



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 45734214
200 câu nhận định đúng sai môn Luật So sánh có đáp án
1. Các nghiên cứu về luật nước ngoài là luật so sánh?
Sai. Vì khi so sánh chúng ta phải có ít nhất hai hệ thống luật khác nhau.
2. Ở Châu âu lục địa đã từng có hệ thống pháp luật chung thống nhất?
Đúng. Luật La Mã năm 450 TCN.
3. So với ở Anh thì quyền lực tư pháp ở Mĩ kém tập trung hơn?
Đúng. Gồm hệ thống tòa án kép: hệ thống Tòa án bang và Liên bang.
4. Thẩm quyền giải thích Hiến pháp của Tòa án tối cao Liên bang Hoa kì là thẩm
quyền mang tính hiến định?
Đúng. Được quy định trong Hiến pháp.
5. Bộ luật thương mại Pháp điều chỉnh tất cả các quy định của pháp luật thương mại?
Sai. Các quy định chủ yếu được điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự Napoleon.
6. Người pháp thích diễn đạt luật thành văn một cách dễ hiểu minh bạch?
Đúng. Thể hiện qua Bộ luật Napoleon.
7. Số hệ thống pháp luật nhiều hơn số quốc gia trên thế giới?
Đúng. (Riêng ở Mĩ 50 bang – 50 hệ thống pháp luật).
8. Luật so sánh không phải là một ngành luật thực định?
Đúng. Là ngành luật khoa học lí thuyết ứng dụng.
9. Luật so sánh là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc gia? lOMoAR cPSD| 45734214
Sai. Nó không phải là một ngành luật vì nó không có các qppl, nó là 1 ngành khoa
học lí thuyết ứng dụng.
10. Luật so sánh chỉ là việc so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau nhằm tìm ra
sự tương đồngvà khác biệt? Sai. Còn lí giải nguyên nhân của sự tương đồng và
khác biệt đó nhằm hoàn thiện và phát triển pháp luật quốc gia, khoa học pháp lý quốc gia.
11. Trong luật so sánh, để đánh giá đúng mức các giải pháp pháp lý của các hệ
thống pháp luật khác nhau, người nghiên cứu cần lựa chọn các quy phạm pháp
luật cùng điều chỉnh một quan hệ?
Đúng. Các quy phạm có cùng chức năng.
12. Hệ thống chính trị quốc gia là nhân tố duy nhất quyết định sự tương đồng
vàkhác biệt giữa các hệ thống pháp luật?
Sai. Còn có nhiều yếu tố khác (vị trí địa lí, văn hóa, truyền thống, yếu tố kinh tế, lịch sử…)
13. Khi xây dựng giả thuyết để nghiên cứu so sánh luật, người nghiên cứu không
mặc nhiên coi các khái niệm tồn tại trong hệ thống pháp luật này cũng có trong
hệ thống pháp luật khác?
Đúng. Vì có những khái niệm pháp luật có trong HTPL này mà không có trong
HTPL khác. Do đó, khi đặt giả thuyết nên tìm hiểu kĩ HTPL của các bên so sánh.
Ngay cả việc khái niệm đó không tồn tại trong 1 HTPL cũng chính là sự khác nhau.
14. Một chế định pháp luật áp dụng phổ biến trong hệ thống pháp luật có thể không
tồn tại trong hệ thống pháp luật quốc gia khác?
Đúng. Ví dụ như chế định pháp luật về trách nhiệm sản phẩm được xây dựng phổ
biến ở các nc trên TG nhưng chưa hình thành ở Việt Nam một cách chính thức.
15. Ở giai đoạn cuối của quá trình so sánh cần đánh giá xem giải pháp nào phù hợp
hơn và giải thích tại sao lại phù hợp hơn? lOMoAR cPSD| 45734214
Đúng. Đó mới là mục đích quan trọng của so sánh luật.
16. Xây dựng hệ thống các khái niệm là giai đoạn của quá trình so sánh?
Sai. Nó thuộc giai đoạn chuẩn bị so sánh.
17. Việc tìm ra một tiêu chí thích hợp sẽ giúp phân nhóm một cách chính xác các hệ
thống? Đúng. Tiêu chí là nhân tố quan trọng để phân nhóm so sánh.
18. Đối tượng của Luật so sánh rộng hơn đối tượng của khoa học pháp lý khác?
Đúng. Vì nó bao trùm các ngành khoa học pháp lý.
19. Dòng họ Civil law, mức độ ảnh hưởng của Luật La Mã với luật công và luật tư là không giống nhau?
Đúng. Vì luật tư bắt nguồn từ luật La Mã, còn luật tự nhiên đặt nền móng cho sự ra đời của luật công.
20. Ở Châu âu lục địa trước thế kỷ 18 đã từng có cuộc pháp điển hóa lớn được ghi nhận?
Đúng. Từ Bộ luật Hammurabi cách đây gần 4.000 năm. Sau đó, vào thế kỷ V trước
Công nguyên, xuất hiện Luật 12 tấm bảng (Lex Duodecim Tabularum) ở La Mã cổ
đại. Vào thế kỷ VI sau công nguyên, Hoàng đế La Mã Justinianus chủ trì biên soạn
Corpus Juris Civilis. Thời đó, luật La Mã cổ đại tập trung pháp điển hóa lĩnh vực
dân luật, tức là luật tư mà bỏ qua luật công. Trong nhiều thế kỷ, ở các nước châu âu
lục địa, nơi tiếp tục truyền thống của luật La Mã, các luật gia cũng đã gạt luật công
sang một bên, vì cho rằng các luật này lẫn lộn với chính trị và không khác nhiều so
với khoa học quản trị hành chính. Do xu hướng chú trọng đến dân luật nên có
người giải thích rằng, những nước sau này chịu ảnh hưởng của Luật La Mã đều
được gọi là các nước dân luật (civil law). Kết quả là ở các nước dân luật, Bộ luật
Dân sự là văn bản trung tâm, hạt nhân của hệ thống pháp luật, tạo nên nền tảng
mặc định cho tư duy và phương pháp luận pháp lý.
22. Luật La Mã cổ đại là nền tảng chính của hệ thống pháp luật Châu âu lục địa? Đúng. lOMoAR cPSD| 45734214
23. Civil law được truyền bá khắp Châu Âu, kể cả nước Anh?
Sai. Truyền bá khắp Châu Âu nhưng trừ nước Anh (HTPL này còn được gọi là HTPL Châu Âu lục địa).
24. Instintutiones là sách giáo khoa luật La Mã?
Đúng. Đồng thời với việc biên soạn Digesta, theo lệnh của Justinian, Tribonian
cùng Theophin và Dorothea cũng biên soạn Institutiones (hay còn được gọi là
Institutiones sive Elementa) – Cuốn hướng dẫn có hiệu lực như văn bản luật bằng
tiếng latin và hoàn thành việc này ngày 21 tháng 11 năm 533. Việc biên soạn
Institutiones có mục đích mang đến sự rõ ràng và giới thiệu toàn bộ khoa học về
luật (tota legitima scientia) bởi vậy nó không chỉ có việc giải quyết các vấn đề
pháp lý thực tế mà còn chứa đựng những suy luận lý thuyết chung về luật như định
nghĩa về luật, về khoa học luật. Các sinh viên luật sẽ phải học theo Institutiones
nên nó còn được gọi là Sách giáo khoa Luật La Mã.
