









Preview text:
lOMoAR cPSD| 23136115
1.Nguồn gốc ra đời của triết học
Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người, triết học ra đời ở cả Phương Đông và
Phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI tr.CN) tại
các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời Cổ đại. Ý thức triết học xuất hiện không
ngẫu nhiên, mà có nguồn gốc thực tế từ tồn tại xã hội với một trình độ nhất định của sự
phát triển văn minh, văn hóa và khoa học. Con người, với kỳ vọng được đáp ứng nhu cầu
về nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình đã sáng tạo ra những luận thuyết chung nhất,
có tỉnh hệ thống phản ánh thế giới xung quanh và thể giới của chính con người. Triết học
là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân loại.
Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn
gốc xã hội. Nguồn gốc nhận thức:
Nhận thức thế giới là một nhu cầu khách quan của con người. Đỉnh cao của tư duy huyền
thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là các câu chuyện thần thoại và những tôn giáo sơ khai
như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Saman giáo.
Trong quá trình cải biến thế giới, con người dần có kinh nghiệm và có tri thức về thế giới.
Đầu tiên là những tri thức cụ thể, riêng lẻ, cảm tính sau đó dần dần hình thành nên tri thức
hệ thống, lôgích và nhân quả, đòi hỏi nhận thức ngày càng quan tâm sâu sắc hơn đến cái
chung, những quy luật chung. Sự phát triển của tư duy trừu tượng và năng lực khái quát
trong quá trình nhận thức dẫn đến hình thành các quan điểm, quan niệm chung nhất về thế
giới và về vai trò của con người trong thế giới đó - đó là lúc triết học xuất hiện với tư cách
là một loại hình tư duy lý luận đối lập với các giáo lý tôn giáo và triết lý huyền thoại
Triết học chỉ xuất hiện khi kho tàng tri thức của loài người đã hình thành được một vốn
hiểu biết nhất định và trên cơ sở đó, tư duy con người cũng đã đạt đến trình độ có khả năng
rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ. Nguồn gốc xã hội:
Triết học ra đời khi nền sản xuất xã hội đã có sự phân công lao động và loài người đã xuất
hiện giai cấp. Xã hội có giai cấp và nạn áp bức giai cấp hà khắc đã được luật hóa.
Gắn liền với các hiện tượng xã hội trên là lao động trí óc đã tách khỏi lao động chân tay.
Trí thức xuất hiện với tư cách là một tầng lớp xã hội, có vị thế xã hội xác định.
Thời kì này, quý tộc, tăng lữ, điền chủ, nhà buôn, binh lính... đã chú ý đến việc học hành.
Tri thức của một số khoa học đã được giảng dạy. Trí thức đã được xã hội coi trọng. Có điều
kiện và nhu cầu nghiên cứu, có năng lực hệ thống hóa các quan niệm, quan điểm thành học
thuyết, lý luận. Những người xuất sắc đã hệ thống hóa thành công tri thức thời đại dưới
dạng các quan điểm, các học thuyết lý luận có tính hệ thống, giải thích được sự vận động,
quy luật hay các quan hệ nhân quả của một đối tượng nhất định, được xã hội công nhận là các nhà thông thái.
Nền sản xuất xã hôi đã có sư phân công lao đông; chế đô tư hữu xuất hiên; xã hôi phân chia
giai cấp; trí thức xuất hiên (những người xuất sắc) có điêu kiên, nhu câu, năng lực hệ thông
hóa các quan niêm thành lý luân... lOMoAR cPSD| 23136115
2.Vấn đề cơ bản của triết học
Theo Ăngghen: "Vấn đề cơ bản của triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là mối quan hệ
giữa tư duy và tồn tại."
Như vậy, vấn đề cơ bản của triết học: là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, vật chất và ý
thức hay tự nhiên và tinh thần.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học vì:
– Đây là vấn đề rộng nhất, chung nhất. Đóng vai trò là nền tảng, định hướng để giải
quyếtcác vấn đề khác.
– Các trường phái triết học đều trực tiếp/ gián tiếp đi vào giải thích về mối quan hệ giữa
tư duy và tồn tại hay giữa vật chất và ý thức trước khi đi vào quyết định của mình.
