TOP 19 bài Phân tích Vợ nhặt hay nhất - Ngữ Văn 12

Xin gửi tới quý thày cô và bạn đọc bài văn mẫu "Phân tích Vợ nhặt". Đây là tài liệu không thể thiếu đối với các bạn học sinh chuẩn bị thi cuối học kì 2 lớp 12 và thi THPT Quốc gia môn NGỮ VĂN. Hy vọng tài liệu trên giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

Phân tích truyn V nht - Ng văn 12
Khái quát v tác gi, tác phm
I. Tác gi Kim Lân
Kim Lân (1920 - 2007) tên khai sinh Nguyễn Văn Tài, quê làng Phù Lưu,
Tân Hng, huyn T Sơn, tỉnh Bc Ninh. Do hoàn cảnh khó khăn, ông chỉ
đưc hc hết tiu hc, ri va làm th sơn guốc, khc tranh bình phong va viết
văn. Năm 1944, Kim Lân tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, sau đó liên tục hot
động văn nghệ phc v kháng chiến và cách mng (viết văn, làm báo, diễn kch,
đóng phim).
Kim Lân là cây bút chuyên viết truyn ngắn. Ông thường viết v nông thôn
ngưi nông dân. Ông có nhng trang viết đặc sc v phong tc và đời sng làng
quê - những thú chơi và sinh hoạt văn hóa cổ truyn của người nông dân vùng
đồng bng Bc Bộ, được gọi “những thú đồng quê”, “phong lưu đồng rung
như: chơi núi non bộ, th chim, đánh vật, chọi gà,… Ông viết chân tht, xúc
động v cuc sống và người dân quê mà ông hiu sâu sc cnh ng và tâm lí ca
h - những con người gn tha thiết với quê hương cách mạng. Dù viết v
phong tục hay con người, trong tác phm ca Kim Lân ta vn thy thp thoáng
cuc sống con người ca làng quê Vit Nam nghèo kh, thiếu thn vn
yêu đời; tht hà, cht phác thông minh, hóm hỉnh, tài hoa. Năm 2001, Kim
Lân được Nhà nước tng Giải thưởng Nhà nước v văn học ngh thut.
Tác phm chính: Nên v nên chng (tp truyn ngắn năm 1955), Con chó xấu
xí (tp truyn ngắn năm 1962).
Truyn ngn V nhặt được rút t tp truyn Con chó xu xí.
II. Hoàn cnh sáng tác truyn ngn V nht
Truyn "V nht" có tin thân t tiu thuyết "Xóm ng cư". Tác phẩm được viết
ngay sau cách mạng tháng Tám nhưng còn dang dở mt bn tho. Sau hoà
bình lp li (1954) Kim Lân da vào phn ct truyện cũ và viết li thành truyn
"V nht". Tác phẩm được in trong tp truyn "Con chó xu xí". Truyn tái hin
li bc tranh nạn đói năm 1945. Qua đó, thể hin tm lòng cm thông sâu sc
của nhà văn đối vi con người trong nạn đói.
Dàn ý Phân tích truyn V nht - Bài mu 1
1. M bài
Gii thiệu nhà văn Kim Lân Vợ nhặt. (Kim Lân nhà văn ng thành
công khi viết v đề tài người nông dân nghèo. Mt trong nhng tác phm ni
bt ca ông chính là truyn ngn V nht).
2. Thân bài
a. Nhân vt anh Tràng
• Lai lịch, ngoi hình
Tràng mt trai nghèo khổ, dân ngụ, làm ngh đẩy xe thuê, nuôi m
già.
Tràng b coi khinh, chng my ai thèm nói chuyn, tr trẻ hay chc gho khi
anh ta đi làm về.
Ngoi hình xu xí, thô kch, hai con mt nh tí, đm vào bóng chiu, hai
bên quai hàm bnh ra, rung rung làm cho cái b mt tkch ca hn lúc nào
cũng nhấp nhnh những ý nghĩ vừa thú va d tợn… Đầu co trc nhn, cái
lưng to rộng như lưng gấu, ngay c cái cười cũng lạ, c phi nga mặt lên cười
hnh hch.
• Tính cách
Tràng người hầu như không biết tính toán, không ý thc hết hoàn cnh ca
mình. Anh ta thích chơi với tr con và chng khác chúng là my.
Tràng là người đàn ông nhân hậu, phóng khoáng: ban đu không ch tâm tìm v.
Thấy người đàn đói, anh cho ăn. Khi thy th quyết theo mình thì Tràng vui
v chp nhn. Hắn đưa thị vào ch tnh b tin ra mua cho th cái thúng con
đựng vài th lt vặt ra hàng cơm đánh mt bữa no nê… Anh còn mua 2 hào
du thắp sáng trong đêm đầu có v.
Sau khi ly v, Tràng tr thành một người sng trách nhim: Anh ngoan
ngoãn vi m, tránh gi nim ti hn ngưi khác. T mt anh phu xe cc
mch, ch biết việc trước mt, sống tư, Tràng đã người quan tâm đến
nhng chuyn ngoài hi khao khát s đổi đi. Khi tiếng trng thúc thuế
ngoài đình vang lên vi vã, dn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ đến cnh nhng
người nghèo đói m ầm keo nhau đi trên đê Sốp để p kho thóc ca Nht
đằng trước là lá c đỏ to lm.
• Tổng kết
Cuộc đi ca Tràng tiêu biu cho s phn của người dân nghèo trưc cách
mng tháng Tám.
Kim Lân đã khắc ho nhân vt Tràng là anh phu xe cc mịch nhưng một đời
sng tâm lý sống đng với đầy đủ din mo, ngôn ngữ, hành động bng ngòi bút
sc so.
Qua nhn vật Tràng, nhà văn phn ánh mặt đen tối trong hin thc xã hội trước
năm 1945 cùng số phn của người dân nghèo vi v đẹp tâm hn ca h.
b. Nhân vt cô th
• Hoàn cảnh, ngoi hình:
Một người đàn không tên, không tuổi, không quê quán, gc gác, không gia
đình.
Không mt nhan sắc xinh đẹp, cái đói kh li càng làm cho cái nhan
sc xu xí y thêm phn thm hại: “áo quần t tơi như t đỉa”, người ngợm “gy
xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xt ch còn thy hai con mắt”, “cái ngực
gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”.
• Tính cách thị khi mi gp Tràng:
- Cách nói năng, hành động đanh đá chua ngoa:
Cong cớn, sưng sỉa, chng ln vì miếng ăn.
Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của th sáng lên”, điệu
dáng đon đ, đi hn thái độ.
Cúi đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì lấy
đôi đũa qut ngang ming, th “hà”. duyên, hành đng táo bo bt
chp vì miếng ăn.
Mọi hành động ca Th đều ch muốn đưc sống, khao khát đưc hnh
phúc, được mt mái m, mt tm chồng để nương ta những lúc khó khăn
như này dẫn đến hành động theo không Tràng v làm v.
→ Một hin thực đau xót của xã hi lúc by gi: giá tr con người dường như đã
xuống đến mc âm, thm chí còn không bng cọng rơm cọng rác, đ đến ni
những người làng trông thy Tràng dn v v h còn cho đó là “của n”.
• Sau khi trở thành v Tràng:
- Trên đường tr v nhà vi Tràng:
Th bng tr nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xung, cái nón nghiêng nghiêng
che nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng vi dáng v ca mt dâu khi
c v nhà chng.
Gp phi cnh trêu chc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngi ca những người
làng, th thy khó chu, ti cho phn mình là một người v theo không.
- Khi đến nhà Tng khung cảnh xác xơ, tiêu điu ca một căn nhà tm, khiến
th tht vọng, nhưng thị không h phàn nàn vi Tràng.
Khi ra mt m chng, th đã rất phi phép chào bà c Tứ, dáng điệu khép
nép, ngi ngùng, th đã lột xác tr thành mt nàng dâu hin lành, e p, khác hn
vi dáng b của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở ch tnh.
Sau đêm tân hôn, thị tr thành một người ph n của gia đình, đảm đang tháo
vát, gánh ly cái trách nhim thu xếp nhà cửa, đem đống qun áo rách ra sân
hong, gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, ri dọn cơm,...
Khi đi din vi nồi cháo cám “đôi mắt th ti lại” nhưng vẫn “điềm nhiên
vào miệng” → Cách cư xử tinh tế, bc l s thu hiu và cm thông.