25. Luật 12 bảng tiêu biểu cho luật Giecmanh, ra đời năm 440 TCN?
Sai. Vì nó tiêu biểu cho Luật La Mã cổ đại, ra đời năm 449 TCN.
26. Trường phái các nhà pháp điển hiện đại nghiên cứu luật La Mã xuất hiện Đức thế kỷ 16?
Đúng. Trường phái các nhà pháp điển hiện đại (Usus Modernus Pandectarium hay
Pandertists) xuất hiện ở Đức thế kỷ 16.
27. Dòng họ Civil law còn có tên là dòng họ pháp luật châu âu lục địa?
Đúng Sai. Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa.
28. Dòng họ Civil law còn có tên là dòng họ pháp luật Đức – La Mã?
Đúng. Có thể nói khoa học pháp lý thống nhất cho toàn bộ Châu Âu thế kỷ 11-18
là kết quả nghiên cứu chung của các trường đại học ở các nước Latin lẫn các nước
Germain nên hệ thống pháp luật này còn được gọi là hệ thống pháp luật Đức – La Mã. lOMoAR cPSD| 45734214
29. Dòng họ Civil law còn có tên là dòng họ luật tư?
Sai, vì còn có luật công. Còn có tên là dòng họ pháp luật thành văn.
30. Nói Châu Âu đã từng có hệ thống luật chung Common law Châu Âu? Đúng, ở Anh.
31. Pháp luật thực định của châu âu thế kỷ 17 – 18 là hỗn hợp luật thành văn, tập
quán pháp và luật giáo hội?
Sai. Không có luật giáo hội. Luật giáo hội ra đời vào thế kỉ 19.
32. Thành ngữ ” Luật la Mã” chỉ toàn bộ sản phẩm của hoạt động lập pháp được
sáng tạo từ năm450 TCN cho tới thời kỳ phục hồi nghiên cứu luật Lã Mã ở các
trường Đại học ở Châu Âu lục địa?
Sai. Luật La Mã xuất hiện từ thời cộng hoà sơ kỳ (thế kỷ 6-4 trước Công nguyên).
33. Luật La Mã được tiếp nhận ở các nước Châu Âu chỉ thông qua sự hỗ trợ của các
trường đại học đối với từng trường hợp cụ thể?
Đúng. Lập các trường Đại học giảng dạy + nghiên cứu luật La Mã.
34. Các chế định trong luật tư của các nước trong dòng họ Civil law đều có những
điểm tương tựnhau là do các nước tiếp nhận các tập quán được áp dụng chung?
Đúng. Vì luật tư bắt nguồn từ luật La Mã.
35. Bộ luật Napoleong là bộ luật kinh điển cho dân luật các nước thuộc dòng họ Civil law?
Đúng. Đây là bộ luật kinh điển, được soạn thảo với một phong cách và ngôn ngữ
tuyệt diệu. Bộ luật dân sự Pháp đã tập hợp gần 14 ngàn văn bản do Chính phủ cách
mạng tư sản ban hành từ năm 1789, tinh lược chúng vào ba phần: Địa vị pháp lý cá
nhân; Tài sản; Các quyền và nghĩa vụ. Rene David, một học giả người Pháp nhận
định, pháp điển hóa thời kỳ cách mạng Pháp đã kết thúc quá trình tiến hoá nhiều
thế kỷ của khoa học pháp lý, thể hiện luật pháp thích hợp với lợi ích của xã hội một lOMoAR cPSD| 45734214
cách rõ ràng, khác với sự rối rắm của Corpus Juris Civilis. Pháp điển hóa đã chấm
dứt nhiều tàn tích cổ hủ của luật pháp, những tập quán cản trở thực tế trước đó.
Những điểm này đã phân biệt pháp điển hóa với các bộ biên soạn tư nhân hoặc
chính thức trước đây; Mang lại cho luật pháp những điều bổ ích nhưng chỉ thay đổi
từng phần nhỏ của luật pháp; Nhưng phạm vi các vấn đề và quy mô áp dụng của
chúng không đáp ứng được những yêu cầu của trường phái luật tự nhiên. Do đó,
Bộ luật Napoleon có ảnh hưởng rất lớn đến hệ thống pháp luật của rất nhiều nước
trên thế giới. Đến giữa thế kỷ XX, đã có trên 70 nước chịu ảnh hưởng từng phần
hoặc toàn phần của Bộ luật này.
36. Bộ luật thương mại Pháp điều chỉnh tất cả các quy định của pháp luật thương mại?
Sai. Vì một số vấn đề được BLDS Pháp điều chỉnh.
37. Bộ luật dân sự 1804 và Bộ luật thương mại 1807 của Pháp đến nay vẫn còn hiệu lực? Đúng.
38. Hệ thống pháp luật Civil law chia làm luật công và luật chung?
Sai: Luật công và luật tư.
39. Lý do của sự tương đồng trong luật công của hệ thống pháp luật Civil law là
tương đồng về tư duy pháp lý? Đúng.
40. Người pháp thích diễn đạt luật thành văn một cách dễ hiểu minh bạch? Đúng.
41. Người Đức thích sử dụng thành ngữ một cách chính xác? Đúng lOMoAR cPSD| 45734214
42. Luật thành văn luôn giữ vai trò quan trọng hơn phán quyết tại các tòa án trong
hệ thống nguồn của các HTPL thuộc dòng họ Civil law?
Đúng. Luật thành văn là nguồn luật quan trọng nhất được ưu tiên áp dụng trước các ngành luật khác.
43. Công pháp của các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil law không bị ảnh hưởng của Luật La mã?
Sai. Cả hệ thống pháp luật của các nước civil law chiuja như hưởng của luật La Mã.
44. Tư pháp của các HTPL thuộc dòng họ Civil law không được xây dựng trên cở
sở kế thừa luậtLa mã?
Sai. Luật tư bắt nguồn từ luật La Mã.
45. Tòa Phá án của Pháp không phải là cơ quan xét xử cao nhất đối với cả các phán
quyết các Tòa án ở Pháp?
Đúng. Nó chỉ hủy bỏ các bản án của tòa cấp dưới chứ không thay thế các bản án đó
bằng các bản án của mình.
46. Thẩm phán Pháp đều được đào tạo tại trường thẩm phán Bordeaux?
Đúng. Sau khi trải qua 1 khóa học 4 năm trong trường đại học để nhận bằng cử nhân luật.
47. Các phán quyết của tòa án châu âu lục địa là án lệ?
Sai. Án lệ là các bản án đã được tòa án tuyên trong quá khứ, được áp dụng để giải
quyết các vụ việc tương tự ở hiện tại.
