TOP 19 bài Phân tích Vợ nhặt hay nhất - Ngữ Văn 12
Xin gửi tới quý thày cô và bạn đọc bài văn mẫu "Phân tích Vợ nhặt". Đây là tài liệu không thể thiếu đối với các bạn học sinh chuẩn bị thi cuối học kì 2 lớp 12 và thi THPT Quốc gia môn NGỮ VĂN. Hy vọng tài liệu trên giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Phân tích truyện Vợ nhặt - Ngữ văn 12
Khái quát về tác giả, tác phẩm I. Tác giả Kim Lân
Kim Lân (1920 - 2007) tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu,
xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh khó khăn, ông chỉ
được học hết tiểu học, rồi vừa làm thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong vừa viết
văn. Năm 1944, Kim Lân tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, sau đó liên tục hoạt
động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim).
Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn và
người nông dân. Ông có những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng
quê - những thú chơi và sinh hoạt văn hóa cổ truyền của người nông dân vùng
đồng bằng Bắc Bộ, được gọi là “những thú đồng quê”, “phong lưu đồng ruộng
như: chơi núi non bộ, thả chim, đánh vật, chọi gà,… Ông viết chân thật, xúc
động về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của
họ - những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Dù viết về
phong tục hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng
cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn
yêu đời; thật hà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa. Năm 2001, Kim
Lân được Nhà nước tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn năm 1955), Con chó xấu
xí (tập truyện ngắn năm 1962).
Truyện ngắn Vợ nhặt được rút từ tập truyện Con chó xấu xí.
II. Hoàn cảnh sáng tác truyện ngắn Vợ nhặt
Truyện "Vợ nhặt" có tiền thân từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư". Tác phẩm được viết
ngay sau cách mạng tháng Tám nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Sau hoà
bình lập lại (1954) Kim Lân dựa vào phần cốt truyện cũ và viết lại thành truyện
"Vợ nhặt". Tác phẩm được in trong tập truyện "Con chó xấu xí". Truyện tái hiện
lại bức tranh nạn đói năm 1945. Qua đó, thể hiện tấm lòng cảm thông sâu sắc
của nhà văn đối với con người trong nạn đói.
Dàn ý Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài mẫu 1 1. Mở bài
Giới thiệu nhà văn Kim Lân và Vợ nhặt. (Kim Lân là nhà văn vô cùng thành
công khi viết về đề tài người nông dân nghèo. Một trong những tác phẩm nổi
bật của ông chính là truyện ngắn Vợ nhặt). 2. Thân bài
a. Nhân vật anh Tràng
• Lai lịch, ngoại hình
Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già.
Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.
Ngoại hình xấu xí, thô kệch, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai
bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào
cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn… Đầu cạo trọc nhẵn, cái
lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cười cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch. • Tính cách
Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của
mình. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy.
Tràng là người đàn ông nhân hậu, phóng khoáng: ban đầu không chủ tâm tìm vợ.
Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui
vẻ chấp nhận. Hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con
đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê… Anh còn mua 2 hào
dầu thắp sáng trong đêm đầu có vợ.
Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm: Anh ngoan
ngoãn với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Từ một anh phu xe cục
mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến
những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế
ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ đến cảnh những
người nghèo đói ầm ầm keo nhau đi trên đê Sốp để cướp kho thóc của Nhật và
đằng trước là lá cờ đỏ to lắm. • Tổng kết
Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám.
Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng là anh phu xe cục mịch nhưng có một đời
sống tâm lý sống động với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động bằng ngòi bút sắc sảo.
Qua nhận vật Tràng, nhà văn phản ánh mặt đen tối trong hiện thực xã hội trước
năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo với vẻ đẹp tâm hồn của họ.
b. Nhân vật cô thị
• Hoàn cảnh, ngoại hình:
Một người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán, gốc gác, không gia đình.
Không có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan
sắc xấu xí ấy thêm phần thảm hại: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy
xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, “cái ngực
gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”.
• Tính cách thị khi mới gặp Tràng:
- Cách nói năng, hành động đanh đá chua ngoa:
Cong cớn, sưng sỉa, chỏng lỏn vì miếng ăn.
Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu
dáng đon đả, đổi hẳn thái độ.
Cúi đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì lấy
đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà”. → Vô duyên, hành động táo bạo và bất chấp vì miếng ăn.
→ Mọi hành động của Thị đều chỉ vì muốn được sống, khao khát được hạnh
phúc, được có một mái ấm, một tấm chồng để nương tựa những lúc khó khăn
như này dẫn đến hành động theo không Tràng về làm vợ.
→ Một hiện thực đau xót của xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người dường như đã
xuống đến mức âm, thậm chí còn không bằng cọng rơm cọng rác, để đến nỗi
những người làng trông thấy Tràng dẫn vợ về họ còn cho đó là “của nợ”.
• Sau khi trở thành vợ Tràng:
- Trên đường trở về nhà với Tràng:
Thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng
che nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về nhà chồng.
Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người
làng, thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không.
- Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm, khiến
thị thất vọng, nhưng thị không hề phàn nàn với Tràng.
Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, dáng điệu khép
nép, ngại ngùng, thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn
với dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.
Sau đêm tân hôn, thị trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo
vát, gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân
hong, gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,...
Khi đối diện với nồi cháo cám “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và
vào miệng” → Cách cư xử tinh tế, bộc lộ sự thấu hiểu và cảm thông.
Kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá
kho thóc của Nhật. → Bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người
đàn bà bà này không cam chịu cuộc đời đói kém và tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.
c. Nhân vật bà cụ Tứ
• Sự ngạc nhiên của cụ khi a Tràng dắt vợ về
Khi làm về, thấy một người phụ nữ ngồi trong nhà mà còn thưa u. Bà cụ ngạc
nhiên vì con mình xấu xí, nghèo mà vẫn có vợ trong thời khó khăn.
Bà cụ vẫn không tin vào những gì con trai mình nói “Kìa nhà tôi nó chào u”…
“Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”
Bà vẫn không hiểu chuyện gì đang xảy ra
• Tâm trạng vừa mừng vừa tủi của bà cụ
Khi biết rằng con bà “ nhặt” được vợ: bà vui vì con đã an bề gia thất, buồn phận
làm mẹ mà không cưới nổi vợ cho con và bà nghĩ đến chồng, đến con gái lại càng trở nên buồn hơn.
Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn: Bà không biết
lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng con đã có vợ. Bà khóc vì thương con không
biết làm sao vượt qua nổi khó khăn này.
• Nỗi lo của bà cụ Tứ
Bà lo cho con trai, con dâu, cái gia đình nhỏ của mình không biết phải qua
những ngày khó khăn này như thế nào. → Khuyên con, khuyên dâu thương
nhau, cố gắng vươn lên.
→ Nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời.
• Niềm tin vào tương lai, vào cuộc sống của cụ Tứ
Bà suy nghĩ vui trong những điều tốt đẹp tương lai “Rồi ra may mà ông giời cho khá…”
Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa.
Vui trong bữa cơm đạm bạc đầu tiên có con dâu.
Bà vẫn luôn tạo một không khí ấm cúng cho bữa ăn để con dâu đỡ tủi.
→ Người mẹ nghèo từng trải đời, hết mực yêu thương con, luôn lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn.
→ Là đại diện cho người mẹ Việt Nam cần mẫn, mộc mạc, giản dị, giàu tình
yêu thương và đức hi sinh
d. Tình huống truyện
Bối cảnh xây dựng tình huống truyện: Nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết
quả là hơn hai triệu người chết. Cái chết hiện hình trong tác phẩm tạo nên một
không khí ảm đạm, thê lương. Những người sống luôn bị cái chết đe dọa.
Ngoại hình và gia cảnh của Tràng khiến anh khó lấy vợ: xấu xí, thô kệch, ăn nói
cọc cằn, thô lỗ. Nhà nghèo, đi làm thuê nuôi mình và mẹ già. →Tràng lấy vợ là
lấy cho mình thêm một tai họa.
- Tràng lấy vợ theo kiểu "nhặt" được: vài câu nói đùa, 4 bát bánh đúc là nên
duyên vợ chồng mà không cần tìm hiểu, yêu đương và cưới hỏi. Việc Tràng lấy
vợ là một tình huống bất ngờ khiến cả xóm ngụ cư và bà cụ Tứ hết sức ngạc
nhiên. Bản thân Tràng có vợ rồi vẫn còn " ngờ ngợ".
→ Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lí vì nếu không phải năm đói
khủng khiếp thì người ta không thèm lấy một người như Tràng.
• Giá trị hiện thực: tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói
+ Cái đói dồn đuổi con người: người chết như ngả rạ…
+ Cái đói bóp méo cả nhân cách: theo không người ta về làm vợ.
+ Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.
→ Vợ nhặt có sức tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân, phát xít.
• Giá trị nhân đạo:
Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật: anh
Tràng đối với cô thị, bà cụ Tứ với người con dâu và giữa 3 người họ với nhau.
Tràng rất trân trọng người "vợ nhặt" của mình.
Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người "vợ nhặt":
không còn đanh đá, chỏng lỏn mà thay vào đó là cô vợ đảm đang, biết lo toan, vun vén việc nhà.
Tình yêu thương con của bà cụ Tứ: Bà luôn miệng nói về ngày mai với những
dự định thiết thực tạo niềm tin cho dâu con vào một cuộc sống tốt đẹp.
→ Dù cho cuộc sống có nghèo khổ, khắc nghiệt thế nào thì ở họ vẫn tràn ngập
tình yêu thương và hi vọng về một tương lai tốt đẹp, tươi sáng hơn. Cái đói có
thể làm họ nghèo nàn, xơ xác về thể chất nhưng tình cảm và tấm lòng nhân hậu,
tình yêu thương dành cho nhau thì không cái đói nào có thể làm lu mờ. 3. Kết bài
Vợ nhặt là một trong những tác phẩm vô cùng thành công của Kim Lân. Với
những giá trị, ý nghĩa, thông điệp sâu sắc của mình, tác phẩm đã gây nhiều dấu
ấn quan trọng trong lòng bạn đọc.
Dàn ý Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài mẫu 2 I. Mở bài
- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh
nông thôn, hình tượng người nông dân lao động.
- Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông
dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng
ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ. II. Thân bài
1. Ý nghĩa nhan đề
“Vợ nhặt”: nhặt được vợ, thể hiện sự rẻ rúng của thân phận con người và phản
ánh tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói.
2. Tình huống truyện
- Tình huống: Tràng - một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại
là nhặt được, theo về không.
- Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hoàn cảnh của
Tràng khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo không về, tự ngờ
ngờ mình đã có vợ ư), với những người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.
- Tình huống éo le: hoàn cảnh gia đình và xã hội (khung cảnh nạn đói) không
cho phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, khó có
thể trở thành chỗ dựa cho nhau. 3. Nhân vật Tràng
- Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn,
cuộc sống bấp bênh, ..., bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai
bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, ...
a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ
- Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không
có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình. - Lần gặp 2:
+ Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư
dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
+ Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng
thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của
kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc,
thương yêu người cùng cảnh ngộ.
+ Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của
Tràng trước quyết định lấy vợ. b. Trên đường về
+ Vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm
thấy vênh vênh tự đắc”, ... Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.
+ Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa. c. Khi về đến nhà
+ Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn
tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
+ Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi
vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
+ Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải
nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
+ Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là
“phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng
Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy
+ Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần
áo, ...), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng
thấy mình trưởng thành hơn.
+ Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay
phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
- Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt
đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.
4. Nhân vật người vợ nhặt a. Lai lịch
- Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao
con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
- Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của
con người trong cảnh đói. b. Chân dung
- Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
- Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính
là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo. - Lần thứ hai:
+ Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn,
khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
+ Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ ... cùng về”, thị đã theo về thật
bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.
- Nhận xét: Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách
con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản
chất mà do cái đói xô đẩy. c. Phẩm chất
- Có khát vọng sống mãnh liệt:
+ Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo
không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
+ Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”,
thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
- Thị là người ý tứ và nết na:
+ Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị
ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
+ Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở
mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập
được vị trí trong gia đình.
+ Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã
rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
+ Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát,
chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
+ Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào
miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không làm bà buồn.
- Nhận xét: Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ
không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
- Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái
Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
- Nêu cả nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.
5. Nhân vật bà cụ Tứ
- Giới thiệu nhân vật: dáng đi lọm khọm, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho
húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.
- Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước
sự xuất hiện của người đàn bà lạ.
- Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoà đi”: thương cho con trai phải
lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà
khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.
- Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây ... đỡ mỏi chân”, nói về tương
lai với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn, ...
- Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu. III. Kết bài
- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo
le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật,
ngôn ngữ bình dị, gần gũi.
- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh
người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức
sống mãnh liệt của họ.
Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 1
Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê ở làng Phù
Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó
khăn, ông chỉ được học hết bậc Tiểu học rồi phải đi làm. Yêu thích văn chương,
ông bắt đầu sáng tác từ năm 1941. Một số truyện ngắn của ông lấy đề tài ở cuộc
sống lam lũ của người nông dân hoặc các sinh hoạt văn hóa truyền thống ở thôn quê.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông chuyên viết truyện ngắn về làng quê, mảng
hiện thực mà ông hiểu biết sâu sắc. Theo Nguyên Hồng thì Kim Lân là nhà văn
một lòng đi về với đất, với người, với những gì thuần hậu nguyên thủy của cuộc
sống nông thôn. Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955),
Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962). Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất
của Kim Lân, được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 bùng nổ
nhưng đến sau hòa bình lập lại 1954 mới cho ra mắt bạn đọc trong tập Con chó xấu xí.
Truyện Vợ nhặt kể về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của nhân dân ta trong thời
gian xảy ra nạn đói khủng khiếp đã làm chết hơn hai triệu người. Đấy là hậu quả
chính sách cai trị dã man của thực dân Pháp trong mấy mươi năm và chủ trương
tàn bạo “nhổ lúa trồng đay” của phát xít Nhật. Cũng như một số tác phẩm khác
viết về nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước những số phận
bất hạnh. Thông qua truyện, tác giả tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp,
phát xít Nhật; đồng thời phản ánh khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm
tin vào tương lai tươi sáng của người dân lao động.
Tóm tắt nội dung như sau: Anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, chỉ với vài câu bông
đùa và mấy bát bánh đúc mà nhặt được cô vợ đang sống dỡ chết dở vì đói. Họ
thành vợ thành chồng giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn diễn ra
âm thầm trong bóng tối lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà
có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới
chỉ có rau chuối, cháo loãng và muối Mẹ chồng đãi nàng dâu và con trai món
chè nấu bằng cám. Câu chuyện của ba mẹ con xoay sang việc Việt Minh tổ chức
phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Trong óc Tràng hiện lên hình ảnh
của đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…
Nhan đề Vợ nhặt đã thu hút sự chú ý của người đọc ngay từ đầu. Vợ nhặt là vợ
theo không, chẳng cưới xin gì. Tựa đề khá lạ của truyện đã nói lên đầy đủ về
cảnh ngộ, số phận của nhân vật. Chuyện anh Tràng bỗng dưng nhặt được vợ
phản ánh tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo
trong nạn đói khủng khiếp xảy ra vào mùa xuân năm 1945.
Thành công trước tiên của truyện Vợ nhặt là ở chỗ tác giả đã tạo ra một tình
huống độc đáo: Một anh chàng ngụ cư xấu xí, nghèo khổ, ế vợ, vậy mà đã nhặt
được vợ chỉ bằng vài bát bánh đúc. Giá trị của con người rẻ rúng đến thế là
cùng! Tác giả diễn tả tình huống đặc biệt này qua thái độ ngạc nhiên của dân
xóm ngụ cư khi thấy Tràng dẫn về nhà một người đàn bà lạ. Họ ngạc nhiên bởi
thời buổi đói khát này, đến nuôi thân còn chẳng nổi vậy mà Tràng còn dám lấy
vợ. Bà mẹ của Tràng cũng sửng sốt vì không ngờ con trai mình đã có vợ. Thậm
chí chính Tràng cũng chẳng hiểu tại sao mình lại có vợ dễ dàng đến thế.
Nguyên nhân sâu xa là do nạn đói khủng khiếp đang xô đẩy còn người vào chỗ
chết nên người đàn bà kia mới phải chấp nhận làm vợ Tràng. Ý nghĩa tố cáo của
tác phẩm tuy kín đáo nhưng sâu sắc. Tác giả không trực tiếp nói đến tội ác của
bọn đế quốc, phong kiến, vậy mà tội ác của chúng cứ phơi bày ra một cách đáng
ghê tởm và tình cảnh cớ cực, đói khát của dân nghèo quả là thê thảm.
Tình huống lạ lùng nói trên là đầu mối cho sự phát triển của nội dung truyện,
tác động đến diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật. Bối cảnh lớn
của truyện là nạn đói năm 1945, bối cảnh nhỏ là cái xóm ngụ cư tồi tàn ven chợ.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên bức tranh hiện thực với màu sắc ảm đạm và hình ảnh thê lương.
Cách đây không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con lại bu theo anh,
đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho
đi… Cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một lúc. Nhưng
bây giờ thì niềm vui nhỏ nhoi ấy không còn nữa: trẻ con không đứa nào buồn ra
đón Tràng… Chúng nó ngồi ủ rũ dưới những xó đường, không buồn nhúc
nhích… Nụ cười dễ dãi mọi ngày của Tràng cũng tắt: Trong bóng chiều nhá
nhem, Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay,
cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước. Hình như những lo lắng chật vật trong một
ngày đè xuống cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn… Đâu đâu cũng thấy
cảnh: Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt
bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp
lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ,
đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí
vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Quả là một cảnh tượng khủng khiếp! Thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra
nạn đói chưa từng thấy từ trước đến nay, khiến hàng triệu người chết đói. Khắp
nơi, đâu đâu cũng bao phủ bởi một màu địa ngục.
Tràng, nhân vật chính của câu chuyện là một thanh niên ngụ cư nghèo khổ, xấu
xí, sống hiu quạnh với mẹ già trong túp lều tồi tàn ở mé sông. Ngày xưa, kiếp
ngụ cư tủi nhục trăm bề. Họ bị dân làng khinh rẻ và phải làm những công việc
bị coi là hèn hạ như đầy tớ, thằng mõ… Dân địa phương dù nghèo đến mấy
cũng không chịu gả con gái cho đám ngụ cư vì cho rằng như thế là vô phúc. Đã
thế Tràng lại còn xấu xí: …hai con mắt nhỏ tí… quai hàm bạnh ra… bộ mặt thô
kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lí thú vừa dữ tợn… cái
đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước… cái lưng to rộng như lưng gấu… Vì thế nên
anh đã đứng tuổi mà vẫn không sao lấy được vợ.
Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào những dịp chở thóc lên tỉnh.
Lần thứ nhất, hai bên chỉ đùa bỡn dông dài vài câu rồi thôi. Lần sau gặp tại,
Tràng không nhận ra vì chị ta thay đổi nhiều quá. Chị ta nhắc mãi anh mới nhớ
ra và toét miệng cười xin lỗi rồi mời ăn trầu. Chị ta sỗ sàng gợi ý: Có ăn gì thì
ăn, chả ăn giầu. Anh vui vẻ đãi chị một bữa bánh đúc (thứ quà của người nghèo)
no nê. Thấy chị cắm cúi ăn như chưa bao giờ được ăn, Tràng động lòng thương,
liền bảo: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Câu nói của Tràng nửa đùa nửa thật. Đùa ở chỗ bỡn cợt cho vui, nhưng thật ở
chỗ trong thâm tâm, Tràng cũng đang muốn có vợ. Khốn nỗi vì anh nghèo quá
nên không ai chịu lấy. Thời ấy, đứng tuổi như Tràng mà chưa có vợ là không
bình thường, là bất hạnh. Câu nói của anh vừa tếu táo vừa đượm vẻ chua chát: Làm đếch gì có vợ…
Đã từ lâu, anh ao ước có được một người vợ, nhưng chí ít cũng phải là người
bình thường, khỏe mạnh chứ đâu phải là loại chết đói chết khát, dở người dở ma kia?
Tràng nói đùa không ngờ chị ta theo về thật khiến anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này
đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Nghĩ rồi
lo, nhưng anh tặc lưỡi: Chậc, kệ! Có lẽ anh cho rằng mình đang mạnh chân
khỏe tay, lại có công ăn việc làm, nên dẫu đèo bòng thì cũng chưa đến nỗi chết
đói ngay đâu mà sợ. Vả lại, anh nỡ lòng nào bỏ người đàn bà kia chết đói cho đành?
Chẳng còn là chuyện đùa bỡn nữa. Không chỉ đơn giản là cứu người mà còn
may mắn tự nhiên có được vợ nên Tràng phải nghiêm túc và có trách nhiệm.
Anh đưa chị ta vào chợ tỉnh, đãi thêm một bữa thật no, sắm cho cái thúng đựng
mấy thứ lặt vặt rồi dẫn về nhà. Trong lòng Tràng giờ đây không chỉ có tình
thương mà còn có niềm vui sướng, háo hức.
Mấy lần Tràng định nói với thị một vài câu cho tình tứ mà chẳng biết nói thế
nào. Cái phút ban đầu bao giờ chả thế. Đùa thì tự nhiên. Nửa đùa nửa thật đã
khó. Nay đã là thật rồi, khó biết mấy! Mà mọi chuyện có bình thường, êm đẹp
cả đâu? Tràng lúng túng là phải.
Tuy vậy, từ trong sâu thẳm lòng anh, niềm vui bất ngờ cứ dâng lên mãi: Trong
một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả
cái đói khát ghê gớm đang đe dọa… Trong lòng hắn bấy giờ chỉ còn tình nghĩa
với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn
ông nghèo khổ ấy… Đúng là thế. Đó là niềm vui to lớn nhất đời: anh đã có vợ.