K vic Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế đi phá
kho thóc ca Nhật. → Bc l những suy nghĩ và hưng nhìn mi ca thị, người
đàn bà bà này không cam chu cuộc đời đói kém và tìm kiếm một tương lai tươi
sáng hơn.
c. Nhân vt bà c T
• Sự ngc nhiên ca c khi a Tràng dt v v
Khi làm v, thy một người ph n ngồi trong nhà còn thưa u. c ngc
nhiên vì con mình xu xí, nghèo mà vn có v trong thời khó khăn.
c vn không tin vào những con trai mình nói “Kìa nhà tôi chào u”…
“Nhà tôi nó mới v làm bn với tôi đấy u ạ”
Bà vn không hiu chuyện gì đang xảy ra
• Tâm trạng va mng va ti ca bà c
Khi biết rằng con bà “ nhặt” được vợ: bà vui vì con đã an bề gia tht, bun phn
làm m không cưới ni v cho con nghĩ đến chồng, đến con gái li
càng tr nên buồn hơn.
Cái ti, cái bun của người m b dn vào cnh nghèo cùng qun: Bà không biết
lấy để cúng t tiên, để trình làng con đã vợ. khóc thương con không
biết làm sao vượt qua nổi khó khăn này.
• Nỗi lo ca bà c T
lo cho con trai, con dâu, cái gia đình nh ca mình không biết phi qua
những ngày khó khăn này như thế nào. Khuyên con, khuyên dâu thương
nhau, c gắng vươn lên.
→ Nỗi lo, nỗi thương của người m tng tri, hiểu đời.
• Niềm tin vào tương lai, vào cuộc sng ca c T
Bà suy nghĩ vui trong những điều tốt đẹp tương lai “Rồi ra may mà ông gii cho
khá…”
Vui trong công vic sửa sang vườn tược, nhà ca.
Vui trong bữa cơm đm bạc đầu tiên có con dâu.
Bà vn luôn to mt không khí m cúng cho bữa ăn để con dâu đỡ ti.
Người m nghèo tng trải đời, hết mực yêu thương con, luôn lạc quan trong
hoàn cảnh khó khăn.
đi diện cho người m Vit Nam cn mn, mc mc, gin d, giàu tình
yêu thương và đức hi sinh
d. Tình hung truyn
Bi cnh xây dng tình hung truyn: Nạn đói khủng khiếp năm 1945 kết
qu hơn hai triệu ngưi chết. Cái chết hin hình trong tác phm to nên mt
không khí ảm đạm, thê lương. Những người sng luôn b cái chết đe dọa.
Ngoi hình và gia cnh ca Tràng khiến anh khó ly v: xu xí, thô kệch, ăn nói
cc cn, thô lỗ. Nhà nghèo, đi làm thuê nuôi mình mẹ già. →Tng lấy v
ly cho mình thêm mt tai ha.
- Tràng ly v theo kiu "nhặt" được: vài câu nói đùa, 4 bát bánh đúc nên
duyên v chng không cn tìm hiểu, yêu đương và cưới hi. Vic Tràng ly
v mt tình hung bt ng khiến c xóm ng và cụ T hết sc ngc
nhiên. Bn thân Tràng có v ri vn còn " ng ng".
Tình huống truyn bt ng nng rất hp nếu không phải năm đói
khng khiếp thì người ta không thèm ly một người như Tràng.
• Giá trị hin thc: tình cnh thê thm của con người trong nạn đói
+ Cái đói dồn đuổi con người: người chết như ngả rạ…
+ Cái đói bóp méo cả nhân cách: theo không người ta v làm v.
+ Cái đói khiến cho hnh phúc tht mng manh, ti nghip.
→ Vợ nht có sc t cáo mnh m ti ác ca bn thc dân, phát xít.
• Giá trị nhân đạo:
Tình người cao đẹp th hiện qua cách đi x vi nhau ca các nhân vt: anh
Tràng đối vi cô th, bà c T với người con dâu và giữa 3 ngưi h vi nhau.
Tràng rt trân trọng người "v nht" ca mình.
Thiên chc, bn phn làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người "v nht":
không còn đanh đá, chỏng lỏn thay vào đó vợ đảm đang, biết lo toan,
vun vén vic nhà.
Tình yêu thương con ca c T: luôn ming nói v ngày mai vi nhng
d định thiết thc to nim tin cho dâu con vào mt cuc sng tốt đẹp.
cho cuộc sng nghèo kh, khc nghit thế nào thì h vn tràn ngp
tình yêu thương hi vọng v một tương lai tốt đẹp, tươi sáng hơn. Cái đói
th làm h nghèo nàn, xơ xác về th chất nhưng tình cm và tm lòng nhân hu,
tình yêu thương dành cho nhau thì không cái đói nào có th làm lu m.
3. Kết bài
V nht mt trong nhng tác phm cùng thành công ca Kim Lân. Vi
nhng giá trị, ý nghĩa, thông đip sâu sc ca mình, tác phẩm đã gây nhiu du
n quan trng trong lòng bạn đọc.
Dàn ý Phân tích truyn V nht - Bài mu 2
I. M bài
- Kim Lân là cây bút viết truyn ngn chuyên nghip, ông tp trung viết v cnh
nông thôn, hình tượng người nông dân lao đng.
- V nht rút t tp Con chó xu xí, truyn ngắn đc sc viết v ngưi nông
dân, miêu t tình trng thê thm ca h trong nạn đói năm 1945, nng cũng
ngi ca bn cht tốt đẹp và sc sng kì diu ca h.
II. Thân bài
1. Ý nghĩa nhan đề
“V nhặt”: nhặt được v, th hin s r rúng ca thân phận con người phn
ánh tình cnh thê thm của con người trong nạn đói.
2. Tình hung truyn
- Tình hung: Tràng - một người dân ng xấu bỗng dưng li v li
là nhặt được, theo v không.
- Đây là một tình huống độc đáo, bất ng: vi chính Tràng (hoàn cnh ca
Tràng khó lấy được v nhưng nghim nhiên v theo không v, t ng
ng mình đã vợ ư), với những người xung quanh (thc mc bàn tán), vi
c T.
- Tình hung éo le: hoàn cảnh gia đình hội (khung cnh nạn đói) không
cho phép Tràng ly v, c hai v chồng đều những người cùng cc, khó
th tr thành ch da cho nhau.
3. Nhân vt Tràng
- Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh b, cha mt sm, m già, nhà ti tàn,
cuc sng bp bênh, ..., bn thân: xu xí, thô kệch, “hai con mt nh tí”, “hai
bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to ln vp vp, trí tu ng nghch, vng v, ...
a. Gp g và quyết định nht v
- Ln gp 1: li ca Tràng ch lời nói đùa của người lao động ch không
có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.
- Ln gp 2:
+ Khi b gái mng, Tràng ch i toét ming mời ta ăn không
d gì. Đó là hành động của người nông dân hin lành tt bng.
+ Khi người đàn quyết định theo mình v: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng
thêm miệng ăn, nhưng ri tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định ca
k bng bột mà là thái đ dũng cảm, chp nhn hoàn cnh, khát khao hnh phúc,
thương yêu người cùng cnh ng.
+ Đưa người đàn lên ch tỉnh mua đồ: din t s nghiêm túc, chu đáo của
Tràng trước quyết định ly v.
b. Trên đường v
+ V mặt “có cái phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm
thy vênh vênh t đắc”, ... Đó là tâm trạng hnh phúc, hãnh din.
+ Mua du v thắp để khi th v nhà mình căn nhà tr nên sáng sa.
c. Khi v đến nhà
+ Xăm xăm bước vào dn dẹp qua, thanh minh về s ba bn thiếu bàn
tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mc mc.
+ Khi bà c T chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người v s b đi
vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hnh phúc s tut khi tay.
+ St rut ch mong bà c T v để thưa chuyện vì trong cnh đói kh vn phi
nghĩ đến quyết đnh ca mẹ. Đây là biểu hin của đứa con biết l nghĩa.
+ Khi c T về: thưa chuyện mt cách trnh trng, bin minh do ly v
“phải duyên”, căng thng mong m vun đp. Khi c T t ý mng lòng
Tràng th phào, ngc nh hẳn đi.
d. Sáng hôm sau khi tnh dy
+ Tràng nhn thy s thay đổi l của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, qun
áo, ...), Tràng nhn ra vai trò v trí của người đàn trong gia đình. Cũng
thấy mình trưởng thành hơn.
+ Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói cờ bay
php phới. Đó là hình ảnh báo hiu s đổi đời, con đường đi mới.
- Nhn xét: T khi nhặt được v nhân vật đã có sự biến đi theo chiều hướng tt
đẹp. Qua s biến đổi này, nhà văn ca ngợi v đẹp ca những con người trong cái
đói.
4. Nhân vật người v nht
a. Lai lch
- Không có quê hương gia đình: có th thy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao
con người b dt khỏi quê hương, gia đình.
- Tên tuổi cũng không qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được s r rúng ca
con người trong cảnh đói.
b. Chân dung
- Ngoi hình: qun áo t tơi như tổ đỉa, gy sp, khuôn mặt lưỡi cày xám xt ch
còn hai con mt.
- Ln th nht: khi nghe câu vui ca Tràng, th đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính
là s hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
- Ln th hai:
+ Th sưng sỉa mng Tràng, t chối ăn trầu để được ăn một th giá tr hơn,
khi được mời ăn tc thì ngi sà xung, mắt sáng lên, “ăn một chp bn bát bánh
đúc”.