– Việc quyết định mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở xuất phát cho các quyết
định triết học nảy sinh.
– Việc quyết định vấn đề cơ bản của triết học là tính chất khách quan khoa học để xác
định lập trường tư tưởng triết học của các nhà triết học trong lịch sử.
• Vấn đề cơ bản trả lời cho 2 câu hỏi lớn. Trả lời 2 câu hỏi này xác định lập trường của nhà
triết học và hình thành các trường phái triết học
– Mặt thứ nhất với câu hỏi: Vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào (mặt bản thể luận)
Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất có trước, sinh ra và quyết định ý thức con người, không
thừa nhận sự giáng thế của các lực lượng siêu nhiên, là thế giới quan của giai cấp bị trị và
các lực lượng tiến bộ, liên hệ mật thiết với khoa học tự nhiên. Chủ nghĩa duy vật xuất hiện dưới các hình thức:
* CNDV chất phác cổ đại đồng nhất vật chất với một hay một số chất. Quan niệm về thếgiới
mang tính trực quan, cảm tính, chất phác nhưng đã lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích thế giới
* CNDV siêu hình: Quan niệm thế giới như một cỗ máy khổng lồ, các bộ phận tồn tại
biệtlập, tĩnh tại. Tuy còn hạn chế về phương pháp luận siêu hình, máy móc nhưng đã
chống lại quan điểm duy tâm tôn giáo giải thích về thế giới.
* CNDV biện chứng do Mác-Anghen xây dựng vào thế kỉ 19 và được Lênin phát triển
khẳng định vạn vật có mối liên hệ phổ biến, luôn luôn vận động và phát triển. CNDV
biện chứng đã khắc phục hạn chế của CNDV trước đó, phản ánh đúng hiện thực và trở
thành công cụ hữu hiệu để nhận thức và cải tạo thế giới
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước, quyết định vật chất: là thế giới quan của giai
cấp thống trị và các lực lượng phản động, liên hệ mật thiết với thế giới quan tôn giáo, chống lại KHTN và CNDV.
* CNDT khách quan: Ý thức khách quan tồn tại trước và quyết định vật chất lOMoAR cPSD| 23136115
* CNDT chủ quan: ý thức cá nhân có trước và quyết định vật chất phủ nhận sự tồn tạikhách
quan của thế giới vật chất, công nhận sự sáng tạo ra nó bằng một lực lượng tinh thần
Bên cạnh đó còn có Nhị nguyên luận: giải thích thế giới bằng cả hai bản nguyên vật chất
và tinh thần, xem vật chất và tinh thần là hai bản nguyên có thể cùng quyết định nguồn gốc
và sự vận động của thế giới. Song, xét cho cùng chủ nghĩa nhị nguyên thuộc chủ nghĩa duy tâm.
– Mặt thứ hai với câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? (mặt nhận thức luận)
* Thuyết khả tri: Con người có khả năng nhận thức được thế giới. Về nguyên tắc, con
người có thể hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng
+ Duy vật: thế giới vật chất quyết định nhận thức, ý thức con người, đỉnh cao là CNDV biện chứng
+ Duy tâm: ý thức, nhận thức là sự tự phản ánh, phủ nhận cội nguồn vật chất của ý thức
Duy tâm tuy sai nhưng vẫn có cơ sở hiện thực để tồn tại và phát triển, giải thích một số
hiện tượng đơn lẻ hay duy vật không giải thích được
* Thuyết bất khả tri: Phủ nhận khả năng nhận thức của con người. Về nguyên tắc,
conngười không thể hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng mà chỉ hiểu được những cái
thế giới biểu hiện ra.
* Thuyết hoài nghi: nghi ngờ tri thức đã đạt được, con người không thể đạt tới chân líkhách quan
3. Nguồn gốc của ý thức
• Nguồn gốc của tự nhiên:
– Bộ não người và ý thức: ý thức là thuộc tính của 1 dạng vật chất sống có tổ chức cao
nhất là bộ não người. Bộ não người có cấu trúc đặc biệt phát triển, rất tin vi và phức tạp.
Bộ não là khí quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng phản ánh của não người.
