



















Preview text:
Top 14 bài phân tích đoạn 3 Tây Tiến hay chọn lọc
1. Dàn ý phân tích Tây Tiến khổ 3 I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
- Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích và trích dẫn đoạn thơ trên. II. Thân bài 1. Khái quát chung
- Hoàn cảnh sáng tác: Là bài thơ sau khi tác giả rời xa đơn vị cũ. Cuối năm 1948, ở
Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến và viết nên bài thơ Tây Tiến.
- Nội dung bài thơ: Là nỗi nhớ về chiến trường, về con người, về thiên nhiên Tây
Bắc bằng cả tấm chân tình của chính tác giả.
Vị trí đoạn trích: Là đoạn thơ thứ ba trong mạch cảm xúc của toàn bài thơ.
Nội dung đoạn trích: Chân dung người lính Tây Tiến với sự hi sinh bi tráng của họ.
2. Những nội dung cần phân tích
- Chân dung: Những chi tiết tả thực đã khắc họa diện mạo rất độc đáo, đồng thời
phản ánh hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường. Tác giả không
hề né tránh hiện thực, và điều đó thể hiện tấm lòng yêu nước, căm thù giặc mãnh
liệt của người lính Tây Tiến
- Tâm hồn hào hoa, lãng mạn, và kiêu hùng: Qua các ngôn từ thơ “dữ oai hùm”,
“mắt trừng gửi mộng qua biên giới” ta thấy được khí thế và quyết tâm của người lính Tây Tiến.
Lí tưởng cao đẹp: Không trốn tránh hiện thực “Áo bào thay chiếu anh về đất”, tác giả
đã khắc họa sự hi sinh của người lính một cách thanh thản, thầm lặng và cao cả,
gây xúc động lòng người, lay động thiên nhiên.3. Nghệ thuật
- Bút pháp tả thực khắc họa chân dung người lính với hiện thực gian khổ nơi chiến
trường; dùng từ Hán – Việt cổ kính để tăng thêm sự thành kính, trân trọng với người
đã khuất; nói giảm để thể hiện lí tưởng cao đẹp của người chiến sĩ trong chiến đấu,
khắc họa sự hi sinh, nhấn mạnh sự mất mát nơi chiến trường
- Nhận xét: Với giọng thơ trang trọng, đôi lúc lắng xuống, cảm xúc dạt dào, hình ảnh
người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp bi tráng, tạc vào lòng người như bức tượng
đài bất tử về người lính không thể nào quên. III. Kết bài
Khẳng định, đánh giá về những câu thơ trên.
Mở rộng vấn đề: Nêu suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về hình ảnh người lính Tây
Tiến được thể hiện qua đoạn thơ trên.
2. Sơ đồ tư duy phân tích đoạn 3 Tây Tiến
3. Phân tích Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quang Dũng, một người nghệ sĩ đa tài, một nhà thơ với tâm hồn hào hoa, lãng mạn.
Hồn thơ của ông phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Trong sự nghiệp văn
thơ của ông, có lẽ Tây Tiến là một trong những tác phẩm tiêu biểu và để lại trong
lòng người đọc những ấn tượng sâu đậm về hình tượng người lính anh dũng bất
khuất, kiên cường vượt qua bao gian khổ trong chiến tranh.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Đoạn thơ trên làm sống dậy một hình ảnh đoàn binh Tây Tiến gan góc, dũng cảm. Ở
họ mang một hào khí đáng ngưỡng mộ. Họ chỉ là những cô cậu sinh viên hà thành
mới từ giã mái trường, gia đình lên đường chiến đấu còn biết bao bỡ ngỡ, lạ lùng
với những thứ xa lạ, ngây ngô nhưng họ vượt lên trên cảm giác sợ hãi, thay vào đó
là sự oai hùng của tuổi trẻ, của sự nhiệt huyết bừng cháy. Nhà thơ dùng “không mọc
tóc” để miêu tả đoàn binh. Đó là hình ảnh chiến sĩ rất khác lạ. Bên cạnh việc chọn
ngày đêm phải chống trọi với kẻ thù tàn nhẫn, họ còn phải gồng mình vượt qua thiên
nhiên khắc nghiệt. Họ sống và chiến đấu nơi rừng thiêng nước độc, nơi sông sâu
núi thẳm thiếu ăn, thiếu thuốc, mắc các dịch bệnh sốt rét dẫn đến trọc đầu. Chính
nhà thơ Chính Hữu cũng đã từng đề cập đến bệnh này:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”
Nhà thơ đã lột tả một cách trần trụi sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã khiến cho họ
trở nên một cách kì lạ. Đó cũng là một sự thật trần trụi đến khắc khổ của binh đoàn
Tây Tiến. Họ có làn da xanh xao vì đói rét nhưng họ vẫn “oai hum” khiến kẻ địch
khiếp sợ. Đó mới chính là nét đẹp đáng khâm phục của đoàn binh Tây Tiến.