+ Khi nghe Tràng nói đùa “đng y có v vi t ... cùng về”, thị đã theo về tht
bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để th bu víu ly s sng.
- Nhận xét: Cái đói khổ không ch làm biến dng ngoi hình c nhân cách
con người. Người đọc vn cm thông sâu sc vi th đó không phi bn
chất mà do cái đói xô đẩy.
c. Phm cht
- Có khát vng sng mãnh lit:
+ Quyết định theo Tràng v làm v không biết v Tràng, chp nhn theo
không v không cn sính l th s không phi sng cảnh lang thang đu
đưng xó ch.
+ Khi đến nhà thy hoàn cnh nghèo khổ, trái ngưc li tuyên b “rích b cu”,
th “nén một tiếng th dài”, ngao ngán nhưng vn chịu đng để hội
sng.
- Th là người ý t và nết na:
+ Trên đường v, th cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, th
ngi ngùng cho thân phn v nht ca mình.
+ Khi va v đến nhà, Tràng đon đả mi ngi, ch ta cũng chỉ dám ngi mm
mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, th hin s ý t khi chưa xác lp
đưc v trí trong gia đình.
+ Khi gp m chng, ngoài câu chào th ch cúi đầu, “hai tay vân vê áo đã
rách bợt”, thể hin s lúng túng ngượng nghu.
+ Sáng hôm sau, th dy sớm quét tước nhà ca, không còn cái v “chao chát,
chng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
+ Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt th ti lại”, nhưng vẫn điềm nhiên vào
ming th hin s n nang, ý t trước người m chng, không làm bà bun.
- Nhận xét: Cái đói th ớp đi nhân phẩm trong khonh khắc nào đó chứ
không vĩnh vin cướp đi được tâm hồn con người.
- Th còn người niềm tin vào tương lai: kể chuyn phá kho thóc trên Thái
Nguyên, Bắc Giang để thp lên hi vng cho c gia đình, đặc bit là cho Tràng.
- Nêu c nhn chung v hình tượng người v nht sau khi phân tích.
5. Nhân vt bà c T
- Gii thiu nhân vật: dáng đi lọm khm, chm chp, run ry, vừa đi vừa ho
húng hng, lm nhẩm tính toán theo thói quen người già.
- ngạc nhiên trưc s đon đả ca đứa con trai ng nghch, ngạc nhiên trước
s xut hin của người đàn bà lạ.
- hiểu ra “biết bao nhiêu sự”, “mắt nhoà đi”: thương cho con trai phi
ly v nht, trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn
khn kh ng đường mi phi ly con trai bà.
- đối x tt vi nàng dâu mới: “Con ngồi đây ... đỡ mỏi chân”, nói về tương
lai vi nim lc quan, bảo ban các con làm ăn, ...
- Nhn xét: bà c T là người m hin t, cht phác, nhân hu.
III. Kết bài
- Khái quát giá tr ngh thut xây dng nhân vật: đặt nhân vt vào tình hung éo
le, độc đáo để nhân vt bc l tâm trng, tích cách; miêu t tâm nhân vt,
ngôn ng bình d, gn gũi.
- Tác phm chứa đựng giá tr nhân đạo sâu sc, phn ánh chân thc tình cnh
ngưi nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phn ánh bn cht tốt đp sc
sng mãnh lit ca h.
Phân tích truyn V nht - Bài s 1
Nhà văn Kim Lân tên thật Nguyn Văn Tài, sinh năm 1920, q làng Phù
Lưu, Tân Hồng, huyn T Sơn, tỉnh Bc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó
khăn, ông chỉ đưc hc hết bc Tiu hc ri phải đi làm. Yêu thích văn chương,
ông bắt đầu sáng tác t năm 1941. Một s truyn ngn ca ông lấy đ tài cuc
sống lam lũ của người nông dân hoc các sinh hoạt văn hóa truyền thng thôn
quê.
Sau Cách mng tháng Tám, ông chuyên viết truyn ngn v làng quê, mng
hin thc mà ông hiu biết sâu sc. Theo Nguyên Hồng thì Kim Lân nhà văn
một lòng đi về với đt, với người, vi nhng gì thun hu nguyên thy ca cuc
sng nông thôn. Tác phm chính: Nên v nên chng (tp truyn ngn, 1955),
Con chó xu (tp truyn ngn, 1962). V nht truyn ngn xut sc nht
của Kim Lân, được viết ngay sau khi Cách mng tháng Tám 1945 bùng n
nhưng đến sau hòa bình lp li 1954 mi cho ra mt bạn đọc trong tp Con chó
xu xí.
Truyn V nht k v cuc sng ngt ngt, bc bi ca nhân dân ta trong thi
gian xy ra nạn đói khủng khiếp đã làm chết hơn hai triệu người. Đấy là hu qu
chính sách cai tr dã man ca thc dân Pháp trong mấy mươi năm và ch trương
tàn bạo “nhổ lúa trồng đay” của phát xít Nhật. Cũng như mt s tác phm khác
viết v nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước nhng s phn
bt hnh. Thông qua truyn, tác gi t cáo ti ác man ca thc dân Pháp,
phát xít Nhật; đồng thi phn ánh khát vng sng, khát vng hnh phúc và nim
tin vào tương lai tươi sáng của người dân lao động.
Tóm tt nội dung như sau: Anh Tràng nghèo khổ, xu xí, ch vi vài câu bông
đùa mấy bát bánh đúc nhặt được v đang sống d chết d đói. H
thành v thành chng gia cái cnh ti sm lại vì đói khát. Đêm tân hôn din ra
âm thm trong bóng ti lnh lẽo, điểm nhng tiếng h khóc t ca nhng nhà
có người chết đói theo gió vẳng li. Bữa cơm cưới
ch rau chui, cháo loãng mui M chồng đãi nàng dâu con trai món
chè nu bng cám. Câu chuyn ca ba m con xoay sang vic Vit Minh t chc
phá kho thóc ca Nht chia cho dân nghèo. Trong óc Tràng hin lên hình nh
của đám người đói và lá cờ đỏ bay php phi…
Nhan đề V nhặt đã thu hút s chú ý của người đọc ngay t đầu. V nhtv
theo không, chẳng cưới xin gì. Tựa đ khá l ca truyện đã nói lên đầy đ v
cnh ng, s phn ca nhân vt. Chuyn anh Tràng bỗng dưng nhặt được v
phn ánh tình cnh thê thm thân phn ti nhc của người nông dân nghèo
trong nạn đói khủng khiếp xảy ra vào mùa xuân năm 1945.
Thành công trước tiên ca truyn V nht ch tác gi đã tạo ra mt tình
huống độc đáo: Một anh chàng ng xấu xí, nghèo kh, ế v, vậy đã nhặt
đưc v ch bằng vài bát bánh đúc. Giá tr của con người r rúng đến thế
cùng! Tác gi din t tình huống đặc biệt này qua thái đ ngc nhiên ca dân
xóm ng khi thấy Tràng dn v nhà một người đàn lạ. H ngc nhiên bi
thi buổi đói khát này, đến nuôi thân còn chng ni vy Tràng còn dám ly
v. m của Tràng cũng sửng st vì không ng con trai mình đã có v. Thm
chí chính Tràng cũng chẳng hiu ti sao mình li có v d dàng đến thế.
Nguyên nhân sâu xa do nạn đói khủng khiếp đang đẩy còn người vào ch
chết nên người đàn bà kia mi phi chp nhn làm v Tràng. Ý nghĩa tố cáo ca
tác phẩm tuy kín đáo nhưng sâu sc. Tác gi không trc tiếp nói đến ti ác ca
bọn đế quc, phong kiến, vy mà ti ác ca chúng c phơi bày ra một cách đáng
ghê tm và tình cnh c cực, đói khát của dân nghèo qu là thê thm.
Tình hung l lùng nói trên đầu mi cho s phát trin ca ni dung truyn,
tác động đến din biến tâm trạng hành động ca các nhân vt. Bi cnh ln
ca truyn là nạn đói năm 1945, bối cnh nh là cái xóm ng cư tồi tàn ven ch.
M đu tác phm, tác gi đã vẽ nên bc tranh hin thc vi màu sc ảm đạm và
hình ảnh thê lương.