– Phản ánh: là thuộc tính chung với mọi dạng vật chất, phản ánh là sự tái tạo những đặc
điểm của 1 hệ thống vật chất này lên hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua
lại giữa chúng, có 3 hình thức phản ánh:
+ Phản ánh vật lý, hóa học là trình độ phản ánh mang tính thụ động, chưa có sự định hướng,
lựa chọn, đặc trưng cho các dạng vật chất vô sinh. Ví dụ: dấu chân in lên cát, soi gương, viết bảng,. . .
+ Phản ánh sinh học đặc trưng cho các dạng vật chất hữu sinh, được thể hiện thông qua 3
trình độ cơ bản: tính kích thích, tính cảm ứng và tính tâm lý. Ví dụ: tính kích thích: hướng
sáng. Tính cảm ứng là con hải quỳ. Tính tâm lí: ở động vật có hệ thần kinh trung ương. lOMoAR cPSD| 23136115
+ Phản ánh ý thức: hình thức đặc trưng riêng chỉ có ở con người, ý thức là 1 sự phản ánh
của 1 dạng vật chất có tổ chức cao vào trong bộ não con người. Ý thức phản ánh thế giới
vật chất vào bộ não người 1 cách năng động, sáng tạo. Ví dụ: phản xạ có điều kiện ở người.
⇒ Do đó, bộ não người, cùng với thế giới bên ngoài tác động của bộ não người, đó là nguồn
gốc tự nhiên của ý thức. • Nguồn gốc xã hội:
– Vai trò của lao động đối với việc hình thành ý thức:
+ Lao động đã giải phóng con người khỏi thế giới động vật, mặt khác, cũng giúp con người
có khả năng sáng tạo ra công cụ lao động và sử dụng những công cụ ấy phục vụ mục đích sống của mình.
+ Lao động đã giúp con người tìm ra lửa và nấu chín thức ăn, giúp cho bộ não con người
ngày càng phát triển và hoàn thiện về mặt sinh học.
+ Nhờ lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, làm cho thế giới khách quan
bộc lộ những thuộc tính, đặc điểm mà dựa vào đó, con người có thể nhận thức được tốt hơn.
+ Lao động dẫn tới sự hình thành ngôn ngữ. Ngôn ngữ một mặt là kết quả của lao động,
mặt khác lại là nhân tố tích cực tác động đến quá trình lao động và phát triển ý thức của con người.
– Vai trò của ngôn ngữ đối với việc hình thành ý thức:
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Nó xuất hiện trở thành "vỏ
vật chất" của tư duy; là hiện thực trực tiếp của ý thức; là phương thức để ý thức tồn tại với
tư cách là sản phẩm xã hội – lịch sử.
+ Ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của ý thức. Ngôn ngữ (tiếng
nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp, vừa đồng thời là công cụ của tư duy. Nhờ
ngôn ngữ, con người có thể khái quát hóa, trừu tượng hóa, suy nghĩ độc lập, tách khỏi sự vật cảm tính.
+ Cũng nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể giao tiếp, trao đổi tư tưởng, lưu giữ, kế thừa
những tri thức, kinh nghiệm phong phú của xã hội được tích lũy qua các thế hệ, thời kỳ lịch sử.
+ Ý thức là một hiện tượng có tính xã hội, do đó, không có phương tiện trao đổi xã hội về
mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
⇒ Như vậy, lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu làm chuyển biến dần bộ
não của loài vượn người thành bộ não con người và tâm lý động vật thành ý thức con người. lOMoAR cPSD| 23136115
4. Kết cấu ý thức
Khi xem xét ý thức với các yếu tố hợp thành các quá trình tâm lý tích cực đem lại sự hiểu
biết của con người về thế giới khách quan, ta có: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí...; trong
đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất. Theo chiều ngang:
Các lớp cấu trúc của ý thức: Khi xem xét từ góc độ cấu trúc hợp thành, ý thức gồm nhiều
yếu tố quan hệ mật thiết với nhau, trong đó các yếu tố cơ bản là tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí.
