1. Tôn giáo Lưỡng bắt đầu từ đâu?
Những khởi nguồn sớm nhất của tưởng tôn giáo Lưỡng Hà từ giữa thiên niên
kỷ thứ 4 trước Công nguyên, nền tảng từ sự thờ phụng thiên nhiên. Trong
thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên, các đối tượng thờ phụng đã được nhân
cách hóa trở thành một nhóm các vị thần với các chức năng cụ thể. Các giai
đoạn cuối cùng của đa thần giáo Lưỡng phát triển trong thiên niên kỷ th 2
thứ 1, tập trung hơn vào tôn giáo th phụng nhân sắp xếp các vị thần thành
một hệ thống phân cấp quân chủ với vị thần quốc gia người đứng đầu các thần.
Tôn giáo Lưỡng cuối cùng bị suy tàn trước sự truyền của các tôn giáo Iran
thời Đế chế Achaemenes sự Kitô giáo hóa tại vùng Lưỡng .
Tôn giáo của người Lưỡng cổ đại Đa thần giáo.
2. Miêu tả sự hình thành tôn giáo Lưỡng cổ đại?
Những khởi nguồn sớm nhất của tư ởng n giáo Lưỡng Hà từ giữa thiên niên
kỷ thứ 4 trước Công nguyên, nền tảng từ sự thờ phụng thiên nhiên. Trong thiên
niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên, các đối ợng thờ phụng đã được nhân cách hóa
trở thành một nhóm các vị thần với các chức ng cụ thể.
Các giai đoạn cuối cùng của đa thần giáo Lưỡng phát triển trong thiên niên kỷ
thứ 2 thứ 1, tập trung hơn vào tôn giáo thờ phụng nhân sắp xếp các vị
thần thành một h thống phân cấp quân chủ với vị thần quốc gia là người đứng đầu
các thần. Tôn giáo Lưỡng cuối cùng bị suy n trước sự truyền của các tôn
giáo Iran thời Đế chế Achaemenes sự Kitô giáo hóa tại vùng ỡng Hà.
Tộc người nào?
Tộc người Sumer, Akkad, Assyria Babylonia, từ khoảng 3500 trước Công
nguyên đến 400 sau Công nguyên.
Thờ cúng ai?
dân Lưỡng cổ đại thờ rất nhiều vị thần liên quan đến trồng trọt, chăn
nuôi những hiện tượng thiên nhiên gắn liền với cuộc sống gần gũi thường ngày:
thần Mặt Trời (Samat), thần Đất (Enlin), thần Ái Tình (Istaro), thần Mẹ (Ihana),
Thần Biển (Ea)…
Các thần lực lượng tự nhiên chủ yếu gồm có:
Thần Anu thần trời. Dần dần Anu được quan niệm cha vua của các thần.
Thần Enlin thần đất, cũng được quan niệm chúa tể của trời đất.
Thần Ea thần nước, con trưởng của thần Anu, đồng thời cha của thần
Mácđúc.
Mặt Trời, Mặt Trăng tinh ng được coi các vị thần, vậy thần Mácđúc
còn được coi thần sao Mộc, thần Ixta thì n được coi thần sao Kim.
Thần Mặt trời Samát được quan niệm con của thần Mặt Trăng người Xume
cho rằng ngày do đêm sinh ra. Về sau, thần Samát được coi thần pháp
thần bảo hộ các vua. Thời Babilon thần Mácđúc, cháu của thần Anu, con trưởng
của thần Ea trở thành chúa tể của các thần. vậy, câu đầu tiên của bộ luật
Hammurabi viết:
"Thần Anu đại... ng với thần Elin, chúa tể của trời đất quyết định vận mệnh
của đất nước ban cho Mácđúc, con trưởng của thần Ea quyền thống trị cả nhân
loại".
Ngoài những thần chủ yếu nói trên còn nhiều thần thuộc các lĩnh vực khác nhau
như thần sấm sét mưa lụt Ađát, nữ thần sinh đẻ số mệnh Nintu, thần nông
nghiệp Urát, thần trí tuệ Tutu, thần chiến tranh Dababa, thần ôn dịch Ira...