Tình cảm của anh đối với người đàn bà xa lạ kia không chỉ là thương hại, cưu
mang mà còn là lòng biết ơn bởi chị ta đã chịu làm vợ anh mà không đòi hỏi
một điều kiện nào. Nhờ thế anh mới có được vợ và cuộc đời anh mới đổi khác.
Từ nay, anh không còn phải sống thui thủi một mình một bóng nữa.
Tràng dẫn người đàn bà về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Họ đi vào cái ngã tư
xóm chợ… xác xơ, heo bút., Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có
ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ
đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ
gào lên từng hồi thê thiết…
Bức tranh ngập tràn tử khí. Ảm đạm cảnh, ảm đạm người, nhà cửa, xác xơ, heo
hút, úp súp, tối om… chẳng khác chi những nấm mồ hoang lạnh. Sự sống chỉ
còn thoi thóp. Cái chết đã đến, đang đến. Lại thêm tiếng quạ cứ gào lên từng hồi
bởi chúng đã đánh hơi thấy mùi xác chết. Tất cả cảnh vật đểu đang lâm vào thế
lụi tàn, tan rữa. Giọng văn của Kim Lân ở đoạn này rất tỉnh táo, khách quan
nhưng dồn nén cảm xúc đau thương nên gây ấn tượng mạnh.
Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng
thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ,
để xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái
chết, họ tìm đến sự sống. Giọng kể của tác giả chợt trở nên hóm hỉnh: Mặt hắn
có một vẻ gì phởn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt
thì sáng lên lấp lánh. Tràng vui sướng trước sự kiện to lớn bất ngờ của đời mình:
anh đã kiếm được vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan, mình cũng đói,
mẹ già cũng đói, thế mà lại tự nhiên có vợ. Chuyện lạ lùng mà thú vị!
Lạ lùng với Tràng và lạ lùng cả với cái xóm ngụ cư tồi tàn, nhỏ bé này. Cái
cảnh Tràng đi trước, người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng rón rén,
e thẹn, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa
mặt… làm cho mọi người tò mò đổ ra xem. Lũ trẻ con thấy lạ trước. Cải lạ lùng
đã thắng cái đói, trả lại tính vui đùa hồn nhiên vốn có của chúng. Một đứa đột
ngột gào lên: Anh Tràng ơi! Chông vợ hài! khiến Tràng phải bật cười chửi yêu:
Bố ranh! mà trong bụng thì khoái lắm. Tiếp theo trẻ là bà con xóm chợ ai cũng
thấy lạ. Họ bàn tán… Họ hiểu đôi phần, khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rõ hẳn
lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui.
Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Họ muốn chia vui cùng anh. Cái xóm
ngụ cư đang hấp hối này bỗng bừng lên một thoáng sống.
Vui đấy nhưng lo ngay đấy. Người ta lo thay cho Tràng: ôi chao! Giời đất này
còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này
không? Ấy là họ lo cho cái sự sống đang phải đối mặt từng ngày với cái chết và
cứ hi vọng vượt lên cái chết.
Hai người về đến nhà Tràng. Cái tổ ấm của họ ra sao trong đêm tân hôn? Sự
sống được tiếp nối như thế nào?
Cái gọi là nhà đúng ra chỉ là túp lều vắng teo… rúm rớ. Trong lều, niêu bát,
xống áo… bừa bộn trên giường, dưới đất… Khung cảnh hoang tàn, vắng lạnh.
Tràng chợt có cảm giác sờ sợ người đàn bà ngồi bất động ở đầu giường như một
bóng ma… Có cái gì đó kì dị như trong truyện ma quỷ thời xưa.
Đến đêm, cảnh tượng lại càng lạ lùng hơn nữa. Tràng chỉ dám thắp đèn có một
lúc. Hai vợ chồng nằm bên nhau, đành giấu những gì yên và vui vào bóng tối.
Nhưng bóng tối cũng không yên mà hãi hùng, đáng sợ bởi đầy tiếng hờ khóc tỉ
tê… vẳng ra từ những nhà có người chết đói.
Lấy vợ lấy chồng là việc lớn một đời, là hạnh phúc trăm năm. Ấy thế mà ở đây,
chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của hai người lại bị bủa vây bởi cái đói và
cái chết. Buổi chiều là tiếng quạ kêu, là bóng người dật dờ như bóng ma, ban
đêm là tiếng hờ khóc người chết… Nhưng sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết,
sự sống vẫn sinh sôi nảy nở. Bi thương cùng cực thành dữ dội. Có cái gì đó
giống như một cảnh trong bi kịch của sếch-xpia hay trong tiểu thuyết Đô-xtôi-
ép-xki: dữ dội, kinh khủng nhưng thật sâu sắc, lớn lao.. Sự sống cứ tồn tại, bất
chấp cái chết. Rõ ràng, ý chí con người và quy luật cuộc đời mạnh mẽ biết là chừng nào!
Sau một đêm, Tràng thấy mình hoàn toàn đổi khác: Sáng hôm sau, mặt trời lên
bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở
trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như
không phải… Mình đã có vợ thật rồi sao? Ai vậy? Cưới bao giờ nhỉ? Không lẽ
mong ước bao lâu mà nay đã thành sự thật một cách dễ dàng, chóng vánh đến
thế ư? Chuyện xảy ra cứ như trong mơ, thật khó tin, nhưng cái cảm giác êm ái
lửng lơ lạ lùng chưa từng thấy vẫn đang tồn tại trong người và rõ ràng trước mắt,
người đàn bà bằng xương bằng thịt kia là vợ anh.
Vậy là chuyện anh Tràng tự dưng nhặt được cô vợ (không nghiêm túc về mặt
hình thức) giờ đã trở thành chuyện hoàn toàn nghiêm túc theo đúng đạo nghĩa
vợ chồng. Cái bên ngoài không đẹp ấy lại chứa đựng một nội dung thật đẹp, thật cảm động.
Nhu cầu được yêu thương và khao khát xây dựng cho mình một tổ ấm gia đình
là bản năng của con người. Buổi sáng sau đêm đầu tiên Tràng có vợ, không khí
gia đình anh trở nên khác hẳn. Nhờ sự có mặt của người đàn bà mà cái nhà của
anh mới thật sự là một tổ ấm. Trước kia, mẹ con Tràng chỉ sống tạm bợ cho qua
ngày. Nay ai cũng có trách nhiệm hơn với nhà cửa, vườn tược của mình. Nhìn
vợ và mẹ đang dọn dẹp, Tràng bỗng thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn
lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà
như cái tổ ẩm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn
ngập trong lòng. Tâm trạng này diễn ra ở một người như Tràng mới thật cảm
động. Người ta lấy vợ lấy chồng, điều ấy có gì đặc biệt lắm đâu; nhưng với
Tràng thì đó là cả một ước mơ lớn tưởng chừng không bao giờ thực hiện được.
Giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm chính là ở chỗ tác giả đã phát hiện, đồng
cảm và chia sẻ niềm vui sướng rất con người này ở những thân phận nghèo khổ
trong xã hội cũ. Niềm khao khát hạnh phúc gia đình và niềm tin le lói của người
dân lao động vào tương lai là rất đáng trân trọng.
Bên cạnh Tràng, người vợ nhặt cũng là một nhân vật trung tâm của truyện.
Người đàn bà ấy không có đến một cái tên để gọi. Không tên, không tuổi, cả
đến đặc điểm nhận dạng công không nốt. Chẳng ai biết gốc tích của chị ở đâu?
Cha mẹ là ai? Nhà cửa, anh em thế nào? Tất cả đều không. Chỉ biết là ngày
ngày, chị ngồi lẫn trong đám con gái trước cửa kho thóc để nhặt nhạnh hạt rơi
hạt vãi hay chờ ai có việc gì thuê mướn thì làm.
Hình thức của chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác: Áo quần tả tơi như tổ
đỉa… trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt… Chị ta là
một trong hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực, lang
thang vất vưởng kiếm ăn và sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ bất cứ lúc nào.
Việc chị ta trở thành vợ Tràng giống như một trò đùa, là chuyện tầm phơ tầm
phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng.
Xưa nay, hôn nhân là đại sự. Con gái lấy chồng, giàu nghèo gì cũng phải cố
cưới xin tử tế. Giàu thì làm lớn, mời họ mời làng. Nghèo đến mấy cũng phải có
mâm cơm trình tổ tiên, ông bà rồi mới nhận vợ, nhận chồng.
Vợ thì cung năm bảy loại. Có loại quý hóa như cô tiểu thư con quan trong Lí
ngựa ô, đem lại danh giá, sang trọng cho chồng. Có loại vợ phải tốn bao công
sức, tiền của mới cưới được… Tủi nhục thay cho những ai mang tiếng là vợ
theo (theo không, chẳng cưới hỏi gì). Xã hội, gia đình không chấp nhận những
cuộc hôn nhân như vậy. Tủi hơn nữa, người đàn bà trong truyện lại là vợ nhặt –
Tràng tình cờ nhặt được chị như nhặt được một vật gì đó rơi trên đường.
Lần đầu, chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời trêu
ghẹo của bạn bè. Chị lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc
mắt, cười tít. Chuyện đùa giỡn chì có vậy nên người đàn bà này không để lại
dấu ấn gì trong trí nhớ của Tràng. Vì thế, gặp lần thứ hai, anh không nhận ra chị
ta bởi: Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi… gầy sọp hẳn đi…
Chị ta đói. Đói lắm! Cái đói cào cấu ruột gan. Chị ta sỗ sàng gợi ý để Tràng mời
ăn và ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc. Cắm đầu mà ăn, chẳng chuyện trò gì
mải mê như chưa từng được ăn bao giờ. Quên cả giữ kẽ, quên cả thẹn thùng.
Quả là cái đói đã đẩy lùi sĩ diện, đẩy lùi nhân cách.
Ăn như thế là đói lâu rồi, nay chỉ cần có chút gì cho vào bụng để sống. Cảnh ấy
khiến Tràng động lòng thương. Anh buột miệng nói: Này nói đùa chứ có về với
tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Tràng chỉ đùa, ai ngờ chị ta theo về thật.
Người đàn bà ấy đi theo Tràng trước hết chì vì miếng ăn chứ chẳng có tình cảm
gì. Nghĩ cũng xấu hổ nên trên đường về nhà “chồng”, chị ta chả biết nói gì và tỏ
ra ngượng ngùng khi thấy mọi người trong xóm ngụ cư nhìn mình bằng ánh mắt tò mò.
Chị ta chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí chỉ là để có một nơi
nương tựa cho khỏi chết đói. Lâm vào tình cành éo le ấy, chị ta vừa ngượng
ngùng vừa tủi phận. Lúc gặp bà cụ Tứ, chị e sợ, khép nép, chẳng biết nói năng,
chào hòi thế nào cho phải.
Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng cho ăn một bữa no, ngoài
ra không biết tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có vợ (biết
là thật hay giả), vậy mà đi theo một cách dễ dàng, không đắn đo, sợ hãi. Có liều
lĩnh chăng? Nhẹ dạ chăng? Mặc kệ! Theo anh ta để được ăn, được sống cái đã,
vợ chồng là chuyện lâu dài, biết đâu mà tính trước. Khỏi đói, Khỏi chết lúc này
là quan trọng nhất. Mọi cái khác thứ yếu tất. Thế mới biết cái đói ghê gớm, kinh khủng biết chừng nào!
Vào nhà Tràng, chị cứ ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng,
mặt bần thần. Anh Tràng mời chị ngồi cơ mà? Sao chị không dám ngồi cho
ngay ngắn, đàng hoàng? Mẹ anh chưa về, có ai đâu mà giữ lễ? Hóa ra cái dáng
ngồi rụt rè, chông chênh ấy kì thực cũng là cái thế của lòng chị, đời chị. Liệu
chỗ ngồi này có phải là chỗ của chị không? Mái nhà này có phải là nơi để chị
dung thân không? Chị bần thần vì ngỡ như mọi chuyện vừa xảy ra không phải là
thực. Làm vợ, làm dâu mà đến thế này ư? Lấy chồng, cái hạnh phúc lớn nhất
của đời con gái ấy, chị có được hưởng chút nào đâu? Buồn lắm! Tủi lắm! Trăm
mối ngổn ngang. Chị không nói được nên lời, bởi cất tiếng, chắc chị sẽ khóc.
Nỗi đau không trào ra theo nước mắt mà lặn vào trong nên càng đau, càng tủi.
Ấy thế nhưng chỉ sau một đêm làm vợ Tràng, chị hóa ra khác hẳn: Tràng nom
thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ
gì chạo chát như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh… Hoàn cảnh sống nghiệt ngã
biến chị ta có lúc thành kẻ trâng tráo, nhưng bản chất thì không phải như vậy.
Nếu hôm qua, cái đói làm mất đi những gì tốt đẹp ở chị thì hôm nay, chị bắt đầu
có ý thức vun vén cho tổ ấm của mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước
đổ đầy ang… Có bàn tay săn sóc của chị, túp lều rách nát, tăm tối của mẹ con
Tràng bỗng trở nên sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Sự sống đã trở về với người, với
cảnh. Cho đến lúc này, chị mới có cảm giác chuyện làm vợ của mình là thật. Cái
hạnh phúc đơn sơ mà đầm ấm ấy đã đem đến một sự đổi thay thật sự trong hình
dáng và tính cách của người đàn bà, khiến cho Tràng phải ngạc nhiên, bỡ ngỡ.
Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng là nhân vật gây được nhiều thiện cảm đối với người đọc.
Tấm lòng nhân hậu của bà mới đáng quý làm sao! Lúc đầu, thấy người con gái
xa lạ ngồi ở giường con trai mình, bà ngạc nhiên lắm. Được chào bằng u, bà
càng chẳng hiểu gì và cố nhìn cho kĩ mà vẫn không nhận ra chị ta là ai. Bà phân
vân, đoán định… Mãi đến lúc Tràng bảo: Kìa nhà tôi nó chào u… thì bà mới vỡ
lẽ. Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn
hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình…
Ra thế! Thằng con mình nó đã kiếm được vợ, nhưng…
Bà tủi thân tủi phận là cha mẹ mà không làm tròn bổn phận đối với con cái.
Trăm sự cũng tại cái nghèo mà ra: Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con
là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này.
Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…
Bà lọ lắng thực sự: Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói
khát này không. Nhưng rồi ngẫm đến thân phận nghèo khó của hai mẹ con, bà
lại tự an ủi: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến
con mình. Mà con mình mới có vợ được… Nghĩ thế nên bà vui lòng chấp nhận
nàng dâu mới. Bà cư xử vói chị dịu dàng, âu yếm gọi chị là con, xưng u và bà
lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi…
Với tâm lí của một người mẹ, bà ao ước có được dăm ba mâm trước cúng tổ tiên
ông bà, sau mời làng mời xóm. Nhưng ao ước ấy không thể thực hiện được vì
bà nghèo quá. Bà rất biết trước biết sau, song cái khó bó cái khôn, bà đành chịu.
Bà chỉ biết nói với các con những lời khuyên nhủ chân tình cốt làm sao cho
chúng mày hòa thuận là u mừng rồi… Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá.
Con trai tự dưng có được vợ, bà lão mừng lắm: Bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác
ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu
dọn, quét tước nhà cửa… Bà không vui sao được khi con trai bà đã thành gia
thất?! Bà cũng vơi đi một mối lo âu bấy lâu nay cứ canh cánh bên lòng. Trong
bữa ăn đầu tiên của ba mẹ con, dẫu chỉ có cháo loãng với muối hột nhưng bà
toàn nói chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này :
– Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia
làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…
Ở người đàn bà già nua, nghèo khổ này chứa đựng những nét đạo lí cổ truyền
của dân tộc. Bà cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại, nhen
nhúm niềm tin, niềm vui sống cho các con. Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn
tạ vì đói khát ấy vẫn nung nấu một ý chí mãnh liệt: Bà lão lật đật chạy xuống
bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống
bên cạnh mọt cơm, cầm cái muôi vừa khuấy khuấy vừa cười:
- Chè đây… Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Rồi bà múc trao cho con dâu, con trai, miệng vẫn tươi cười, đon đả: - Cám đấy
mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy…
Bà lão “đãi” nàng dâu mới món ăn đặc biệt mà bà gọi là chè, nấu bằng cám. Bà
khen ngon đáo để và so sánh: Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy. (Vậy
có cám mà ăn như thế này là còn may lắm!) Chao ôi là khổ! Phải đói đến mức
nào thì mới ăn cám thấy ngon? Cuộc sống khắc nghiệt đày đọa con người, bắt
họ phải sống cuộc sống của loài vật, song nó không dập tắt được phần người, rất
người trong lòng bà mẹ khốn khổ kia. Bà cố đổi buồn thành vui. Bà cố tươi cười,
đon đả cho bữa cơm đỡ phần thê thảm, còn tác giả và chúng ta thì khóc. Khóc vì
thương, vì quý tấm chân tình của bà.
Sống giữa cái chết ngày càng che phủ bóng đen gớm ghiếc của nó vào mọi gia
đình, vậy mà những người nghèo khổ như mẹ con Tràng vẫn tin vào cuộc sống,
vào tương lai: Ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Bà cụ Tứ cứ tin vu vơ như thế. Vì
miếng cơm manh áo, họ buộc phải vượt lên mọi gian nan, khổ ải để sống nên
mới có được niềm tin dai dẳng và kì diệu ấy.
Ba mẹ con Tràng đã tìm thấy niềm vui trong sự nương tựa, cưu mang lẫn nhau
mà sống. Tình vợ chồng, mẹ con sẽ là động lực giúp họ tăng sức mạnh vượt qua
giai đoạn ngặt nghèo trước mắt. Tình cảm ấy rất cần nhưng chưa đủ để đảm bảo
cho ba người một tương lai tốt đẹp hơn. Hiện tại, cuộc sống vẫn một màu xám
xịt, đầy đe dọa và chết chóc: Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập,
vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù
lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen…
Cái tài của tác giả là cứ nhẹ nhàng như không mà luồn lách ngòi bút động đến
tận nơi sâu thẳm của tâm hồn, bắt người ta phải cười, phải khóc, phải sống với nhân vật của mình.
Trong suốt truyện, tác giả không một lần trực tiếp nhắc đến thực dân Pháp, phát
xít Nhật và bè lũ phong kiến tay sai nhưng tội ác của chúng vẫn hiển hiện, phơi
bày trên từng trang viết và được gói gọn trong câu nói đầy phẫn uất của bà mẹ
già: Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế.
Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ… Người con dâu nhắc
chuyện trên mạn ngược, Việt Minh phát động dân chúng không đóng thuế, lại
còn tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo… Điều ấy gợi cho
Tràng nhớ tới cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đô Sộp.
Đằng trước có lá cờ đỏ… và tâm trí anh bị cuốn hút mãi bởi hình ảnh ấy.
Tràng chưa được giác ngộ cách mạng nên lúc chứng kiến cảnh đó anh thấy sợ.
Giờ hiểu ra, anh lại ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu… Bước đầu, anh thấy rằng
cần phải làm như thế vì không có cách nào khác. Tin rằng lần sau, trong đoàn
người phá kho thóc của Nhật, thế nào cũng có mặt vợ chồng Tràng. Hình ảnh lá
cờ đỏ bay phấp phới đem đến cho Tràng bao hi vọng vào sự đổi đời. Đó là ý
nghĩa dự báo cách mạng của tác phẩm này.
Truyện Vợ nhặt tiêu biểu cho phong cách viết độc đáo của nhà văn Kim Lân.
Cốt truyện đơn giản nhưng chặt chẽ. Trong truyện, người và cảnh đan xen,
tương phản với nhau. Bản chất đẹp đẽ bên trong tương phản với vẻ xấu xí bên
ngoài, sự sống tương phản với cái chết… Tất cả đều nhằm mục đích làm nổi bật chủ đề của truyện.
Tác giả không miêu tả kĩ hiện thực tàn khốc lúc bấy giờ mà chú trọng đến việc
thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái bề ngoài xác xơ vì đói khát của
những người nghèo khổ. Viết truyện này, tác giả bày tỏ thiện cảm sâu sắc đối
với họ. Ông khẳng định sự đói khát, không tiêu diệt được bản tính tốt đẹp của
con người, hiện thực tăm tối không giết chết nổi niềm tin vào cuộc sống. Trong
hoàn cảnh cơ cực, đọa đày, họ vẫn nhen nhóm niềm tin, vẫn hi vọng vào sự đổi
đời và một tương lai tốt đẹp. Truyện gây ấn tượng mạnh với người đọc bởi tính
chất nhân văn cao cả, bởi ngôn ngữ mộc mạc, sinh động và giàu sức gợi tả. Tấm
lòng của tác giả gửi gắm trong truyện đáng quý biết chừng nào!
Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 2
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và
những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào
lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình.
Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện
thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút
pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc
sống bần cùng giai đoạn đó.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào
nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm,
“người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm
đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên
mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư
ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống
của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình
huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn
bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ
với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một
anh nông dân nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con
không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Khung cảnh buồn
thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ
của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái ao nâu tàng vắt
sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.
Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh
người nông dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực.
Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm
thay đổi cuộc đời của một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là
“nhặt” được chứ không phải lấy được. Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước
đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hội bấy giờ.
Hình anh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn
đầy ám ảnh “ thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người
đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo
khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.
Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu
hiu, ảm đảm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt.
Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa,
gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma.
Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”.
Không còn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như
vậy. Mọi thứ dường như bị cái đói, cài nghèo đè nén đếm chìm nghỉm. Bằng
ngòi bút tả thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót,
đắng cay cho những phận nghèo long đong.
Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người
đàn bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra,
có lẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt không
còn chua ngoa, đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ.
Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy
hai con người đến với nhau, không phải tình yêu nhưng là tình thương. Hẳn
người đọc sẽ cảm thông và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.
Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến
và sự chuyển đổi trong tâm tinh thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn
tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước
theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở
trong…” Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiển lên. Nhưng rồi bà cũng
nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ
nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp
con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên
nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả
qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện
rõ ràng hơn bao giờ hết.
Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ
mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là
hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu dầu tiên. Hình ảnh “nồi
cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình
“không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói
những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa
cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt
của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ
đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy
nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con.
Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
khiến người đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của
cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn.
Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nhân vật sắc
sảo, độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc
khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó
tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người với người luôn bất diệt.
Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 3
Kim Lân một trong những nhà văn viết truyện ngắn từ năm 1941. Sáng tác của
ông tập trung phản ánh bức tranh của nông thôn Việt Nam và hình tượng người
nông dân. Dưới nòi bút tài hoa của Kim Lân, bức tranh hiện thực của nông thôn
Việt Nam cũng như nỗi niềm, cuộc sống, cảnh ngộ và khát vọng của người
nông dân được thể hiện chân thực và sinh động. “Vợ Nhặt” là một trong những
tác phẩm thành công của Kim Lân với cốt truyện độc đáo cùng với lối dẫn
chuyện hóm hỉnh hấp dẫn người đọc.
Lấy cảm hứng từ nạn đói năm 1945, nhà văn Kim Lân đã tái hiện lại hiện thực
bức tranh ngày đói ám ảnh trong từng câu chữ, từng trang văn của ông. Bằng
ngòi bút tả thực kết hợp Kim Lân đã tái hiện cảnh vật với xã xơ heo hút của ngã
tư xóm chợ về chiều, rồi “hai bên dãy phố, úp súp, tối om”,”cái nhà vắng teo
đứng rúm ró một mảnh vườn mọc lổn nhổn”…Từng ấy thôi ngòi bút của ông đã
tô đậm lên bức tranh u tối, với cảnh sống đói nghèo của nông thôn Bắc Bộ
những năm 1945. Tất cả hiện lên đều còm cõi, xác xơ, rách rưới. Ở đó không
chỉ có cảnh vật mà con người cũng hiện lên lụi tàn cùng cái đói, cái nghèo. Cái
chết cũng được ghi lại trong âm thanh thê thiết, tạo nên sự ghê sợ, rợn người. ở
đó như đang dồn đuổi sự sống của con người đến đường cùng. Âm thanh của
tiếng quạ trên mấy cây gạo, của tiếng hờn khóc tỉ tê và cả tiếng trống thúc thuế
mỗi lúc một dồn dập hơn. Chỉ vậy thôi mà nhà văn như tô lại hiện thực tố cáo
sự tàn ác của bọn phát xít, đế quốc thực dân với những chính sách vô cùng hà
khắc, rẻ rúng mạng sống của con người.
Trong cái không gian ấy, hình ảnh con người được khắc họa lại khiến người đọc
không khỏi bàng hoàng về cái đói năm 1945 ấy. Sử dụng những câu văn dài
nhiều vế, kết hợp với biện pháp liệt kê Kim Lân đặc tả hình ảnh người đó “bồng
bế, dắt díu nhau như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ…”. Những
người sống đang lay lắt, dật dờ, sống một cuộc sống không phải cuộc sống của
con người. Người chết thì “như ngả rạ” và cái chết trở thành nỗi ám ảnh, đau
đớn và nhức nhối của biết bao con người. Có lẽ, chính vì thế mà nó thôi thúc
Kim Lân phản ánh lại bằng những trang văn đầy ám ảnh như vậy.
Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 4
Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân.
Người nông dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng
ngời những phẩm chất: yêu đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt
là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông khi viết về người nông dân.
Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện
“Con chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”
– được viết ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công. Tuy nhiên chỉ được
viết dở dang và sau đó mất bản thảo. Đến năm 1954, khi hòa bình lập lại, nhân
một số báo văn nghệ kỉ niệm cách mạng tháng Tám thành công, Kim Lân đã
nhớ lại tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, dựa trên cốt truyện cũ viết lại thành truyện
ngắn. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn trong giới sáng tác.
Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng
khiếp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn lan, khủng khiếp
diễn ra ở khắp nơi khiến con người không thể nào chống cự được, tất cả những
yếu tố đó đã được Kim Lân tái hiện thành công trong tác phẩm của ông.
Trước hết là màu sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt
của đàn quạ bay trên trời. Những màu sắc gợi lên sự chết chóc, ảm đạm, tàn lụi
và héo úa. Bao quanh không gian đó là mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của
xác người, mùi đốt đống dấm khét lẹt. Kết hợp với tiếng quạ kêu từng hồi, hòa
lẫn với tiếng khóc hờ từ những gia đình có người chết. Để làm rõ nét hơn, Kim
Lân còn cho người đọc thấy hình ảnh sáng nào cũng có ba bốn thây người nằm
chết còng queo bên đường. Tình cảnh vô cùng thảm thương, bất hạnh. Kim Lân
nhìn nhận hiện thực bằng cái nhìn chân thực, sắc nét, không né tránh, phơi bày
tất cả trên trang văn của mình, để người đọc thấy rõ cái khủng khiếp của nạn đói
năm 1945. Nhưng giá trị thật sự của tác phẩm là ở chỗ: từ trong bóng tối của cái
đói, cái chết, tác giả tìm thấy ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn con người.
Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên
truyện xuất hiện, đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu
Tràng. Tràng vốn là dân ngụ cư, sống tha phương cầu thực, những người dân
ngụ cư thường bị phân biệt, kì thị, sống ở rìa làng, chứ không được sống trong
trung tâm của làng như những người khác. Không chỉ vậy, họ còn không được
chia ruộng đất, không được tham gia bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng đồng nào
của làng xã. Anh cu Tràng bị đặt ra ngoài lề xã hội. Không dừng lại ở đó, gia
đình Tràng còn rất nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ con nương tựa vào nhau, vì
không được chia ruộng nên Tràng phải làm công việc bấp bênh để kiếm sống: kéo xe bò thuê.
Dường như số phận càng trở nên trớ trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, là người
ngụ cự, anh Tràng còn có ngoại hình hết sức xấu xí. Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm
vào bóng chiều, còn hai bên quai hàm bạnh ra, khiến khuôn mặt càng to lớn hơn.
Thân hình to lớn vập vạp, như một người khổng lồ. Tràng còn vừa đi vừa lảm
nhảm những điều mình nghĩ và cứ thể ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Anh cu
Tràng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp dẫn lũ trẻ con, còn với các cô gái anh hoàn toàn
không có chút hấp dẫn nào, cả về ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng không
có khả năng để lấy được vợ.
Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy
được vợ một cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân
ta thường có những câu hò để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh
cu Tràng cũng vậy, anh cũng hát, lời hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng
với giò. Lại đây mà đẩy xe bò với anh”. Lời nói ấy đã khiến thị theo anh cu Tràng về làm vợ thật.
Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng
con mới, dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng
trong nhà. Anh cu Tràng từ một kẻ thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình
và cười hềnh hệch, hôm nay bỗng trở nên tâm lí và tinh tế lạ thường. Trên
đường đi về Tràng vui sướng, hớn hở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn
mặt vừa hạnh phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống
cực khổ ê chề hàng ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm
hạnh phúc khi lấy được vợ. Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu, xấu
hổ, đứng tây ngây giữa nhà, chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung
sướng khi việc mình lấy vợ đã trở thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng
nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ
cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã
thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lí, nhạy bén và rất khéo léo trong cách
ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lí,
suy nghĩ của anh cu Tràng.
Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ông trong gia đình. Sáng
hôm sau, Tràng tỉnh dậy muộn, cảm thấy trong người dễ chịu, êm ái, như người
đi ra từ trong giấc mơ, anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ.
Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng
thay đổi mới mẻ, khác lạ, nhà cửa không bừa bộn mà được dọn dẹp sạch sẽ,
không khí gia đình trở nên ấm áp, vui vẻ, mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén
nhà cửa. Trành thấy thấm thía, cảm động và bỗng thấy yêu thương những người
xung quanh, đồng thời nhận thấy trách nhiệm của bản thân, phải biết lo lắng cho
gia đình, vợ con. Và sự ý thức đó đã được hiện thực hóa bằng hành động xăm
xăm chạy ra sân, muốn chung tay tu sửa căn nhà. Tràng muốn chung tay để
nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình. Đồng thời trong Tràng cũng
bừng lên khát vọng đổi đời mãnh liệt, anh biết quan tâm đến những chuyện
ngoài xã hội: mạn Thái Nguyên Bắc Giang không đóng thuế mà còn phá kho
thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp
phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng. Hình ảnh lá cờ chính là tín hiệu cho
tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt Minh, theo cách mạng.
Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của
nhân dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó còn là sự cảm thương cho
số phận họ. Trân trọng, phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam
trong tình cảnh khốn cùng: tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương lai.
Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật người vợ
nhặt. Người vợ nhặt không có lai lịch rõ ràng, không rõ tên tuổi, quê quán, nghề
nghiệp và cũng không hề có tài sản gì khi lần đầu gặp Tràng. Có thể thấy rằng,
trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa. Lần
thứ hai gặp Tràng, quần áo thị rác rưới, tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp đi vì đói,
mặt lưỡi cày xám ngoét, ngực gầy và lép, hai con mắt sâu trũng hoáy lại. Ngoại
hình thị vô cùng thảm hại, do cái đói đã gây ra cho con người. Ngôn ngữ của thị
cũng hết sức chao chát, chỏng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”,
“Hà, ngon. Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”, “liếc
mắt cười tít”, “sầm sập chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu ăn”,
“ăn xong lấy đũa quẹt một cái”. Thị tỏ ra là con người hết sức vô duyên, dường
như cái đói, cái chết có thể mài mòn nhân cách con người ta ghê gớm đến như vậy.
Nhưng đằng sau sự chỏng lỏn đến vô duyên ấy lại là một con người có khát
vọng sống vô cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành
động, cử chỉ trơ trẽn, vô duyên của thị lại là biểu hiện của khát vọng sống mãnh
liệt. Bên cạnh đó, thị còn hiện lên với vẻ đẹp nữ tính, trên đường về nhà, thị rón
rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách tả tơi
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi về đến nhà chồng, thấy quang cảnh
nhà chồng thị nén tiếng thở dài, ngồi mớn ở mép giường và vô cùng lễ phép khi
gặp mẹ chồng. Sáng hôm sau cô dậy sớm cùng mẹ dọn dẹp, vun vén nhà cửa.
Nhân vật thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Cuối cùng là nhân vật bà cụ Tứ, dù chỉ thấp thoáng trong tác phẩm, nhưng cũng
có vai trò, ý nghĩa quan trọng. Bà là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực: dân ngụ
cư tha phương cầu thực; chồng và con gái mất sớm. Cả đời lận đận, chỉ có tâm
nguyện lớn nhất là lấy vợ cho con nhưng mãi không dành dụm được tiền, trong
lúc nghèo đói đến cùng cực người con trai lại nhặt được vợ. Nhìn thấy con đưa
vợ về, bà nín lặng cúi đầu, băn khoăn, nhưng vẫn rất vui mừng cho đôi trẻ. Bà
dặn dò hai vợ chồng mới, nói những chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến niềm tin,
sự lạc quan cho chúng. Bà là một người mẹ nhân hậu và hết sức yêu thương con.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học
hiện thực. Tác phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo khổ của nhân dân,
đồng thời ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng,
nâng niu những ước mơ đổi đời của con người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng
cho thấy nghệ thuật phân tích tâm lí và miêu tả bậc thầy của nhà văn Kim Lân.
Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 5
Kim Lân được mệnh danh là nhà văn của người nông dân, của làng quê Việt
Nam bởi trong các tác phẩm của ông luôn hướng tới hình ảnh người nông dân.
Với văn phong giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc thấm đẫm tinh thần nhân văn,
tác giả Kim Lân đã gửi tới người đọc một tác phẩm kinh điển thể hiện tình cảm
đậm đà của ông dành cho những số phận người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ.
Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm đặc sắc đại diện cho văn
phong, cũng như nhân sinh quan của tác giả Kim Lân. Vợ nhặt ra đời khi nước
ta đang trong giai đoạn một cổ hai tròng vừa bị thực dân Pháp đô hộ, vừa bị
phát xít Nhật cai trị, kèm theo chế độ phong kiến trong thời kỳ suy tàn, thối nát
làm cho người dân vô cùng khốn khổ. Câu chuyện xoay quanh bối cảnh nạn đói
kinh điển năm 1945 làm chết hai triệu đồng bào ta. Tại một xóm ngụ cư nghèo
nơi tập trung những gia đình đi di tản từ khắp nơi kéo tới đây, tạo thành một khu ngụ cư mới.
Ngay cái nhan đề của tác phẩm “Vợ nhặt” đã gợi lên cho người đọc nhiều suy
nghĩ về nội dung câu chuyện, thể hiện một việc trọng đại của đời người chính là
việc dựng vợ gả chồng nhưng lại được làm rất qua loa, như việc nhặt một món
đồ, một viên gạch ngoài đường mang về nhà.
Mở đầu tác phẩm tác giả Kim Lân đã phác họa lên hình ảnh nhân vật anh cu
Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…”
Chỉ bằng vài chi tiết nho nhỏ tác giả Kim Lân đã khiến cho người đọc hình
dung ra được hình ảnh nhân vật
Nhân vật Tràng là người có ngoại hình thô kệch, xấu xí, gia cảnh thì mẹ góa con
côi, bần hàn. Hắn chẳng có điểm nào thu hút phụ nữ. Công việc của Tràng làm
nghề kéo xe bò thuê chở hàng cho người ta, một công việc lao động tay chân,
bán mồ hôi sức lao động để kiếm vào đồng xu lẻ. “Hắn bước đi từng bước mệt
mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực
nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.
Sự đói nghèo bần hàn, vây quanh lấy hắn, nhưng trong đầu hắn luôn hiện lên
những suy nghĩ lạ lùng thỉnh thoảng lại thấy hắn ngửa mặt cười cười một cái gì
đó. Tràng thật sự là một con người kỳ quái.
Giữa khung cảnh nghèo đói, cùng cực ấy. Một con người xấu xí, thô kệch nghèo
khổ như Tràng những tưởng vĩnh viễn phải sống kiếp cô độc vì chả có gì thu hút
người khác thì làm sao mà lấy được vợ. Nhưng không ngờ Tràng vẫn lấy được
vợ, mà con lấy được một cách dễ dàng “nhặt” được vợ như nhặt một cục đá mà thôi.
Chỉ bằng những câu nói bông đùa vu vơ, mà Tràng nhặt được vợ “Muốn ăn cơm
trắng với giò, thì ra đây đẩy xe bò với anh nào” Chỉ có như thế thôi nhưng một
cô gái ngoan ngoãn ra đẩy xe với hắn. Rồi theo hắn về nhà làm vợ.
Tác giả Kim Lân đã xây dựng tình huống truyện vô cùng thú vị, độc đáo làm
thay đổi số phận của nhân vật Tràng. Làm cho câu chuyển sang một hướng rẽ
mới thú vị và thu hút người đọc. Hành động nhặt được vợ của Tràng khiến
người ta phải suy nghĩ, bởi việc lấy vợ lấy chồng là việc vô cùng quan trọng
trong đời người, bình thường người ta phải làm thật cẩn thận suy tính trước sau.
Cô gái làm vợ Tràng cũng thật thiệt thòi biết bao, làm vợ người ta mà không có
một lễ cưới, không được làm dăm ba mâm ra mắt họ hàng, không có giấy đăng
ký kết hôn, không có chứng nhận của hai bên họ hàng.
Sự nghèo khó đã đẩy những con người khốn khổ xích lại gần nhau hơn. Họ tìm
đến với nhau để nương tựa vào nhau trong lúc khó khăn, cho bớt cơ cực. Họ
cũng hy vọng khi có nhau rồi cuộc sống của họ sẽ thay đổi ít nhiều có thêm niềm vui vào tương lai.
Hình ảnh vợ Tràng hiện lên làm người đọc không khỏi xúc động “ thị cắp cái
thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi
nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”.
Khi đưa thị về nhà khung cảnh xóm ngụ cư hiện lên đìu hiu, buồn bã, ảm đạm
như những con người sống trong xóm nghèo đó “từng trận gió từ cánh đồng thổi
vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa.
Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma...”
Những người hàng xóm tò mò hỏi Tràng về người phụ nữ đi bên cạnh Tràng.
Họ tò mò vì một người nghèo khổ xấu xí như Tràng mà cũng có gái theo.
Nhưng có người cũng thực tế hơn họ cho rằng trong thời kỳ đói khổ miếng ăn
không có như hiện nay mà còn cưới vợ vác thêm một miệng ăn về nhà thì khác nào vác một cục nợ.
Cứ như thế Tràng và thị đi trong những tiếng xì xào, bàn tán nhưng họ cứ mặc
kệ cứ bước đi bên nhau và hy vọng vào ngày mai tươi sáng hơn.
Cuộc gặp gỡ giữa mẹ chồng nàng dâu cũng khiến nhiều người phải ám ảnh bà
cụ Tứ mẹ Tràng “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà
sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…”
Lúc đầu bà cụ lo lắng lắm nhưng rồi bà cụ Tứ cũng nhận ra vấn đề “bà lão cúi
đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao
nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta
dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…”
Những suy nghĩ đau đớn chua xót của một người mẹ thương con, được tác giả
Kim Lân tái hiện qua những trang viết vô cùng xúc động làm lay động trái tim người đọc.
Bà cụ Tứ vui mừng chấp nhận người vợ của con trai mình. Hình ảnh bữa cơm
đầu tiên sau đêm tân hôn hiện ra khiến nhiều người không khỏi nghẹn ngào
đắng ngắt trong cổ họng. Đó chính là “nồi cháo cám” với đĩa muối trắng, hoa
chuối thái vội. Một hình ảnh đại diện cho cái nghèo, hiện lên chân thực, mộc mạc
Tuy nhiên, trong bữa cơm ấy ba con người trong câu chuyện lại ăn uống rất
ngon. Họ còn nói chuyện với nhau về tin đồn Việt Minh phá kho thóc Nhật chia
cho dân nghèo. Trong bữa cơm ấy, ba con người khốn khổ cùng mơ ước có một
ngày được thấy ngọn cờ đỏ sao vàng, được sống một kiếp sống khác. Họ cùng
nhau tin tưởng vào tương lai.
Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 6
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một
nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một
lòng đi về với “thuần hậu phong thuỷ” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay
ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư khi hoà bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp
tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ Nhặt” ra đời.
Lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới,
một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi
vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng,
người vợ Nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng
truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có công khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân đã từng nói “Khi viết về nạn đói người ta
thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta
hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện
ngắn nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới
cuộc sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào tương lại. Họ vẫn muốn sống, “sống
cho ra con người”. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống về
tương lai của những con người đang kề cận với cái chết.
Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp với
khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công
ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ
lưỡng, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt chúng ta một không gian đói thật thảm hải, thê lương.
Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bón ma vật vờ, lặng lẽ
giữa tiếng khóc hờ và tiếng gào thét gửi gắm trong không gian tối đen như mực
ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành,
yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận
như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ
phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc của Nhật ở cuối thiên truyện.
Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ”
của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh của khép mở để nhân vật bộc lộ nét
đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn
với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm
người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỉ hơn
là vị tha và người ra rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà
văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân vật anh cu Tràng,
người vợ nhặt và bà cụ Tứ.
Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn
xanh xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi
và mùi gây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết”
ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao
đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và của người vợ Tràng nữa.
Một thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người – thân xác
vạm vỡ, lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại chứa
đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp.
“Cái đói đã tràn vào xóm tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô
vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều
lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành
một gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy
trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương
chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa một ao ước thiết thực về sự
đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng
dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy
không hề mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu
mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ.
Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”,
“ngỡ ngàng” như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và
nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn.
Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tình.
Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cọc cằn, Tràng đã sớm thay đổi trở thành
một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc ấy dường
như một cái gì đó “ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn
tay vuốt nhẹ sống lưng”. Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến “trong một lúc Tràng
dường như quên hết tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng
ngày qua”. Và Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất
hợp logíc. Những thay đổi ấy không có gì khác ngoài tâm hồn đôn hâu, chất
phác và giàu tình yêu thương hay sao?
Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác
lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có
hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng
nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình
hạnh phúc. “Hắn thấy yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”, “hắn thấy mình
có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa.
Hành động cử chỉ ấy của Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự
chuyển biến lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hoà thuận ấy đã
nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ thay
đổi khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận,
cuộc đời hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tố ấy rồi sẽ
qua đi để đón chờ ánh sáng cuộc sống tự dong đang ở phía trước sức mạn của
thời đại. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại hạnh phúc, niềm tin ấy trong
các nhân vật của mình. Người vợ nhặt làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư
nghèo, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người
rạng rỡ hẳn lên. Từ con người chao chát chỏng lọn đến cô vợ hiền thục, đảm
đang là một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế?
Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua
bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta
không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân
phong kiến đã bóp nghẹt quyền sống của con người. Thị xuất hiện không tên
tuổi, không quê quán, trong tư thế “vân vê tà áo rách bợt bạt”, điệu bộ trông thật
thảm hại nhưng chính con người ấy lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi
tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình. Thị đã đem đến một
luồng sinh khí mới, sinh khí ấy chỉ có được trong con người thị dung chứa một
niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống vào tương lai.
Thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu cho tác phẩm.
Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh cu Tràng ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm
trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật
này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin
vào cuộc đời phía trước trong những ngày con người đói khổ ấy. Và thật ngạc
nhiên, khi nói về ước vọng ở tương lại, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời
người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám
phá ra một nét đẹp độc đáo vô cùng: tình cảm, ước vọng ở cuộc đời lại được tập
trung miêu tả khá kĩ ở nhân vật bà cụ Tứ.
Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật. Bà cụ Tứ
đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm
sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm,
Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói.
Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường
đặt nhân vật ấy vào tình thế căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh
không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay trong
chính nội tâm của mỗi nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình.
Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo
vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người
đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ
ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín lặng”. Cử chỉ, hành động ấy chất chứa
bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi
buồn cứ hoà lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều
bà nhìn cô con dâu đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lòng đầy xót thương. Bà
thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình,
mà con mình mới có vợ”. Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi
nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng “Thôi, chúng mày đã phải duyên phải kiếp
với nhau thì u cũng mừng lòng”.
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang
ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo
ấy, đói khổ không phải là một vật cản lớn. Đói rét thật nhưng trong lòng bà cụ
vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và
thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia
cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đang dang
tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm
chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa
của tình người, tình thương yêu nhân loại bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng
tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con
mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên
nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày
đói thật thảm hại. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình.
Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình
người. Nồi chè cám nghẹn bứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm
lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão “lễ mễ” bưng nồi chề và vui vẻ giới
thiệu “Chè khoán đấy. Ngon đáo để cơ”. Ở đây nụ cười đan xen lẫn ngước mắt.
Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng
chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa
một sự cảm phục lớn lao ở những con người bình thường mà đáng quý.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề
mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật
thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của
tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở nhưng thân
phận đói nghèo, thảm hại kia. Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng
những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điếm áng mà Kim Lân
từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài tâm lý
nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân - một nhà văn được
đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
“Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôxtôiepki). Vâng Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân
thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc
sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã có đóng
góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm
mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ
nhất trong tâm hồn người đọc chính là điểm sáng tuyệt vời nhất.
Phân tích truyện ngắn Vợ nhặt - Bài số 7
Văn học chính là lăng kính chủ quan, phản ánh hiện thực một cách khách quan,
chính xác nhất. Bởi vậy mà nhà văn Kim Lân đã dùng ngòi bút của mình để
phác họa thành công bức tranh cuộc sống, sinh hoạt của người nông dân trong
nạn đói năm Ất Dậu qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Nhà văn đã đem vào thiên truyện
của mình một điểm sáng mới, đó là niềm tin, niềm hi vọng vào một tương lai tốt
đẹp dù hiện tại có khó khăn đến nhường nào.
Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, ngòi bút của ông thật sắc sảo
khi tập trung miêu tả những phong tục tập quán và đời sống làng quê với những
“thú vui đồng quê hay phong lưu đồng ruộng”. “Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc
được in trong tập “Con chó xấu xí” của nhà văn, viết về người nông dân trong
tình cảnh thê thảm của nạn đói với bản chất tốt đẹp, lương thiện. Bằng khả năng
sáng tạo của mình, nhà văn đã thành công ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
và hàng loạt các biện pháp nghệ thuật đặc sắc khác khi xây dựng nhân vật của mình.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, nhà văn đã để lại chúng ta những điều tò mò
mới mẻ về cuộc sống của những con người bần hàn trong cái đói tưởng chừng
như thảm họa. Với Kim Lân, “nhặt” là một hành động thu lượm những thứ rơi
vãi ở dưới đất, những vật có giá trị không cao. Thế nhưng ở đây, hành động ấy
lại được gắn liền với hình ảnh của người “vợ”. Đó chính là sự trân trọng của tác
giả đối với nhân vật của mình bởi người vợ luôn có một vị trí quan trọng trong
gia đình. Thế nhưng trong hoàn cảnh này, thân phận của con người lại rẻ rúng
hơn bao giờ hết, chỉ cần vài câu nói bông đùa của anh cu Tràng mà người phụ
nữ đó đã theo không Tràng về nhà và trở thành người “vợ nhặt”. Tất cả những
điều đó đã làm nên một nhan đề độc đáo, gây ấn tượng mạnh, thể hiện thảm
cảnh của người dân trong nạn đói năm 1945, bộc lộ sự cưu mang, khát vọng
sống, và niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.
Chủ đề của tác phẩm không chỉ được thể hiện ở nhan đề mà nó còn được thể
hiện thông qua tình huống truyện. Có nhà văn đã từng nói: “Tình huống truyện
chính là thứ nước rửa ảnh để thông qua đó nhân vật nổi hình nổi mảng”. Tình
huống truyện là nghệ thuật sắp xếp, tổ chức các chi tiết, sự kiện trong tác phẩm,
qua đó bộc lộ tính cách, số phận nhân vật góp phần thể hiện tư tưởng, chủ đề
của tác phẩm. Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã đem đến cho chúng ta một tình huống
truyện vừa éo le, lại vừa bi hài. “Vợ nhặt” được bắt đầu ở thời điểm cái đói mà
tác giả gọi là hiểm họa tràn đến. Trong không gian thê thảm của nạn đói, tình
huống Tràng lấy vợ đã tạo nên khung cảnh vừa bi vừa hài, chỉ mấy câu nói bông
đùa mà nào ngờ lấy được vợ thật. Tràng xấu trai lại ngờ nghệch, nay lại có
người theo về cho ta thấy nghịch cảnh không biết nên cười hay nên khóc. Tình
huống truyện éo le trên đã cho ta thấy tính nhân bản và tình cảm nhân đạo của
tác phẩm. Hoàn cảnh đã làm thay đổi con người, tố cáo chế độ thực dân phong
kiến đã đẩy con người vào bước đường cùng.
Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã phác họa nhân vật anh cu Tràng cũng là nhân vật
chính của phẩm được xuất hiện giữa một không gian đầy u ám, tử khí vì “người
chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của
xác người chết”. Tràng là một người nông dân có cuộc sống nghèo khổ nhưng
lại có tính thương người, luôn khao khát một mái ấm gia đình và luôn có hi
vọng vào một tương lai tươi sáng.
Anh cu Tràng là một người nông dân có cuộc sống nghèo khổ được thể hiện
ngay ở cái tên gọi mà tác giả đặt cho. Tràng không tội nghiệp đến mức không có
một cái tên thế nhưng cái tên Tràng lại gợi lên bao điều lam lũ, khó nhọc bởi đó
cũng là tên của một dụng cụ lao động. Tràng không đến mức quá tiều tụy thế
nhưng lại được hóa công gọt đẽo rất sơ sài: “Hai con mắt gà gà đắm vào bóng
chiều”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, “bộ mặt thô kệch”, “cái đầu trọc nhẵn”, “cái
lưng to rộng”. Qua cách miêu tả của Kim Lân, ta thấy Tràng kết tinh được cái
phần tự nhiên, hoang dại của con người. Tràng hay “ngửa mặt lên trời cười hềnh
hệch”, “vừa đi vừa nói nhảm”, trở thành “đối tượng bông đùa của những đứa trẻ
xóm ngụ cư”, tính tình thì “ngộc nghệch”. Hoàn cảnh sống của Tràng cũng
chẳng dư dả gì. Nơi ở là “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại”, “những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường,
dưới đất”. Những chi tiết ấy đã cho thấy cuộc sống thiếu thốn, nghèo khổ của hai mẹ con Tràng.
Ông cha ta đã dạy ta đừng nên “nhìn mặt mà bắt hình dong” thật đúng như vậy.
Tuy Tràng có vẻ bề ngoài thô kệch, tính tình ngộc nghệch thế nhưng ẩn sâu
trong tâm hồn Tràng vẫn chứa đựng biết bao hạt ngọc của tâm hồn. Tràng là
người nhân hậu và giàu tình thương người. Thấy người đàn bà đói, Tràng đã
cho ăn “một chặp bốn bát bánh đúc” bởi anh không nhẫn tâm từ chối khi người
ta quá đói. Đó là một việc làm thật đáng quý, thể hiện truyền thống “thương
người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách” của dân tộc ta. Khi người vợ
nhặt quyết theo Tràng, đây không phải là chủ tâm của Tràng tìm vợ mà thực tế,
Tràng lấy vợ vì lòng thương người, vì một con người còn đói khát hơn cả mình.
Bên cạnh tấm lòng nhân hậu, Tràng còn là người luôn khát khao hạnh phúc gia
đình, hạnh phúc lứa đôi. Tràng có ý thức chăm sóc người phụ nữ của mình:
“Hôm ấy hắn đưa thị xe bò về rồi mua hai hào dầu để thắp sáng ngôi nhà lạnh
lẽo”. Những việc làm đó đã chứng tỏ Tràng rất trân trọng vợ mình. Tràng thật
sự sung sướng và hạnh phúc khi có người vợ nhặt.
Đi bên cạnh người vợ “rách như tổ đỉa”, Tràng không thấy xấu hổ mà còn rất
“phớn phở”. Vẻ mặt ấy chính là sự xúc động của nhân vật trước tình huống éo
le nhặt được vợ. Không gian trên đường rước dâu ảm đạm thê lương nhưng
niềm vui của Tràng đã lấn át đi tất cả. Anh muốn làm cho vợ mình được vui,
“có lúc muốn thân mật nhưng không dám xuồng xã, muốn bày tỏ tình cảm với
vợ nhưng lại lúng ta lúng túng, tay nọ xoa vào tay kia”. Tràng nâng niu, trân
trọng hạnh phúc mình có được: “Trong một lúc, Tràng dường như quên hết
cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa”.
“Tràng cảm nhận thấy cái mới mẻ, mơn man khắp da thịt Tràng”. Đó chính là
hiện diện của tình yêu, niềm hạnh phúc mà Tràng đang khao khát. Đêm buông
xuống, hạnh phúc của vợ chồng Tràng được bao bọc bởi bóng tối, bởi âm thanh
tiếng hờn khóc tỉ tê từ những gia đình có người chết đói. Tràng vẫn cảm thấy sự
kiện mình có vợ là quan trọng và cần nâng niu hơn cái đói đang hoành hành.
Nhà có thêm người mới, Tràng đã thắp đèn lên cho sáng sủa, để xua tan đi cái
tối, cái thê thảm của của những kiếp người leo lét. Ngọn đèn dầu sáng lên chính
là hiện thân cho khát vọng sống, là ánh sáng để đấu tranh với bóng tối, giữ gìn
sự sống để đấu tranh với cái chết. Phải chăng, tình yêu là vũ khí lợi hại để có thể
khiến Tràng thay đổi hoàn toàn vào buổi sáng ngày hôm sau. Trước đây, Tràng
sống dường như không quan tâm đến mình, sống tạm bợ cho qua ngày, không
có ý thức chuẩn bị cho ngày mai. Kể từ khi có vợ, tâm lí anh khác hẳn: “Cảnh
tượng thật đơn giản nhưng đối với hắn thật thấm thía và cảm động”. Tất cả được
Tràng nhìn bằng ánh sáng mới, bằng con mắt mới, bằng trái tim của một con
người đang hạnh phúc, đang yêu và đang được yêu. Hạnh phúc đã đem đến cho
Tràng ý thức làm người, “Tràng thấy mình nên người từ khi có vợ”.
Trước đây, anh vô tâm vô tính, giờ có ý thức về bổn phận của mình hơn, mình
cần có trách nhiệm với gia đình này. Hình ảnh của Tràng trong ngôi nhà đầm
ấm, hòa hợp khiến cho ai cũng thay đổi. Bà cụ Tứ trở nên tươi tỉnh khác hẳn
ngày thường, người vợ nhặt đúng mực người vợ hiền, dâu thảo, Tràng đã nên
người và làm nổi bật vẻ đẹp của hạnh phúc. Dù hiện tại có đói khổ nhưng Tràng
vẫn luôn giữ một niềm lạc quan, yêu đời, luôn tin vào tương lai tươi sáng. Trong
bữa ăn, chỉ có mỗi nồi cháo cám chát đắng, Kim Lân đã để cho nhân vật bàn tán
về việc Việt minh phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Trong tâm trí
Tràng lúc bấy giờ hiện lên hình ảnh đám người đói và lá cờ cỏ sao vàng đang
phấp phới tung bay trên nền trời xanh thẳm. Tràng nghĩ đến ánh sáng, nghĩ đến
niềm vui, niềm tin đổi đời vào cách mạng. Tràng có cảm giác nuối tiếc khi mình
tránh đi con đường khác, ý thức hối hận khi không hòa mình vào đám người đói
theo Việt minh, điều đó cho thấy ước mơ vươn lên để đổi đời gắn liền với khát
vọng sống của người nông dân Việt Nam đương thời.
Trong ba nhân vật, người vợ nhặt là nhân vật được nói đến ít nhất. Thực ra, nếu
không có nhân vật người “vợ nhặt” thì nội dung và nghệ thuật của tác phẩm bị
ảnh hưởng rất nhiều bởi đây là nhân vật làm nên giá trị nội dung và tư tưởng
của tác phẩm, có vai trò quyết định đến sự hình thành các hình thức nghệ thuật
khác. Người vợ nhặt là một nhân vật không có tên gọi, lai lịch, gốc gác, ngoại
hình tiều tụy nhưng là một người vợ đúng mực, một người con dâu hiếu thảo và
là người đem đến niềm vui, niềm lạc quan cho mọi người.
Người vợ nhặt là một nhân vật đặc biệt, nhân vật này không có tên, được gọi là
“thị”, “người đàn bà”, “người con dâu”. Đây là cách gọi khiến cho tính khái
quát ngày càng rộng. Ta hiểu thời bấy giờ không chỉ có một mà có muôn vàn
người đàn bà cùng rơi vào cảnh ngộ đáng thương như thế. Về lai lịch, gốc gác,
người đàn bà cũng chẳng được giới thiệu cụ thể, cũng chẳng ai biết thị đến từ
đâu, chỉ biết rằng chị “ngồi vêu ra ở cửa kho, nhặt hạt rơi, hạt vãi hay ai có việc
gì gọi đến thì làm”. Người vợ nhặt không có quê hương, không có quá khứ, là
hiện thân cho một kiếp người lênh đênh, trôi dạt trong thảm họa đói khát, không
lưu giữ được một chút gì về sự tồn tại của bản thân mình.
Ngoại hình của thị được tác giả miêu tả rất tỉ mỉ: “Cái nón rách tàng nghiêng
nghiêng che mất đi nửa mặt”. Khi tác giả quay ngược trở lại thời gian ở lần gặp
thứ hai của thị với Tràng, ta thấy thị giống như bao kẻ đói khát khác: “Hôm nay
trông thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái gương
mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Ngoại hình của thị trông rất tiều
tụy, thị là hiện thân của những con người bần cùng đói phát phải “tha hương cầu
thực”, “tối đâu là nhà, ngã đâu là giường” (Nguyễn Khải). Với những chi tiết
miêu tả ngoại hình trên, nhà văn Kim Lân đã cho người đọc thấy người phụ này
đã phải chịu đói nhiều ngày, sự đói khát cùng đường làm cho chị mất hết đi nét
nữ tính vốn có. Điệu bộ thị “chao chát, chỏng lỏn”, lần đầu giữa lúc đang nhàn
rỗi nghe câu hò buông ra của Tràng và những lời trêu ghẹo của bạn bè nhưng vì
đói chị đã “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng- một người đàn ông mà chị không
hề quen biết. Thị đùa giỡn với anh, liếc mắt cười tít để tạo thiện cảm với Tràng,
như vậy có thể nói là vô duyên, trơ trẽn nhưng chị vẫn đẩy xe cho Tràng và
chưa được ăn “cơm trắng với giò” như lời Tràng đã hứa.
Lần khác gặp lại Tràng, chị xưng xỉa trách móc “điêu, người thế mà điêu” làm
cho Tràng không hiểu gì cả. Những lời thoại ấy đã chứng tỏ người phụ nữ đã cố
ý lái câu chuyện để thể hiện mục đích được ăn cơm. Phải chăng sự đói khát
đường cùng đã khiến chị thành kẻ táo tợn, trơ trẽn, không cần giữ danh dự, chỉ
biết biến lời nói đùa thành sự thật để được ăn “cơm trắng với giò”. Khi được
Tràng mời ăn, “hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên”, “thị ngồi sà
xuống ăn thật, thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò
gì, ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Chính cái đói, cái khát đã
thử thách nhân cách của người phụ nữ thật ghê gớm. Nạn đói năm Ất Dậu như
một cơn lũ khủng khiếp cuốn phăng đi tất cả. Vì đói, người phụ nữ ấy đã đẩy lùi
sĩ diện, không lo danh dự, nhà văn không sa vào chủ nghĩa tự nhiên, không chê
bai giễu cợt nhân vật mà nhà văn muốn ta hiểu một thực tế rằng miếng ăn trong
cái đói que quắt nhiều khi thúc bách khiến họ quên đi cả ý tứ, không còn sĩ diện
nữa, bản năng sinh tồn đã vượt lên trên tất cả. Liều lĩnh hơn khi chị chấp nhận
theo không Tràng về làm vợ. Vì một câu nói đùa, người vợ nhặt biến lời rủ rê
thành lời cầu hôn chính thức, biến tất cả đùa thành thật, thị theo không Tràng về
nhà mà không hề biết gia cảnh, tính tình của người đàn ông ấy. Thị đã tự hạ
thấp giá trị của mình đến rẻ rúng như những vật không giá trị bị vứt ngoài đường.
Tác phẩm đã thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ bị cái đói đe dọa,
thủ tiêu, tha hóa nhưng trong thị vẫn ánh lên những phẩm chất tốt đẹp của lòng
ham sống mãnh liệt, khát khao hạnh phúc gia đình, ý tứ, hiền hậu đúng mực và
luôn lạc quan tin tưởng. Người vợ nhặt mang một vẻ đẹp nữ tính dịu dàng đúng
mực kể từ khi theo không Tràng về nhà. Trên đường về, có lúc người vợ nhặt đã
trách chồng bỏ ra hai hào để mua dầu thắp “hoang nó vừa chứ”. Lời trách móc
ấy thể hiện ý thức gia đình, vun vén cuộc sống hôn nhân, bởi vậy, thị đúng là
một người vợ thực sự. Cùng Tràng trên đường về nhà, thị cắp cái thúng e thẹn,
bản tính nữ tính đã trở lại. Qua một vài chi tiết miêu tả, ta thấy tâm tình của
người phụ nữ này đang dần trở lại. Thị lẳng lặng nén tiếng thở dài khi nhìn thấy
căn nhà lụp xụp của Tràng, đó là thái độ chấp nhận dường như chị nghĩ rằng
mình không nên hỏi điều gì nữa. Khi vào đến nhà, thị “ngồi mớm ở mép
giường”, đây là tư thế e thẹn, ngại ngùng, có chút rụt rè, lo âu của người con gái
lần đầu tiên bước về nhà chồng trong tình huống bất lợi. Nhà văn thật tinh tế khi
miêu tả được cử chỉ người phụ nữ “tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”.
Nét mặt chứa đựng biết bao ngổn ngang, suy nghĩ e ngại, xót xa, tủi cực cho số
phận của mình. Thế nhưng, người “vợ nhặt” ấy đã vượt lên trên hoàn cảnh để
thể hiện khát vọng sống, thể hiện bổn phận làm vợ, làm con dâu của mình.
Trong đêm tân hôn, thị có những cử chỉ rất dí dỏm “ủng vào trán Tràng”, cử chỉ
đó thể hiện rõ tình cảm yêu thương của thị dành cho Tràng. Sáng hôm sau, chị
dậy sớm làm đủ mọi việc như một người vợ hiền tần tảo, đảm đang. Chị cùng
với bà cụ Tứ “dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ”, người phụ nữ
“chao chát chỏng lỏn” ấy đã thay đổi đến mức chính Tràng cũng phải ngạc
nhiên “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng
mực không còn vẻ chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
Người vợ nhặt là người lạc quan luôn đem đến niềm vui cho mọi người. Đối với
người dân xóm ngụ cư, người vợ nhặt đem đến cho họ niềm tin vào sự đổi thay.
Đối với bà cụ Tứ, người “vợ nhặt” đã đem đến cho bà niềm an ủi, niềm hạnh
phúc lớn lao ở cái tuổi gần đất xa trời. Bà cụ Tứ vui mừng khi thấy con cái
trưởng thành, con trai mình đã có vợ bà lại nghĩ đến tương lai con cháu mình
sau này. Đối với Tràng, người “vợ nhặt” đem đến niềm hạnh phúc thực sự cho Tràng.
Khi có mái ấm gia đình, Tràng thực sự thay đổi từ một người đàn ông thô kệch
vụng về trở thành người có ý thức, có trách nhiệm với gia đình. Chính thị là
người đầu tiên kể cho cả nhà nghe truyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang.
Chị làm nảy sinh trong Tràng hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc, lá cờ đỏ
tung bay phấp phới, nó gợi lên trong Tràng những khao khát về sự đổi đời.
Người “vợ nhặt” đã được nhà văn khắc họa độc đáo ở việc chú trọng khắc họa
hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí người
phụ nữ. Thân phận người phụ nữ ấy có rẻ rúng, nhưng thị vẫn rất mực lạc quan, yêu đời.
Để nói về đức hi sinh, yêu thương con vô bờ bến, nhà văn đã phác họa thành
công chân dung hình ảnh bà cụ Tứ hiểu biết và rất mực thương con. Người phụ
nữ nghèo khổ ấy đã những thay đổi tâm trạng phức tạp khi thấy con mình
“nhặt” được vợ. Tâm trạng bà thay đổi từ ngạc nhiên đến vui mừng rồi lo lắng,
tủi hổ nhưng cũng vẫn rất lạc quan trước số phận.
Bà cụ Tứ là một người phụ nữ nghèo khổ. Bà xuất hiện với dáng vẻ lọng khọng,
gầy gò, ốm yếu. Cảnh ngộ nom thật đáng thương, bà lão nghèo khổ, già nua lại
cô đơn vì chồng và con gái đã ra đi mãi mãi. Đứa con trai lớn tuổi nhưng vì
nghèo khổ, thô kệch lại là người dân xóm ngụ cư nên chẳng lấy được vợ. Cuộc
đời bà cụ Tứ thật đáng thương, gia cảnh lại bần hà thuộc hạng cùng đinh trong
xóm ngụ cư. Ở cái độ tuổi gần đất xa trời này, bà cũng chẳng mong gì nhiều, chỉ
mong cho con mình nên người và có một cuộc sống hạnh phúc.