Tri thức là thành tố cơ bản, cốt lõi nhất của ý thức. Muốn cải tạo được sự vật, trước hết con
người phải có sự hiểu biết sâu sắc về sự vật đó. Trị thức hiện là những tri thức thể hiện qua
chữ viết, hình ảnh, âm thanh, kí hiệu...dễ dàng truyền đạt bằng hình thức giáo dục. Tri thức
ẩn (tri thức kinh nghiệm) là những điều được thụ nhận thông qua trải nghiệm thực tế, rất
khó để truyền đạt và chuyển giao mà người học phải tự trải nghiệm, tập luyện ở một mức độ nhất đinh.
Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh quan hệ giữa người
với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan. Sự hoà quyện giữa tri thức với
tình cảm và trải nghiệm thực tiên đã tạo nên tính bền vững của niềm tin thôi thúc con người
hoạt động vươn lên trong mọi hoàn cảnh.
Muốn vượt qua khó khăn để đạt tới mục đích, chủ thể nhận thức phải có ý chí, quyết tâm
cao. Ý chí chính là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng trong mỗi
con người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở ngại đạt mục đích đề ra.
Theo chiều dọc (chiều sâu nội tâm):
Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế
giới bên ngoài. Đây là một thành tố rất quan trọng của ý thức, đánh dấu trình độ phát triển
của ý thức. Trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, con người cũng tự phân biệt,
tách mình, đối lập mình với thế giới đó để đánh giá mình thông qua các mối quan hệ. Nhờ
vậy, con người tự ý thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác, đang
tư duy; tự đánh giá năng lực và trình độ hiểu biết của bản thân về thế giới, cũng như các
quan điểm, tư tưởng, tình cảm, nguyện vọng
Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý thức. Về thực
chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gần như thành
bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu ý thức của chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm
tàng. Tiềm thức có thể tự động gây ra các hoạt động tâm lí và nhận thức mà chủ thể không
cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức gắn bó chặt chẽ với loại hình tư duy
chính xác, được lặp lại nhiều lần. Khi tiềm thức hoạt động sẽ góp phần giảm bớt sự quá tải
của đầu óc, khi công việc lặp lại nhiều lần, mà vẫn đảm bảo độ chính xác cao và chặt chẽ
cần thiết của tư duy khoa học
Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài phạm vi
của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó. Chúng điều khiển những lOMoAR cPSD| 23136115
hành vi thuộc về bản năng, thói quen... trong con người thông qua phản xạ không điều kiện.
Vô thức biểu hiện ra thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ,
bị thôi miên, lỡ lời, nói nhịu,.. Vô thức giúp giải tỏa những ức chế tinh thần, nhất là những
ham muốn bản năng không được phép bộc lộ ra và thực hiện quy tắc của đời sống cộng đồng
Vấn đề trí tuệ nhân tạo:
Ngày nay khoa học và công nghệ hiện đại đã có những bước phát triển mạnh mẽ sản xuất
ra nhiều loại máy móc không những có khả năng thay thế lao động cơ bắp mà còn có thể
thay thế cho một phần lao động trí óc của con người. Chẳng hạn người máy thông minh trí
tuệ nhân tạo máy tính điện tử. Dù máy móc có hiện đại đến đâu chăng nữa cũng không thể
hoàn thiện được như bộ óc con người. Ý thức và máy tính điện tử là quá trình khác nhau về bản chất
5. Phép biện chứng 5.1 2 nguyên lý
5.1.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Khái niệm:
Mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự
vật hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện tượng trong thế giới. VD: Trồng
cây xanh thì con người có không khí sạch để thở.
MLH phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật
và hiện tượng của thế giới. VD: Trong tư duy con người có những mối liên hệ giữa kiến
thức cũ và kiến thức mới; cây tơ hồng, cây tầm gửi sống nhờ; nếu chung mục đích thì phải chung tay với nhau.
Tính chất của các mối liên hệ phổ biến:
Tính khách quan. Các mối liên hệ thể hiện mình trong sự tác động giữa các sự vật, hiện
tượng vật chất với nhau, giữa sự vật, hiện tượng với cái tinh thần, giữa những hiện tượng
tinh thần với nhau, như mối liên hệ và tác động giữa các hình thức của quá trình nhận thức.