48. So sánh vĩ mô phải dựa trên kết quả nghiên cứu của so sánh vi mô?
Đúng. Vì so sánh vĩ mô là so sánh các hệ thống pháp luật với nhau, so sánh vi mô
là so sánh các vấn đề cụ thể, các văn bản pháp luật, các chế định pháp luật. Trong
quá trình so sánh thì phải kết hợp cả hai cấp độ so sánh chứ không thể tách rời. lOMoAR cPSD| 45734214
49. Pháp luật quốc tế không phải là đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh?
Sai. Ngoài 2 đối tượng chính là hệ thống pháp luật còn các đối tượng: pháp luật
quốc tế, các vấn đề lí luận, phương pháp luận so sánh, các vấn đề lịch sử luật so
sánh… 50. Cả luật tư và luật công ở Châu Âu đều được xây dựng dựa trên luật La Mã?
Sai. Luật công xây dựng trên nền móng của luật tự nhiên.
51. Cả luật tư và luật công ở Châu Âu đều chịu ảnh hưởng của luật La Mã? Đúng.
52. Trước thế kỷ 18 ở Châu Âu chưa có luật thành văn?
Sai. Luật La Mã là luật thành văn( năm 450 TCN).
53. Trong Civil Law, luật thành văn luôn luôn là nguồn luật quan trọng hơn phán quyết của Toà án?
Đúng. Phán quyết của tòa án chỉ được áp dụng khi không có luật thành văn và phải
phù hợp với vụ việc đang xét xử.
54. Trong Civil Law, luật thành văn luôn luôn là nguồn luật quan trọng hơn tập quán?
Đúng. Chỉ được áp dụng khi luật trực tiếp dẫn chiếu không có quy định của pháp luật.
55. Trong Civil Law, luật hình sự là luật tư?
Sai. Luật hình sự là luật công.
56. Trong Civil Law, điều ước quốc tế có giá trị pháp lý cao hơn đạo luật quốc gia?
Đúng. Tòa án có thể áp dụng trực tiếp các điều ước quốc tế khi xét xử. lOMoAR cPSD| 45734214
57. Các Toà án cấp Liên bang của Đức chỉ xem xét cấp chung thẩm các vụ án được
toà án cấp bang chuyển lên?
Sai. Nếu có vụ việc liên quan giữa bang này với bang kia thì Tòa án Liên bang sẽ giải quyết.
58. Quá trình mở rộng ảnh hưởng của Common Law hoàn toàn giống với quá trình mở rộng của Civil Law?
Sai. Common law mở rộng cùng với quá trình mở rộng thuộc địa của Anh.
59. Trước thế kỷ 19, ở Anh chưa có luật thành văn?
Sai. Luật thành văn ra đời vào năm 600 SCN.
60. Luật thành văn và án lệ ở Anh được xây dựng trên cơ sở tập quán?
Đúng. Các tập quán phổ biến từ thời thượng cổ, các tập quán hoặc luật lệ địa phương.
61. Một số quốc gia từng là thuộc địa của Anh nhưng không theo hệ thống Common Law?
Đúng. Các nước Châu Phi.
62. Một số phán quyết của Toà án bang ở Mỹ có giá trị bắt buộc ngay cả với Toà án Liên bang? Đúng
63. Một số quốc gia Hồi giáo nhưng không theo hệ thống pháp luật Hồi giáo?
Đúng. Ngoài pháp luật Hồi giáo còn có hệ thống pháp luật các quốc gia Hồi giáo.
64. Quias chỉ là phương pháp suy luận để giải thích luật nên không được coi là
nguồn của luật Hồi giáo?
Sai. Quias là nguồn của luật Hồi giáo. lOMoAR cPSD| 45734214
65. Luật Hồi giáo và luật Giáo hội Thiên chúa đều được coi là luật tôn giáo?
Đúng. Các loại chính của luật tôn giáo gồm có: Sharia ở Hồi giáo, Halakha ở Do
Thái giáo, và luật Canon ở một số quốc gia theo Công giáo và luật giáo hội của Thiên Chúa.
BÀI 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT SO SÁNH
1. Đối tượng nghiên cứu của luật so sánh mang tính ổn định và có phạm vi ranh giới rõràng.
SAI: Hiện có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định đối tượng nghiên cứu
của Luật so sánh. Các nước theo hệ thống pháp luật XHCN cho rằng đối tượng
nghiên cứu của Luật so sánh phải là pháp luật thực định, trong đó liệt kê các đối
tượng mang tính cụ thể. Ngược lại các hệ thống pháp luật phương tây (như hệ thống
pháp luật Châu Âu lục địa, hệ thống pháp luật của các nước Bắc Âu) lại cho rằng
đối tượng nghiên cứu phải được xác định bằng cách khai quá hóa các vấn đề thuộc
đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh, theo đó chính bản thân phương pháp nghiên
cứu cũng sẽ trở thành đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh (Michael Bogdan). Nói
cách khác Luật so sánh là ngành khoa học pháp lý cộng sinh không hề có phạm vi, ranh giới rõ ràng.
2. Do không xác định được hết các vấn đề mà luật so sánh sẽ nghiên cứu nên
luật so sánhkhông có phương pháp nghiên cứu riêng biệt.
SAI: Tuy không xác định được hết các vấn đề mà luật so sánh sẽ nghiên cứu (do đối
tượng nghiên cứu của Luật so sánh rất rộng và không có phạm vi ranh giới rõ ràng)
nhưng không phải vì thế mà Luật so sánh không có các phương pháp nghiên cứu
riêng biệt. Có thể kể ra các phương pháp nghiên cứu của Luật so sánh như: i) p.p so
sánh lịch sử; (ii) p.p so sánh quy phạm (so sánh văn bản); và (iii) p.p so sánh chức năng.
3. Nghiên cứu pháp luật nước ngoài cũng là mục đích của luật so sánh.
SAI: Theo Michael Bogdan thì 3 mục đích chính của Luật so sánh là: (i) tìm ra sự
tương đồng vàà khác biệt giữa các hệ thống pháp luật đó; (ii) sử dụng những điểm
tương đồng và khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải
quyết trong các hệ thống pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra
các vấn đề cốt lõi, cơ bản của 1 hệ thống pháp luật; và (iii) Xử lý những vấn đề mang lOMoAR cPSD| 45734214
tính chất phương pháp nảy sinh trong quá trình so sánh luật, bao gồm cả những vấn
đề khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài. Như vậy nghiên cứu pháp luật nước ngoài
chỉ là phương tiện chứ hoàn toàn không phải là mục đích. Nếu chỉ trình bày những
hiểu biết về hệ thống pháp luật của nước ngoài mà không đặt nó trong sự so sánh với
các hệ thống pháp luật khác, không xác định những điểm tương đồng và khác biệt
của nó với các hệ thống pháp luật khác thì đó không phải là công trình so sánh luật.