Mặc dù quyết tâm đánh giặc nhưng trong họ vẫn còn tỏa ra chất lãng mạn vốn có
của người lính. Họ không cứng nhắc, khô khan, cũng có những phút giây họ giành
cho người thân gia đình. Họ nhớ về quê hương nơi mà người thân họ vẫn ngày đêm
trông mong. Họ nhớ về những bóng dáng thân yêu. Hình ảnh “mắt trừng” là mắt
quắc lên vẻ dữ tợn nhưng họ gửi mộng đánh thắng quân thù qua biên giới. họ nghĩ
đến một viễn cảnh tươi sáng hơn cho gia đình họ.
Có thể thấy Quang Dũng đã khéo léo khắc họa hình tượng người lính Tây Tiến
mang vẻ đẹp hào hùng bi tráng nhưng cũng rất đỗi lãng mạn tình tứ chỉ qua vẻn vẹn
bốn câu thơ nhưng thấm đượm nỗi lòng thầm kín của nhà thơ.
Sự hi sinh của người lính Tây Tiến cũng rất bi tráng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Hình ảnh người lính hi sinh bản thân nơi chiến trường khắc nghiệt thật khiến ta đau
xót. Họ cống hiến bản thân mình cho Tổ quốc, họ ngã xuống nơi chiến trường. Họ
nằm lại nơi đất khách quê người, không một vòng hoa, không một nén hương tưởng
nhớ. Lạnh lẽo, bi thương nhưng trước khi lên đường cầm súng chiến đấu họ đã xác
định ranh giới giữa cái chết với cái sống là quá mong manh. Họ chấp nhận điều đó.
Họ mang tuổi trẻ, nhiệt huyết của mình cống hiến cho quê hương. Tuổi trẻ là tuổi
đẹp nhất, nhiều ước mơ hòai bão lớn lao đầy hứa hẹn nhưng họ chẳng tiếc mà
nhiệt tình dâng hiến cả sức trẻ cho Tổ quốc. Đó là một sự hi sinh vĩ đại, thầm lặng
đáng ngợi ca và trân trọng biết bao.
Cái chết của họ cũng rất bi tráng. Hình ảnh chiếc “áo bào” thay “chiếu” khiến ta thấm
thía biết bao suy ngẫm. Quang Dũng đã khéo léo dùng từ Hán việt để giảm bớt sự bi
thương cho cái chết oanh liệt ấy. Đất Mẹ ôm ấp, vỗ về họ như dang những cách tay
dài đón họ vào lòng như những đứa con xa quê hương về với cái ôm đầy tình cảm
của người mẹ. Quang Dũng đã mượn luôn âm thanh của thiên nhiên như là khúc ca
kêu thêm sự đau thương mất mác. Sông Mã gầm lên ai oán. Câu thơ ấy mang âm
hưởng dữ dội như cào vào lòng người những vết xước sâu không thể nào quên đi
được nhưng nó cũng mang âm hưởng bi tráng khiến cho sự hi sinh của người lính
không hề bi lụy chút nào. Tây Tiến mùa xuân ấy như khúc ca còn vang mãi trong lòng mỗi người.
Tóm lại, đoạn thơ thứ ba đặc sắc nhất của bài thơ có giọng điệu trang trọng thể hiện
tình cảm của nhà thơ một cách sâu sắc. Đặc biệt với những hình ảnh thơ thấm đẫm
kỉ niệm mà nhà thơ hồi tưởng lại man mác buồn nhưng thấm đẫm bi tráng hào hùng.
Nhà thơ khéo léo sử dụng từ Hán Việt khiến đoạn thơ trang nghiêm lên nhiều hơn.
Qua những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, Quang Dũng đã vẽ ra bức tranh về đoàn
binh Tây Tiến. Họ oai nghiêm, lẫm liệt yêu nước nồng nàn nhưng cũng rất lãng mạn.
Đây là đoạn thơ sâu sắc đúc kết cả cái tình, cái thần cho toàn bài, là điểm nhấn nổi
bật mà ta không thể nào quên.