Các mối liên hệ, tác động đó đều là sự phản ánh mối liên hệ lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng của thế giới khách quan. VD: Mối liên hệ cây xanh – cơ thể sống con người, “Oan gia ngõ hẹp”
Tính phổ biến. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau không những diễn ra ở
mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với
các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng. VD:gói hút ẩm trong các gói
bánh có MLH với môi trường bên ngoài; hiện tượng hô hấp của loài ếch trên cạn và dưới
nước.Tính đa dạng, phong phú. Có rất nhiều kiểu MLH. Nguyên lý về mối liênhệ phổ biến
khái quát được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện
tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sựvật, hiện tượng trong lOMoAR cPSD| 23136115
thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến,được quy định bằng nhiều
mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau. VD: Cô A vừa là mẹ trong MLH gia đình, là
giáo viên trong MLH công việc, là người cùng câu lạc bộ trong MLH xã hội,...
Ý nghĩa phương pháp luận:
Nguyên tắc toàn diện yêu cầu xem xét sự vật hiện tượng:
1) trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố,các thuộc tính
cùng các mối liên hệ của chúng.
2) trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với môi
trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp.
3) trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trìnhvận động của
sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó.
Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà không thấy các
mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy mặt
bản chất của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật nguỵ biện (cố ý đánh tráo các mối liên hệ cơ
bản thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc
các mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
VD: Để đánh giá phẩm chất năng lực của một con người ta cần xem xét người đó trong
mọi MQH khác nhau, trong các hoàn cảnh tình huống khác nhau,trong sự thay đổi của cả
một quá trình. Công dân A từng đi tù vì trộm cắp tài sản, mọi người cho là người không
đàng hoàng, có nhiều chỉ trích định kiến về A nhưng sau khi ra tù, A đã thay đổi, ta cần có
cái nhìn khác. A biết yêu thương gia đình, tử tế giúp đỡ mọi người xung quanh, làm ăn lương thiện,...
Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong những mối liên hệ cụ
thể, có tính đến lịch sử hình thành, tồn tại, dự báo xu hướng phát triểncủa sự vật hiện tượng.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc này là không gian, thời gian với vận động của vật chất, là
quan niệm chân lý là cụ thể và chính nguyên lý về mối liênhệ phổ biến. VD: Khi TGGT,
đèn đỏ phải dừng lại nhưng khi đi cấp cứu, CSGT phải cho ta đi; kinh tế nước ta thời kì
trước Đổi mới là lạc hậu, yếu kém nhưng đặt trong hoàncảnh lịch sử lúc bấy giờ: vừa bước
ra khỏi chiến tranh, thiệt hại về người và của thì phương thức kinh tế ấy là hợp lí, chưa thể
ép người dân làm kinh tế chủ nghĩa hay kinh tế tư bản,...
5.1.2 Nguyên lý về sự phát triển Khái niệm:
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thống nhất hữu cơ với
nguyên lý về sự phát triển, bởi liên hệ cũng là vận động, không có vận động sẽ không có
sự phát triển nào. Phát triển xuất hiện trong quá trình giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn
có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất giữa phủ định những yếu tố không còn phù hợp
và kế thừa có chọn lọc, cải tạo cho phù hợp của sự vật, hiện tượng cũ trong sự vật, hiện tượng mới. lOMoAR cPSD| 23136115
Khái niệm PT: quá trình vận động tiến lên của sự vật hiện tượng theo chiều từ thấp đến cao
từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. VD: Sự phát triển của
nhận thức do quá trình đấu tranh giữa cái đã biết và cái chưa biết của con người về
TGKQ.Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất
đi, sự vật, hiện tượng mới về chất ra đời. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ở mâu thuẫn
bên trong của sự vật, hiện tượng; động lực của sự phát triển là việc giải quyết mâu thuẫn đó. Tính chất của sự PT
1) Tính khách quan. Nguồn gốc và động lực của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật,
hiện tượng. VD: Sự phát triển của xã hội loài người: Công xã nguyên thủy-> Chiếm hữu
nô lệ -> Phong kiến -> Tư bản -> Xã hội chủ nghĩa => Xã hội đi lên dần dần, con người
không thể quay về được dù có muốn hay không.