4. Nghiên cứu pháp luật nước ngoài là thành tố cơ bản của Luật so sánh.
SAI: Theo Michael Bogdan thì 3 mục đích chính của Luật so sánh là: (i) tìm ra sự
tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật đó; (ii) sử dụng những điểm
tương đồng và khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải
quyết trong các hệ thống pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra
các vấn đề cốt lõi, cơ bản của 1 hệ thống pháp luật; và (iii) Xử lý những vấn đề mang
tính chất phương pháp nảy sinh trong quá trình so sánh luật, bao gồm cả những vấn
đề khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài. Như vậy, nghiên cứu pháp luật nước ngoài
không phải là thành tố cơ bản của Luật so sánh mà chỉ là một trong các phương tiện
để tiến hành một công trình so sánh. Tóm lại, thành tố cơ bản của Luật so sánh khi
tiến hành một công trình so sánh cụ thể chính là việc so sánh các đối tượng thông
qua các so sánh tính của chúng (tính có khả năng so sánh giữa các đối tượng) chứ
không phải là việc nghiên cứu pháp luật của một nước (việc nghiên cứu là để nhằm
phục vụ cho việc so sánh mà thôi).
5. Luật so sánh là một ngành khoa học pháp lý độc lập.
SAI: Một ngành KH pháp lý độc lập đòi hỏi phải có đối tượng điều chỉnh và phương
pháp điều chỉnh riêng, rõ ràng và cụ thể. Luật so sánh không có đối tượng điều chỉnh
do nó không có quan hệ XH đặc thù, và vì vậy, nó không thể là ngành KH pháp lý
độc lập được. Nói cách khác, Luật so sánh là ngành khoa học pháp lý cộng sinh chứ
không phải là 1 ngành KH pháp lý độc lập.
6. Sự tồn tại các tên gọi môn học khác nhau được giải thích bởi sự khác biệt về
vị trí, tínhứng dụng của lĩnh vực này tại các quốc gia.
SAI: Sự tồn tại các tên gọi môn học khác nhau (“luật so sánh – Comparative Law”,
“luật học so sánh – Comparative Jurisprudence” trong tiếng Anh hay “so sánh luật –
Rechtsvergleichung” trong tiếng Đức…) không phải do sự khác biệt về vị trí, tính
ứng dụng của lĩnh vực này tại các quốc gia mà là do đây là thuật ngữ còn đang gây
nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu khoa học pháp lý trên thế giới. Thực tế cho
thấy sự tranh cãi này của các học giả xoay quanh bản chất và các vấn đề có liên quan
về nội dung của lĩnh vực học thuật này. Nhiều học giả cho rằng thuật ngữ “luật học
so sánh” có nội dung tổng hợp hơn, rộng lớn hơn rất nhiều so với thuật ngữ “luật so lOMoAR cPSD| 45734214
sánh” (PGS. TS. Võ Khánh Vinh – Giáo trình luật học so sánh). Tuy nhiên ngày nay
đa số các học giả đã chấp nhận việc sử dụng 2 thuật ngữ này có thể thay thế cho
nhau, trong đó thuật ngữ “luật so sánh” ngày càng được sử dụng phổ biến hơn trên thế giới.
7. Tại Việt Nam, thuật ngữ chính thức sử dụng đặt tên cho môn học là “Luật học so sánh”
SAI: Hiện trên thế giới vẫn đang tồn tại các tên gọi môn học khác nhau: “luật so sánh
– Comparative Law”, “luật học so sánh – Comparative Jurisprudence” trong tiếng
Anh; hay “so sánh luật – Rechtsvergleichung” trong tiếng Đức… Tuy nhiên, thuật
ngữ chính thức sử dụng đặt tên cho môn học này tại hai trường đại học luật lớn nhất
tại VN là ĐH Luật Hà Nội và ĐH Luật Tp.HCM đều là “Luật so sánh” (tiếng Anh là
Comparative Law và tiếng Pháp là Droit Comparé). Theo Michael Bogdan thì thuật
ngữ “luật so sánh” đã được hình thành từ rất lâu trong lịch sử và nó đã và đang được
sử dụng một cách hợp pháp trong các tài liệu để chỉ tên các khoa học.
8. Thuật ngữ “Luật so sánh” tạo ra sự nhầm lẫn môn học này như một ngành
luật, vì thếthuật ngữ này không được sử dụng một cách rộng rãi để đặt tên cho khóa học.
SAI: Theo Michael Bogdan thì thuật ngữ Luật so sánh rất có thể sẽ gây hiểu lầm như
khi ta thay “lịch sử pháp luật”bằng “luật lịch sử” hoặc thay “XH học pháp luật” bằng
“luật xã hội” chẳng hạn. Hơn nữa thuật ngữ Luật so sánh còn tạo ra sự nhầm lẫn môn
học này như một ngành luật vì nó đem đến sự hoài nghi về sự tồn tại của một ngành
luật mới – ngành luật so sánh – bên cạnh sự tồn tại của các ngành luật khác như luật
hình sự, luật dân sự, luật HNGĐ… Tuy nhiên thuật ngữ “luật so sánh” đã được hình
thành từ rất lâu trong lịch sử và nó đã và đang được sử dụng một cách hợp pháp
trong các tài liệu để chỉ tên các khoa học. Xưa nay trên thế giới môn học này vẫn
được đặt tên là “luật so sánh” (tiếng Anh: Comparative Law; tiếng Pháp: Droit
Comparé; tiếng Đức: Rechtsvergleichung). Tại VN, thuật ngữ chính thức sử dụng
đặt tên cho môn học này tại hai trường đại học luật lớn nhất tại VN là ĐH Luật Hà
Nội và ĐH Luật Tp.HCM đều là “Luật so sánh” (tên môn thi này là một dẫn chứng).
9. Luật so sánh chỉ được tiếp nhận tại các nước XHCN và các nước trước đây
thuộc khốiXHCN vào những năm 90 của thế kỷ XX vì còn có rất nhiều tranh
luận về tên gọi và bản chất của lĩnh vực này.
SAI: Có thể lấy VN làm điển hình. Luật so sánh đã được tiếp nhận tại VN từ khá
sớm.à Hiến pháp 1959 được xem như là một trong những sản phẩm của so sánh pháp
luật được thực hiện bởi các nhà làm luật VN. Ở phương diện so sánh học thuật, trong
giai đoạn từ 1954-1975 tại miền Nam VN đã có một số công trình nghiên cứu luật
so sánh mà đáng chú ý nhất là cuốn sách “Những ứng dụng của luật so sánh” của
TS. Ngô Bá Thành xuất bản năm 1965 tại Sài gòn. Giai đoạn sau 1975 thì hiến pháp lOMoAR cPSD| 45734214
1980 cũng là một trong số các kết quả của các công trình so sánh luật trên cơ sở
nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của các nước theo khối XHCN. Điều này đã làm
cho hệ thống pháp luật của VN giai đoạn này có rất nhiều điểm tương đồng với pháp luật của Liên Xô.
BÀI 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU
PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI BÀI 3. CÁC HỆ THỐNG PHÁP LUẬT CHÍNH TRÊN THẾ GIỚI
(Nội dung của của bài 2 và bài 3)
10. Nghiên cứu pháp luật và so sánh pháp luật là hai loại hình họat động nghiên
cứu khoahọc không tách rời nhau và cùng có chung mục đích, phương pháp tiến hành.