4. Phân tích Tây Tiến khổ 3
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài. Ông sáng tác không nhiều nhưng nhưng hồn thơ
lãng mạn và tài hoa, cái tôi đầy hào hoa và thanh lịch. Tiêu biểu trong đó là bài thơ
Tây tiến. Bài thơ Tây tiến được in trong tập “Mây Đầu Ô”, sáng tác 1948, khi tác giả
rời xa đơn vị cũ, tại Phù Lưu Chanh, bồi hồi xúc động nhớ về đồng đội nên viết bài
thơ. Chân dung chiến sĩ Tây Tiến với khí phách anh hùng, tâm hồn lãng mạn trong
máu lửa chiến tranh đã được Quang Dũng khắc họa thật tài tình thông qua khổ 3 của bài thơ.
Trên những nẻo đường hành quân, chiến đấu, vượt qua bao đèo cao dốc hiểm,
đoàn quân Tây Tiến hiện ra giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp vừa kiêu hùng vừa
cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da
phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Hai câu thơ trần trụi như hiên thực chiến tranh những năm tháng kháng chiến chống
Pháp. Hình ảnh đoàn quân không mọc tóc vừa gợi nét bi hài vừa phản ánh cái khốc
liệt của chiến tranh. Cái hình hài không lấy gì làm đẹp không mọc tóc, xanh màu lá
tương phản với nét dữ oai hùm. Với bút pháp tài hoa, Quang Dũng làm bật chí khí
hiên ngang , tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm quân giặc khiếp sợ.
Dữ oai hùm là hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí của người lính Tây Tiến, tuy các chiến
sĩ có gầy, xanh nhưng không hề yếu, chí khí của người lính vẫn như con hổ nơi
rừng xanh. Cái tài của Quang Dũng là khắc họa chân dung bên ngoài của chiến sĩ
Tây Tiến tuy gầy gò, xanh xao nhưng vẫn toát lên được cái oai phong, khí phách của người lính.
Các chiến sĩ Tây Tiến tuy hành quân, chiến đấu trong muôn vàn gian khổ, thiếu
thốn, bệnh tật, ... nhưng vẫn có những giấc mơ, giấc mộng rất đẹp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Các chiến sĩ Tây Tiến mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội,
biên giới là nơi còn đầy bóng giặc, Hà Nội là nơi còn đó những kỉ niệm, những người thân thương.
Mắt trừng – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh
táo của người lính trong khói lửa ác liệt, gửi mộng qua biên giới là mộng tiêu diệt kẻ
thù,bảo vệ biên cương, lập nên chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn
quân Tây Tiến, của chiến sĩ.
Các chiến sĩ Tây Tiến lại có những giấc mộng đẹp về Hà Nội, về dáng kiều thơm.
Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên Hà Nội Xếp bút nghiên theo việc đao
cung, họ là những chàng thanh niên trẻ hào hoa, lãng mạn và có chút đa tình. Khi xa
Hà Nội, tiến về Tây Bắc để thực hiện nhiệm vụ thì các chiến sĩ luôn Ngàn năm
thương nhớ đất Thăng Long. Sống giữa chiến trường ác liệt nhưng tâm hồn các anh
luôn hướng về Hà Nội, mơ về Hà Nội. Đúng vậy, làm sao các anh có thể quên được
hàng me, hàng sấu, phố cổ trường xưa? ,... Làm sao các anh quên được những tà
áo trắng, những cô gái thân thương,... những dáng kiều thơm đã từng hò hẹn,...?
Hình ảnh dáng kiều thơm của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều điều thú
vị, ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời tiền chiến nhưng dưới ngòi bút của
Quang Dũng nó trở nên có hồn, đặc tả được chất lính trẻ trung, hào hoa, lãng mạn
của binh đoàn Tây Tiến trong trận mạc.
Viết về mộng và mơ của trung đoàn Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc
quan, yêu đời của đồng đội. Đó cũng chính là nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân
dung người lính xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong những năm kháng chiến chống Pháp.
Trong gian khổ chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên mảnh đất miền Tây, họ
nằm lại nơi chân đèo góc núi:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Câu thơ Rải rác biên cương mồ viễn xứ để lại trong lòng ta nhiều thương cảm, biết
ơn, tự hào. Câu thơ gợi cái bi, nếu đứng một mình thì nó gợi một bức tranh xám
lạnh, ảm đạm, hiu hắt và đem đến cho người đọc nhiều xót thương. Nhưng cái tài
của Quang Dũng là đã tạo cho nó một văn cảnh, tiếp theo sau là Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh. Khi nằm trong văn cảnh ấy thì câu thơ càng thể hiện chí khí,
tinh thần của người lính Tây Tiến. Đời xanh là đời trai trẻ, tuổi xuân. Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh là họ sẵn sàng ra trận vì lí tưởng cao đẹp: bảo vệ biên cương,
tiêu diệt kẻ thù, giành độc lập tự do. Họ là những thanh niên Hà Nội, họ tiến về miền
Tây của Tố quốc vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Dẫu thấy cái chết trước mắt họ
vẫn không sợ, họ coi cái chết nhẹ như lông hồng. Họ sẵn sàng quyết tử cho Tố quốc quyết sinh.