Cách đây không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, đám tr con li bu theo anh,
đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho
đi… Cái xóm ngụ tồi tàn y mi chiu lại xôn xao lên đưc một lúc. Nhưng
bây gi thì nim vui nh nhoi y không còn na: tr con không đứa nào bun ra
đón Tràng… Chúng nó ngi dưới nhng đường, không bun nhúc
nhích… Nụ i d dãi mi ngày của Tràng cũng tt: Trong bóng chiu nhá
nhem, Tràng đi từng bước mt mi, chiếc áo nâu tàng vt sang mt bên cánh tay,
cái đầu trc nhn chúi v phía trước. Hình như những lo lng cht vt trong mt
ngày đè xuống cái lưng to rộng như lưng gu ca hắn… Đâu đâu cũng thấy
cnh: Nhng gia đình t những vùng Nam Định, Thái nh, đội chiếu lượt
bng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như nhng bóng ma, nm ngn ngang khp
lu chợ. Người chết như ng r. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ,
đi làm đồng không gp ba bn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí
vn lên mùi m thi của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Qu mt cảnh tượng khng khiếp! Thc dân Pháp phát xít Nhật đã gây ra
nạn đói chưa từng thy t trước đến nay, khiến hàng triệu người chết đói. Khắp
nơi, đâu đâu cũng bao phủ bi một màu địa ngc.
Tràng, nhân vt chính ca câu chuyn là mt thanh niên ng nghèo kh, xu
xí, sng hiu qunh vi m già trong túp lu ti tàn sông. Ngày xưa, kiếp
ng tủi nhục trăm bề. H b dân làng khinh r phi làm nhng công vic
b coi hèn h như đy t, thằng mõ… Dân địa phương nghèo đến my
cũng kng chịu g con gái cho đám ngụ cho rằng như thế phúc. Đã
thế Tràng li còn xấu xí: …hai con mắt nh tí… quai hàm bạnh ra… b mt thô
kch ca hắn lúc nào cũng nhấp nhnh những ý nghĩ va lí thú va d tợn… cái
đầu trc nhn chúi v đng trước… cái lưng to rộng như lưng gấu… Vì thế nên
anh đã đứng tui mà vn không sao lấy đưc v.
Tràng gặp người đàn bà ấy tt c ch có hai ln vào nhng dp ch thóc lên tnh.
Ln th nht, hai bên ch đùa bỡn dông dài vài câu ri thôi. Ln sau gp ti,
Tràng không nhn ra ch ta thay đổi nhiu quá. Ch ta nhc mãi anh mi nh
ra toét miệng cười xin li ri mời ăn trầu. Ch ta s sàng gợi ý: ăn gì thì
ăn, chả ăn giầu. Anh vui v đãi chị mt bữa bánh đúc (thứ quà của người nghèo)
no nê. Thy ch cắm cúi ăn như chưa bao giờ được ăn, Tràng động lòng thương,
lin bảo: Này nói đùa chứv vi t thì ra khuân hàng lên xe ri cùng v.
Câu nói ca Tràng nửa đùa na thật. Đùa ch bn cợt cho vui, nhưng thật
ch trong thâm tâm, Tràng cũng đang muốn v. Khn ni anh nghèo quá
nên không ai chu ly. Thi ấy, đứng tuổi như Tng chưa v không
bình thường, bt hnh. Câu nói ca anh va tếu táo vừa đượm v chua chát:
Làm đếch gì có vợ…
Đã từ lâu, anh ao ước được một người vợ, nhưng chí ít cũng phải người
bình thường, khe mnh ch đâu phải là loi chết đói chết khát, d người d ma
kia?
Tràng nói đùa không ngờ ch ta theo v tht khiến anh chợn, nghĩ: Thóc go này
đến cái thân mình cũng ch biết nuôi ni không, lại n đèo bòng. Nghĩ ri
lo, nhưng anh tặc lưỡi: Chc, k! l anh cho rằng mình đang mạnh chân
khe tay, lại công ăn việc làm, nên dẫu đèo bòng thì cũng chưa đến ni chết
đói ngay đâu sợ. V li, anh n lòng nào b ngưi đàn kia chết đói cho
đành?
Chng còn là chuyện đùa bỡn na. Không ch đơn giản cứu người còn
may mn t nhiên đưc v nên Tràng phi nghiêm c trách nhim.
Anh đưa chị ta vào ch tỉnh, đãi thêm một ba tht no, sắm cho cái thúng đựng
my th lt vt ri dn v nhà. Trong lòng Tràng gi đây không chỉ tình
thương mà còn có niềm vui sướng, háo hc.
My lần Tràng đnh nói vi th mt vài câu cho tình t chng biết nói thế
nào. Cái phút ban đầu bao gi ch thế. Đùa thì t nhiên. Nửa đùa nửa thật đã
khó. Nay đã thật ri, khó biết my! mi chuyện bình thường, êm đẹp
c đâu? Tràng lúng túng là phải.
Tuy vy, t trong sâu thm lòng anh, nim vui bt ng c dâng lên mãi: Trong
một lúc, Tràng như quên hết nhng cnh sng ê chề, tăm tối hàng ngày, quên c
cái đói khát ghê gớm đang đe dọa… Trong lòng hắn by gi ch còn tình nghĩa
với người đàn bà đi bên. Một cái gì mi m, l lắm, chưa từng thy người đàn
ông nghèo kh ấy… Đúng thế. Đó niềm vui to ln nhất đời: anh đã v.
Tình cm ca anh đối với người đàn xa lạ kia không ch thương hại, cưu
mang còn lòng biết ơn bởi ch ta đã chịu làm v anh không đòi hi
một điều kin nào. Nh thế anh mới được v cuộc đời anh mới đổi khác.
T nay, anh không còn phi sng thui thi mt mình mt bóng na.
Tràng dẫn người đàn về nhà lúc tri nhp nhong ti. H đi vào cái ngã
xóm chợ… xác xơ, heo bút., Hai bên dãy ph, úp súp, ti om, kng nhà nào có
ánh đèn, lửa. Dưới nhng gốc đa, gốc go , bóng những ngưi đói dt d
đi lại lng l như những bóng ma. Tiếng qu trên my cây go ngoài bãi ch c
gào lên tng hi thê thiết…
Bc tranh ngp tràn t khí. Ảm đạm cnh, ảm đạm người, nhà cửa, xác xơ, heo
hút, úp súp, tối om… chng khác chi nhng nm m hoang lnh. S sng ch
còn thoi thóp. Cái chết đã đến, đang đến. Li thêm tiếng qu c gào lên tng hi
bởi chúng đã đánh hơi thy mùi xác chết. Tt c cnh vt đểu đang lâm vào thế
li tàn, tan ra. Giọng văn của Kim Lân đon này rt tnh táo, khách quan
nhưng dồn nén cảm xúc đau thương nên gây ấn tượng mnh.
Gia cái cnh ti sm lại đói khát y, mt bui chiu người trong xóm bng
thy Tràng v vi một người đàn bà nữa. Tràng dẫn người đàn bà này v làm v,
để xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái tiếp ni s sng. Trên b vc thm ca cái
chết, h tìm đến s sng. Ging k ca tác gi cht tr nên hóm hnh: Mt hn
mt v phn ph khác thường. Hn tm tỉm cười n mt mình hai mt
thì sáng lên lấp lánh. Tràng vui sướng trước s kin to ln bt ng của đời mình:
anh đã kiếm được vợ, anh đang dẫn v v nhà. Đói, chết tràn lan, mình cũng đói,
m già cũng đói, thế mà li t nhiên có v. Chuyn l lùng mà thú v!
L lùng vi Tràng l lùng c vi cái xóm ng tồi tàn, nh này. Cái
cảnh Tràng đi trước, người đàn bà đi sau cách ba bốn bước vi cái dáng rón rén,
e thẹn, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa
mặt… làm cho mọi người tò mò đổ ra xem. Lũ trẻ con thy l trước. Ci l lùng
đã thắng cái đói, trả lại tính vui đùa hn nhiên vn ca chúng. Một đứa đt
ngột gào lên: Anh Tràng ơi! Chông vợ hài! khiến Tràng phi bật cười chi yêu:
B ranh! trong bng thì khoái lm. Tiếp theo tr con xóm ch ai cũng
thy l. H bàn tán… Họ hiểu đôi phần, khuôn mt h bỗng dưng rạng hn
lên. T trong sâu thm tâm hn h vn le lói mt nim vui.
H thú v nghĩ tới chuyn Tràng v. H mun chia vui cùng anh. Cái xóm
ng cư đang hấp hi này bng bng lên mt thoáng sng.
Vui đấy nhưng lo ngay đấy. Người ta lo thay cho Tràng: ôi chao! Giời đất này
còn rước cái ca n đời v. Biết nuôi ni nhau sống qua được cái thì này
không? y là h lo cho cái s sống đang phải đối mt tng ngày vi cái chết và
c hi vọng vượt lên cái chết.
Hai người v đến nhà Tràng. Cái t m ca h ra sao trong đêm tân hôn? Sự
sống được tiếp nối như thế nào?
Cái gọi nhà đúng ra ch túp lu vắng teo… rúm r. Trong lu, niêu bát,
xống áo… ba bộn trên giường, dưới đất… Khung cảnh hoang tàn, vng lnh.
Tràng cht có cm giác s s người đàn bà ngồi bt động đầu giường như một
bóng ma… Có cái gì đó kì dị như trong truyện ma qu thời xưa.