SAI: Mục đích của nghiên cứu pháp luật và của so sánh pháp luật là hoàn toàn khác
nhau. Mục đíchà của nghiên cứu pháp luật đơn thuần chỉ là tìm hiểu về nó trong khi
mục đích của so sánh pháp luật là sử dụng chính những kết quả nghiên cứu pháp luật
để: (i) tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật đó; (ii) sử dụng
những điểm tương đồng và khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá
cách giải quyết trong các hệ thống pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc
tìm ra các vấn đề cốt lõi, cơ bản của 1 hệ thống pháp luật; và (iii) Xử lý những vấn
đề mang tính chất phương pháp nảy sinh trong quá trình so sánh luật, bao gồm cả
những vấn đề khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài (Michael Bogdan).
11. Luật so sánh được xếp vào những ngành khoa học nghiên cứu các vấn đề
chung nhất do chúng có cùng mục đích nghiên cứu.
SAI: Luật so sánh được xếp vào nhóm những ngành khoa học nghiên cứu các vấn
đề chung nhấtà của hệ thống pháp luật cùng với các lĩnh vực nghiên cứu khác như:
lịch sử nhà nước & pháp luật, XH học pháp luật v.v…Tuy nhiên mục đích nghiên
cứu của chúng là hoàn toàn khác nhau. So với Lịch sử nhà nước & pháp luật thì Luật
so sánh cũng có cùng đối tượng nghiên cứu, cũng sử dụng phương pháp so sánh lịch
sử giống như Luật so sánh nhưng Luật so sánh lại có mục đích nghiên cứu hoàn toàn
khác. Mục đích của Luật so sánh là tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa các hệ
thống pháp luật khác nhau, sử dụng những điểm tương đồng và khác biệt đã tìm ra
nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống pháp luật,
phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra các vấn đề cốt lõi, cơ bản của 1 hệ
thống pháp luật (Michael Bogdan).
12. Luật so sánh được xếp cùng nhóm với các ngành khoa học pháp lý mang
tính lý luậnchung vì chúng có cùng phương pháp nghiên cứu. lOMoAR cPSD| 45734214
SAI: Luật so sánh được xếp vào nhóm những ngành khoa học pháp lý mang tính lý
luận chungà như: Lý luận lịch sử nhà nước & pháp luật, XH học pháp luật v.v…
Mặc dù Lý luận lịch sử NN&pháp luật và Luật so sánh cùng sử dụng phương pháp
nghiên cứu giống nhau là p.p so sánh lịch sử nhưng không phải vì thế mà chúng
được xếp chung thành 1 nhóm. Sở dĩ chúng được xếp cùng 1 nhóm là bởi vì chúng
có cùng đối tượng nghiên cứu: đó là chuyên nghiên cứu những vấn đề chung có ảnh
hưởng tới toàn thể hoặc gần như toàn thể hệ thống pháp luật trên thế giới (Michael Bogdan).
13. Tham khảo và tiếp thu pháp luật nước ngoài trong mọi trường hợp đều có
hiệu quả.SAI: (Trang 74 & 75 Hà Nội).
14. Nguồn thông tin thứ yếu có những ưu thế nhất định so với nguồn thông tin
chủ yếu.ĐÚNG: Nguồn thông tin thứ yếu là việc nghiên cứu những công trình
khoa học trong lĩnhà vực pháp lý. Ví dụ: các bình luận khoa học về luật học hoặc
khoa học pháp lý; giáo trình luật; tạp chí chuyên ngành luật hoặc pháp lý. So với
nguồn thông tin chủ yếu, những nguồn thông tin thứ yếu này có những ưu thế
nhất định của nó. Đó là:
(i)- Dễ tiếp cận: sách giáo khoa, sách tham khảo chuyên ngành, các bài báo trong
các tạp chí… là những nguồn thông tin mở rất dễ tiếp cận, mọi lúc mọi nơi. Hơn nữa
khỏi phải mất công chuyển ngữ.
(ii)- Đáng tin cậy: Bởi do chính các luật sư thực hành, các thẩm phán đang hành nghề
ở nước đó đã dày công nghiên cứu và đúc kết. Chính bản thân nó đã là những công
trình so sánh luật đáng tin cậy rồi.
(iii)- Là lựa chọn tất yếu: Về nguyên tắc, nguồn tiếp cận trước tiên luôn phải là nguồn
chủ yếu, chỉ khi nào gặp vướng mắc mới nghiên cứu nguồn thứ yếu. Tuy nhiên có 1
ngoại lệ là nếu thực tế không có nguồn chủ yếu để nghiên cứu thì việc sử dụng nguồn
thứ yếu lại là lựa chọn duy nhất.
15. Tính tương đồng và (hoặc) khác biệt được giải thích trong khuôn khổ nội
dung phápluật thực định.
SAI: Một trong các nguyên tắc quan trọng khi tiến hành các họat động nghiên cứu
pháp luật nước ngoài đó là: “Phải nghiên cứu pháp luật nước ngoài trong tính toàn
diện và tổng thể của vấn đề”. “Tính toàn diện” được thể hiện qua 2 góc độ, góc độ
lý luận và góc độ thực tiễn, đồng thời để tăng độ chính xác của công trình nghiên
cứu thì cần phải sử dụng cả 2 phương pháp tiếp cận: trực tiếp và gián tiếp. “Tính
tổng thể” được hiểu: Một là, phải đặt vấn đề trong bối cảnh LS cụ thể của các điều
kiện KT, CT, XH của quốc gia đó; Hai là, phải xem xét trong chính sách pháp luật lOMoAR cPSD| 45734214
cụ thể của mỗi quốc gia. Tóm lại, có làm được như vậy mới nhận biết và giải thích
chính xác tính tương đồng và khác biệt của các hệ thống pháp luật khác nhau.
16. Phương pháp đặc thù chỉ có ở Luật so sánh.
SAI: Phương pháp đặc thù gồm: (i) p.p so sánh lịch sử; (ii) p.p so sánh quy phạm;
và (iii)à p.p so sánh chức năng. Trong đó, có thể dễ dàng nhận thấy p.p so sánh lịch
sử không những chỉ có ở Luật so sánh mà còn được áp dụng để nghiên cứu rộng rãi
trong các lĩnh vực khoa học pháp lý khác chẳng hạn như nghiên cứu về lý luận lịch
sử nhà nước và pháp luật chẳng hạn.
17. Phương pháp so sánh chức năng là phương pháp hiệu quả nhất.
SAI: Thực tiễn nghiên cứu cho thấy phương pháp so sánh chức năng chỉ là p.p được
sửà dụng thường xuyên và phổ biến nhất chứ không phải hiệu quả nhất. Mỗi p.p đều
có những ưu, nhược điểm riêng. Việc áp dụng p.p nào sẽ phụ thuộc vào phạm vi và
cấp độ nghiên cứu khác nhau. Trong các phương pháp nghiên cứu của Luật so sánh
thì không cóphương pháp nào được xem là tối ưu, hiệu quả nhất bởi các phương
pháp còn phụ thuộc vào trình độ của người nghiên cứu. Cách tốt nhất là lồng ghép
các phương pháp lại với nhau.