Câu thơ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh vang lên như một lời thề thiêng liêng,
cao cả. Các anh quyết đem xương máu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập tự do cho
dân tộc. Tinh thần của người lính Tây Tiến cũng như quyết tâm sắt đá của dân tộc ta
trong những năm kháng chiến chống Pháp.
Cảnh trường bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy được tác giả ghi lại ở hai
câu cuối của đoạn thơ:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Các chiến sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu
hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm áo bào bình dị ấy về
với đất. Một sự ra đi thật nhẹ nhàng, thanh thản! Anh giết giặc vì quê hương, anh
ngã xuống là về đất, nằm trong lòng Mẹ tổ quốc thân thương. Nhà thơ không dùng
từ chết, hi sinh mà dùng từ về đất để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm
lặng mà thanh thản của người lính Tây Tiến. Chiến sĩ Tây Tiến đã sống và chiến đấu
cho quê hương, đã hi sinh cho quê hương, anh về đất bằng tất cả tấm lòng thủy
chung son sắt với Tố quốc. Vì thế mà Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Đây là câu thơ hay, gợi tả không khí thiêng liêng, trang trọng đồng thời tạo âm điệu
trầm hùng, thương tiếc. Sông mã gầm lên hay hồn thiêng sông núi đang tấu lên
khúc nhạc tiễn đưa linh hồn các anh về nơi an nghỉ cùng đất Mẹ.
Đoạn thơ viết về chân dung chiến sĩ Tây Tiến là đoạn thơ độc đáo nhất trong bài.
Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, kết hợp vận dụng sáng
tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc tạo nên những câu thơ có hồn và khắc họa
được vẻ đẹp bi tráng của chiến sĩ Tây Tiến. Các chiến sĩ Tây Tiến đã sống anh hùng và chết vẻ vang.
5. Phân tích đoạn 3 tây tiến học sinh giỏi
Tây Tiến là một bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Quang Dũng. Ban đầu tác phẩm được
đặt tên là Nhớ Tây Tiến, về sau tác giả đã đổi lại thành Tây Tiến. Tác phẩm Tây Tiến
hiện nay đang được đưa vào và giảng dạy trong chương trình Ngữ văn THPT.
Thông qua đoạn 3 bài thơ Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng đã cho người đọc cảm
nhận một khúc tráng ca hào hùng về hình ảnh người lính Tây Tiến hào hoa đã đi vào lịch sử văn chương.
Sau thời gian xa đơn vị và đồng đội, ông viết bài thơ “Tây Tiến” này vào năm 1948,
tại Phù Lưu Chanh là một địa điểm bên bờ sông Đáy hiền hòa. Cảm xúc chủ đạo
của bài thơ là nỗi nhớ, niềm tự hào đối với đoàn binh Tây Tiến, đối với con sông Mã,
núi rừng miền Tây xa xôi. Đó là nỗi nhớ “chơi vơi” bao kỉ niệm đẹp và cảm động của
một thời trận mạc đầy gian khổ, hi sinh. Là đoạn thơ thứ 3 trong bài “Tây Tiến” đã
khắc họa khí phách anh hùng với tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc (…)
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Trên nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua biết bao núi cao dốc thẳm “Heo hút
cồn mây súng ngửi trời”, đoàn binh Tây Tiến hiện ra giữa màu xanh của núi rừng
hào hùng, vừa kiêu hãnh vừa cảm động. Người chiến binh ấy với quân trang màu
xanh của lá rừng, với nước da xanh phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men,
thiếu lương thực: “không mọc tóc”. Câu thơ trần trụi hiện thực chiến tranh những
năm đầu kháng chiến vốn thế. “Không mọc tóc” là hình ảnh phản ánh sự khắc nghiệt của chiến trường:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.
Cái hình hài không lấy gì là đẹp: “quân xanh màu lá”, “không mọc tóc” tương phản
với “dữ oai hùm” một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tinh thần
quả cảm xung trận của chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân giặc phải khiếp sợ.