Đến đêm, cảnh tượng li càng l lùng hơn nữa. Tràng ch dám thắp đèn một
lúc. Hai v chng nằm bên nhau, đành giấu nhng yên vui vào bóng ti.
Nhưng bóng tối cũng không yên hãi hùng, đáng s bởi đầy tiếng h khóc t
tê… vẳng ra t những nhà có người chết đói.
Ly v ly chng là vic ln một đời, là hạnh phúc tm năm. y thế đây,
chút hnh phúc nh nhoi, mong manh của hai người li b ba vây bởi cái đói và
cái chết. Bui chiu là tiếng qu kêu, bóng người dt d như bóng ma, ban
đêm là tiếng h khóc người chết… Nhưng s sng là bt dit. T trong cái chết,
s sng vn sinh sôi ny nở. Bi thương cùng cực thành d dội. cái đó
giống như một cnh trong bi kch ca sếch-xpia hay trong tiu thuyết Đô-xtôi-
ép-xki: d di, kinh khủng nhưng thật sâu sc, ln lao.. S sng c tn ti, bt
chp cái chết. ràng, ý chí con người quy lut cuộc đời mnh m biết
chng nào!
Sau một đêm, Tràng thấy mình hoàn toàn đi khác: Sáng hôm sau, mt tri lên
bng con sào, Tràng mi tr dậy. Trong ngưi êm ái lửng như ngưi va
trong giấc đi ra. Việc hn v đến hôm nay hn vn còn ng ngàng như
không phải… Mình đã v tht ri sao? Ai vậy? Cưới bao gi nh? Không l
mong ước bao lâu nay đã thành s tht mt cách d dàng, chóng vánh đến
thế ư? Chuyện xy ra c như trong mơ, thật khó tin, nhưng cái cm giác êm ái
lửng lơ lạ lùng chưa từng thy vẫn đang tồn tại trong người và rõ ràng trước mt,
người đàn bà bằng xương bằng tht kia là v anh.
Vy chuyn anh Tràng t dưng nhặt được v (không nghiêm túc v mt
hình thc) gi đã trở thành chuyện hoàn toàn nghiêm túc theo đúng đạo nghĩa
v chng. Cái bên ngoài không đẹp y li chứa đựng mt ni dung thật đẹp, tht
cảm động.
Nhu cầu được yêu thương khao khát xây dng cho mình mt t ấm gia đình
bản năng của con người. Buổi sáng sau đêm đu tiên Tràng v, không khí
gia đình anh trở nên khác hn. Nh s mt của người đàn cái nhà của
anh mi tht s là mt t ấm. Trước kia, m con Tràng ch sng tm b cho qua
ngày. Nay ai cũng trách nhiệm hơn vi nhà cửa, vườn tược ca mình. Nhìn
v và m đang dọn dp, Tràng bng thấy thương yêu gn bó vi cái nhà ca hn
l lùng. Hắn đã một gia đình. Hn s cùng v sinh con đẻ cái đy. Cái nhà
như cái t ẩm che mưa che nắng. Mt nguồn vui sướng, phn chấn đột ngt tràn
ngp trong lòng. Tâm trng này din ra mt người nTràng mi tht cm
động. Người ta ly v ly chồng, điều ấy đặc bit lắm đâu; nhưng với
Tràng thì đó là cả một ước lớn tưởng chng không bao gi thc hiện được.
Giá tr nhân văn sâu sc ca tác phm chính ch tác gi đã phát hiện, đồng
cm chia s niềm vui sướng rất con người này nhng thân phn nghèo kh
trong xã hội cũ. Niềm khao khát hạnh phúc gia đình và niềm tin le lói của người
dân lao động vào tương lai là rất đáng trân trọng.
Bên cạnh Tràng, người v nhặt cũng một nhân vt trung tâm ca truyn.
Người đàn ấy không đến một cái tên để gi. Kng tên, không tui, c
đến đặc điểm nhn dng công không nt. Chng ai biết gc tích ca ch đâu?
Cha m ai? Nhà ca, anh em thế nào? Tt c đều không. Ch biết ngày
ngày, ch ngi lẫn trong đám con gái trước cửa kho thóc để nht nhnh hạt rơi
ht vãi hay ch ai có việc gì thuê mướn thì làm.
Hình thc ca ch ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác: Áo qun t tơi như tổ
đỉa… trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xt ch còn thy hai con mắt… Chị ta
mt trong hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cu thc, lang
thang vất vưởng kiếm ăn và sẽ chết gục nơi đầu đường xó ch bt c lúc nào.
Vic ch ta tr thành v Tràng giống như một trò đùa, chuyện tầm phơ tầm
phào đâu có hai bận, y thế mà thành v thành chng.
Xưa nay, hôn nhân đi s. Con gái ly chồng, giàu nghèo cũng phi c
i xin t tế. Giàu thì làm ln, mi h mời làng. Nghèo đến mấy cũng phải
mâm cơm trình t tiên, ông bà ri mi nhn v, nhn chng.
V thì cung năm bảy loi. loại quý hóa như tiểu thư con quan trong
ngựa ô, đem li danh giá, sang trng cho chng. loi v phi tn bao công
sc, tin ca mi cưới được… Tủi nhc thay cho nhng ai mang tiếng v
theo (theo không, chng cưới hi gì). hội, gia đình không chấp nhn nhng
cuộc hôn nhân như vậy. Tủi hơn nữa, người đàn trong truyện li là v nht
Tràng tình c nht được ch như nhặt được mt vật gì đó rơi trên đường.
Lần đu, ch quen Tràng bởi câu hò chơi cho đ nhc ca anh và nhng li trêu
gho ca bn bè. Ch lon ton chy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn vi anh và liếc
mắt, cười tít. Chuyện đùa gin chì vậy nên người đàn này không đ li
du n gì trong trí nh ca Tràng. Vì thế, gp ln th hai, anh không nhn ra ch
ta bi: Hôm nay th rách quá, áo qun t tơi… gầy sp hẳn đi…
Ch ta đói. Đói lắm! Cái đói cào cấu rut gan. Ch ta s sàng gợi ý để Tràng mi
ăn ăn lin mt chp bốn bát bánh đúc. Cắm đầu ăn, chẳng chuyn trò
mải như chưa từng được ăn bao giờ. Quên c gi k, quên c thn thùng.
Qu là cái đói đã đẩy lùi sĩ din, đẩy lùi nhân cách.
Ăn như thế là đói lâu rồi, nay ch cn có chút gì cho vào bụng để sng. Cnh y
khiến Tràng động lòng thương. Anh but miệng nói: Này nói đùa ch có v vi
t thì ra khuân hàng lên xe ri cùng v. Tràng ch đùa, ai ngờ ch ta theo v tht.
Người đàn bà ấy đi theo Tràng trưc hết cmiếng ăn chứ chng có tình cm
gì. Nghĩ cũng xấu h nên trên đường v nhà “chồng”, chị ta ch biết nói gì và t
ra ngượng ngùng khi thy mọi người trong xóm ng cư nhìn mình bng ánh mt
tò mò.
Ch ta chp nhn theo không một đàn ông xa lạ, xu ch để một nơi
nương ta cho khi chết đói. Lâm vào tình cành éo le y, ch ta vừa ngượng
ngùng va ti phn. Lúc gp c T, ch e s, khép nép, chng biết nói năng,
chào hòi thế nào cho phi.
Một người đàn ông mới quen đôi ln, nay hào phóng cho ăn mt ba no, ngoài
ra không biết tính tình ra sao, gia cnh thế nào, ch nghe nói là chưa vợ (biết
là tht hay gi), vậy mà đi theo mt cách d dàng, không đắn đo, sợ hãi. Có liu
lĩnh chăng? Nh d chăng? Mặc kệ! Theo anh ta đ được ăn, được sống cái đã,
v chng chuyn lâu dài, biết đâu mà tính trưc. Khỏi đói, Khỏi chết lúc này
là quan trng nht. Mi cái khác th yếu tt. Thế mi biết cái đói ghê gớm, kinh
khng biết chng nào!
Vào nhà Tràng, ch c ngi mm mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng,
mt bn thn. Anh Tràng mi ch ngồi mà? Sao chị không dám ngi cho
ngay ngắn, đàng hoàng? Mẹ anh chưa về, ai đâu giữ l? Hóa ra cái dáng
ngi rt rè, chông chênh y thực cũng cái thế ca lòng chị, đời ch. Liu
ch ngi này phi ch ca ch không? Mái nhà này phải nơi đ ch
dung thân không? Ch bn thn vì ng như mọi chuyn va xy ra không phi là
thc. Làm vợ, làm dâu đến thế này ư? Lấy chng, cái hnh phúc ln nht
của đời con gái y, ch được hưởng chút nào đâu? Buồn lm! Ti lắm! Trăm
mi ngn ngang. Ch không nói được nên li, bi ct tiếng, chc ch s khóc.