18. Phương pháp so sánh chức năng là phương pháp đặc thù.
SAI: Tính đặc thù ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng, đó là việc “được sử dụng
thườngà xuyên và phổ biến”. Nói cách khác, cần phải hiểu p.p so sánh chức năng là
phương pháp được sử dụng thường xuyên và phổ biến chứ không phải là một phương
pháp nghên cứu đặc thù của Luật so sánh.
19. Phương pháp so sánh chức năng là p.p nghiên cứu độc lập của Luật so sánh.
ĐÚNG: Luật so sánh có 3 p.p nghiên cứu đặc thù là: (i) p.p SS lịch sử; (ii) p.p SS qui phạm; và
(iii) p.p SS chức năng. Trong đó p.p SS chức năng dựa trên chức năng điều chỉnh
các quan hệ XH của các hiện tượng pháp lý, từ đó xđ những nguyên tắc pháp lý được
sd để trực tiếp hoặc gián tiếp điều chỉnh đ/v các quan hệ XH đó, đồng thời xđ những
yếu tố về KT, CT, VH, XH… đã tác động đến các giải pháp pháp lý đó như thế nào.
20. Do có cùng nguồn gốc pháp luật là Luật La Mã nên hệ thống pháp luật
XHCN và hệthống pháp luật Pháp-Đức có sự tương đồng về cấu trúc phân
chia pháp luật thành luật công và luật tư.
SAI: Mặc dù hệ thống pháp luật XHCN chịu nhiều ảnh hưởng của hệ thống pháp
luật Châu âu lục địa nhất là cácà chế định pháp luật dân sự có nguồn gốc từ Dân luật
La Mã (Corpus Juris Civilis) tuy nhiên hệ thống pháp luật XHCN không có sự phân
chia thành luật công và luật tư. Theo Michael Bogdan thì điều này được giải thích
bởi hệ thống pháp luật XHCN có 2 đặc tính cơ bản: (i)nó dựa trên nền tảng học
thuyết Mác_Lê Nin về pháp luật; và (ii) nó gắn chặt với nền kinh tế kế hoạch. Ở các lOMoAR cPSD| 45734214
nước XHCN chỉ có thể có luật công mà không có luật tư là bởi vì học thuyết Mác-
Lê Nin cho rằng quyền lực nhà nước là thống nhất. Hơn nữa tại các quốc gia XHCN
người ta chỉ công nhận hình thức duy nhất là “công hữu về tư liệu sản xuất”, theo đó
mọi hình thức sở hữu tư nhân đều bị triệt tiêu, và do vậy luật tư không có đất để phát
triển cũng là lẽ tất yếu.
21. Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa chỉ sử dụng một nguồn luật duy nhất
là pháp luậtthành văn.
SAI: Nguồn luật của Hệ thống pháp luật Châu ân Lục địa hay còn được gọi là Hệ
thống Dân luậtà (Civil Law) khá đa dạng bao gồm: (i) luật thành văn (statute law)
với tư cách là nguồn cơ bản; (ii) án lệ (case law hay judge-made law); và (iii) tập
quán pháp luật (legal custom – hay La coutume trong tiếng Pháp); ngoài ra còn có
các học thuyết pháp luật (legal doctrine) và các nguyên tắc pháp luật (legal
principháp luậtes). Như án lệ chẳng hạn, ở các nước thuộc dòng họ Civil Law, án lệ
tuy không được coi là nguồn cơ bản của pháp luật nhưng lại được áp dụng hạn chế
trong 1 số trường hợp khi mà TP nhận thấy việc áp dụng luật thành văn (vốn bao
gồm các qui định đã quá cổ và không còn phù hợp – vd: BLDS Pháp) là bất khả thi
hoặc cần phải được giải thích theo quan điểm của cơ quan XX mới được xem là phù
hợp với những bước phát triển trong xã hội hiện đại. Ví dụ: Ở Pháp, trong lĩnh vực
bồi thường thiệt hại ngoài HĐ các TP buộc phải chủ yếu dựa vào án lệ vì trong BLDS
rất ít hoặc hầu như không có các quy định về vấn đề này.
22. pháp luật chung cho toàn bộ Châu Âu đều được các nước ở Châu Âu tiếp
thu một cáchtrực tiếp từ Luật La Mã.
SAI: Không có cái gọi là pháp luật chung cho toàn bộ Châu Âu. Đối với hệ thống
pháp luật của các nướcà Bắc Âu (Đan Mạch, Phần Lan, Ai-len, Na-uy, Thụy Điển)
thì Luật La Mã có ảnh hưởng không đáng kể do cơ sở chung của hệ thống pháp luật
các nước này là pháp luật của nước Đức cổ (theo truyền thống luật của địa phương
và luật của thành phố). Dẫn chứng: nếu như các nước ở Châu âu lục địa như Pháp,
Đức họ tiếp thu trực tiếp luật La Mã để tạo nên những bộ dân luật đồ sộ của nước
mình (điển hình là các Bộ Dân Luật nổi tiếng của Pháp, Đức đều được xây dựng trên
nền tảng của Dân luật La Mã – Corpus Juris Civilis) thì ở Thụy Điển, Đan Mạch, Na
Uy… người ta lại ban hành các bộ luật chung để nhất thể hóa các luật dân sự, hình
sự và luật tố tụng (theo hướng quay về với các giá trị truyền thống của pháp luật địa
phương và thành phố) mà không hề có ý định tiếp thu luật La Mã để xây dựng các
BLDS riêng của nước mình.
Ở một cách tiếp cận khác, nước Anh ở Châu Âu mặc dù cũng nằm trong sự kiểm
soát của đế chế La Mã trong một thời gian khá dài nhưng pháp luật Anh dường như
lại không bị ảnh hưởng bởi pháp luật La Mã, nó phát triển gắn liền với sự hình thành lOMoAR cPSD| 45734214
và phát triển của hệ thống các tòa án chứ không phải từ việc giảng dạy luật La Mã
từ các trường đại học tổng hợp như ở châu âu lục địa.
