Phủ, bắt A Phủ phải ra quỳ giữa nhà để bọn trai làng xô đến đánh.
+ Tô Hoài đã diễn tả cảnh xử kiện diễn ra trong suốt một thời gian dài chỉ bằng một câu văn ngắn: “Cứ như thế,
suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”
=> Các vế câu nối tiếp, điệp từ “càng” trở đi trở lại đã gợi ra nỗi đau thể xác A Phủ phải chịu đựng suốt chiều,
suốt đêm, suốt sáng hôm sau.
=> Dưới ách thống trị tàn bạo và khắc nghiệt của lũ chúa đất, cuộc sống của người dân nghèo miền núi thật
thảm thương, họ bị đánh đạp, hành hạ như một con vật.
=> Tuy vậy, A Phủ không hề khóc lóc, van xin mà trái lại vẫn bất khuất, cứng rắn, gan dạ “A Phủ quỳ chịu đòn chỉ im như tượng đá”
+ Kết quả xử kiện: đầu gối A Phủ sưng bạnh lên, “môi và đuôi mắt dập chảy máu”. A Phủ bị phạt vạ, phải vay
thống lí 100 đồng bạc, trở thành người ở gạt nợ, làm nô lệ cho nhà thống lí Pá Tra. A Phủ bị cũng trình mà và
kèm theo lời nguyền độc ác của thống lí: “Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.
=> Vậy là kể từ đây, cuộc đời tự do của A Phủ chấm dứt. Thống lí Pá Tra không chỉ tuyên một bản án chung
thân cho A Phủ mà còn là một món nợ truyền kiếp. Vậy là, cũng như Mị, A Phủ trở thành một tên nô lệ chung
thân bị khinh rẻ, bị ngược đãi. * A Phủ ở nhà thống lí
- Bị bóc lột sức lao động: A Phủ phải làm nhiều việc: “Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ,
chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”
- AP có thể bị trói bất cứ lúc nào, tính mạng phụ thuộc vào bàn tay tàn bạo của thống lí: một lần để hổ bắt mất
một con bò AP bị trói đứng vào cột đến chết nếu như không có Mị giải thoát.
=> A Phủ phải chịu đau khổ cả về thể chất lẫn tinh thần. Phản ánh số phận đau khổ của A Phủ, Tô Hoài cũng
bộ lộ niềm cảm thông, xót thương cho những người lao động nghèo ở miền núi Tây Bắc trước Cách mạng
tháng Tám. Đồng thời nhà văn cũng góp thêm tiếng nói phê phán, tố cáo tội ác của bọn chúa đất, chúa Mường.
- Khi bị trói đứng trong đêm đông, A Phủ đã tuyệt vọng khi thấy cái chết đến gần mà không thể thay đổi nên
hai dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen. A Phủ chưa từng rơi nước mắt ngay cả khi bị
đánh đau đớn nhưng lại khóc khi cảm nhận cái chết đang đến gần.
- Liên hệ: Người đọc đã từng bắt gặp dòng nước mắt của Chí Phèo trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao.
Chí Phèo ôm mặt khóc “rưng rức” khi bị thị Nở cự tuyệt. Qua đau đớn, bế ắc khi sợi dậy nối kết của Chí để trở
về thế giới của người lương thiện đã bị cắt đứt. Hắn đã khóc. Nhưng thật may mắn, nếu giợt nước mắt của Chí
Phèo là dòng nước mắt rơi vào bế tắc thì giọt nước mắt của A Phủ lại tìm được sự đồng điệu, cảm thông. Chính
điều này đã tạo nên sự khác biệt của những sáng tác được viết sau 1945. Khi các nhà văn được cách mạng soi
sáng, họ nhìn đời bằng cái nhìn lạc quan mở ra hướng đi mới, cuộc sống tốt đẹp cho người nông dân.
- Khi được Mị cởi trói: lúc đầu khuỵu xuống vì kiệt sức nhưng trước cái chết có thể đến gần, A Phủ quật lên tìm cuộc sống tự do.
- Tại khu du kích Phiềng Sa, được cán bộ A Châu giác ngộ, A Phủ đã trở thành tiểu đội trưởng du kích cùng
đồng đội đứng lên bảo vệ quê hương.
=> A Phủ là một chàng trai có sức sống mãnh liệt. Ngợi ca sức sống mãnh liệt của A Phủ, dụng ý của Tô Hoài
muốn khẳng định. Những con người bị áp bức mang trong mình một sức sống như thế, khi được cách mạng
khơi nguồn, từ thân phận nạn nhân họ sẽ vươn lên thành chủ nhân, tự quyết định lấy cuộc đời mình. Vì thế, tuy
cùng phản ánh số phận đau khổ của những người lao động nhưng “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài nói riêng và
những sáng tác của nền văn học Cách mạng nói chung đều có kết thúc lạc quan, tươi sáng không giống như
“Chí Phèo” của Nam Cao hay “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố.
3. Giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.
Document Outline
- I. Kiến thức cơ bản
- 1.Khái quát về tác giả, tác phẩm
- VỢ CHỒNG A PHỦ
- 2.Tóm tắt:
- *Trước khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lý: Mị là m
- * Khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra
- -Nguyên nhân:
- -Lúc đầu khi mới về làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá
- -Về sau, Mị đã tê liệt hoàn toàn sức sống, chai sạn
- 1.3. Sức sống tiềm tàng
- * Sức sống tiềm tàng:
- *Trong đêm mùa xuân, có ba yếu tố quan trọng tác đ
- *Diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị
- -Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị khi bị tró
- Tiểu kết:
- 1.4. Sức phản kháng mãnh liệt (Đêm mùa đông cắt dây tr
- Diễn biến tâm trạng và hành động
- * Ban đầu khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng Mị vẫn
- * Về sau, khi nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh bò
- -Tâm trạng và hành động của Mị:
- + Nhận thức: Chúng nó thật độc ác
- -Hành động cắt dây trói cứu A Phủ
- -Những lời nói và hành động sau khi cắt dâu trói cứ
- 2.Phân tích nhân vật A Phủ