Nỗi đau không trào ra theo nước mt mà lặn vào trong nên càng đau, càng tủi.
y thế nhưng chỉ sau một đêm làm v Tràng, ch hóa ra khác hn: Tràng nom
th hôm nay khác lm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn v
chạo chát như mấy ln Tràng gp ngoài tỉnh… Hoàn cảnh sng nghit ngã
biến ch ta lúc thành k trâng tráo, nhưng bản cht thì không phải như vậy.
Nếu hôm qua, cái đói làm mất đi những gì tốt đẹp ch thì hôm nay, ch bắt đầu
có ý thc vun vén cho t m ca mình. Ch quét dn sân nhà sch sẽ, gánh nước
đổ đầy ang… bàn tay săn sóc ca ch, túp lều rách nát, tăm tối ca m con
Tràng bng tr nên sáng sa, gn gh hn ra. S sống đã trở v với người, vi
cảnh. Cho đến lúc này, ch mi có cm giác chuyn làm v ca mình là tht. Cái
hạnh phúc đơn sơ mà đm m ấy đã đem đến mt s đổi thay tht s trong hình
dáng và tính cách của người đàn bà, khiến cho Tràng phi ngc nhiên, b ng.
Bà c T m anh Tràng là nhân vật gây được nhiu thin cảm đối với người đọc.
Tm lòng nhân hu ca mới đáng quý làm sao! Lúc đu, thấy người con gái
xa l ngi giường con trai mình, ngc nhiên lắm. Được chào bng u, bà
càng chng hiu gì và c nhìn cho kĩ mà vn không nhn ra ch ta là ai. Bà phân
vân, đoán định… Mãi đến lúc Tràng bảo: Kìa nhà tôi nó chào u… thì bà mi v
lẽ. lão cúi đu nín lng. lão hiu rồi. Lòng ngưi m nghèo kh y còn
hiu ra biết bao nhiêu cơ s, va ai oán vừa xót thương cho s kiếp con mình…
Ra thế! Thằng con mình nó đã kiếm được vợ, nhưng…
ti thân ti phn cha m không làm tròn bn phận đi vi con cái.
Trăm sự cũng tại cái nghèo mà ra: Chao ôi, người ta dng v g chng cho con
lúc trong nhà ăn nên làm ni, những mong sinh con đẻ cái m mt sau này.
Còn mình thì… Trong k mt kèm nhèm ca r xuống hai dòng nước mắt…
l lng thc s: Biết rng chúng có nuôi ni nhau sống qua được cơn đói
khát này không. Nhưng rồi ngẫm đến thân phn nghèo khó ca hai m con,
li t an ủi: Người ta gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mi lấy đến
con mình. con mình mi v đượcNghĩ thế nên vui lòng chp nhn
nàng dâu mới. xử vói ch du dàng, âu yếm gi ch con, xưng u
lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. bây gi dâu con trong nhà
ri…
Vi tâm lí ca một người mẹ, bà ao ước có được dăm ba mâm trước cúng t tiên
ông bà, sau mi làng mời xóm. Nhưng ao ước y không th thc hiện được
bà nghèo quá. Bà rt biết trước biết sau, song cái khó bó cái khôn, bà đành chu.
ch biết nói vi các con nhng li khuyên nh chân tình ct làm sao cho
chúng mày hòa thun u mng rồi… Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương
quá.
Con trai t dưng được v, lão mng lm: nh nhõm, tươi tỉnh khác
ngày thường, cái mt bng beo u ám ca bà rng r hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu
dọn, quét c nhà cửa… không vui sao được khi con trai đã thành gia
thất?! cũng vơi đi mt mi lo âu by lâu nay c canh cánh bên lòng. Trong
bữa ăn đu tiên ca ba m con, du ch cháo loãng vi mui hột nng
toàn nói chuyn vui, toàn chuyện sung sướng v sau này :
Tràng . Khi nào tin ta mua lấy đôi gà. Tao tính rng cái ch đầu bếp kia
làm cái chung thì tin quá. Này, ngoảnh đi ngonh li ch my ngay
đàn gà cho mà xem…
người đàn già nua, nghèo khổ này chứa đựng những nét đạo c truyn
ca dân tc. c gắng xua đi cái ám ảnh đen tối đáng s ca thc ti, nhen
nhúm nim tin, nim vui sng cho các con. Trong cái thân hình khng khiu, tàn
t đói khát y vn nung nu mt ý chí mãnh lit: lão lật đật chy xung
bếp, l m bưng ra một cái ni khói bc lên nghi ngút. Bà lão đt cái ni xung
bên cnh mọt cơm, cầm cái muôi va khuy khuy vừa cười:
- Chè đây… Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Ri múc trao cho con dâu, con trai, ming vẫn tươi i, đon đả: - Cám đấy
mày ạ, hì. Ngon đáo để, c th ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn ch có cám mà
ăn đấy…
lão “đãi” nàng dâu mới n ăn đặc bit mà bà gi chè, nu bng cám.
khen ngon đáo đ và so sánh: Xóm ta khi nhà còn ch có cám mà ăn đấy. (Vy
cám ăn như thế này còn may lm!) Chao ôi là kh! Phải đói đến mc
nào thì mới ăn cám thy ngon? Cuc sng khc nghiệt đày đọa con người, bt
h phi sng cuc sng ca loài vt, song nó không dp tắt được phần người, rt
ngưi trong lòng bà m khn kh kia. Bà c đổi bun thành vui. Bà c tươi cười,
đon đả cho bữa cơm đỡ phn thê thm, còn tác gi và chúng ta thì khóc. Khóc
thương, vì quý tấm chân tình ca bà.
Sng gia cái chết ngày càng che ph bóng đen gớm ghiếc ca vào mi gia
đình, vậy mà những người nghèo kh như mẹ con Tràng vn tin vào cuc sng,
vào tương lai: Ai giàu ba họ, ai khó ba đi. c T c tin vu như thế.
miếng cơm manh áo, họ buc phải vượt lên mi gian nan, kh ải để sng nên
mới có được nim tin dai dng và kì diu y.
Ba m con Tràng đã tìm thấy nim vui trong s nương tựa, cưu mang lẫn nhau
mà sng. Tình v chng, m con s là động lc giúp h tăng sc mạnh vượt qua
giai đoạn ngặt nghèo trước mt. Tình cm y rt cần nhưng chưa đ để đảm bo
cho ba người một tương lai tốt đẹp hơn. Hiện ti, cuc sng vn mt màu xám
xịt, đầy đe dọa chết chóc: Ngoài đình bng di lên mt hi trng, dn dp,
vội vã. Đàn quạ trên nhng cây go cao chót vót ngoài bãi ch ht hong bay
lên, lượn thành tng đám bay vẩn trên nn trời như những đám mây đen…
Cái tài ca tác gi c nh nhàng như không luồn lách ngòi bút động đến
tận nơi sâu thẳm ca tâm hn, bắt người ta phải cười, phi khóc, phi sng vi
nhân vt ca mình.
Trong sut truyn, tác gi không mt ln trc tiếp nhắc đến thc dân Pháp, phát
xít Nhật và bè phong kiến tay sai nhưng tội ác ca chúng vn hin hin, phơi
bày trên tng trang viết được gói gọn trong câu nói đầy phn ut ca m
già: Trng thúc thuế đấy. Đằng thì nó bt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế.
Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ… Người con dâu nhc
chuyn trên mạn ngược, Việt Minh phát động dân chúng không đóng thuế, li
còn t chc phá kho thóc ca Nhật chia cho người nghèo… Điều y gi cho
Tràng nh ti cnh những người nghèo đói m ầm kéo nhau đi trên đô Sộp.
Đằng trước có lá c đỏ… và tâm trí anh bị cun hút mãi bi hình nh y.
Tràng chưa được giác ng cách mng nên lúc chng kiến cảnh đó anh thy s.
Gi hiu ra, anh li ân hn, tiếc r vẩn vơ, khó hiểu… Bước đầu, anh thy rng
cn phải làm như thế không cách nào khác. Tin rng lần sau, trong đoàn
ngưi phá kho thóc ca Nht, thế nào cũng có mặt v chng Tràng. Hình nh
c đỏ bay php phới đem đến cho Tràng bao hi vng vào s đổi đời. Đó ý
nghĩa dự báo cách mng ca tác phm này.
Truyn V nht tiêu biu cho phong cách viết độc đáo của nhà văn Kim Lân.
Ct truyện đơn giản nhưng chặt ch. Trong truyện, người cảnh đan xen,
tương phản vi nhau. Bn chất đp đ bên trong tương phản vi v xu bên
ngoài, s sống tương phản vi cái chết… Tất c đều nhm mục đích làm nổi bt
ch đề ca truyn.