23. Văn bản pháp luật là hình thức pháp luật hoàn hảo nhất hiện nay.
SAI: Nếu phân loại các hệ thống pháp luật hiện nay trên TG theo tiêu chí căn cứ vào
hình thức pháp luật thìà ta thấy có 2 nhóm hệ thống pháp luật chính: (i) nhóm hệ
thống pháp luật có hình thức pháp luật chủ yếu là tiền lệ pháp (case law) như Anh,
Mỹ, Canada, Úc…;và (ii) nhóm hệ thống pháp luật có hình thức pháp luật chủ yếu
là luật thành văn (statute law) hay còn gọi là văn bản pháp luật (written law) bao
gồm hệ thống pháp luật Châu âu Lục địa và cả hệ thống pháp luật XHCN. Mỗi hình
thức pháp luật này đều có những ưu và nhược điểm nhất định và không có hình thức
nào là hoàn hảo nhất: ưu điểm của hình thức pháp luật này chính là nhược điểm của
hình thức pháp luật kia và ngược lại. Do đó không thể nói ở thời điểm hiện tại, văn
bản pháp luật là hình thức pháp luật hoàn hảo nhất. Hơn nữa, hiện nay do xu hướng
hội tụ pháp luật nên các nước sử dụng hình thức pháp luật chủ yếu là tiền lệ pháp
(các nước thuộc dòng họ Common law) và các nước sử dụng hình thức pháp luật
chủ yếu là luật thành văn (dòng họ Civil Law) đều tìm cách thu hẹp khoảng cách
giữa hai hình thức pháp luật này. Ở VN ta mặc dù không trực tiếp thừa nhận ánlệ,
nhưng theo tôi biết, đã có những đề án liên quan đến việc gián tiếp cho phép thừa
nhận án lệ tại VN, mà mộttrong những bước đi đầu tiên là chủ trương xuất bản định
kỳ tuyển tập các bản án Giám đốc thẩm của HĐTPTAND-TC; tiếp đó là bản án GĐT
của toà hình sự, dân sự, lao động, kinh tế, hành chính của TAND Tối cao vàcuối
cùng là một số bản án của toà phúc thẩm TAND Tối cao, coi đó là nguồn thông tin
tham khảo cho các TP (lưu ý rằng “Công bố phán quyết của toà án” là một trong
những yêu cầu của Hiệp định TRIPS mà Việt Nam phải tuân thủ khi gia nhập WTO).
24. Pháp luật Anh – Mỹ sử dụng duy nhất là án lệ.
SAI: Tại Anh: Cũng như các nước thuộc dòng họ Common Law coi trọng án lệ (caseà
law), ở Anh tuy luật thành văn không phải nguồn cơ bản nhưng chúng vẫn được sử
dụng như một nguồn luật. Các văn bản pháp luật của Anh bao gồm các văn bản pháp
luật do Nghị viện trực tiếp ban hành được gọi là các “Đạo luật công” nhằm bổ sung
hoặc thay thế án lệ trên nhiều lĩnh vực (Vd: Về luật nội dung có Đạo luật Tòa địa hạt
1984 (County Courts Act 1984); Về luật hình thức có: Các quy tắc tố tụng dân sự
1998 (Civil Procedure Rules 1998 gọi tắt là CPR), Đạo luật Tòa án 1971 (Courts Act
1971) hay Đạo luật cải tổ hiến pháp 2005 (Constitutional Reform Act 2005). Thậm
chí luật do Nghị viện Anh ban hành còn có hiệu lực cao hơn án lệ do thẩm phán làm
ra vì được làm ra nhằm bổ sung hoặc thay thế án lệ. Đạo luật thành văn có thể phủ
nhận hiệu lực trong tương lai của 1 án lệ nào đó và thậm chí còn có hiệu lực hồi tố,
có thể làm cho bản án nào đó đã tuyên trở nên vô hiệu. lOMoAR cPSD| 45734214
Ngoài các Đạo luật công do Nghị viện ban hành còn có các văn bản dưới luật do
Nghị viện ủy quyền ban hành (gọi là văn bản pháp luật ủy quyền – delegated
legislations). Tại Mỹ: Hiến pháp Mỹ, với tư cách là một hiến pháp thành văn, là văn
bản pháp luật có giá trị pháp lý tối cao đối với người Mỹ, là đạo luật cơ bản của quốc
gia. Ngoài ra, hệ thống pháp luật thành văn của Mỹ rất phát triển với đội ngũ những
nhà lập pháp có trình độ cao, đã cho ra đời rất nhiều bộ luật và đạo luật có giá trị
thực tiễn và tính ổn định cao, ở cả cấp độ Liên Bang và cấp độ Tiểu Bang. Mặc dù
mỗi bang của Mỹ đều có quyền ban hành pháp luật thành văn riêng cho mình nhưng
vẫn có những văn bản pháp luật chung được áp dụng thống nhất mà nổi đình nổi
đám nhất là Bộ luật thương mại thống nhất (Uniform Commercial Code) đã được
chấp nhận tại 50 Bang và Bộ luật hình sự mẫu (Model Penal Code) đã được chấp
nhận tại hơn 25 Bang tại Mỹ.
25. Bản chất pháp luật ảnh hưởng đến cơ cấu nghề luật của quốc gia.
ĐÚNG: Có thể lấy Anh làm một ví dụ hết sức điển hình. Bản chất pháp luật đã ảnh
hưởng hếtà sức sâu sắc đến cơ cấu nghề luật tại Anh. Do đặc thù lịch sử mà pháp
luật Anh, về bản chất, phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của hệ thống
các tòa án chứ không phải từ việc giảng dạy luật La Mã từ các trường đại học tổng
hợp như ở các nước Châu âu lục địa. Điều này dẫn đến việc ở Anh không có cấu trúc
nghề nghiệp riêng cho Thẩm phán (Judges). Thẩm phán tại Anh không phải là một
nghề được đào tạo chính quy mà các thẩm phán thường được bổ nhiệm từ các luật
sư tranh tụng có kinh nghiệm (Senior Barristers); và từ các luật sư tư vấn (Solicitors)
với điều kiện hết sức hạn chế và chỉ kể từ khi Luật cải tổ HP 2005 có hiệu lực. Về
cấu trúc nghề luật sư thì cũng chính do bản chất pháp luật Anh như đã nói ở trên mà
ở Anh các luật sư thực hành được phân thành hai nhóm: Luật sư tư vấn (Solicitors)
và luật sư bào chữa (Barristers). Từ thời trung cổ, LS tư vấn của Anh có quyền thực
hiện các nhiệm vụ mà LS ở hầu hết các nước trên thế giới thực hiện nhưng chỉ trừ
việc tham gia phiên tòa. Trong khi đó nhiệm vụ chính của LS bào chữa là xuất hiện
trước tòa. Ở Anh, khách hàng không liên hệ trực tiếp với các LS bào chữa mà phải
thông qua sự giới thiệu của các LS tư vấn. Cũng bởi bản chất pháp luật Anh mà nghề
LS bào chữa được coi là nghề phục vụ công lý với truyền thống mà theo đó, LS bào
chữa không có quyền luật định đối với việc đòi thù lao, hơn nữa anh ta không có
quyền từ chối bất cứ khách hàng nào trừ 1 số vụ việc cụ thể ( do thiếu kiến thức
chuyên môn trong 1 lĩnh vực pháp luật cụ thể).
26. Bản chất pháp luật được quyết định bởi yếu tố lịch sử.
ĐÚNG: Suy cho cùng thì việc so sánh bản chất pháp luật của các hệ thống pháp luật
trênà thế giới thực chất là tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ
thống pháp luật để từ đó lý giải nguồn gốc của sự tương đồng và khác biệt đó. Bằng lOMoAR cPSD| 45734214
cách áp dụng phương pháp so sánh lịch sử ta nhận thấy sự tương đồng và khác biệt
vềbản chất pháp luật chính là do yếu tố lịch sử quyết định. Nói cách khác yếu tố LS
nói lên đặc trưng cơ bản của từng hệ thống pháp luật.