Sự xuất hiện của người vợ nhặt đã khiến cho diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ
diễn ra phức tạp. Bà ngạc nhiên khi thấy Tràng reo lên như một đứa trẻ vồn vã
chào mời khác thường “bà lão phấp phỏm bước theo con đến giữa sân bà lão
sững lại càng ngạc nhiên hơn”. Trong bối cảnh đói khát, bà cụ đã không tin rằng
con mình lấy được vợ. Bà ngạc nhiên trước cảnh một cô gái lạ xuất hiện trong
nhà mình. Kim Lân đã sử dụng nghệ thuật độc thoại nội tâm để chứng tỏ bà lão
rất ngạc nhiên. Bà tự hỏi “quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?
Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình thế kia? Sao lại
chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?”. Sự ngạc nhiên đến nỗi bà không tin vào mắt
mình khi thấy người lạ trong nhà “bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự
dưng bà thấy mắt mình nhoèn ra thì phải”. Trái tim của người mẹ luôn nhạy
cảm về chuyện riêng tư của con cái và cả chuyện dựng vợ gả chồng nhưng ở
đây, bà cụ Tứ lại ngơ ngác quá lâu vì không tin vào mắt mình.
Tâm trạng ngạc nhiên của bà cụ Tứ đã thể hiện rõ tình huống truyện lạ, éo le,
cảm động giữa lúc nạn đói đang hoành hành, những người nghèo khổ như mẹ
con bà cụ Tứ đến nuôi thân còn không xong mà Tràng còn dám nuôi thêm một
miệng ăn. Tâm trạng ngạc nhiên ấy còn hé lộ thân phận con người trong cuộc
sống nghèo đói, bà phải sống trong mặc cảm, không làm tròn bổn phận của
người mẹ, không lo được cho con, cũng vì nghèo nên con không lấy được vợ.
Có chút ngạc nhiên nhưng bà cũng rất vui mừng khi con mình lấy được vợ. Với
gia cảnh nghèo đói thuộc hạng cùng đinh, con trai mình lại là người thô kệch,
tính tình thì ngộc nghệch nay bỗng dưng có người theo không con mình về làm
vợ nên bà cũng thấy ấm lòng hơn. Người mẹ nghèo ấy rất mực thương con, do
vậy bà lại cảm thấy tủi và lo lắng khi nghĩ về tương lai. Khi Tràng có vợ bà
cũng rất vui nhưng trong lòng lại trào lên nỗi xót thương cho số kiếp đứa con
mình. Bà hiểu ra tình cảnh khốn khổ của con và gia đình mình. Con bà lấy vợ
giữa lúc cái đói tràn đến xóm ngụ cư như một hiểm họa. Cuộc sống bấp bênh,
khốn khó hơn bao giờ hết, thương con lại thương mình, bà cụ “trong kẽ mắt
kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”.
Vượt qua mọi nghi lễ thông thường, bà cụ đã chấp nhận người đàn bà xa lạ làm
con dâu trước nỗi lo cho tương lai, gia đình và các con. Bà lo cho các con ở
những ngày hiện tại chênh vênh. Lòng bà lão đầy những ám ảnh của quá khứ
vẫn nặng trĩu đắng cay. Bà ngửi thấy “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người
chết theo gió thoảng vào khét kẹt”. Rồi bà nghĩ đến ông lão, đến đứa con gái út
đã mất, nghĩ đến cuộc đời cực khổ của mình. Bà lo cho vợ chồng Tràng lấy
nhau không biết có qua khỏi nạn đói này không. Tâm trạng của bà cụ Tứ diễn ra
vô cùng phức tạp, vừa ai oán xót thương, lo lắng buồn tủi đan xen với những
xáo trộn trong lòng. Cũng như nhân vật anh cu Tràng, người “vợ nhặt” bà cụ Tứ
cũng luôn vững tin vào một tương lai tốt đẹp hơn. Trong ý nghĩ bà cùng vui với
triết lí giản dị sâu sắc: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, niềm vui giản dị thực tế
ấy được xuất phát từ kinh nghiệm của người dân lao động, được đúc rút từ bao
đời nay. Suy nghĩ đó được bộc lộ từ ý chí vươn lên, vượt qua hoàn cảnh khó
khăn của bà cụ Tứ. Vì nghĩ như vậy nên bà nói về tương lai, trong buổi sáng
ngày hôm sau, bà toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bà nói về
tương lai thiết thực của nhân dân lao động, từ việc nuôi gà và có một cuộc sống yên bình, ấm no.
Sáng ngày hôm sau, người mẹ nghèo ấy đã thắp lên đốm lửa của tình người, của
niềm tin và hi vọng qua các hành động cụ thể: “Bà cùng con dâu thu xếp nhà
cửa, quét dọn sân vườn cho sạch sẽ”, việc làm ấy được xuất phát từ niềm tin,
niềm hi vọng mang tâm lí của người lao động: “Nhà cửa gọn gàng, ngay ngắn
thì may mắn sẽ tới”. Bà có một sáng kiến bất ngờ đó là bổ sung một nồi “cháo
cám” vào bữa ăn ngày đói như một bữa ăn mừng nhân ngày con trai lấy được vợ.
Người mẹ tươi cười đon đả lặng lẽ khen ngon, dù miếng cháo cám có chát đắng
trong khóe miệng nhưng bà vẫn thốt lên răng “ngon đáo để”. Điều đó toát lên
tinh thần của người mẹ chấp nhận số phận với niềm vui và niềm hạnh phúc
đong đầy. Hình ảnh “nồi cháo cám” ấy còn là hiện thân của tình thương yêu mà
người mẹ dành cho các con. Nhà văn đã chọn “nồi cháo cám” để làm sáng lên
chất người khi niềm vui, niềm hạnh phúc của họ đang dần bị nguội tắt trước thế
lực của cái đói. Chi tiết ấy tái hiện cái đói năm 1945 một cách chân thực nhất,
con người phải ăn cả thức ăn của động vật để cầm cự, đấu tranh với cái chết gần
kề. Tuy bà cụ Tứ chỉ xuất hiện trong một khoảnh khắc của chiều hôm trước và
sáng hôm sau khi con mình dắt người “vợ nhặt” về trình diện với bà nhưng nhà
văn đã đem đến cho người đọc một nhân vật có chiều dài cuộc đời và chiều sâu
tâm lí với những am hiểu sâu sắc. Bà cụ Tứ chính là điển hình cho hình ảnh
người mẹ nông dân nghèo khổ, từng trải, hiểu biết, nhân hậu, bao dung và rất mực thương con.
Bằng tài năng của mình với một phong cách nghệ thuật riêng biệt, nhà văn Kim
Lân đã đem đến cho chúng ta một thiên truyện “Vợ nhặt”. Ngay từ nhan đề độc
đáo của tác phẩm đã hé lộ cho chúng ta biết một tình huống truyện đầy đặc sắc
nhưng lại hết sức éo le. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc,
Tràng được miêu tả rất thực tế về tâm lí, người “vợ nhặt” tâm lí hiện lên rất sinh
động còn bà cụ Tứ thì tâm lí diễn ra phức tạp. Nghệ thuật trần thuật mới mẻ,
ngôi kể theo cách truyền thống ở ngôi kể thứ ba, điểm nhìn trần thuật luôn luôn
di chuyển, nhà văn đã để cho nhân vật tự dẫn dắt tiến trình của truyện. Giọng
điệu hóm hỉnh, đôn hậu. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, nôm na. Xuất hiện nhiều
chi tiết đặc sắc: Chi tiết “bát bánh đúc” cho thấy sự đói khổ có thể làm thay đổi
nhân cách con người. Chi tiết “nồi cháo cám” cho thấy tình thương bao la của
người mẹ và tái hiện sự thật đói khát đến mức chẳng còn gì để ăn. Chi tiết “lá cờ
đỏ sao vàng” tung bay phấp phới cho thấy niềm tin của con người vào cuộc
sống, khát vọng có một cuộc sống ấm no và niềm tin vào cách mạng của người
nông dân lúc bấy giờ. Tất cả những đặc sắc nghệ thuật trên đã tạo nên một
phong cách nghệ thuật riêng biệt của Kim Lân với sở trường truyện ngắn này.
Qua tác phẩm, ta thấy được giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực được thể hiện
một cách sâu sắc. Ở giá trị nhân đạo, nhà văn đã dựng lại được bức tranh hiện
thực đương thời là con người trong nạn đói năm Ất Dậu. Nhà văn trân trọng và
cảm thông trước những số phận bị thảm, trước những ước mơ, những khao khát
về hạnh phúc gia đình của người nông dân. Bên cạnh đó, nhà văn đã phát hiện
và khẳng định được vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp của tình người trong cơn lốc
của sự đói nghèo. Và cuối cùng, nhà văn đã chỉ ra con đường cách mạng cho
người nông dân, chỉ có theo cách mạng thì con người mới có thể giành lại được
cuộc sống ấm no yên bình. Đối với giá trị hiện thực, nhà văn đã tái hiện được
một thực trạng bi thảm của chế độ Việt Nam trước cách mạng. Kim lân đã chọn
một sự kiện lịch sử có thật để làm chủ đề cho tác phẩm của mình. Mở đầu tác
phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc tới bối cảnh của một miền quê trong những
ngày đói, bóng dáng con người toàn là chết chóc, thê lương, những bóng người
“đội chiếu, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang
khắp lều chợ”, “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác
rưởi và mùi gây của xác người”. Hiện thực cho thấy miền quê đó trong những
ngày đói vô cùng xơ xác, heo hút. Những chi tiết đó đã cho thấy cái đói tràn lan
như một nạn dịch. Nhà văn đã phản ánh chân thực số phận cùng quẫn của con
người trong nạn đói. Kim Lân đã hướng ngòi bút vào việc khắc họa số phận
cùng quẫn của con người trong nạn đói qua hình tượng người vợ nhặt. Nhân vật
Tràng, bà cụ Tứ là những con người nghèo khổ, đáng thương. Truyện đã phản
ánh rõ thảm cảnh của con người trong nạn đói và số phận cùng quẫn của họ
trước thảm cảnh. Nhà văn đã phản ánh hiện thực cơ bản đó là lòng người dân
hướng tới cách mạng. Dù hiện thực này chỉ nói thoáng qua ở đoạn cuối của tác
phẩm nhưng khiến cho ta nghĩ tới sự thay đổi hiện thực cuộc sống, đó là cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Bằng tất cả tình yêu thương, sự đồng cảm, nhà văn Kim Lân đã tạo nên sự thành
công trong sự nghiệp làm văn của mình qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Nhà văn đã để
lại cho chúng ta những bài học về tình yêu thương, đùm bọc giữa những con
người cùng chung dòng máu Việt và một tinh thần lạc quan, yêu đời, hướng tới
cách mạng. Nhà văn đã ngợi ca truyền thống “tương thân tương ái” quý báu của
dân tộc Việt Nam ta. Và đặc biệt trong bối cảnh hội nhập của đất nước ta hiện
nay, thế hệ trẻ chúng ta cần giữ vững quan điểm “hòa nhập nhưng không hòa
tan” và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Qua tác phẩm “Vợ nhặt” nhà văn Kim Lân đã để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng
người đọc. Nhà văn đã tái hiện thành công bối cảnh nạn đói năm 1945 qua các
nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ với một niềm tin yêu, luôn hi vọng vào một ngày mai tươi sáng.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài số 8
Cùng với Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan,... Kim
Lân cũng là một trong số những cái tên nổi tiếng của nền văn học hiện thực Việt
Nam khi viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng Tám, với ngòi
bút sâu sắc và cái nhìn thấu hiểu. Tuy nhiên khác với ngòi bút phê phán và tiếng
cười sâu cay của Vũ Trọng Phụng hay Nguyễn Công Hoan, khác với sự lạnh
lùng, đau đớn từng câu văn của Nam Cao. Các tác phẩm của Kim Lân không
chủ tập trung vào việc phản ánh hiện thực xã hội đương thời hay những nỗi đau
thân phận, mà tác giả dựa vào đó để làm nổi bật những giá trị nhân văn, vẻ đẹp
tâm hồn nhân vật, bộc lộ sức mạnh, ý nghĩa của những tình cảm cao quý như
tình thân, tình yêu, thứ làm thay đổi con người và cuộc sống của họ dẫu trong
những hoàn cảnh khốn cùng nhất. Đời sáng tác của Kim Lân ngắn, và ông
không để lại nhiều tác phẩm, trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến Vợ nhặt, một
tác phẩm tiêu biểu, đặc trưng cho khuynh hướng sáng tác của tác giả.
Truyện ngắn Vợ nhặt diễn ra trong bối cảnh khá đặc biệt - nạn đói cuối năm
1944 - đầu năm 1945, chỉ trong vòng vài tháng khiến hơn hai triệu đồng ta từ
Bắc Kỳ đến Quảng Trị chịu chết đói, cái ám ảnh kinh hoàng ấy được Nam Cao
viết trong Đôi mắt rằng “có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại
cho nhau nghe để rùng mình”. Trong tác phẩm Kim Lân không dùng những từ
ngữ quá nặng nề, gay gắt, không tiếng chửi bới, hay những sự kiện nào kịch tính
để mô tả lại viễn cảnh khủng khiếp của nạn đói. Tuy nhiên ông vẫn lột tả được
cái tiêu điều, thê thảm của một xóm ngụ cư trong giai đoạn đau thương nhất của
lịch sử dân tộc, bằng những câu văn nhẹ nhàng, nhưng rất thấm thía. Đó là cái
cảnh những người dân tản cư, dìu dắt, bồng bế nhau la liệt khắp nơi, bộ dạng thê
thảm, tàn tạ, người ngợm “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”,
không gian bao trùm bởi sự chết chóc với cảnh “người chết như ngả rạ”, “không
khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Ớn lạnh, ám
ảnh với cảnh “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma”, cùng với
“tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp”
như tiếng gọi của tử thần, còn con người thì đang bước dần từng bước chậm rãi
đến nghĩa địa, tuyệt vọng và bất lực, những con người ấy dường như đã nhìn
thấy trước cái chết của mình, thậm chí “khó ai có thể tin mình sống nổi”. Đó là
một khung cảnh đầy bi thương và ám ảnh, được Kim Lân tái hiện lại trong các
dòng văn xen kẽ, ông không tập trung làm nổi bật nó, mà chỉ chấm phá trong
một vài câu văn khiến người ta có cảm giác cái chết hiện diện khắp nơi và nó
dần trở thành lẽ thường trong giai đoạn ấy. Không ai lạ gì cảnh người chết đói,
thỉnh thoảng lại có một người ngã xuống, lúc đầu người ta còn có sức để đi chôn,
sau nhiều quá chỉ cuốn chiếu lại để đó, cuối cùng là không có cả chiếu để cuốn,
thê thảm và ghê sợ vô cùng. Có thể thấy rằng nhà văn Kim Lân không hề né
tránh hiện thực, nhưng quan trọng hơn giá trị của tác phẩm không nằm ở chỗ
phơi bày giá trị hiện thực mà là ở việc từ trong bóng tối của hiện thực tác giả đã
tìm ra ánh sáng của sự sống, ánh sáng của hy vọng, ánh sáng của tình người, của
niềm tim toát lên từ những con người trong nạn đói ấy. Những con người đang
bám víu lấy cái sự sống mỏng manh, đang nỗ lực sống sót, dù rằng họ cũng như
những người dân ngụ cư khác “khó ai có thể tin mình sống nổi” đó là Tràng, thị, và bà cụ Tứ.
Nhân vật Tràng là một nhân vật điển hình đại diện cho những con người trong
nạn đói năm 44-45, lai lịch của anh chàng có thể gói gọn trong ba chữ “dân ngụ
cư”, và từ ba chữ này đã nói lên rất nhiều điều. Tràng là người mang số phận
tha hương cầu thực, không thể sống nổi ở quê hương mình nên đành phải tìm
đến nơi khác kiếm kế sinh nhai, điều đó đem đến cho anh nhiều nỗi khổ, sự kỳ
thị, phân biệt đối xử của dân bản địa, dẫn đến việc anh không được chia ruộng
đất (vốn là tài sản lớn nhất của người nông dân lúc bấy giờ), vô cùng nghèo khổ.
Không chỉ vậy, dân ngụ cư cũng không được sống trong không gian làng xóm,
mà phải sống riêng biệt ở rìa làng hoặc ngoài đê, đồng thời cũng không được
tham gia bất cứ một sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã. Có thể nói là vô cùng
đáng thương, thảm hại. Gia đình Tràng nghèo khó, mẹ góa con côi dựa dẫm vào
nhau, làm nghề kéo xe bò thuê, công việc bấp bênh không ổn định. Thêm nữa
Tràng lại có một ngoại hình xấu xí, với những đường nét thô kệch được tác giả
ví như sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa “hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều,
hai bên quai hàm bạnh ra, thân hình to lớn vập vạp” lại thêm cái tật “vừa đi vừa
lảm nhảm những điều mà mình nghĩ”, khi cười thì thường ngửa mặt lên trời
cười hầy hầy. Chính vì ngoại hình xấu lạ ấy mà Tràng chỉ có sức hấp dẫn với
những đứa trẻ trong xóm, chứ không lọt được vào mắt xanh của bất cứ cô gái trẻ
nào, điều đó dẫn tới việc Tràng chẳng thể lấy nổi một cô vợ. Sau những nét về
lai lịch, ngoại hình để bộc lộ tính cách nhân vật Tràng Kim Lân đã đặt anh vào
một sự kiện mang tính bước ngoặt, cũng chính là tình huống truyện - Tràng
“nhặt” được vợ. Đó là khi Tràng đang đẩy xe bò, để cho đỡ mệt anh đã hò mấy
câu cho vui miệng, chứ cũng không chủ đích chòng ghẹo ai “Muốn ăn cơm
trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò cùng anh”. Ai ngờ sau câu nói ấy, thì thị lại
ra đẩy xe cùng Tràng thật, rồi còn cười tít mắt với anh, khiến anh vô cùng khoái
chí, nhưng tất cả cũng chỉ dừng lại ở đó. Trong lần gặp thứ hai, Tràng và thị vẫn
chưa có cái gì gọi là tình yêu mà nó chỉ là sự chia sẻ, cảm thông giữa những
người đồng cảnh ngộ, khi thị sưng sỉa, cong cớn vì miếng ăn thì Tràng sẵn sàng
giúp đỡ, đãi thị hẳn 4 bát bánh đúc và thị cũng chẳng ngại ngần gì mà ăn một
lượt không chuyện trò. Rồi cũng từ dăm ba câu chuyện trò và một câu bông đùa
nữa của Tràng “Này có theo tớ về thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” mà thị
theo Tràng, trở thành vợ của Tràng thật, không cần mối lái, lễ hỏi, chỉ với 4 bát
bánh đúc và một câu đùa, hai con người ấy đã trở thành vợ chồng với nhau. Đó
là một tình huống rất bất ngờ, bất ngờ với cả độc giả lẫn nhân vật Tràng, anh đã
có vợ bằng một phương thức rất kỳ quái, còn thị thì trở thành một người vợ
“nhặt”. Từ sự kiện Tràng “nhặt” vợ, nhân vật này có nhiều diễn biến tâm trạng
khác nhau. Trong buổi chiều hôm trước, trước khi dẫn vợ về nhà, Tràng vốn dĩ
xưa nay là một người thô kệch, cục mịch thế mà lại trở nên tinh tế, biết chăm
sóc người khác lạ kỳ. Thương vợ tàn tạ, rách nát quá, về nhà chồng mà chẳng có
gì ngoài bộ đồ như tổ đỉa và cái nón rách, Tràng đã dẫn thị vào chợ tỉnh mua
một cái thúng con đựng vài thứ đồ lặt vặt để cho thị đỡ tủi thân, đồng thời dẫn
thị di ăn một bữa no nê thay cho tiệc mừng cưới. Không chỉ vậy Tràng còn mua
thêm hai hào dầu (việc làm vốn được gọi là hoang phí trong thời buổi nạn đói
hoành hành), để về thắp sáng nhà cửa, đón thị về làm dâu mới. Đó là một cách
làm rất cảm động và đủ tinh tế của một người chồng biết lo nghĩ, nhân hậu.
Trên đường về Tràng tỏ ra rất sung sướng, phấn khởi cái niềm vui nó trào ra
hiện rõ lên khuôn mặt anh “Mặt hắn có một cái vẻ gì đó phớn phở khác thường.
Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Kim Lân còn
dùng một câu văn rất cảm động để diễn tả tâm trạng của anh lúc này “trong một
lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái
đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Có thể thấy rằng
trong thâm tâm Tràng lúc này Tràng sự vui mừng, niềm hạnh phúc đã xóa mờ
hết tất cả những gì khó khăn, khốn khổ đang diễn ra và đang chờ đợi phía trước,
kể cả cái chết. Khi về đến nhà, đứng trong một không gian hẹp hơn, bỗng Tràng
cảm thấy ngượng, rồi thấy sờ sợ, bởi lẽ sự quen biết giữa thị và Tràng chẳng đủ
để hai người có thể đối đãi hẳn với nhau như những người thân, chứ đừng nói là
một cặp vợ chồng, họ chưa có tình yêu, sợi dây duy nhất nối giữa họ chính là sự
đồng cảm, thương xót của Tràng, và thị thì cần miếng ăn. Cuối cùng là khi
Tràng giới thiệu với mẹ về nàng dâu mới, chờ đợi sự đồng ý với mẹ, thì anh lại
chuyển sang trạng thái nôn nóng, sốt ruột, đi đi lại lại, ra sân ngóng trông mẹ về,
rồi đón mẹ một cách rối rít, mừng rỡ. Lúc thưa chuyện, Tràng cũng bộc lộ rõ sự
chững chạc, nghiêm túc, thể hiện sự trân trọng trìu mến với u già, và cũng là sự
trân trọng hạnh phúc bất ngờ này.