Tàn của việc sùng i các thú được biểu hiện việc thể hiện nh tượng các
thần: ‘’Thần cđúc được biểu hiện bằng con quái vật nửa rắn nửa chim dữ, thần
Nécgan, vua của âm phủ được thể hiện thành một con quái vật mặt người nhưng
lại có sừng bò, trên lưng lông, cánh, mình của tử bốn chân.’’
Vị thần tối cao ?
Vị thần nào mạnh nhất trong quần thể các vị thần Sumer rộng lớn sẽ phụ thuộc
vào địa điểm và thời gian: dụ như thần bầu trời Anu, được phổ biến vào đầu
Uruk, trong khi thần bão Enlil được thờ Sumer, Inanna - "N hoàng của Thiên
đàng" - thể ban đầu một nữ thần sinh sản Uruk; sự tôn thờ của lan rộng
đến các thành ph Lưỡng khác, nơi được gọi Ishtar, thể đã nh
hưởng đến các nữ thần của các nền văn minh sau y, chẳng hạn như Astarte trong
số những người Hittite Aphrodite của Hy Lạp.
Nghi thức thờ cúng?
Người Sumer thể cũng đã phát minh ra tôn giáo của riêng mình bằng ch xây
dựng những ngôi đền cao chót vót được gọi ‘’ziggurat’’ trong thành phố của họ
thiết lập các lâu đài tế dành cho nghi lễ thờ cúng c vị thần cụ thể.
dân Lưỡng cổ đại thờ rất nhiều loại thần như thần tự nhiên, thần động vật,
thần thực vật, linh hồn người chết... Hơn nữa, trước khi thành lập quốc gia thống
nhất, ỡng bao gồm nhiều thành bang, mỗi thành bang những thần riêng
nên đối tượng sùng bái của n ỡng rất phức tạp, vị trí của các thần trước
sau thường khác nhau.
Việc thờ người chết cũng rất được coi trọng. vậy, người Lưỡng rất chú ý
đến lễ mai táng. Họ quan niệm rằng, con người sau khi chết cũng cuộc sống
giống như trần thế, do đó, những người giàu khi mai táng thường chôn theo
lệ cùng những thứ quý giá được xây dựng những lăng m lớn. Những người
bình thường cũng được liệm trong những quan tài bằng đất sét.
Do sự phát triển của tôn giáo, tầng lớp thầy cúng hình thành.
Babilon, tầng lớp này chia thành 30 loại, trong đó thầy cúng đọc bùa chú
thầy cúng đoán tương lai được trọng nhất. Thu nhập của thầy cúng rất lớn, nhân
dân thường đến các đền miếu dâng nhiều loài vật. dụ, đền thần Anu Urúc
trong một ngày được ng 2 con cái, 1 con bê, 4 con lợn, 5 con cừu lớn, 8 con
cừu non, rất nhiều gia cầm lương thực. Ngoài ra n dâng từ 10-14 li rượu bằng
vàng.
3. Hệ thống tưới tiêu của người Lưỡng cổ đại phát triển như thế nào?
Môi trường khô hạn trải dài từ các khu vực phía bắc nhưng chưa chắc làm nông
nghiệp dùng nước mưa cho đến phía nam dùng thủy lợi. Hệ thống tưới tiêu được
hỗ trợ bởi mực nước cao nước tuyết tan t trên các đỉnh núi cao phía bắc dãy
Zagros từ Cao nguyên Armenia. Hệ thống thủy lợi đòi hỏi kh năng huy động
lực lượng lao động lớn để xây dựng bảo trì kênh rạch, dẫn đến sự phát triển của
đô thị hệ thống chính quyền tập trung thời kỳ khai.