2. Tính phổ biến. Sự phát triển diễn ra trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.VD: Tự nhiên:
sự thích nghi của động vật dưới nước khi tự nhiên thay đổi.Xã hội: sự thay thế của các nền
văn minh: VMNN -> VNCN -> VM tri thức.Tư duy: năng lực nhận thức của con người về TGTN ngày càng sâu sắc.
3. Tính kế thừa. Cái mới ra đời từ sự phủ định có tính kế thừa cái cũ; cái mới còn giữ lại,có
chọn lọc và cải tạo những mặt còn thích hợp của cái cũ. VD: Nền văn hóa VN hiện đại có
sự thay đổi từng ngày, du nhập thêm những nét văn hóa mới (haloween, valentine, noel,...
) nhưng vẫn gìn giữ nét văn hóatruyền thống (ca trù, quan họ, tục ăn trầu,... )
4. Tính đa dạng, phong phú. Sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian và thời gian,
vàocác yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó. VD: Cách mạng VN những năm
1930 – 1975 có bước tiến nhưng 1933 – 1935 thì đi xuống. Tuy nhiên tất cả đều dẫn đến thành công.
Ý nghĩa phương pháp luận:
(Thực tiễn) Nguyên tắc phát triển yêu cầu:
1) Đặt sự vật, hiện tượng trong sự vận động; phát hiện được các xu hướng biến đổi, phát
triển của nó để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo
được khuynh hướng phát triển của nó. VD: Dự báo thời tiết, dự báo giá vàng,...
2) Nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển có những
đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm ra những hình thức, phương pháp tác
động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó. VD: Việt Nam luôn kịp
thời đưa ra những chính sách phát triển khác nhau ở mỗi thời kì để thúc đẩy mọi mặt phát
triển, đồng thời, khắc phục và hạn chế cái yếu kém.
3) Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm, sớm phát hiện và ủng
hộ sự vật, hiện tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển; phải chống lại quan
điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến v.v bởi nhiều khi sự vật, hiện tượng mới thất bại tạm thời,
tạo nên con đường phát triển quanh co, phức tạp. VD: Chủ trương làm cách mạng của Phan lOMoAR cPSD| 23136115
Bội Châu có điểm yếu kém, khiến cách mạng không thành công, Bác Hồ đã nhìn nhận ra và thay đổi.
4) Trong quá trình thay thế sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượngmới phải biết kế
thừa những yếu tố tích cực đã đạt được từ cái cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều
kiện mới. VD: Thời trang áo dài cách tân.
(Nhận thức) Phát triển là nguyên tắc chung nhất chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn; nguyên tắc này giúp chúng ta nhận thức được rằng: muốn nắm được bản chất của
sự vật, hiện tượng, nắm được khuynh hướng phát triển của chúng thì phải xét sự vật trong
sự phát triển, trong sự tự vận động trong sự biến đổi của nó. 5.2 Các quy luật
Khái niệm chung về quy luật
- Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các sự vật, hiện tượng,
giữa các đối tượng, giữa các nhân tố tạo thành đối tượng, giữa các thuộc tính của các sự
vật cũng như giữa các thuộc tính của cùng một sự vật, hiện tượng.
- Khái niệm quy luật là một trong những giai đoạn của sự nhận thức của con người về tính
thống nhất và về liên hệ, về sự phụ thuộc lẫn nhau và tính chỉnh thể của quá trình thế giới.
- Những quy luật của phép biện chứng duy vật mang tính phổ biến: khái quát cách thức,
nguyên nhân, khuynh hướng vận động phát triển của sự vật, hiện tượng, phản ánh bản
chất biện chứng của thế giới khách quan.
=> Ý nghĩa: định hướng việc nghiên cứu các quy luật đặc thù, mối liên hệ giữa chúng để
tạo ra cơ sử khách quan cho mối liên hệ giữa triết học duy vật biện chứng vs khoa học chuyên ngành.