Sau đêm tân hôn, sáng hôm sau thức dậy trong lòng Tràng có nhiều điều thay
đổi, hạnh phúc đã khơi dậy trong Tràng ý thức, trách nhiệm bổn phận của người
đàn ông trong gia đình. Anh dậy muộn, cảm thấy trong cơ thể hiện diện sự êm
ái, lửng lơ như từ một giấc mơ đi ra, cảm thấy ngỡ ngàng trước hạnh phúc mà
mình đang nắm giữ, nhận thấy cảnh tượng xung quanh thay đổi mới mẻ, khác lạ.
Nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ (đống quần áo rách như tổ đỉa thường vắt ở góc
nhà, thì giờ được đem ra sân hong khô, hai ang nước dưới gốc ổi bình thường
khô cong thì bây giờ đầy ắp nước, đống rác mùn được dọn sạch,...), thứ hai nữa
là không khí trong nhà bỗng trở nên ấm áp, vui vẻ lạ kỳ. Việc đó đã thức dậy
trong Tràng nhiều cảm xúc “cảnh tượng thật đơn giản bình thường, nhưng đối
với hắn thật thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với
cái nhà của hắn lạ lùng”, rồi “một nguồn vui sướng đột ngột tràn ngập trong
lòng”. Từ những cảm xúc ấy Tràng đã nhận thức được trách nhiệm của bản thân
với cuộc sống, với gia đình “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn
có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này” và biến nó thành hành động “hắn
chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa
căn nhà”, muốn cùng chung tay để nghênh đón một tương lai tốt đẹp hơn. Từ
chuyện có vợ, sự chuyển biến trong nhận thức đã dẫn tới kết quả là sự khao khát,
ước muốn đổi đời nhen nhóm lên trong tâm hồn Tràng khi anh bắt đầu quan tâm
đến chuyện ngoài xã hội (chuyện Thái Nguyên, Bắc Giang nhân dân nổi lên
cướp kho thóc của Nhật). Anh nghĩ về lần gặp Việt Minh mà mình đã tránh né,
rồi tự nhiên thấy tiếc rẻ, vẩn vơ khó hiểu, điều ấy chứng minh rằng nếu được
cho quay lại thời gian khi ấy, có lẽ Tràng đã không ngại ngần mà gia nhập Việt
Minh cùng đi phá kho thóc của Nhật, và trong tương lai, nếu gặp lại cảnh ấy có
lẽ Tràng cũng sẽ tham gia. Tác phẩm khép lại với hình ảnh “đám người đói và
lá cờ đỏ bay phấp phới” lẩn khuất ẩn hiện trong trí óc Tràng, đã mở ra những hy
vọng mới, những niềm tin, và giải pháp mới cho Tràng và cả những người dân trong nạn đói năm 44-45.
Nhân vật người vợ nhặt cũng là một nhân vật quan trọng của tác phẩm. Thị là
người có lai lịch không rõ ràng, không tên không tuổi, không quê quán họ hàng,
thân phận của thị chính là một số không tròn trịa, phản ánh số phận rẻ rúng như
rơm như rác của con người trước nạn đói năm 1944-1945. Thị không phải là
người phụ nữ có ngoại hình hấp dẫn, Kim Lân đã dùng những nét vẽ rất thảm
hại để tái hiện lại dáng vẻ tàn tạ của thị như “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “gầy
xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, rồi “cái ngực
gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”. Không có một ngoại hình hấp
dẫn, nhưng cách nói năng của thị cũng chẳng lấy gì làm hay ho, ngôn ngữ chua
ngoa, đanh đá, chỏng lỏn, sưng sỉa chỉ vì một miếng ăn. Cử chỉ, hành động vô
duyên, táo bạo đến mức trơ trẽn. Nhưng bấy nhiêu đó có phải là bản chất của thị
hay không? Câu trả lời là không, bởi thực tế trong những biểu hiện khi về làm
vợ Tràng thị đã bộc lộ nhiều vẻ đẹp đáng quý. Trước hết là vẻ đẹp của khát
vọng sống mãnh liệt, như đã phân tích tất cả những cử chỉ, ngôn ngữ hành động
của thị đều có vẻ phản cảm và đáng ghét. Thế nhưng nếu ta xoay góc nhìn một
chút sang khuynh hướng nhân văn nhân bản, thì có thể thấy rõ ràng rằng thị có
những hành động, ngôn ngữ như vậy tất cả chỉ vì khao khát được sống, được có
miếng ăn cứu đói, thị không muốn chết, đồng thời cũng bộc lộ khao khát được
hạnh phúc, thị cũng muốn có một tấm chồng để dựa dẫm lúc buổi khó khăn, đói
kém. Vẻ đẹp thứ hai nữa của thị chính là vẻ đẹp nữ tính được bộc lộ sau khi về
làm vợ Tràng. Trên đường về nhà chồng, thị trở nên thẹn thùng, bẽn lẽn như bất
kỳ cô dâu mới nào ngày cưới, rón rén, e thẹn, lấy nón che mặt, bởi ngại ngùng
trước những ánh mắt xăm soi của dân làng. Khi bước về nhà chồng, nhìn thấy
căn nhà lụp xụp của Tràng thị đã không giấu nổi thất vọng qua tiếng thở dài, thế
nhưng khác hẳn với cái tính chỏng lỏn, đanh đá được mắt trên chợ tỉnh, thị lại
im lặng, quyết tâm cùng với chồng vun vén cho gia đình, chứ không hề buông
lời chê trách, thể hiện vẻ đẹp của sự chịu thương chịu khó, hy sinh vốn có của
người phụ nữ Việt Nam. Khi gặp gỡ tiếp xúc với mẹ chồng, thị trở nên rất lễ
phép, thưa hỏi đàng hoàng, nghiêm túc lắng nghe lời bà cụ Tứ chỉ dạy. Sau đêm
tân hôn thì thị trở thành một người phụ nữ đảm đang tháo vát, dậy sớm đem
quần áo ra phơi, gánh đầy hai ang nước, quét sân, trang hoàng nhà cửa, … quyết
tâm làm một người vợ hiền dâu thảo, xây dựng gia đình cùng với Tràng. Trong
ứng xử thị cũng trở nên rất tế nhị, thông minh, khi bà cụ mang nồi “chè khoán”
ra với niềm vui mừng, thì bản thân thị cũng rất trông mong vào món chè ngon
ngọt, thế nhưng khi ăn một miếng “mắt thị tối lại” - thị thất vọng, tuy nhiên thị
cố giấu sự thất vọng ấy đi, điềm nhiên ăn tiếp, không nhìn ai, cũng không nói
câu gì để tránh làm bà cụ Tứ tủi thân và làm mất không khí vui vẻ của gia đình.
Một vẻ đẹp nữa của thị đó chính là niềm tin vào tương lai tươi sáng, chính thị đã
đem đến cho cả gia đình một thông tin mới, mở ra một lối thoát cho Tràng, bà
cụ Tứ và đó cũng là lối thoát chung của nhân dân ta dưới nạn đói năm Ất Dậu.
Nhân vật thứ 3 của tác phẩm đó chính là nhân vật bà cụ Tứ. Đây là một người
phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, cả đời long đong lận đận, mong ước lớn nhất với
cuộc đời là lấy vợ cho con mà mãi vẫn chưa được. Thế nhưng giữa cái lúc thóc
đau gạo kém, giữa lúc nạn đói người chết như ngả rạ thì anh con trai lại “nhặt”
được một người vợ theo không, khiến bà vừa mừng vừa lo. Trước cảnh Tràng
lấy vợ, trong buổi chiều hôm trước bà vợ đầu tiên là hết sức ngạc nhiên và bối
rối, trước lời chào của thị, bà cụ Tứ chỉ im lặng vì thấy không thể tin nổi là con
mình lại có được vợ mà không cần cưới hỏi. Sau sự ngạc nhiên ấy chính là
những cảm xúc lẫn lộn sau khi hiểu ra ngọn nguồn cớ sự, khi nghe Tràng giải
thích thì bà “cúi đầu nín lặng”. Bà thấy buồn, thấy tủi cho mình và cho con trai,
bởi lúc người ta cưới vợ cho con là lúc nhà ăn nên làm ra, có tiền có của, làm
được dăm ba mâm đãi làng, đãi xóm, còn nhà mình thì không có gì, lại còn ngay
giữa nạn đói sống nay chết mai. Không chỉ buồn mà bà còn lo lắng cho tương
lai của Tràng và thị, không biết chúng liệu có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói
khát này không. Cuối cùng bà cụ lại thấy mừng vì thấy rằng may mắn thị có gặp
phải bước đường đói khát nên mới lấy đến Tràng, chứ không thì Tràng có lẽ
phải chịu ế cả đời. Sau tất cả những tâm trạng cảm xúc đan xen, bà cụ Tứ cuối
cùng cũng lấy lại tinh thần, bộc lộ tình yêu thương con cái, tấm lòng nhân hậu
thông qua cách hành xử với người con dâu. Đó là câu nói “Ừ thôi thì các con đã
phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lắm” để chính thức nhận thị làm
dâu con trong nhà. Đồng thời bà cũng có những lời dặn dò, động viên hướng
các con vào một tương lai tươi sáng, giấu trọn nỗi buồn nỗi lo trong lòng để
truyền niềm tin, sự hứng khởi cho các con. Sau đêm tân hôn của các con, bà
thay đổi hẳn không còn nỗi lo lắng, buồn rầu mà thay vào đó là niềm hy vọng
tràn trề, “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”, xăm xắn thu dọn quét
tước nhà cửa. Trong bữa cơm đón dâu mới, bà là người nói nhiều nhất, lại nói
toàn những chuyện vui, suy tính chuyện làm ăn, nuôi gà,... Sau đó lại cố gắng
nối dài niềm vui cho các con bằng cách lật đật chạy đi lấy nồi cháo cám gọi
bằng “chè khoán”, cố xua đi bóng tối của cái đói và cái chết. Thế nhưng chúng
lại càng trở nên rõ ràng hơn, khi cái vị đắng nghét của cháo cám lan đây khoang
miệng, nghẹn bứ trong cổ của cả ba người.
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân là một truyện ngắn hay và đặc sắc, từ việc
phản ánh hiện thực xã hội thông qua nạn đói khủng khiếp năm 1944-1945, tác
giả đã bộc lộ những tư tưởng, giá trị nhân đạo sâu sắc. Ca ngợi, đề cao vẻ đẹp,
khát vọng sống còn của con người, cùng những niềm tin, hy vọng của họ vào
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đồng thời cũng bộc lộ niềm trân trọng, quý mến
những thứ tình cảm giữa con người với con người như tình thân, tình yêu, tình
đồng loại,... thứ không bao giờ bị dập tắt bởi sự khắc nghiệt của cuộc đời, thứ
đã tiếp thêm cho con người sức mạnh để tiến về phía trước.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài số 9
Nhà văn Pháp Napoluye từng nhận định: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần
ta lên, gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm không cần tìm nguyên tắc
nào để đánh giá nó nữa, nó là cuốn sách hay do người nghệ sĩ có thực tài viết
ra”. Vâng, một tác phẩm hay luôn biết cách đưa tâm hồn con người tới địa hạt
mới – địa hạt của những yêu thương, những sẻ chia và những khát khao. Viết
“Vợ nhặt”, Kim Lân đã thể hiện niềm cảm thương trước số phận của con người
cùng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của họ khi bị đẩy đến mức đường cùng của cái đói.
Lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945, truyện ngắn: “Vợ nhặt” đã khắc họa cuộc
sống ngột ngạt, bức bối cùng cái nghèo khó, bần cùng của nhân dân ta. Cái đói
đã hiện hữu thành hình, thành màu, thành mùi, thành vị khiến con người bị dồn
tới mức đường cùng, đẩy họ đến bên bờ vực của cái chết. Chứng kiến thảm
cảnh khủng khiếp ấy, ngòi bút nhà văn cất lên tiếng đau của niềm cảm thương
trước những số phận bất hạnh. Đồng thời qua đó, ông tố cáo tội ác của thực dân
Pháp và phát xít Nhật, phản ánh khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm
tin vào tương lai tươi sáng của con người.
Ngay từ nhan đề bài thơ, nhà văn đã gây cho người đọc một sự tò mò bởi “Vợ
nhặt” tức là người vợ tự theo về nhà mà không cần cưới xin. Nhưng nhan đề ấy
cũng chính là “thắt nút” của câu chuyện, khắc họa một cách đầy đủ về số phận
của các nhân vật. Qua đó phản ánh số phận thê thảm và tủi nhục của con người
trong nạn đói khủng khiếp xảy ra vào năm 1945.
Truyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật Tràng – một thanh niên nghèo khổ,
xấu xí nhưng chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà nhặt được cô vợ
đang sống dở chết dở vì đói. Họ kết mối nhân duyên giữa bóng đêm bao trùm
của nạn đói. Đêm tân hôn diễn ra âm thầm trong bóng tối lạnh lẽo với tiếng
khóc tỉ tê của những nhà có người chết theo gió vọng lại. Bữa cơm giản dị, thô
sơ với rau chuối, cháo loãng và muối. Mẹ chồng đãi con dâu và con trai bằng
nồi chè nấu bằng cám. Ba mẹ con xoay sang câu chuyện Việt Minh phá kho
thóc Nhật chia cho dân nghèo và kết thúc truyện bằng hình ảnh “Trong óc
Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới”.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm: “Tình huống truyện là một lát cắt của
sự sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi
phối nhiều điều trong cuộc sống con người”. Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân đã tạo ra
một tình huống hết sức độc đáo: anh chàng ngụ cư nghèo khổ, xấu xí, ế vợ như
Tràng mà lại nhặt được vợ chỉ bằng vài câu nói đùa và mấy bát bánh đúc. Điều
đó không chỉ gây ngạc nhiên cho những người dân làng, cho mẹ Tràng mà còn
cho chính bản thân anh ta. Đây là một tình huống éo le, cảm động nhưng hợp lí
bởi chính nạn đói làm cho những mảnh đời cơ cực trôi dạt vào nhau họ mới nên
vợ nên chồng. Qua đó tình huống truyện đã làm nổi bật giá trị hiện thực cũng
như giá trị nhân đạo: nạn đói đẩy con người tới ranh giới của sự sống và cái chết
khiến giá trị con người trở nên rẻ rúng đồng thời làm nổi bật hình ảnh các nhân vật.
Trước hết, truyện đã tái hiện hoàn cảnh cơ cực, nghèo đói đến xác xơ của con
người qua hình ảnh của những người dân làng đặc biệt là ba mẹ con Tràng. Cái
đói ập đến ngôi làng như một con quỷ dữ nuốt chửng tính mạng của biết bao
nhiêu người, nó biến không khí vốn trong lành, tươi mát của một làng quê thanh
bình thành không khí ẩm thối của mùi rác rưởi và xác chết: “Không buổi sáng
nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm cong
queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của
xác người”. Cái đói ấy cướp đi tiếng cười hồn nhiên của những đứa trẻ trong
làng. Cách đó không lâu mỗi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con lại bu lại theo
anh, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo khiến cho cái xóm
ấy mỗi lúc chiều lại xôn xao lên một lúc. Nhưng niềm vui nhỏ nhoi ấy giờ
không còn nữa, nụ cười tắt hẳn trên môi chúng. Chúng ngồi ủ rũ dưới những xó
đường, không nhúc nhích. Còn Tràng – nhân vật chính của truyện là một thanh
niên ngụ cư nghèo, xấu xí sống hiu quạnh với mẹ trong túp lều dựng trên mảnh
vườn đầy cỏ dại. Sống với kiếp dân ngụ cư, họ bị dân làng coi thường, khinh bỉ,
làm công việc hèn hạ như đầy tớ. Và giống như một định mệnh của kiếp nghèo
khổ, chàng đã “nhặt” được một người vợ – một người phụ nữ không tên, không
tuổi, không quê quán, nhà cửa. Thị ngờ nghệch bị cái đói đẩy ra ngoài đường,
nhập vào dòng người tha hương cầu thực, ngồi vêu ra ở kho thóc nhặt những hạt
rơi hạt vãi. Bằng ngòi bút tả thực, nhà văn đã khắc họa thành công bức tranh
của “ngôi làng đói” trong năm 1945.
Nhưng chính trong cái “hiểm nghèo” ấy, con người đã bộc lộ những phẩm chất
tốt đẹp: Đó là tình yêu thương con người, niềm khao khát sống, khao khát hạnh
phúc và niềm tin mãnh liệt vào tương lai.
Nhà thơ Tố Hữu từng nói: “Có gì đẹp trên đời hơn thế/ Người với người sống
để yêu nhau”. Vâng, tình yêu chính là thứ còn xót lại khi con người ta đã mất tất
cả, đã rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo. Trong nạn đói khủng khiếp, nhân vật
Tràng hiện lên với lòng tốt của một chàng trai sẵn sàng chia sẻ miếng ăn cho
người phụ nữ xa lạ. Đặc biệt nhân vật bà cụ Tứ hiện lên với tình yêu thương con
sâu sắc. Cuộc đời sẽ lặng lẽ trôi qua nếu không gặp sự kiện Tràng đưa người
phụ nữ xa lạ về làm vợ. Kim Lân đã thể hiện sâu sắc tâm lí của người mẹ nghèo
khổ trước sự kiện con trai có vợ: bà cụ hết sức ngạc nhiên. Khi nghe người phụ
nữ chào là “u” mà vẫn không hiểu, mắt nhìn nhoèn mà vẫn không tin, trong đầu
bà xuất hiện một loạt những câu hỏi: “Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?” .
Đó là bởi vì bà chưa bao giờ nghĩ một người nghèo khó như con mình lại có vợ.
Bà ngạc nhiên không phải sự hoảng hốt, lo lắng mà là niềm ngỡ ngàng trước
hạnh phúc quá lớn lao của con trai. Khi đã hiểu ra vấn đề, lòng người mẹ chất
chứa bao cơ sự, vừa thương con, vừa xót xa cho chính mình: “Người ta dựng vợ
gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái
mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Dấu ba chấm ngưng đọng nỗi nghẹn ngào vì
tủi thân, giọt nước mắt thương con lăn trên gò má. Không những thế, bà cụ cảm
thấy lo khi nghĩ về hiện thực: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua
được cơn đói khát này không”. Dù lo lắng nhưng khi nhìn người đàn bà tội
nghiệp đứng vân ve tà áo thì lòng bà cụ xót thương vô cùng cho người con dâu.
Những suy nghĩ đầy tình thương đầy nhân ái và cảm giác yên tâm đã thay thế
nỗi lo trong lòng bà cụ: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta
mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Tình yêu thương con còn
được bộc lộ trong từng suy nghĩ, hành động cụ thể: gọi người phụ nữ là “con”.
Chỉ bằng một từ “con” bà đã dang rộng vòng tay đón nhận con dâu giúp con dâu
bớt ngượng ngùng. Bà còn tâm sự: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp
với nhau, u cũng mừng lòng”. Chỉ với hai chữ “mừng lòng” bà cụ đã coi người
con dâu đến với gia đình như một niềm vui. Bà kể về gia cảnh “Kể có ra làm
được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng mà mình nghèo, cũng chả ai người ta
chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm
nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Lời nói tưởng
có vẻ lẩm cẩm nhưng lại rất nhân hậu chan hòa phá tan sự ngượng ngùng ban đầu.
Cùng với tình yêu thương, nhà văn thể hiện niềm khao khát hạnh phúc của con
người qua nhân vật Tràng và người vợ nhặt. Trước hết khao khát hạnh phúc của
Tràng thể hiện qua diễn biến tâm lí và hành động nhân vật. Tràng quyết định
nhanh khi đưa người phụ nữ xa lạ về làm vợ: “Mới đầu anh chàng cũng chợn,
nghĩ: thóc gạo sau này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại
còn đèo bòng” sau đó anh ta “chặc kệ”. Bên ngoài anh ta có vẻ hơi thiếu trách
nhiệm, liều lĩnh nhưng ở bên trong lại chứa đựng khát khao hạnh phúc thường
trực lớn đến mức giúp Tràng vượt lên trên cái đói và cái chết. Khi Tràng đưa vợ
về xóm ngụ cư, dù nghèo nhưng vẫn hào phóng khi đãi thị một bữa và mua cho
một cái thúng. Niềm hạnh phúc hiện lên trong con mắt và nụ cười tủm tỉm.
Trong chốc lát Tràng đã quên đi đói khát tình tứ đi bên người đàn bà của mình,
họ nói chuyện với nhau có vẻ chưa hết ngượng ngùng nhưng nhen nhóm hạnh
phúc. Khi đưa người vợ nhặt về nhà ra mắt mẹ, Tràng thanh minh cho sự tuềnh
toàng của nhà mình do không có bàn tay chăm sóc của người phụ nữ. Tràng
muốn mọi sự tốt đẹp hơn khi có vợ, muốn người phụ nữ đó ở lại với mình.
Tràng lo lắng sốt ruột khi mẹ chưa về để được công khai hạnh phúc của mình.