Preview text:

1. Tôn giáo Lưỡng Hà bắt đầu từ đâu?
Những khởi nguồn sớm nhất của tư tưởng tôn giáo Lưỡng Hà có từ giữa thiên niên
kỷ thứ 4 trước Công nguyên, có nền tảng từ sự thờ phụng thiên nhiên. Trong
thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên, các đối tượng thờ phụng đã được nhân
cách hóa và trở thành một nhóm các vị thần với các chức năng cụ thể. Các giai
đoạn cuối cùng của đa thần giáo Lưỡng Hà phát triển trong thiên niên kỷ thứ 2 và
thứ 1, tập trung hơn vào tôn giáo thờ phụng cá nhân và sắp xếp các vị thần thành
một hệ thống phân cấp quân chủ với vị thần quốc gia là người đứng đầu các thần.
Tôn giáo Lưỡng Hà cuối cùng bị suy tàn trước sự truyền bá của các tôn giáo Iran
thời Đế chế Achaemenes và sự Kitô giáo hóa tại vùng Lưỡng Hà.
Tôn giáo của người Lưỡng Hà cổ đại là Đa thần giáo.
2. Miêu tả sự hình thành tôn giáo Lưỡng Hà cổ đại?
Những khởi nguồn sớm nhất của tư tưởng tôn giáo Lưỡng Hà có từ giữa thiên niên
kỷ thứ 4 trước Công nguyên, có nền tảng từ sự thờ phụng thiên nhiên. Trong thiên
niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên, các đối tượng thờ phụng đã được nhân cách hóa
và trở thành một nhóm các vị thần với các chức năng cụ thể.
Các giai đoạn cuối cùng của đa thần giáo Lưỡng Hà phát triển trong thiên niên kỷ
thứ 2 và thứ 1, tập trung hơn vào tôn giáo thờ phụng cá nhân và sắp xếp các vị
thần thành một hệ thống phân cấp quân chủ với vị thần quốc gia là người đứng đầu
các thần. Tôn giáo Lưỡng Hà cuối cùng bị suy tàn trước sự truyền bá của các tôn
giáo Iran thời Đế chế Achaemenes và sự Kitô giáo hóa tại vùng Lưỡng Hà. Tộc người nào?
Tộc người Sumer, Akkad, Assyria và Babylonia, từ khoảng 3500 trước Công
nguyên đến 400 sau Công nguyên. Thờ cúng ai?
Cư dân Lưỡng Hà cổ đại thờ rất nhiều vị thần liên quan đến trồng trọt, chăn
nuôi và những hiện tượng thiên nhiên gắn liền với cuộc sống gần gũi thường ngày:
thần Mặt Trời (Samat), thần Đất (Enlin), thần Ái Tình (Istaro), thần Mẹ (Ihana), Thần Biển (Ea)…
Các thần lực lượng tự nhiên chủ yếu gồm có:
Thần Anu là thần trời. Dần dần Anu được quan niệm là cha và là vua của các thần.
Thần Enlin là thần đất, cũng được quan niệm là chúa tể của trời đất.
Thần Ea là thần nước, con trưởng của thần Anu, đồng thời là cha của thần Mácđúc.
Mặt Trời, Mặt Trăng và tinh tú cũng được coi là các vị thần, vì vậy thần Mácđúc
còn được coi là thần sao Mộc, thần Ixta thì còn được coi là thần sao Kim.
Thần Mặt trời Samát được quan niệm là con của thần Mặt Trăng vì người Xume
cho rằng ngày là do đêm sinh ra. Về sau, thần Samát được coi là thần tư pháp và là
thần bảo hộ các vua. Thời Babilon thần Mácđúc, cháu của thần Anu, con trưởng
của thần Ea trở thành chúa tể của các thần. Vì vậy, câu đầu tiên của bộ luật Hammurabi viết:
"Thần Anu vĩ đại. . cùng với thần Elin, chúa tể của trời đất quyết định vận mệnh
của đất nước ban cho Mácđúc, con trưởng của thần Ea quyền thống trị cả nhân loại".
Ngoài những thần chủ yếu nói trên còn có nhiều thần thuộc các lĩnh vực khác nhau
như thần sấm sét mưa lụt Ađát, nữ thần sinh đẻ và số mệnh Nintu, thần nông
nghiệp Urát, thần trí tuệ Tutu, thần chiến tranh Dababa, thần ôn dịch Ira. .