27. Vai trò làm luật của các thẩm phán ở các quốc gia theo truyền thống Châu
âu lục địa làkhả thi trong một số trường hợp đặc biệt.
ĐÚNG: Các trường hợp đặc biệt điển hình nhất là tại Pháp và Đức. Tại Pháp, tuy án
lệà không có tính ràng buộc chính thức nhưng trong một số trường hợp thì thẩm phán
cũng có quyền làm luật. Ở Pháp, các bản án của Tòa phá án (Cour de Cassation)
thuộc nhánh tòa tư pháp trong 1 số trường hợp sẽ trở thành án lệ và sẽ được áp dụng
chung trên toàn quốc. Các bản án này luôn được nghiên cứu kỹ lưỡng và thường
được các tòa án cấp dưới và chính Tòa Phá Án tuân thủ. Bên nhánh tòa hành chính
thì Tham chính viện (Conseil d’Etat) cũng có thẩm quyền đưa ra ý kiến hướng dẫn
giải quyết vụ việc theo yêu cầu của các tòa án hành chính sơ thẩm hoặc của tòa hành
chính phúc thẩm. Tại Đức, các thẩm phán của Tòa án Hiến pháp vừa có chức năng
xét xử vừa có chức năng làm luật. Những bản án liên quan đến các vấn đề về hiến
pháp của Tòa án Hiến pháp sẽ là 1 nguồn luật tại Đức. Như vậy thẩm phán ở các
quốc gia theo truyền thống CÂLĐ trong 1 số trường hợp đặc biệt cũng có chức năng làm luật.
28. Nguồn luật của các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Châu âu lục địa không bao gồmán lệ. SAI: (xem câu trên)
29. Một quốc gia mà đa số dân theo Hồi giáo thì được coi là thuộc hệ thống pháp luật Hồigiáo.
SAI: Inđonesia ở Đông Nam Á và Thổ Nhĩ Kỳ ở Châu Âu tuy có đa số dân theo Hồi
giáoà nhưng không phải là 1 quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Hồi giáo bởi lẽ để
thuộc hệ thống pháp luật Hồi Giáo thì một quốc gia phải thỏa mãn đầy đủ 2 điều
kiện: (i) Hồi giáo phải là tôn giáo chính thống hay quốc đạo của quốc gia đó; và (ii)
pháp luật phải được xây dựng trên nền tảng của Đạo Hồi và các qui định của nó.
Như vậy, Indonesia và Thổ Nhĩ Kỳ tuy thỏa mãn điều kiện thứ nhất nhưng không
được coi là thuộc hệ thống pháp luật Hồi Giáo do không thoả mãn được điều kiện
thứ hai: có nghĩa là pháp luật buộc phải được xây dựng trên cơ sở Thánh kinh Coran.
30. Pháp điển hóa tại châu âu được bắt đầu từ thế kỷ XIX với việc ra đời Bộ dân luậtNapoleon.
SAI: Pháp điển hóa tại Châu Âu đã bắt đầu từ thế kỷ thứ XII bởi vì hệ thống pháp
luật CÂLĐ đượcà hình thành từ thế kỷ XII trên cơ sở tiếp thu Luật La Mã. Tại Châu
Âu vào thế kỷ XII và XIII diễn ra phong trào Văn hóa Phục hưng, trong đó có việc
khôi phục truyền thống pháp luật La Mã (Corpus Juris Civilis). Sau khi tìm được lOMoAR cPSD| 45734214
nguyên văn Bộ Dân Luật Corpus Juris Civilis, các học giả đã bắt tay vào nghiên cứu,
giải thích cũng như hiện đại hóa những nội dung luật cũ cho phù hợp với tình hình
XH thời đó. Nơi nổi tiếng nhất trong việc nghiên cứu, truyền bá Bộ Dân luật La Mã
này là các trường ĐH ở vùng Bắc nước Ý trong đó nổi tiếng nhất là ĐH Bologna.
Từ trường ĐH này, các nhà luật học của các nước Châu Âu đã trở về nước của họ,
truyền bá và gieo rắc tư tưởng cũng như nội dung của Dân luật La Mã. Họ mở trường
luật ở Paris, Oxford, Prague, Heidelburg, Conpenhague; họ làm luật sư cho giáo hội,
cho các vua chúa các vùng lãnh thổ khắp Châu Âu. Nhờ cùng được đào tạo chung
theo 1 nội dung, luật gia của các nước Châu Âu đã tạo nên những Bộ dân luật của
nước họ dựa trên nền tảng chung của Luật La Mã.
BÀI 4. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT PHÁP 31.
Vì là cơ quan tài phán hành chính nên thẩm quyền của Hội đồng nhà
nước bao gồmhoạt động xét xử các tranh chấp hành chính. 32.
Nguyên tắc nhị nguyên trong cấu trúc tòa án nước Pháp dẫn tới tình
trạng tồn đọng ándo có sự tranh chấp về thẩm quyền giữa hai nhánh: tòa tư
pháp và tòa hành chính. 33. Thực tiễn xét xử ở nước Pháp không được xem là
nguồn luật vì theo quy định Điều 5
BLDS Pháp, thẩm phán không có thẩm quyền làm luật
BÀI 5. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ANH
34. Với mục đích bổ sung cho tính cứng nhắc, thiếu công bằng của thông luật,
luật côngbằng không được xem là một bộ phận pháp luật độc lập trong hệ
thống pháp luật Anh. SAI: Không thể nói thông luật Anh (Common Law) là
cứng nhắc và thiếu công bằng.à
35. Vì là nguyên tắc cơ bản trong hệ thống pháp luật nước Anh nên nguyên tắc
Staredecisis – “tiền lệ phải được tuân thủ” có tính chất hoàn hảo, không nhược điểm.
SAI: Trong một số trường hợp thông luật Anh (Common Law) vẫn bộc lộ một số
nhượcà điểm và các nhược điểm này được bổ khuyết bởi chế định luật công bằng (Equity Law).
36. Luật thành văn là nguồn luật thứ yếu tại Anh.
SAI: Không thể nói luật thành văn là nguồn luật thứ yếu tại Anh. Trong vài thập kỷ
gần đây, tại Anh, án lệ (case law) đã không còn là một nguồn luật duy nhất (mặc dù
nó vẫn là nguồn luật cơ bản và chính thống) mà thực tế là luật thành văn đã ngày
càng trở nên một nguồn luật quan trọng, thậm chí là nguồn luật quan trọng hàng đầu,
đặc biệt đối với các lĩnh vực không có án lệ. Hơn nữa, thực tiễn hội nhập về kinh tế
giữa các quốc gia trên thế giới nói chung và các nước có hệ thống pháp luật thuộc
dòng họ Common Law nói riêng đã buộc các quốc gia phải thực hiện các cam kết