Anh ta nhìn lén lút người phụ nữ kia, sợ thị đến rồi lại đi, sợ hạnh phúc tuột
khỏi tầm tay. Khi mẹ về, Tràng chủ động giới thiệu với mẹ bắng hai chữ “nhà
tôi”, “chúng tôi”, “ nhà tôi nó về nó làm bạn với tôi”. Tâm lí của Tràng đã xóa
tan sự căng thẳng trong buổi đầu gặp mặt, anh coi đây là một việc nghiêm túc:
muốn sống lâu dài với người phụ nữ. Buổi sáng hôm sau thức dậy là thời điểm
thích hợp để bộc lộ cảm xúc của Tràng. Một ngày mới đến với cửa sổ tâm hồn
mở ra một trang mới hạnh phúc hân hoan: “cảm thấy êm ái lơ lửng như đi từ
giấc mơ ra”. So với sự vô tâm mọi khi, hôm nay Tràng nhận thấy sự khác lạ
xung quanh mình. Anh ta thật hạnh phúc khi được sống trong không khí giản dị,
yên bình của gia đình: vợ quét sân, mẹ dọn cỏ ngoài vườn. Cảnh tượng bình dị
ấy khơi gợi trong lòng Tràng cảm giác hạnh phúc gắn bó vô cùng với mình.
Không những thế Tràng nhận thấy mình có trách nhiệm với gia đình hơn, hắn
cũng muốn bắt tay làm gì đó góp phần xây dựng hạnh phúc gia đình.
Bên cạnh khao khát hạnh phúc của Tràng, gia đình nhỏ ấy còn được đắp xây
nên bởi khao khát của người vợ nhặt. Thị đã vượt lên trên số phận để sống trọn
vẹn với hạnh phúc nhỏ nhoi của mình. Cô liều lĩnh theo Tràng về làm vợ và khi
bước vào gia đình Tràng, hiểu được gia cảnh của anh, thị ngán ngẩm thở dài
nhưng muốn có một gia đình. Thành vợ, thành dâu trong gia đình, thị bắt tay
gây dựng gia đình, cuộc sống với mẹ con Tràng: sáng hôm sau thị dậy sớm để
thu vén nhà cửa. Nhờ có đôi bàn tay của người vợ, mọi thứ hoang hóa bẩn thỉu
đã bị đẩy lùi, căn nhà trở nên đầm ấm hơn, thậm chí bản thân Tràng cũng thay
đổi hẳn: trở thành người con có hiếu và người chồng có trách nhiệm. Có thể nói
càng trong hoàn cảnh khó khăn, con người càng trân trọng và tìm kiếm hạnh phúc.
Cùng viết về những người nông dân trong nghèo đói nhưng khác với nhà văn
khác, Kim Lân đã gieo vào trong tác phẩm của mình tư tưởng mới: Khi con
người ta bị đẩy tới bước đường cùng của cái đói, người ta muốn sống hơn muốn
chết. Điều đó được thể hiện rõ nét qua nhân vật người vợ nhặt và bà cụ Tứ.
“Người vợ nhặt” vì muốn thoát khỏi cái đói, cái chết, vì muốn tìm đến với sự
sống mà đã liều lĩnh theo Tràng về làm vợ. Niềm khao khát sống được nâng lên
thành niềm khát khao hạnh phúc làm thay đổi người đàn bà này từ một người
chan chát thành người biết vun vén cho hạnh phúc gia đình. Ở thị, sự sống mạnh
hơn cả cái chết và thị làm mọi cách để được sống và sống như một con người.
Cùng với đó là niềm khao khát sống của bà cụ Tứ. Dù lo lắng cho các con, dù
xót xa cho cái khổ nhưng bà cụ vẫn nén lòng mình lại động viên an ủi các con
và cũng là động viên chính mình “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà cũng chủ
động gây dựng cuộc sống cho mình và các con. Bản thân bà cụ đã thay đổi hoàn
toàn: khác với dáng đi lòm khòm và khuôn mặt u ám hàng ngày bà cụ ra vào
nhamh nhẹn rạng rỡ hẳn lên, bà nói chuyện vui, bắt tay dọn nhà cửa. Tất cả thay
đổi của bà cụ đều xuất phát từ tình yêu thương và khát vọng sống.
Qua việc tái hiện bức tranh nghèo đói của con người cùng thế giới nội tâm nhân
vật, nhà văn tố cáo xã hội thực dân chèn ép, vùi dập con người đồng thời hướng
con người tới hướng đi đúng đắn: đến với cách mạng. Điều đó thể hiện qua suy
nghĩ nhạy bén của người vợ nhặt hướng về ánh sáng: “Trên mạn Thái Nguyên,
Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho
thóc của Nhật, chia cho người đói nữa”. Hình ảnh kết thúc tác phẩm: “Trong óc
Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” như lời cảnh tỉnh của
nhà văn về con đường mà người nông dân cần đi: con đường cách mạng.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” để lại những rung cảm trong lòng bạn đọc không chỉ bởi
niềm cảm thương, khao khát bình dị của con người mà còn bởi nghệ thuật độc
đáo. Nhà văn sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị mang đậm màu sắc của đồng
bằng trung du bắc bộ cùng cách xưng hô thân mật “u – tôi”, gọi vợ là “nhà tôi”
gợi lên không khí miền trung du với cuộc sống nghèo khó dân dã. Bên cạnh đó
là nghệ thuật xây dựng cốt truyện, tình huống hấp dẫn lôi cuốn bạn đọc ngay từ
nhan đề. Qua đó tác phẩm đã thể hiện khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc
cùng niềm tin vào tương lai tươi sáng của con người trong nạn đói.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài số 10
Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân.
Người nông dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng
ngời những phẩm chất: yêu đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt
là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông khi viết về người nông dân.
Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện
“Con chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”
– được viết ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công. Tuy nhiên chỉ được
viết dở dang và sau đó mất bản thảo. Đến năm 1954, khi hòa bình lập lại, nhân
một số báo văn nghệ kỉ niệm cách mạng tháng Tám thành công, Kim Lân đã
nhớ lại tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, dựa trên cốt truyện cũ viết lại thành truyện
ngắn. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn trong giới sáng tác.
Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng
khiếp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn lan, khủng khiếp
diễn ra ở khắp nơi khiến con người không thể nào chống cự được, tất cả những
yếu tố đó đã được Kim Lân tái hiện thành công trong tác phẩm của ông. Trước
hết là màu sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt của
đàn quạ bay trên trời. Những màu sắc gợi lên sự chết chóc, ảm đạm, tàn lụi và
héo úa. Bao quanh không gian đó là mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của
xác người, mùi đốt đống dấm khét lẹt. Kết hợp với tiếng quạ kêu từng hồi, hòa
lẫn với tiếng khóc hờ từ những gia đình có người chết.
Để làm rõ nét hơn, Kim Lân còn cho người đọc thấy hình ảnh sáng nào cũng có
ba bốn thây người nằm chết còng queo bên đường. Tình cảnh vô cùng thảm
thương, bất hạnh. Kim Lân nhìn nhận hiện thực bằng cái nhìn chân thực, sắc nét,
không né tránh, phơi bày tất cả trên trang văn của mình, để người đọc thấy rõ
cái khủng khiếp của nạn đói năm 1945. Nhưng giá trị thật sự của tác phẩm là ở
chỗ: từ trong bóng tối của cái đói, cái chết, tác giả tìm thấy ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn con người.
Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên
truyện xuất hiện, đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu
Tràng. Tràng vốn là dân ngụ cư, sống tha phương cầu thực, những người dân
ngụ cư thường bị phân biệt, kì thị, sống ở rìa làng, chứ không được sống trong
trung tâm của làng như những người khác. Không chỉ vậy, họ còn không được
chia ruộng đất, không được tham gia bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng đồng nào
của làng xã. Anh cu Tràng bị đặt ra ngoài lề xã hội. Không dừng lại ở đó, gia
đình Tràng còn rất nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ con nương tựa vào nhau, vì
không được chia ruộng nên Tràng phải làm công việc bấp bênh để kiếm sống: kéo xe bò thuê.
Dường như số phận càng trở nên trớ trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, là người
ngụ cự, anh Tràng còn có ngoại hình hết sức xấu xí. Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm
vào bóng chiều, còn hai bên quai hàm bạnh ra, khiến khuôn mặt càng to lớn hơn.
Thân hình to lớn vập vạp, như một người khổng lồ. Tràng còn vừa đi vừa lảm
nhảm những điều mình nghĩ và cứ thể ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Anh cu
Tràng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp dẫn lũ trẻ con, còn với các cô gái anh hoàn toàn
không có chút hấp dẫn nào, cả về ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng không
có khả năng để lấy được vợ.
Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy
được vợ một cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân
ta thường có những câu hò để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh
cu Tràng cũng vậy, anh cũng hát, lời hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng
với giò. Lại đây mà đẩy xe bò với anh”. Lời nói ấy đã khiến thị theo anh cu Tràng về làm vợ thật.
Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng
con mới, dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng
trong nhà. Anh cu Tràng từ một kẻ thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình
và cười hềnh hệch, hôm nay bỗng trở nên tâm lí và tinh tế lạ thường. Trên
đường đi về Tràng vui sướng, hớn hở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn
mặt vừa hạnh phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống
cực khổ ê chề hàng ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm
hạnh phúc khi lấy được vợ.
Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu, xấu hổ, đứng tây ngây giữa nhà,
chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã trở
thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt
nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi
phần ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm
lí, nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã
đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lí, suy nghĩ của anh cu Tràng.
Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ông trong gia đình. Sáng
hôm sau, Tràng tỉnh dậy muộn, cảm thấy trong người dễ chịu, êm ái, như người
đi ra từ trong giấc mơ, anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ.
Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng
thay đổi mới mẻ, khác lạ, nhà cửa không bừa bộn mà được dọn dẹp sạch sẽ,
không khí gia đình trở nên ấm áp, vui vẻ, mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén
nhà cửa. Trành thấy thấm thía, cảm động và bỗng thấy yêu thương những người
xung quanh, đồng thời nhận thấy trách nhiệm của bản thân, phải biết lo lắng cho
gia đình, vợ con. Và sự ý thức đó đã được hiện thực hóa bằng hành động xăm
xăm chạy ra sân, muốn chung tay tu sửa căn nhà.
Tràng muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình.
Đồng thời trong Tràng cũng bừng lên khát vọng đổi đời mãnh liệt, anh biết quan
tâm đến những chuyện ngoài xã hội: mạn Thái Nguyên Bắc Giang không đóng
thuế mà còn phá kho thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh đám người đói và
lá cờ đỏ bay phấp phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng. Hình ảnh lá cờ
chính là tín hiệu cho tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo
Việt Minh, theo cách mạng.
Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của
nhân dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó còn là sự cảm thương cho
số phận họ. Trân trọng, phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam
trong tình cảnh khốn cùng: tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng
vào tương lai. Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến
nhân vật người vợ nhặt. Người vợ nhặt không có lai lịch rõ ràng, không rõ tên
tuổi, quê quán, nghề nghiệp và cũng không hề có tài sản gì khi lần đầu gặp
Tràng. Có thể thấy rằng, trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa.
Lần thứ hai gặp Tràng, quần áo thị rác rưới, tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp đi
vì đói, mặt lưỡi cày xám ngoét, ngực gầy và lép, hai con mắt sâu trũng hoáy lại.
Ngoại hình thị vô cùng thảm hại, do cái đói đã gây ra cho con người. Ngôn ngữ
của thị cũng hết sức chao chát, chỏng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật
nhá”, “Hà, ngon. Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”,
“liếc mắt cười tít”, “sầm sập chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu
ăn”, “ăn xong lấy đũa quẹt một cái”. Thị tỏ ra là con người hết sức vô duyên,
dường như cái đói, cái chết có thể mài mòn nhân cách con người ta ghê gớm đến như vậy.
Nhưng đằng sau sự chỏng lỏn đến vô duyên ấy lại là một con người có khát
vọng sống vô cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành
động, cử chỉ trơ trẽn, vô duyên của thị lại là biểu hiện của khát vọng sống mãnh
liệt. Bên cạnh đó, thị còn hiện lên với vẻ đẹp nữ tính, trên đường về nhà, thị rón
rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách tả tơi
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi về đến nhà chồng, thấy quang cảnh
nhà chồng thị nén tiếng thở dài, ngồi mớn ở mép giường và vô cùng lễ phép khi
gặp mẹ chồng. Sáng hôm sau cô dậy sớm cùng mẹ dọn dẹp, vun vén nhà cửa.
Nhân vật thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Cuối cùng là nhân vật bà cụ Tứ, dù chỉ thấp thoáng trong tác phẩm, nhưng cũng
có vai trò, ý nghĩa quan trọng. Bà là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực: dân ngụ
cư tha phương cầu thực; chồng và con gái mất sớm. Cả đời lận đận, chỉ có tâm
nguyện lớn nhất là lấy vợ cho con nhưng mãi không dành dụm được tiền, trong
lúc nghèo đói đến cùng cực người con trai lại nhặt được vợ. Nhìn thấy con đưa
vợ về, bà nín lặng cúi đầu, băn khoăn, nhưng vẫn rất vui mừng cho đôi trẻ. Bà
dặn dò hai vợ chồng mới, nói những chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến niềm tin,
sự lạc quan cho chúng. Bà là một người mẹ nhân hậu và hết sức yêu thương con.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học
hiện thực. Tác phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo khổ của nhân dân,
đồng thời ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng,
nâng niu những ước mơ đổi đời của con người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng
cho thấy nghệ thuật phân tích tâm lí và miêu tả bậc thầy của nhà văn Kim Lân.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài số 11
Người ta vẫn thường nói rằng tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần của mỗi
nhà văn. Dù cùng một đề tài những mỗi nhà văn có những cách khai thác hiện
thực khác nhau. Đó chính là điểm làm nên phong cách của mỗi tác giả. Là một
nhà văn hiện thực xuất sắc, Kim Lân được biết đến không chỉ là tác phẩm Làng,
mà còn rất nhiều tác phẩm khác, nổi bật nhất chính là Vợ nhặt. Tác phẩm thể
hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của Kim Lân với những con người nghèo khổ.
Đọc Vợ nhặt ta được tiếp cận với biết bao thân phận tăm tối, cuộc đời họ đã bị
đẩy đến bước đường cùng. Nhân hình của Tràng, người vợ nhặt, bà mẹ đều méo
mó trước sức hủy diệt khủng khiếp của cái đói. Là sự thiếu thốn về vật chất đến
cùng cực. Nhưng chính từ nơi tối tăm, thiếu thốn nhất ấy, lại bừng lên tình
người, tình yêu thương con người mãnh liệt của những người cùng cảnh ngộ.
Nhân đạo chính là ở chỗ đó.
Bước chân vào tác phẩm, cái đói được tác giả khắc họa vô cùng rõ nét. Sự sống
của những con người, đặc biệt là xóm ngụ cư dường như ngàn cân treo sợi tóc,
thần chết sẵn sàng đến đưa họ đi bất cứ lúc nào. Cõi dương nhưng lúc nào cũng
lởn vởn âm khí, cái chết hiện hình ngay bên cạnh những người đang còn sống.
Nhưng giữa nạn đói khủng khiếp đó, anh Tràng lại vẫn rất lạc quan, sự sống đối
với anh “chẳng bao giờ là chán nản”. Tràng được tác giả phác họa là chàng trai
thô kệch, xấu xí “hai con mắt nhỏ tí” “lưng to như lưng gấu” tình tình lại không
được khôn ngoan, hay nói nhảm, nói một mình, đôi khi tự ngửa cổ lên trời mà
cười hềnh hệch. Không chỉ vậy, xuất thân của anh ta cũng rất đáng buồn, là dân
xóm ngụ cư, cảng được ai chú tâm, coi trọng. Quả thực anh cu Tràng đã là tận
cùng của sự khổ sở và đau đớn.
Nhưng điều bất ngờ nhất chính là sự kiện chàng có vợ. Một cô vợ được nhặt về.
Càng lạ hơn là trong thời buổi, lo cho mình còn chưa xong, mà Tràng lại sẵn
sang đèo bòng thêm một người phụ nữ, thêm một miếng ăn cho chính mình.
Liệu đây có phải là một phút bồng bột nhất thời của người đàn ông này hay
không? Nhưng đó quả thực không phải là một quyết định nhất thời, mà quyết
định đó xuất phát từ tình yêu thương, từ khát khao hạnh phúc rất đỗi bình
thường của mỗi con người. Khi nhìn thấy người vợ nhặt, một kẻ tứ cố vô thân,
gầy đen như sắp chết, một con người thiện lương như Tràng chắc chắn sẽ không
thẻ làm ngờ. Chỉ bằng bốn bát bánh đúc cũng đã đủ se nên mối duyên trăm năm
tình nghĩa vợ chồng. Có gì đó như là chua xót, như là thương cảm cho cuộc hôn
nhân của những con người cùng khổ này. Dựng nên một tình thế éo le như vật
dường như nhà văn đã đánh cược với tất cả, để khẳng định, để tin tưởng vào
tấm long nhân đạo, nhân văn ẩn sâu trong mỗi con người.
Cái đói, cái chết cũng không thể hủy diệt khát khao hạnh phúc, khát khao có
một mái ấm gia đình trong lòng Tràng. Không chỉ vậy, với mái ấm này đã khiến
Tràng thay đổi hoàn toàn. Đó là cảm giác sung sướng, hạnh phúc, lâng lâng “tựa
hồ như có ai vuốt nhẹ vào sống lưng”. Hạnh phúc của con người thật bình dị và
đơn sơ, nó có sức mạnh cải hóa con người, giúp con người ta sau một đêm tân
hôn tuyệt vời có thể thay đổi theo hướng tích cực đến như vậy: “Trong phút
chốc Tràng quên tất cả cảnh sống ê chề, tủi nhục”. Nhìn thấy ngôi nhà gon ghẽ,
thấy người vợ quét tước dọn dẹp, lại bừng lại trong Tràng khát vọng vun vén
cho gia đình. Cuộc sống, chao ôi sao mà dễ thương, yên ấm đến như vậy. Mặc
dù ngay sau đó hiện thực lại ấp thẳng xuống họ, với bữa cơm ngày đói vô cùng
thảm hại, nhưng ai cũng thấy ngon, vì trong họ trào dâng niềm hạnh phúc, khát
vọng về tương lai tốt đẹp.
Đọc tác phẩm này ta không thể không chú ý đến nhân vật bà cụ Tứ, một bà mẹ
khốn khổ, yêu thương con hết mực, bà chính là hình ảnh phản chiếu tiêu biểu
cho những bà mẹ Việt Nam. Nhìn thấy anh con mang một người đàn bà về nhà,
bà vừa lo lắng, vừa sợ hãi. Nhưng sau khi biết sự tình, bà cảm thông và chúc
phúc cho hai người, rồi bà còn tự trách mình không làm tròn trách nhiệm của
một người mẹ. Có người mẹ nào lại không muốn con mình, yên ấm, hanh phúc.
Nhưng vì hoàn cảnh mà chẳng thể cưới được vợ một cách tử tế cho con. Chính
bà cũng tự hiểu: ôi, người ra dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên
làm nổi, những mong có con đàn cháu đống… con còn mình lúc đói kém mới
có được vợ … chúng mày lấy nhau u cũng mừng lòng”. Bà không chỉ thương
con trai mà thương cả người con dâu kia. Chúng quả là những đứa trẻ đáng
thương. Nhưng trong bà cũng không thối dấy lên hi vọng “không ai giàu ba họ,
không ai khó ba đời”. Rồi ba còn vạch ra những viễn cảnh tương lai đẹp đẽ cho đôi vợ chồng trẻ.
Nhân đạo trong tác phẩm Kim Lân cũng thật đặc biệt. Ông đẩy mỗi nhân vật
đến tận cùng của khổ sở, để rồi sau đó mở ra con đường, tương lai cho họ. Hình
ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện cuối tác phẩm, đã mở ra một tương lai tươi sáng,
giải thoát cuộc đời của những con người dưới đáy xã hội. Giá trị nhân đạo của
tác phẩm được thể hiện rõ nét nhất ở chia tiết này.
Những dòng văn cuối cùng đã kết đọng tinh thần nhân đạo sâu sắc của nhà văn
Kim Lân. Ông trân trọng, yêu thương từng cá nhân, từng số phận. Đồng thời ta
cũng thấy được nghệ thuật miêu tả, và tạo dựng tình huống bậc thầy của nhà văn này.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài làm 12
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam có bí quyết viết chân chất, mộc mạc
và các hình ảnh nhân vật tiêu biểu cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào
lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình.
Tác phẩm “Vợ nhặt” là 1 “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái tạo
thành công xã hội nghèo khổ, khốn cùng, bế tắc của người nông dân. Bằng văn
pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc
sống bần cộng giai đoạn đấy.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân xây dựng thương hiệu trong quá trình
quốc gia đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống dân chúng bần cùng, kẻ sống
người chết nham nhảm, ”người chết như nga ra, không buổi sáng nào người
trong làng đi chợ, đi làm ruộng không gặp ba bốn mẫu thây nằm còng queo bên
tuyến phố. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác
người”. Quang cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn đạt được chiếc đói đang hoành hành,
đời sống quần chúng thê thảm.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống
của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình
huống truyện thắt nút khiến cho nên cuộc thế của từng nhân vật.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn
bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa mủm mỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…”
Chỉ sở hữu vài chi tiết ấy, người đọc cũng đã tưởng tượng được diện mạo xấu xí
của một anh nông dân nghèo rách mồng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám
con trẻ không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Quang cảnh
buồn thiu, đầy sợ hãi bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, nghĩ
suy của Tràng được tái tạo “hắn bước đi từng bước mỏi mệt, chiếc ao nâu tàng
vắt sang 1 bên cánh tay. Tuồng như các lo lắng, cực nhọc đè nặng lên dòng lưng gấu của hắn”.
Với vài chi tiết điển hình, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh
người dân cày nghèo đói, tả tơi, bộn bề lo lâu đến cơ cực. Tác giả đã thật khéo
để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi thế cục của
một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ chẳng
hề lấy được. Người đọc trông thấy sự thê thảm, bước trục đường cộng và đầy éo
léo của con người trong xã hội bấy giờ.