“Dữ oai hùm” là một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí của người lính mang tính kế thừa
sáng tạo của Quang Dũng. Những chiến binh “Sát Thát” đời Trần: “Tam quân tỳ hổ
khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão); “Tỳ hổ ba quân, giáo gươm chói sáng” (Trương
Hán Siêu). Nghĩa quân Lam Sơn xung trận với khí thế “bình Ngô”: “Sĩ tốt kén tay tì
hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” (Bình Ngô đại cáo) – Một dân tộc anh hùng trên trận
tuyến đánh giặc, thời đại nào cũng có những chiến sĩ “tì hổ” và “dữ oai hùm” thế đó!
Với niềm tự hào, Quang Dũng viết nên một câu thơ rất hay: “Quân xanh màu lá dữ
oai hùm”, lấy cái “thô”, cái “mộc” để tô đậm nên cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong
tâm hồn của người chiến sĩ.
Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn và bệnh tật… muôn lần khó khăn, thử thách nhưng học
vẫn có giấc “mơ”, giấc “mộng” rất đẹp:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Mộng mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, nơi còn đầy những bóng
giặc. “Mắt trừng” – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh
giác, tỉnh táo của con người lính trong khói lửa ác liệt. “Mộng qua biên giới” – mộng
tiêu diệt quân địch, bảo vệ biên cương, lập nên bao chiến công nêu cao truyền
thống anh hùng đoàn binh Tây Tiến. Lại có giấc mơ đẹp. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là
những học sinh, sinh viên và những chàng trai Hà thành “xếp bút nghiên theo việc
đao, cung” và giàu lòng yêu nước và phong độ hào hoa: “Từ thuở mang gươm đi
giữ nước Nghìn năm thương nhớ đất ở Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ). Sống giữa
cái núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây và lửa đạn mịt mù. Nhưng
các anh vẫn mơ về Hà Nội lãng mạn. Quên sao được hàng me, hàng sấu, những
phố cũ, trường xưa, “Những phố dài xao xác hơi may”?.. Quên sao được tà áo
trắng, những thiếu nữ thương yêu, những “dáng kiều thơm” từng hò hẹn. Hình ảnh
“Dáng kiều thơm” trong câu thơ của tác giả Quang Dũng đem đến cho người đọc rất
nhiều thú vị: ngôn từ vốn có trong bài đầy thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới
ngòi bút của nhà thơ chiến sĩ nó trở nên có hồn, đặc tả chất lính hào hoa, trẻ trung
và lãng mạn của người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến trong trận mạc.
Nếu người nông dân mặc áo lính trong thơ của Chính Hữu mang theo nỗi nhớ
“giếng nước gốc đa”, nhớ mái nhà gianh, nhớ ruộng nương…; trong thơ của Hồng
Nguyên nỗi nhớ “người vợ trẻ – Mòn chân bên cối gạo canh khuya”,… thì người lính
trong thơ Quang Dũng, nỗi nhớ gắn liền với “mộng” và “mơ”. Mộng lập những chiến
công, mơ “dáng kiều thơm”. Hữu Loan trong bài thơ “Màu tím hoa sim” cũng viết rất
hay về những nỗi nhớ của người lính chống Pháp: “Từ chiến khu xa Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến tranh
Mấy người đi trở lại Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ bé bỏng chiều quê…”
Viết về “mộng”, “mơ” của người chiến binh Tây Tiến, Quang Dũng ca ngợi tinh thần
lạc quan yêu đời của đồng đội. Đó là một nét khám phá bất tận của nhà thơ khi vẽ
chân dung “anh bộ đội Cụ Hồ” xuất thân từ một tầng lớp tiểu tư sản trong chín năm kháng chiến chống Pháp.