Tác gi không miêu t hiện thc tàn khc lúc by gi chú trọng đến vic
th hin v đẹp tinh thn n giu trong cái b ngoài xác đói khát của
những người nghèo kh. Viết truyn này, tác gi bày t thin cm sâu sắc đi
vi h. Ông khẳng định s đói khát, không tiêu diệt được bn tính tốt đẹp ca
con người, hin thực tăm ti không giết chết ni nim tin vào cuc sng. Trong
hoàn cảnh cực, đọa đày, họ vn nhen nhóm nim tin, vn hi vng vào s đổi
đời một tương lai tốt đẹp. Truyn gây ấn tượng mnh với người đọc bi tính
chất nhân văn cao cả, bi ngôn ng mc mạc, sinh động và giàu sc gi t. Tm
lòng ca tác gi gi gm trong truyện đáng quý biết chng nào!
Phân tích truyn V nht - Bài s 2
Kim Lân là nhà văn của làng quê Vit Nam vi cách viết chân cht, mc mc và
nhng hình nh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào
lòng người đọc bi tình cm bình d, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình.
Tác phẩm “Vợ nhặt” một “kiệt tác” của văn học hin thc Vit Nam, tái hin
thành công hi nghèo kh, cùng cc, bế tc của người nông dân. Bng bút
pháp t thực Kim Lân đã xây dng thành công tuyến nhân vật đi din cho cuc
sng bần cùng giai đoạn đó.
Truyn ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thi k đất nước đang rơi vào
nạn đói năm 1945, đời sng nhân dân bn cùng, k sống người chết nham nhm,
“người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm
đồng không gp ba bn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vn n
mùi m thi của rác rưởi mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ng
ấy đã diễn t được cái đói đang hoành hành, đời sng nhân dân thê thm.
Ngay t nhan đề ca tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đc khám phá cuc sng
ca những điều khn kh, bn hàn nhất. “v nhặt”, chi tiết tình
hung truyn tht nút làm nên cuộc đời ca tng nhân vt.
M đầu truyn ngn, tác gi đã phác ha hình nh nhân vật anh cu Tràng “hắn
ớc đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ
vi vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung đưc din mo xu ca mt
anh nông dân nghèo rách mùng tơi. T ngày nạn đói hoành hành, đám tr con
không bun trêu tràng nữa, chúng đã không còn sc lc. Khung cnh bun
thiu, đy ám nh bao ph lên xóm nghèo. Trong khung cnh chiều tà, suy nghĩ
của Tràng được tái hiện “hắn bước đi tng bước mt mi, cái ao nâu tàng vt
sang một bên cánh tay. Hình như nhng lo lng, cc nhọc đè nặng lên cái lưng
gu ca hắn”.
Vi vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã lên trước mặt người đọc hình nh
người nông dân nghèo đói, xơ xác, bộn b lo lâu đến cùng cc.
Tác gi đã thật khéo để xây dng nên tình hung truyện độc đáo, mới l, làm
thay đổi cuộc đời ca một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được v.
“nhặt” được ch không phi ly được. Người đọc nhn ra s thê thảm, bước
đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hi by gi.
Hình anh v anh cu Tràng dn dn hiện ra dưới ngòi bút miêu t của nhà văn
đầy ám ảnh thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mt. Th v rón rén, e thẹn”. Một người
đàn nghèo kh, không còn th giá tr đi cạnh một người đàn ông nghèo
kh, cùng cc đúng là một đôi trời sinh.
Giữa i đưa vợ “nhặt” được v nhà, Kim Lân đã xây dng nên khung cảnh đìu
hiu, ảm đảm của xóm nghèo “tng trn gió t cánh đng thổi vào, ngăn ngắt.
Hai bên dãy ph, úp sp, tối om, không nhà nào ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa,
gc go bóng những người đói dt d đi lại lng l như những bóng ma.
Tiếng qu kêu trên my cây go ngoài bãi ch c gào lên tng hi thê thiết”.
Không còn gì thê thm và hiu hắt hơn khung cnh chiều tàn nơi xóm nghèo như
vy. Mi th ờng như bị cái đói, cài nghèo đè nén đếm chìm nghm. Bng
ngòi bút t thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc nhiu chua xót,
đắng cay cho nhng phận nghèo long đong.
Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về ngưi
đàn bà đi bên cạnh tràng. Thc ra thy l nên người ta mi hỏi, thì cũng hiểu ra,
l v Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bt không
còn chua ngoa, đanh đá nữa mà tr nên thn thùng khi quyết định theo Tràng v
làm v.
Làm v mt cách bt ng, gia cảnh đói như ng r. Có l cái nghèo đói đã đy
hai con người đến vi nhau, không phải tình yêu nhưng tình thương. Hn
người đọc s cảm thông và xót thương cho nhng mảnh đời dt d nơi xóm ngụ
cư.
Khi tr v nhà, hình nh bà c T, m Tràng đưc Kim Lân khc ha din biến
s chuyển đổi trong tâm tinh tht tài tình sâu sắc. Người đọc s hiểu n
tm lòng một người m bao dung và hin hu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước
theo con vào nhà, đến gia sân sng li thy một ngưi đàn bà
trong…” S băn khoăn lo lắng ca c bắt đầu hiển lên. Nhưng rồi cũng
nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đu nín lng, bà lão hiu rồi. Lòng người m
nghèo kh y còn hiểu ra bao nhiêu sự, va ai oán, va xót xa cho s kiếp
con mình. Chao ôi ngưi ta dng v g chồng cho con trong lúc làm ăn nên
nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân din t
qua mt loạt động t tình thái khiến cho cái khổ, cái đói li v vp và hin hin
rõ ràng hơn bao giờ hết.
Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình hung khiến người đọc nh
mãi, hình nh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên
hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu du tiên. Hình ảnh “nồi
cháo cám” là hin thân của cái đói nghèo đến cùng cc trong một gia đình
“không còn giá trị nữa”. cụ T hôm nay thay đổi tâm trng, toàn nói
nhng chuyn vui trong nhà, mun mang lại không khí vui tươi hơn gia
cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót nước mt
của người m nghèo. Ai cũng muốn mt bữa cơm đón dâu mâm cao, cỗ
đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” thứ duy
nhất đong đầy yêu thương bà có th mang li cho con.
Đây là một chi tiết cùng đắt giá trong truyn ngắn “Vợ nht” của Kim Lân
khiến người đọc nh mãi. n cạnh đó hình ảnh lá c đỏ sao vàng xut hin ca
cui truyn ngắn đã mang đến chút nim tin và hi vng v một tương lai tươi
sáng hơn.
Bng ngòi bút miêu t chân thực, sinh đng, cách khc ha tâm nhân vt sc
sảo, độc đáo cốt truyện đy bt ng Kim Lân đã v li trước mắt người đc
khung cảnh đói nghèo tràn lan ca xã hi Vit Nam những năm 1945. Qua đó
tác gi cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người với người luôn bt dit.
Phân tích truyn V nht - Bài s 3
Kim Lân mt trong những nhà văn viết truyn ngn t năm 1941. Sáng tác ca
ông tp trung phn ánh bc tranh ca nông thôn Việt Nam và hình ợng người
nông dân. Dưới nòi bút tài hoa ca Kim Lân, bc tranh hin thc ca nông thôn
Việt Nam cũng n ni nim, cuc sng, cnh ng khát vng của người
nông dân được th hin chân thực sinh động. “Vợ Nhặt” một trong nhng
tác phm thành công ca Kim Lân vi ct truyện độc đáo cùng với li dn
chuyn hóm hnh hp dẫn người đọc.
Ly cm hng t nạn đói năm 1945, nhà văn Kim Lân đã tái hin li hin thc
bức tranh ngày đói ám nh trong tng câu ch, từng trang văn ca ông. Bng
ngòi bút t thc kết hợp Kim Lân đã tái hin cnh vt với xã xơ heo hút của ngã
xóm chợ v chiu, rồi “hai bên dãy phố, úp súp, tối om”,”cái nhà vng teo
đứng rúm ró mt mảnh vườn mc ln nhn”…Từng y thôi ngòi bút của ông đã
đm lên bc tranh u ti, vi cnh sống đói nghèo của nông thôn Bc B
những năm 1945. Tt c hiện lên đều còm cõi, xác xơ, rách rưới. đó không
ch cnh vật con người cũng hiện lên lụi tàn cùng cái đói, cái nghèo. Cái
chết cũng được ghi li trong âm thanh thê thiết, to nên s ghê s, rợn người.
đó như đang dồn đuổi s sng của con người đến đường cùng. Âm thanh ca
tiếng qu trên my cây go, ca tiếng hn khóc t c tiếng trng thúc thuế
mi lúc mt dn dập hơn. Chỉ vậy thôi nhà văn như li hin thc t cáo
s tàn ác ca bọn phát xít, đế quc thc dân vi nhng chính sách cùng hà
khc, r rúng mng sng của con người.