Hình anh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn
đầy khiếp sợ “ thị cắp loại thúng con, đầu hơi cúi xuống, chiếc nón rách tàng
nghiêng nghiêng che mệnh chung đi nửa mặt. Thị với vẻ rén,e thẹn”. Một người
đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo
khổ, cơ cực đúng là một đôi trời sinh.
Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã vun đắp nên khung cảnh
quạnh hiu, ảm đảm của xóm nghèo “từng trận gió trong khoảng cánh đồng thổi
vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối mịt, không nhà nào mang ánh đèn,
lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng các người đói dật dờ di chuyển lặng thầm
như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên
từng hồi thê thiết”. Không còn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn
nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ tuồng như bị mẫu đói, cài nghèo đè nén đếm
chìm nghỉm. Bằng ngòi bút tả chân sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người
đọc đa dạng đau xót, đắng cay cho các phận nghèo lận đận.
Điều đáng chú ý chính là cách thức các người láng giềng hỏi thăm Tràng về
người đàn bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng
hiểu ra, có nhẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người nữ giới
bắt không còn ngoa ngoắt, đanh đá nữa mà phát triển thành thẹn hậu sự lúc
quyết định theo Tràng về làm vợ. Làm vợ một cách bất thần, giữa cảnh đói như
ngả rạ. Có lẽ cái đói nghèo đã đẩy hai con người đến có nhau, chẳng hề ái tình
nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ thông cảm và xót thương cho các mảnh
đời dật dờ nơi xóm cư ngụ.
Lúc trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến
và sự chuyển đổi trong tâm tinh thật tài giỏi và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn
tấm lòng 1 người mẹ bao dung và nhân từ. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước
theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người nữ giới ở
trong…” Sự băn khoăn lo âu của bà cụ bắt đầu hiển lên. Nhưng rồi bà cũng
nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín im, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo
khổ đấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con
mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong khi khiến ăn nên nổi,
còn mình…” các suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một
loạt động từ tình thái làm cho loại khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.
Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Cảnh huống làm người đọc nhớ
mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc tới tác phẩm này đều không quên là
hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu dầu tiên. Hình ảnh “nồi
cháo cám” là hiện thân của mẫu nghèo đói đến cơ cực trong một gia đình
“không còn gì trị giá nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn kể các
chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa mẫu
nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của
người mẹ nghèo. Người nào cũng muốn sở hữu một bữa cơm đón dâu với mâm
cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là
thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà sở hữu thể đem đến cho con.
Đây là một chi tiết hết sức đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
làm cho người đọc nhớ mãi. Ngoài ra hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của
cuối truyện ngắn đã đem đến chút niềm tin và hi vẳng về một tương lai tươi
sáng hơn. Bằng ngòi bút mô tả trung thực, sinh động, cách thức khắc họa tâm lý
nhân vật sắc sảo, độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt
người đọc khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945.
Qua ấy tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người có người luôn bạt mạng.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài làm 13
“Vợ nhặt” là tác phẩm ưu tú của nhà văn Kim Lân, viết về cuộc sống nghèo đói,
khổ cực và khát vọng về hạnh phúc tương lai tươi sáng của người nông dân Việt
Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Qua đây tác giả cũng bày tỏ sự cảm
thông với những số phận bất hạnh của những con người đói khổ trong thời
chiến và yêu thương, quý trọng đối với những ao ước giản dị của họ, từ đó tạo
nên sự đồng cảm và suy nghĩ trong lòng người đọc.
Ngay từ nhan đề “Vợ nhặt”, tác phẩm đã gợi lên sự tò mò và từ đó dẫn dắt
người đọc khám phá về cuộc sống của những con người đói khổ, bần hàn nhất.
Chuyện dựng vợ gả chồng vốn là một chuyện hệ trọng của cả một đời người,
chính vì thế việc này cần được xem xét kĩ lưỡng vậy mà ở đây lại là “vợ nhặt”.
Cưới vợ mà lại gọi là nhặt vợ được sao? Một con người được “nhặt” về rồi trở
thành vợ gợi cho người ta liên tưởng đến việc nhặt một món đồ, như thể một thứ
gì đó được lượm lặt một cách vô tình và ngẫu nhiên từ ngoài đường. Chỉ riêng
nhan đề tác phẩm mà tác giả cũng đã để lại sự ám ảnh đối với người đọc. Điều
gì đã khiến cho con người ta trở nên rẻ rúm như vậy? Kim Lân chính là đã
mượn chuyện nhặt vợ để nói lên một vấn đề khác. Đó chính là cái đói, cái nghèo
của người nông dân trước Cách mạng. Khi đó, chính cái đói nghèo đã khiến cho
con người lâm vào tình cảnh đáng thương đến như vậy.
Nhan đề cũng đã một phần hé lộ tình huống truyện độc đáo. “Vợ nhặt” chứ
không phải cưới xin đình đám gì. Hẳn là một con người mà chẳng khác nào một
món đồ vứt chỏng chơ ngoài đường và vô tình có người “nhặt” về. Mà đúng thế
thật. Anh cu Tràng chỉ với vài câu “tầm phơ tầm phào” mà có người phụ nũ
theo về làm vợ. Khốn nỗi anh ta có bảnh bao, hấp dẫn gì: vừa xấu trai, vừa dở
hơi, lại vừa là dân ngụ cư nghèo kiết xơ kiết xác. Vậy mà Tràng lại có vợ. Tràng
cưới vợ, đúng hơn là nhặt được vợ giữa cái cảnh đói khát khốn cùng này. Tình
huống truyện thật đầy bất ngờ mà cười ra nước mắt. Qua tình huống này, các
nhân vật đều bộc lộ những tâm trạng, tính cách nổi bật, giúp người đọc hiểu rõ
hơn về nhân vật, về hoàn cảnh cũng như số phận của con người.
Nhà văn Kim Lân đã thật tài tình khi đi sâu phân tích tâm lý đan xen, phức tạp
của từng nhân vật trước tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Người trong xóm “xì
xào bàn tán”, người thì “cười lên rung rúc”, người lại lo giùm cho anh ta: “Ôi
chao! Giời đất này còn lôi cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau qua cái thì này không?”.
Mẹ Tràng, bà cụ Tứ, là người hiểu rõ tình cảnh của nhà mình, con mình nhất
cho nên càng khó tin Tràng có vợ. Thấy người đàn bà lạ đứng ở đầu giường con
mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: “Quái sao có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?
Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?” Cái ngạc nhiên, nghi vấn của bà cụ cũng
dễ hiểu bởi lẽ, nghèo như con trai bà thì ai thèm lấy. Vả lại trong cơn đói khát
thế này, nuôi thân còn chả nổi, lấy gì nuôi vợ nuôi con?
Khi đã hiểu đã ra vấn đề thì “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ rỉ xuống hai
dòng nước mắt”. Trong lòng người mẹ nghèo hiểu ra biết bao nhiêu là cơ sự. Bà
mừng vì con trai bà dù sao cũng đã có vợ, nhưng buồn tủi vì “người ta có gặp
bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình cũng mới có vợ được..”.
Đối với Tràng, bản thân anh cũng rất lấy làm lạ. Nhìn vợ ngồi ngay giữa nhà,
anh “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế”. Lòng người mẹ lo nghĩ bao nhiêu
thì anh cu Tràng lại vô tư bấy nhiêu. Mới đầu cũng “chợn” nghĩ nhưng rồi anh
chặc lưỡi “mặc kệ”. Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó,
“hắn lại lầy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình’. Việc có vợ
đối với Tràng đột ngột và hạnh phúc tới mức đến sáng hôm sau anh vẫn còn
thấy “trong người êm ái lơ lửng như người ở trong giấc mơ đi ra”.
Trái ngược với tâm trạng hân hoan của Tràng, lo lắng của bà mẹ thì có lẽ người
phụ nữ làm vợ Tràng lại cảm thấy buồn tủi nhất. Lấy chồng là chuyện thiêng
liêng, là trao gửi cả cuộc đời của mình cho một người đàn ông mà mình tin
tưởng. Vậy mà ở đây thị nào có biết Tràng tốt xấu ra sao. Chỉ một câu hò bâng
quơ và bốn bát bánh đúc là “đủ tin tưởng” để theo về nhà người ta. Cái đói đã
đẩy con người ta đến chỗ chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự trọng,
nhận ra mình không hơn gì rơm rác cọng cỏ mà người ta có thể lượm nhặt vu vơ
nơi đầu đường xó chợ. Thế nhưng buổi sáng hôm sau, khi Tràng nhìn thấy thì
chị ta đã trở thành một người vợ hiền, một cô dâu thảo, khác hẳn với cái vẻ chao
chát hôm đầu tiên Tràng gặp.
Đi sâu vào tâm lý của từng nhân vật, Kim Lân đã cho người đọc thấy một bức
tranh hiện thực sống động trong nạn đói 1945. Ở đó, con người ta chỉ toàn là
nghèo khổ, tối tăm nhưng lại ngời sáng lên phẩm chất tốt đẹp. Hành động cưu
mang người phụ nữ nghèo đói hơn mình đã cho thấy Tràng là một người hào
phóng và nhân hậu. Mẹ Tràng cũng vừa mừng vừa tủi chấp nhận nàng dâu mới,
không những thế bà còn góp thêm câu chuyện bằng những niềm hy vọng về
tương lai tươi sáng để xua đi nỗi tăm tối của đói nghèo đang vây bủa.
“Vợ nhặt” đã làm sáng lên trên cái nền đen tối ảm đạm ấy sức sống, khát vọng
về mái ấm gia đình và sự nương tựa, che chở cho nhau của những người lao
động nghèo khổ, sáng lên niềm hy vọng của họ về một tương lai tốt đẹp hơn.
Tràng đã nhận thấy mình gắn bó với căn nhà, thấy mình “có bổn phận phải lo
cho vợ con sau này” và nghĩ đến một tương lai “cùng vợ sinh con đẻ cái” rồi ăn
nên làm ra. Bà cụ Tứ cũng “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt
bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà còn tính “khi nào có tiền ta mua lấy
đôi gà. […] ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho xem”. Ánh
sáng của hơi ấm hạnh phúc gia đình giữa lúc nạn đói hoành hành, giữa nồi cháo
cám đắng chát nhưng nó vẫn làm cho thị cảm thấy vui vẻ và hiền dịu hơn. Từ
đây, thị sẽ cùng chồng chăm lo, vun vén cho gia đình những mong một ngày số
phận sẽ mỉm cười rộng lượng hơn.
Viết về nạn đói năm 1945, khắc họa thực tế cảnh người chết đói như ngả rạ, thế
nhưng Kim Lân không đi vào những cảnh thương tâm như thế mà qua sự việc
anh cu Tràng nhặt được vợ để làm nổi bật tinh thần nhân đạo, nhân văn cao cả.
Vượt lên trên tất cả những lo lắng, tủi hờn là niềm hạnh phúc và tình yêu
thương của con người bừng sáng. Với truyện ngắn này, Kim Lân đã bày tỏ sự
yêu quý sâu sắc đối với những người nghèo khổ nhưng giàu lòng nhân ái. Tác
phẩm đã khẳng định rằng: cái đói khát, chết chóc không thể giết chết được niềm
tin vào cuộc sống. Ở nơi tối tăm nhất, nghèo đói nhất thì con người ta vẫn biết
cách nương tựa vào nhau mà vượt qua để hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài làm 14
Kim Lân là một trong số những nhà văn xuất sắc viết về nông thôn và nông dân
Việt Nam trong nền văn học hiện đại với những tác phẩm độc đáo tỏng cách xây
dựng tình huống truyện, cách xây dựng và miêu tả nhân vật. Và có thể nói,
truyện ngắn Vợ nhặt – rút từ tập Con chó xấu xí là một truyện ngắn tiêu biểu
cho phong cách sáng tác của ông.
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân hấp dẫn bạn đọc ngay từ nhan đề tác phẩm
và cách nhà văn xây dựng tình huống truyện. Chắc hẳn, mỗi người trong chúng
ta ai cũng sẽ tò mò khi nghe thấy nhan đề “Vợ nhặt” nhưng chính nhan đề ấy đã
gợi lên thật nhiều điều đáng suy ngẫm. Chính nhan đề ấy đã phần nào gợi lên
thân phận rẻ rúng, đáng thương của những con người trong nạn đói năm 1945.
Đồng thời, nhan đề ấy cũng đã phần nào hé mở tình huống truyện độc đáo của
tác phẩm và góp phần to lớn vào việc thể hiện giá trị hiện thực sâu sắc ở thiên
truyện. Không chỉ độc đáo ở nhan đề, Vợ nhặt còn xây dựng thành công một
tình huống truyện mới lạ, độc đáo và giàu ý nghĩa. Kim Lân đã thật sự thành
công khi xây dựng tình huống truyện – Tràng – một người dân xóm ngụ cư, với
ngoại hình xấu xí lại “nhặt được vợ” ngay trong chính nạn đói khủng khiếp năm
1945. Đó là một tình huống truyện mới lạ, bất ngờ nhưng cũng đầy éo le gây
nên sự ngạc nhiên cho biết bao người nhưng cũng chính tình huống ấy đã góp
phần không nhỏ vào việc thể hiện giá trị hiện thực của tác phẩm – sự rẻ rúng,
bèo bọt của thân phận con người ngay trong nạn đói.
Không chỉ thành công trong việc lựa chọn nhan đề và tạo dựng tình huống, Vợ
nhặt của Kim Lân còn hấp dẫn bạn đọc trong cách xây dựng nhân vật và chắc
hẳn, những ai đã đọc tác phẩm này sẽ không thể nào quên nổi nhân vật Tràng.
Không đi sâu miêu tả ngoại hình của nhân vật nhưng Kim Lân đã có những nét
vẽ đủ để chúng ta nhận thấy Tràng là một chàng trai ngụ cư xấu xí với“dáng
người thô kệch, cái cười khềnh khệch”, “lưng Tràng như con gấu”, “quai hàm
bạnh ra”. Có lẽ ở Tràng hội tụ đầy đủ những yếu tố để ế vợ, ấy vậy mà ai ngờ
đâu chính trong cái nạn đói khủng khiếp năm 1945 Tràng lại được một người
phụ nữ theo không về nhà làm vợ. Và cũng chính sự kiến ấy đã làm cho những
dòng cảm xúc của Tràng có sự thay đổi theo thời gian. Tràng và thị quen nhau
thật tình cờ, chỉ vài ba câu hò vui ấy vậy mà thị theo Tràng về nhà thật “Làm
đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ đằng ấy có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi
cùng về”. Thị theo về nhà, trong lòng Tràng chắc hẳn có niềm hạnh phúc đang
len lỏi nhưng rồi cũng có lúc Tràng lo sợ, hắn “chợn nghĩ” nhưng rồi Tràng lại
“tặc lưỡi: chậc kệ”. Cái tặc lưỡi ấy của Tràng không phải là cái tặc lưỡi của kẻ
bất lực, muốn buông xuôi tất cả mà Tràng chậc lưỡi bởi với Tràng trong giờ
phút này đây mọi niềm vui và khát vọng hạnh phúc đã lấn át và lớn hơn tất cả.
Và để rồi, trên đường đưa vợ về nhà, niềm hạnh phúc, vui sướng ấy của Tràng
như càng nhân lên gấp bội và phát lộ rõ rệt ra dáng vẻ bên ngoài của hắn ““vẻ
mặt có cái gì đó phớn phở”, “hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười nụ một mình”, “mắt
sáng lên lấp lánh”, “cái mặt vênh lên tự đặc với mình”. Nếu như, trên đường
đưa vợ về nhà trong Tràng ánh lên niềm hạnh phúc khôn nguôi, Tràng như đang
đắm chìm trong men say của hạnh phúc thì lúc về tới nhà Tràng lại ngượng
nghịu, “đứng tây ngây ra giữa nhà” rồi có cái gì đó lo lắng, có lẽ Tràng sợ mẹ
mình sẽ không đồng ý “nàng dâu mới”. Nhưng rồi, lời giới thiệu của Tràng với
mẹ mình về sự xuất hiện của thị “kìa nhà tôi nó chào u” – một lời giới thiệu
chan chứa bao nghĩa tình. Đặc biệt, tâm trạng của Tràng đã thực sự thay đổi
trong buổi sáng ngày hôm sau. Tràng thấy “êm ái lửng lơ như người trong cõi
mơ đi ra”, “cảm động, thấy yêu thương, gắn bó và thấy mình phải có trách
nhiệm với cái gia đình này” sau một đêm đắm mình trong tình yêu, hạnh phúc.
Và có lẽ chính sức mạnh của tình yêu, của hạnh phúc đã khiến Tràng thay đổi
và thêm yêu, thêm tin tưởng vào hạnh phúc gia đình và một tương lai tươi sáng hơn.
Cùng với nhân vật Tràng, tác giả Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật thị.
Nếu như khi xây dựng nhân vật Tràng, tác giả Kim Lân tập trung đi sâu khám
phá thế giới tâm trạng thì khi khắc họa nhân vật thị nhà văn lại làm bật nổi nhân
vật qua việc miêu tả ngoại hình và tâm trạng để từ đó làm bật nổi tính cách, tâm
trạng của thị. Chắc hẳn, những ai đã từng một lần đọc Vợ nhặt sẽ không thể nào
có thể quên được những chi tiết nhà văn Kim Lân miêu tả ngoại hình của thị
“khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, “áo quần rách như tổ đỉa”, “cái nóm cà tàng che
nửa khuôn mặt”, “cái ngực gầy tẹp lép nhô lên”. Ngoại hình ấy của thị có lẽ là
minh chứng rõ ràng nhất cho cái đói đang hoành hành. Và có lẽ cũng chính nạn
đói khủng khiếp ấy đã khiến thị có những hành động “chao chát”, “chỏng lỏn”
nhưng xét đến cùng đấy là chứng tích của cái đói. Đó là cái hành động thị đon
đả “ăn thật nhá…”, “sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc”, “ăn xong cầm
dọc đũa quệt ngang miệng “Hà! Ngon!”. Thế nhưng, khác với dáng vẻ bên
ngoài ấy, người đọc sẽ dễ dàng cảm nhận được sự tinh tế, ý tứ, e dè của thị
trong lúc theo Tràng về nhà làm vợ. Trên đường theo Tràng về nhà, thị có cái gì
đó ngượng nghịu đến nỗi “chân nọ bước díu cả chân kia”. Thêm vào đó, khi về
đến nhà, thị “nén tiếng thở dài, nhếch mép cười nhạt nhẽo”, “ngồi mớm ở mép
giường”,… Những hành động ấy của thị đã làm toát lên sự e dè, ý tứ ở người
phụ nữ có vẻ ngoài chao chát, chỏng lỏn tưởng chừng như có cái gì đấy vô
duyên. Đặc biệt, nét đẹp tâm hồn, sự ý tứ của thị được thể hiện rõ nét trong buổi
sáng hôm sau, thị “dậy sớm quét dọn nhà cửa, sân vườn, phơi quần áo, “trong
bữa sáng: nói nhỏ nhẹ, đúng mực, lễ phép”,… Như vậy, thị chính là sự hiện
thân cho cái đói, cái nghèo khổ trong những ngày khủng khiếp của nạn đói
những năm 1945. Nếu như cái đói làm cho người phụ nữ mất đi những nét đặc
trưng của họ thì chính tình yêu, hạnh phúc đã đem đến cho họ sức sống mới, để
được sống với con người thật của mình.
Thêm vào đó, trong tác phẩm, nhà văn Kim Lân còn xây dựng thành công nhân
vật bà cụ Tứ – điển hình cho người mẹ, người phụ nữ Việt Nam. Những chi tiết
nhà văn Kim Lân miêu tả ngoại hình của bà cụ Tứ đã gợi nên sự cơ cực, lam lũ
nơi người phụ nữ này. Đó là “dáng người lọng khọng”, “vừa đi vừa húng hắng
ho vừa lẩm bẩm tính toán”. Nhưng ở người mẹ ấy chúng ta cũng cảm nhận thấy
bao phẩm chất, bao nét đẹp tâm hồn qua những dòng xúc cảm của bà. Lúc vừa
về đến nhà, thấy sự xuất hiện của thị trong nhà của mình, bà có cái gì đấy ngạc
nhiên, “tỏ ý không hiểu”. Nhưng rồi, bà vỡ lẽ, bà nhận ra bao điều Bà lão cúi
đầu nín lặng, “bà hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương” và rồi
lòng người mẹ ấy cảm thấy thương con và thương cho chính mình, bà khóc –
giọt nước mắt của sự tủi thân, của sự tự trách. Nhưng lòng thương con, lòng
thương người đã khiến bài mở rộng vòng tay đón nhận nàng dâu mới. Và có lẽ
chính sự xuất hiện của thị đã đem đến cho bà một niềm vui, niềm hạnh phúc
khôn nguôi vào buổi sáng hôm sau. Sáng hôm sau, bà dậy sớm cùng nàng dâu
mới chăm bẵm vườn tược, chăm lo cho ngôi nhà của mình, “gương mặt bủm
beo, u ám ngày thường rạng rỡ hẳn lên”, trong bữa ăn sáng cả gia đình cùng
nhau nói toàn những chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Như vậy, bà cụ Tứ
là đại diện điển hình cho người phụ nữ Việt Nam dù cơ cực, lam lũ, nghèo khổ
nhưng vẫn luôn tràn đầy tình yêu thương và tinh thần lạc quan.
Tóm lại, truyện ngắn Vợ nhặt với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo,
nghệ thuật trần thuật linh hoạt và cách xây dựng, miêu tả nhân vật đã vẽ nên
bức tranh hiện thực về cuộc sống và số phận của người lao động trong nạn đói
khủng khiếp năm 1945. Đồng thời, tác phẩm cũng thể hiện rõ nét tấm lòng nhân
đạo của nhà văn Kim Lân – bài ca ngợi ca tình người và khẳng định những giá
trị, phẩm chất tốt đẹp của con người. -----------------------