Tàn dư của việc sùng bái các dã thú được biểu hiện ở việc thể hiện hình tượng các
thần: ‘’Thần Mácđúc được biểu hiện bằng con quái vật nửa rắn nửa chim dữ, thần
Nécgan, vua của âm phủ được thể hiện thành một con quái vật mặt người nhưng
lại có sừng bò, trên lưng có lông, có cánh, có mình của sư tử và có bốn chân.’’
Vị thần tối cao là gì?
Vị thần nào là mạnh nhất trong quần thể các vị thần Sumer rộng lớn sẽ phụ thuộc
vào địa điểm và thời gian: ví dụ như thần bầu trời Anu, được phổ biến vào đầu
Uruk, trong khi thần bão Enlil được thờ ở Sumer, Inanna - "Nữ hoàng của Thiên
đàng" - có thể ban đầu là một nữ thần sinh sản ở Uruk; sự tôn thờ của bà lan rộng
đến các thành phố Lưỡng Hà khác, nơi bà được gọi là Ishtar, và có thể đã ảnh
hưởng đến các nữ thần của các nền văn minh sau này, chẳng hạn như Astarte trong
số những người Hittite và Aphrodite của Hy Lạp.
Nghi thức thờ cúng?
Người Sumer có thể cũng đã phát minh ra tôn giáo của riêng mình bằng cách xây
dựng những ngôi đền cao chót vót được gọi là ‘’ziggurat’’ trong thành phố của họ
và thiết lập các lâu đài tư tế dành cho nghi lễ thờ cúng các vị thần cụ thể.
Cư dân Lưỡng Hà cổ đại thờ rất nhiều loại thần như thần tự nhiên, thần động vật,
thần thực vật, linh hồn người chết. . Hơn nữa, trước khi thành lập quốc gia thống
nhất, Lưỡng Hà bao gồm nhiều thành bang, mỗi thành bang có những thần riêng
nên đối tượng sùng bái của cư dân Lưỡng Hà rất phức tạp, vị trí của các thần trước sau thường khác nhau.
Việc thờ người chết cũng rất được coi trọng. Vì vậy, người Lưỡng Hà rất chú ý
đến lễ mai táng. Họ quan niệm rằng, con người sau khi chết cũng có cuộc sống
giống như ở trần thế, do đó, những người giàu có khi mai táng thường chôn theo
nô lệ cùng những thứ quý giá và được xây dựng những lăng mộ lớn. Những người
bình thường cũng được liệm trong những quan tài bằng đất sét.
Do sự phát triển của tôn giáo, tầng lớp thầy cúng hình thành.
Ở Babilon, tầng lớp này chia thành 30 loại, trong đó thầy cúng đọc bùa chú và
thầy cúng đoán tương lai được trọng nhất. Thu nhập của thầy cúng rất lớn, vì nhân
dân thường đến các đền miếu dâng nhiều loài vật. Ví dụ, đền thần Anu ở Urúc
trong một ngày được dâng 2 con bò cái, 1 con bê, 4 con lợn, 5 con cừu lớn, 8 con
cừu non, rất nhiều gia cầm và lương thực. Ngoài ra còn dâng từ 10-14 li rượu bằng vàng.
3. Hệ thống tưới tiêu của người Lưỡng Hà cổ đại phát triển như thế nào?
Môi trường khô hạn trải dài từ các khu vực phía bắc nhưng chưa chắc làm nông
nghiệp dùng nước mưa cho đến ở phía nam dùng thủy lợi. Hệ thống tưới tiêu được
hỗ trợ bởi mực nước cao và nước tuyết tan từ trên các đỉnh núi cao phía bắc dãy
Zagros và từ Cao nguyên Armenia. Hệ thống thủy lợi đòi hỏi khả năng huy động
lực lượng lao động lớn để xây dựng và bảo trì kênh rạch, dẫn đến sự phát triển của
đô thị và hệ thống chính quyền tập trung ở thời kỳ sơ khai.
Document Outline

  • Tôn giáo của người Lưỡng Hà cổ đại là Đa thần giáo
  • Do sự phát triển của tôn giáo, tầng lớp thầy cúng