5.2.1 Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại
- Chất: trả lời cho câu hỏi sự vật, hiện tượng đó là gì ? Giúp phân biệt nó vs sự vật, hiện
tượng khác . Thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng . Một sự vật, hiện
tượng có thể có nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời : chất
được thể hiện qua thuộc tính cơ bản của sự vật, hiện tượng. Chất được quy định bới kết
cấu của sự vật , hiện tượng
- Lượng: chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về mặt quy mô, trình đọ phát triển
và các yếu tố biểu hiện ở số lượng. Mang tính khách quan vì nó là dạng biểu hiện của một
vật chất, chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong một khoảng thời
gian nhất định. Có thể đo đếm được cụ thể hoặc chỉ bằng năng lực trừu tượng hóa ----
Mối quan hệ: sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Chúng
vừa thống nhất và vừa tác động lẫn nhau trong phạm vi 1 độ
- Các khái niệm xuất hiện trong quá trình tác động lẫn nhau giữa chất và lượng :
Độ : là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng mà trong đó sự thay đổi và lượng chưa dẫn
đến sự thay đổi về chất lOMoAR cPSD| 23136115
Điểm nút : điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm cho
chất cũ chuyển thành chât mới, là thời điểm tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy
Bước nhảy : giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của sự vật, hiện tượng do những thay đổi
về lượng trước đó gây ra, bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng. Bước nhảy
được thưc hiện tạo ra sự vật, hiện tượng mới. Căn cứ quy mô, nhịp độ : Bước nhảy toàn bộ,
bước nhảy cục bộ ( thay đổi 1 số mặt , yếu tố). Căn cứ thời gian của sự thay đổi : Bước
nhảy tức tời, bước nhảy dần dần
- Khái quát, tổng hợp nội dung quy luật : Quy luật chỉ ra cách thức chung nhất , tính chât
của sự vận động và phát triển. Mọi đối tượng đều là sự thống nhất của 2 mặt đối lập: chất
và lượng. Những sự thay đổi về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự thay đổi
căn bản về chất thông qua bước nhảy, chất mới ra đời tiếp tục tác động trở lại duy trì sự
thay đổi của lượng mới
- Ý nghĩa phương pháp luận 1) sự phát triển của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng diễn ra
bằng cách tích luỹ dần về lượng. Vì vậy, phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến
đổi vềchất. VD: XHPK – XHCN – CSVN
2) quy luật xã hội diễn ra thông qua các hoạt động có ý thức của con người.Vì vậy, khi đã
tích luỹ đầy đủ về lượng phải tiến hành bước nhảy, kịp thời chuyển những thay đổi về lượng
thành những thay đổi về chất; chuyển những thay đổi mang tính tiến hoá sang bước thay
đổi mang tính cách mạng. Chỉ có như vậy chúng ta mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ,
trì trệ, hữu khuynh thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là thay đổi đơn thuần
về lượng. VD: tình bạn – tình yêu – hôn nhân.
3) sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự
vật, hiện tượng. Vì vậy, trong hoạt động của mình, phải biết tác độngvào cấu trúc và phương
thức liên kết trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng
đó. VD: muốn duy trì nước ở thể lỏng phải để nước trong giới hạn 0 < t < 100oC - Ví dụ:
+Quá trình nước chuyển thành hơi nước. Khi nước được đun nóng, nhiệt độ (lượng) tăng
dần, nhưng khi đạt đến một nhiệt độ nhất định (100°C), nước sẽ biến thành hơi nước (chất).
Đây là sự chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng (nhiệt độ) thành sự thay đổi về chất (nước
chuyển sang trạng thái hơi).
+ Ngược lại, khi nhiệt độ giảm xuống, hơi nước sẽ ngưng tụ thành nước, chứng tỏ rằng sự
thay đổi về chất (hơi nước) có thể chuyển hóa ngược lại thành sự thay đổi về lượng (nước).
+Quá trình thay đổi trong xã hội. Một xã hội có thể trải qua nhiều thay đổi về lượng (chẳng
hạn như tăng trưởng dân số, thay đổi trong nền kinh tế) trước khi đạt đến một ngưỡng để
xảy ra thay đổi về chất (chế độ xã hội, chính trị mới hoặc cuộc cách mạng xã hội). Khi có
sự tích lũy đủ lớn về sự thay đổi lượng, sự thay đổi về chất sẽ xảy ra, chẳng hạn như cách
mạng công nghiệp dẫn đến sự thay đổi về chất trong cách thức sản xuất và xã hội.