Bốn câu thơ tiếp theo là những nét vẽ bổ trợ, tô đậm chân dung người lính:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Trong gian khổ chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên nơi chiến trường miền
Tây. Họ nằm ở lại nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ của người chiến sĩ “rải rác biên
cương”. Câu thơ để lại trong lòng ta nhiều thương cảm, tự hào: “Rải rác biên cương
mồ viễn xứ”. Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó sẽ tựa như bức tranh
xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt và đem đến nhiều xót thương. Nhưng nằm trong hoàn
cảnh, đoạn mạch và câu thơ tiếp theo: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, đã
nâng cao chí khí tầm vóc người lính. Các anh đã ra trận vì lý tưởng rất đẹp. “Đời
xanh” là đời trai trẻ, tuổi thanh xuân của “Những chàng trai chưa trắng nợ anh
hùng…”, những học sinh, sinh viên ở Hà Nội. Họ lên đường hành quân vì nghĩa lớn
của chí khí làm trai. Họ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” câu thơ “Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời nói thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết
đem xương máu để bảo vệ độc lập và tự do cho Tổ quốc. Anh bộ đội như nhân dân
ta đã đứng lên kháng chiến, quyết tâm sắt đá: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định là không chịu làm nô lệ”. Quang Dũng đã ghi
lại cảnh tượng bi tráng giữa chiến trường miền Tây khi ấy:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Những tráng sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây là niềm kiêu
hãnh. Các người lính Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ với tấm “áo bào” bình dị ấy
“anh về đất”. Một cái chết nhẹ nhàng thanh thản và oanh liệt. Anh ra trận giết địch vì
quê hương. Anh ngã xuống là: “về đất”, là nằm trong lòng Mẹ Tổ quốc thân yêu. Nhà
thơ không dùng từ “chết” hay từ “hi sinh” mà lấy cụm từ “về đất” để ca ngợi sự hi
sinh cao cả bình dị, thầm lặng mà thanh thản, nhẹ nhàng và coi cái chết nhẹ tựa
lông hồng. Người chiến binh Tây Tiến sống và chiến đấu cho quê hương, đã chết vì
đất nước quê hương. “Anh về đất” bằng tất cả tấm lòng chung thủy người chiến sĩ.
Tiếng thác sông Mã “gầm lên” giữa rừng núi miền Tây như tiếng kèn trong bài
“Chiêu hồn liệt sĩ” tống tiễn linh hồn liệt sĩ về an giấc ngàn thu. Câu “Sông mã gầm
lên khúc độc hành” là một câu thơ hay gợi tả được không khí thiêng liêng, đồng thời
tạo nên âm điệu trầm hùng, thương tiếc. Phong cách ngôn ngữ của Quang Dũng rất
đặc sắc, bên cạnh từ ngữ bình dị đời lính như: gục, không mọc tóc, dữu, trừng, về
đất, chiếu, gầm lên… lại có một số từ Hán Việt như là: mộng, mơ, biên giới, dáng
kiều, viễn xứ, áo bào và khúc độc hành nhờ đó mà cái bình dị làm nổi bật cái cao cả
thiêng liêng, cái bình thường tô đậm anh hùng, vĩ đại. Chất bi tráng màu sắc lãng
mạn từ vần thơ tỏa rộng trong không gian chiều dài lịch sử.
Đoạn thơ đã viết về chân dung người lính trong bài thơ “Tây Tiến” là đoạn thơ độc
đáo nhất. Khuynh hướng sử thi cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng
sáng tạo trong miêu tả biểu lộ cảm xúc, tạo nên những câu thơ “có hồn”. Người lính
đã sống anh dũng và chết oanh liệt. Hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến mãi mãi là
tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc. “Anh Vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế!”
(Cá nước năm 1947, Tố Hữu).
6. Phân tích khổ 3 Tây Tiến ngắn gọn
Quang Dũng là một trong những nghệ sĩ rất đa tài. Ông có thể vẽ tranh, làm thơ,
ông còn biết sáng tác nhạc. Thơ ca của Quang Dũng nổi bật với một hồn thơ lãng
mạn, hào hoa, thắm đượm nghĩa tình và tinh thần dân tộc. Bài thơ Tây Tiến là một
trong những bài thơ thể hiện cái tình đó của Quang Dũng
Lúc đầu bài thơ có tên “Nhớ Tây Tiến”. Sau bỏ “nhớ” giữ lại “Tây Tiến” vì Quang
Dũng cho rằng bài thơ vốn đã tràn đầy nỗi nhớ, người đọc sẽ cảm thấy. Bài thơ
được nảy sinh trong những năm tháng không thể nào quên, từ một môi trường sống
và chiến đấu không thể nào quên của cuộc đời người lính
Bài thơ được viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh (Hà Tây), khi ông đã chuyển
sang đơn vị khác và nhớ về đơn vị cũ là đoàn quân Tây Tiến. Bài thơ thể hiện nỗi
nhớ của tác giả về kỉ niệm với thiên nhiên Tây Bắc và đơn vị cũ của mình. Trong tác
phẩm, hình tượng những người lính Tây Tiến được thể hiện rất rõ trong đoạn thơ thứ 3 của bài thơ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ...
Sông Mã gầm lên khúc độc hành!
Đoàn quân Tây Tiến nơi lưu giữ trong trái tim Quang Dũng những tư tưởng tốt đẹp
nhất của thời thanh xuân là đơn vị được thành lập năm 1947, Quang Dũng là đại đội
trưởng. Đoàn quân có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào.
Các chiến sĩ trong đội quân chủ yếu là những học sinh, sinh viên, dân lao động
thành thị thuộc mọi ngành nghề khác nhau hợp thành một đội quân rất đoàn kết.
Cuộc sống nơi chiến địa gian khổ, thiếu thốn vô cùng nhưng trong họ vẫn luôn ngời
sáng phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ với tinh thần lãng mạn, lạc quan, không sợ gian
khổ. Hình tượng người lính Tây Tiến xuất hiện với một vẻ đẹp đậm chất bi tráng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Hình ảnh “không mọc tóc” gợi ra sự thật nghiệt ngã của hoàn cảnh sống và chiến
đấu của các chiến sĩ Tây Tiến nhưng mang đậm chất khí chất ngang tàng. Hình ảnh
“Quân xanh màu lá” với nghệ thuật đối lập “Không mọc tóc”, “quân xanh” – "dữ oai
hùm” gợi lên dáng vẻ xanh xao tiều tụy vì căn bệnh sốt rét. Tuy nhiên, hơn hết từ
trong sâu thẳm con người họ vẫn toát lên dáng vẻ oai như những con hổ chốn rừng
thiêng, làm nổi bật tính cách dũng cảm của người lính.
Sự oai phong lẫm liệt còn được thể hiện qua ánh mắt. “Mắt trừng” chính là ánh mắt
dữ dội, rực cháy căm hờn, mang mộng ước giết kẻ thù. Họ rất anh dũng, kiên
cường, đứng trước mũi súng quân thù vẫn hiên ngang nhưng nét đẹp lãng mạn vẫn
rất rõ nét, sâu sắc trong tâm tưởng họ: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, Quang
Dũng đã không tiếc lời, ông đã dành những từ ngữ vô cùng trang trọng khi nói về vẻ
đẹp các cô gái Hà Nội: bên trong cái dáng vẻ oai hùng, dữ dằn là trái tim, là tâm hồn
khao khát với cuộc đời:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Là những câu thơ thể hiện sâu sắc vẻ đẹp về sự hi sinh của người lính Tây Tiến.
Các từ Hán Việt cổ kính, trang trọng “biên cương, mồ viễn xứ” tạo không khí trang
trọng, âm hưởng bi hùng làm giảm đi hình ảnh của những nấm mồ chiến sĩ nơi rừng
hoang biên giới lạnh lẽo, hoang vu. Vẻ đẹp bi tráng còn được thể hiện qua khí
phách người lính, lí tưởng anh hùng lãng mạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, quyết
tâm hiến dâng sự sống cho đất nước:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Từ ngữ ước lệ “áo bào” gợi lên vẻ đẹp bi tráng của sự hi sinh: nhìn cái chết của
đồng đội giữa chiến trường thành sự hy sinh rất trang trọng của người anh hùng
chiến trận. Biện pháp nói giảm: “anh về đất” làm vơi đi sự bi thương khi nói về cái
chết của người lính Tây Tiến. Biện pháp cường điệu: “Sông Mã gầm lên khúc độc
hành” để nói lên rằng thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc hùng tráng đưa tiễn người
lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến ra đi trong khúc nhạc vĩnh hằng.
Bằng những câu thơ mang âm hưởng bi tráng, đoạn thơ khắc họa chân dung người
lính từ ngoại hình đến nội tâm, đặc biệt là tính cách hào hoa lãng mạn bi mà không
lụy. Những con người đã làm nên vẻ đẹp hào khí của một thời. Họ mang phẩm chất
chung của người lính cụ Hồ.
Bài thơ là khúc ca bi tráng và tinh thần lãng mạn về hình tượng người lính Tây Tiến
trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Tuy gian khổ, thiếu thốn
mà vẫn gợi lên phẩm chất anh hùng hào hoa, lãng mạn.
7. Phân tích khổ 3 Tây Tiến nâng cao
Quang Dũng (1921 - 1988) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu,
lãng mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài
quê mình. Trong các sáng tác của ông thì Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu
cho đời thơ, phong cách sáng tác của ông. Bài thơ được viết bằng bút pháp lãng
mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc
da diết của tác giả về những người lính Tây Tiến anh dũng hào hoa và núi rừng
miền Tây hùng vĩ, mĩ lệ. Có thể nói, nỗi nhớ da diết những người đồng đội Tây Tiến
của Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ khắc họa bức chân dung người lính Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bài thơ Tây Tiến được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (xuất bản năm 1986) nhưng
trước đó đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài
thơ này từ năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi ông đã rời khỏi đoàn quân Tây
Tiến chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Đơn vị quân đội Tây Tiến được
thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào,
đánh tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn
hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng; chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh
niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và
chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn
lạc quan và chiến đấu anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến
trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ
Tây Tiến, nhưng sau đó lại đổi lại là Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi
nhớ, hồi ức, kỉ niệm của Quang Dũng về đơn vị cũ. Thế nên toàn bài thơ là một nỗi
nhớ cồn cào, tha thiết.
Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành
quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ,
dữ dội, hoang sơ. Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm
liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Đoạn 3 tái hiện lại chân dung
người lính Tây Tiến. Đoạn 4 là lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. Toàn bài thơ
in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài
năng và tâm hồn ấy, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính
Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi
rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ.
Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng mà còn nhớ những người đồng
đội cùng trèo đèo lội suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ
đã hồi tưởng và vẽ lại bức chân dung của họ với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang
Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc
nên bức tượng đài tập thể, khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân.
Người lính ấy phải sống trong điều kiện sinh hoạt, chiến đấu thiếu thốn nên:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà
người lính thường mắc phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập
đến căn bệnh này: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt
mồ hôi”. Quang Dũng trong bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn,
căn bệnh quái ác đó và sự hi sinh lớn lao của người lính tây tiến, nhưng hiện thực
nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để
thuận lợi cho việc đánh giáp lá cà, những cái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao vì đói
khát, vì sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở nên oai
phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng.
Những người lính ấy một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực tình yêu thương:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức “trừng” lên quyết tâm hoàn thành
nhiệm vụ nhưng trái tim vẫn để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành,
những người em, những người bạn gái thân thương quê nhà. Quang Dũng với cái
nhìn nhiều chiều, đã khắc hoạ chân dung người lính không chỉ ở dáng vẻ bên ngoài
mà còn thể hiện được thế giới nội tâm, tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ.
Trong chiến tranh, mất mát hi sinh là không tránh khỏi. Quang Dũng đã nêu lên hiện
thực này không che giấu theo cách riêng của ông:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ”, “chiến
trường” kết hợp với từ láy “rải rác” đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những
đau thương vì mất mát lắng xuống. Điều nổi bật lên là vẻ đẹp lãng mạn của lí tưởng
quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến. Cách nói “chẳng tiếc
đời xanh” vang lên khảng khái khẳng định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến. Hai câu thơ:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành
quân chiến đấu không có đến cả manh chiếu bó thân, qua cái nhìn của Quang Dũng
lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng mang dáng dấp của những tráng sĩ
oai hùng thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm “anh về đất” làm
vợi đi cái bi thương, rồi cái bi ấy bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của
sông Mã. Quang Dũng đã mượn âm thanh của dòng sông, của thiên nhiên, của hồn
thiêng Tây Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ mang âm
hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi
lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ có nhịp điệu
chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng.
Quang Dũng và cả đoàn quân Tây Tiến nguyện thề “Hồn về Sầm Nứa chẳng về
xuôi” thể hiện quyết tâm gắn bó máu thịt với những ngày những nơi mà đoàn quân
đã đi qua. Tây Tiến mùa xuân ấy đã trở thành một thời điểm một đi không trở lại của
lịch sử. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn hào
hùng đến nhường ấy trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương
vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh của đồng đội. Đoạn
thơ với, cảm hứng lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo bạo, trên nền hiện thực nghiệt
ngã đã chạm khắc chân dung tập thể những người lính Tây tiến đậm chất bi tráng.
Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình
ảnh về đồng đội những ngày gian khổ nơi núi rừng miền tây.
8. Phân tích bài thơ Tây Tiến khổ 3
Những bài thơ hay thường tạo nên nhiều kiểu rung cảm thẩm mỹ nơi người đọc,
thậm chí còn gây nên nhiều tranh luận xung quanh các câu chữ, hình ảnh, cảm
xúc... Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những bài thơ như thế. Hơn nửa thế
kỷ trôi qua, Tây Tiến không chỉ đứng vững mà còn có sức sống kì diệu. Trong tâm
hồn thi nhân, Tây Tiến là một thời để thương, để nhớ, nhớ những kỉ niệm của người
chiến binh trong những ngày tháng sống và chiến đấu cùng binh đoàn, nhớ cảnh
rừng núi Tây Bắc vừa hiểm trở vừa hùng vĩ vừa không kém phần thơ mộng, nhớ
những tháng ngày hành quân gian khổ, nhớ những kỉ niệm đẹp đẽ, những thời khắc
nghỉ lại bản làng đầm ấm, thắm thiết tình quân dân…