Trong cái không gian y, hình ảnh con người được khc ha li khiến người đọc
không khi bàng hoàng v cái đói năm 1945 y. S dng những câu văn dài
nhiu vế, kết hp vi bin pháp liệt kê Kim Lân đc t hình ảnh người đó “bồng
bế, dắt díu nhau như nhng bóng ma, nm ngn ngang khp lu chợ…”. Những
ngưi sống đang lay lt, dt d, sng mt cuc sng không phi cuc sng ca
con người. Người chết thì “như ng rạ” cái chết tr thành ni ám nh, đau
đớn nhc nhi ca biết bao con người. l, chính thế thôi thúc
Kim Lân phn ánh li bng những trang văn đầy ám ảnh như vậy.
Phân tích truyn V nht - Bài s 4
Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyn ngn, vi bit tài viết v ngưi nông dân.
Ngưi nông dân trong trang viết ca Kim Lân nghèo kh nhưng luôn sáng
ngi nhng phm chất: yêu đời, tht thà, cht phác, hóm hnh, tài hoa. V nht
là mt trong nhng tác phm tiêu biu nht ca ông khi viết v người nông dân.
Tác phm là mt trong nhng truyn ngn xut sc nht nm trong tp truyn
“Con chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vn là tiu thuyết “Xóm ngụ cư”
đưc viết ngay sau khi cách mng tháng Tám thành công. Tuy nhiên ch đưc
viết d dang và sau đó mất bn thảo. Đến năm 1954, khi hòa bình lp li, nhân
mt s báo văn nghệ k nim cách mạng tháng Tám thành công, Kim Lân đã
nh li tiu thuyết “Xóm ngụ cư”, da trên ct truyện viết li thành truyn
ngn. Ngay t khi ra đi, tác phẩm đã gây được tiếng vang ln trong gii sáng
tác.
Tác phm ly bi cnh là nạn đói năm t Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng
khiếp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tn lan, khủng khiếp
din ra khắp nơi khiến con người không th nào chng c đưc, tt c nhng
yếu t đó đã được Kim Lân tái hin thành công trong tác phm ca ông.
Trước hết là màu sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kt
của đàn quạ bay trên tri. Nhng màu sc gi lên s chết chóc, ảm đạm, tàn li
và héo úa. Bao quanh không gian đó là mùi m thi của rác rưởi và mùi gây ca
xác người, mùi đốt đống dm khét lt. Kết hp vi tiếng qu kêu tng hi, hòa
ln vi tiếng khóc h t những gia đình ngưi chết. Để làm nét hơn, Kim
Lân còn cho người đọc thy hình ảnh sáng nào cũng ba bốn thây người nm
chết còng queo bên đường. Tình cnh vô cùng thảm thương, bất hnh. Kim Lân
nhìn nhn hin thc bng cái nhìn chân thc, sắc nét, không tnh, phơi bày
tt c trên trang văn của mình, để ngưi đọc thy rõ cái khng khiếp ca nạn đói
năm 1945. Nhưng giá trị tht s ca tác phm là ch: t trong bóng ti ca cái
đói, cái chết, tác gi tìm thy ánh sáng ca v đẹp tâm hồn con người.
Sau khi v nên khung hình chung ca nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên
truyn xut hiện, đng thời cũng nhân vt trung tâm ca tác phm anh cu
Tràng. Tràng vn dân ng cư, sống tha phương cầu thc, những người dân
ng thường b phân bit, th, sng rìa làng, ch không được sng trong
trung tâm của làng như những người khác. Không ch vy, h còn không được
chia ruộng đất, không được tham gia bt c hoạt động sinh hot cộng đồng nào
ca làng xã. Anh cu Tràng b đt ra ngoài l hi. Không dng li đó, gia
đình Tràng còn rt nghèo, cha mt, ch con hai m con nương tựa vào nhau,
không được chia rung nên Tràng phi làm công vic bấp bênh để kiếm sng:
kéo xe bò thuê.
ờng như s phn càng tr nên tr trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, người
ng c, anh Tràng còn ngoi hình hết sc xu xí. Hai mt nh gà đm
vào bóng chiu, còn hai bên quai hàm bnh ra, khiến khuôn mt càng to lớn hơn.
Thân hình to ln vp vp, như một người khng l. Tràng còn vừa đi va lm
nhm những điều mình nghĩ và cứ th nga mt lên trời cười hnh hch. Anh cu
Tràng hi t đầy đủ v đẹp hp dẫn lũ trẻ con, còn vi các cô gái anh hoàn toàn
không chút hp dn nào, c v ngoi hình ln gia cnh, anh cu Tràng không
có kh năng để lấy được v.
Nhưng trong một ln hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã ly
đưc v một cách đầy bt ng và ng ngàng. Trong lúc làm vic mt nhc, dân
ta thường những câu đ xua tan cái mệt, tăng động lc làm vic. anh
cu Tràng cũng vậy, anh cũng hát, li hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng
vi giò. Lại đây đy xe với anh”. Li nói ấy đã khiến th theo anh cu
Tràng v làm v tht.
Trước khi đưa v v nhà, Tràng rt chu đáo, mua cho v mt chiếc thúng
con mi, dn th đi ăn một ba tht no, mua nhng hai hào du để v thp sáng
trong nhà. Anh cu Tràng t mt k thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện mt mình
cười hnh hch, hôm nay bng tr nên tâm tinh tế l thường. Trên
đường đi v Tràng vui sưng, hn h, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn
mt va hnh phúc, rng r va vênh vênh t đc vi chính mình. Cnh sng
cc kh ê ch hàng ngày, Tràng đã quên hẳn, ch sng trong nim vui, nim
hnh phúc khi lấy được vợ. Bước chân đến nTràng bng ngượng nghu, xu
hổ, đứng tây ngây gia nhà, cht thy s s nhưng lại va hnh phúc sung
ng khi vic mình ly v đã trở thành hin thực. Điều Tràng mong ngóng
nhất đi m mình v nhà, để ra mt nàng dâu mi. Li gii thiu th vi m
cũng rất trân trọng, đ nàng dâu bớt đi phần ngượng ngùng, xu hổ. Tràng đã
thay đổi một con ngưi khác hn, tâm lí, nhy bén rt khéo léo trong cách
ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến s thay đổi ln trong tâm lí,
suy nghĩ của anh cu Tràng.
Hạnh phúc đã khơi dy ý thc bn phn của người đàn ông trong gia đình. Sáng
hôm sau, Tràng tnh dy mun, cm thấy trong người d chịu, êm ái, như người
đi ra t trong giấc mơ, anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nm gi.
Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mt mình, nhn thy cảnh tượng
thay đi mi m, khác l, nhà ca không ba bộn được dn dp sch s,
không khí gia đình trở nên m áp, vui v, m v chung tay dn dp, vun vén
nhà ca. Trành thy thm thía, cảm động và bng thấy yêu thương những người
xung quanh, đồng thi nhn thy trách nhim ca bn thân, phi biết lo lng cho
gia đình, vợ con. s ý thức đó đã được hin thc hóa bằng hành động xăm
xăm chạy ra sân, mun chung tay tu sửa căn nhà. Tràng muốn chung tay để
nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình. Đồng thi trong Tràng cũng
bng lên khát vọng đổi đời mãnh lit, anh biết quan tâm đến nhng chuyn
ngoài hi: mn Thái Nguyên Bắc Giang kng đóng thuế còn phá kho
thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh đám người đói c đỏ bay php
phi ln khut, n hin trong trí óc Tng. Hình nh c chính tín hiu cho
tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng s đi theo Việt Minh, theo cách
mng.
Xây dng nhân vật Tràng, Kim Lân trước hết phơi bày cuc sng kh cc ca
nhân dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó còn sự cảm thương cho
s phn h. Trân trng, phát hin ngi ca v đẹp của người dân Vit Nam
trong tình cnh khn cùng: tm lòng nhân hu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng
vào tương lai.
Bên cnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật người v
nhặt. Người v nht không có lai lch rõ ràng, không rõ tên tui, quê quán, ngh
nghiệp ng không hề tài sn khi lần đầu gp Tràng. th thy rng,
trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người tr nên hết sức nghĩa. Ln
th hai gp Tràng, qun áo th rác rưới, t tơi như tổ đỉa, người gy sọp đi vì đói,
mặt lưỡi cày xám ngoét, ngc gy và lép, hai con mắt sâu trũng hoáy lại. Ngoi
hình thcùng thm hại, do cái đói đã gây ra cho con ngưi. Ngôn ng ca th
cũng hết sc chao chát, chng lỏn: “Điêu! Người thế điêu!”, “Ăn thật nhá”,
“Hà, ngon. Về ch y thy ht tin thì b bố”; rồi thì “Ton ton chy lại”, “liếc
mắt cười tít”, “sầm sp chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu ăn”,
“ăn xong lấy đũa quẹt một cái”. Thị t ra là con người hết sức vô duyên, dường
như cái đói, cái chết th mài mòn nhân cách con người ta ghê gớm đến như
vy.
Nhưng đng sau s chng lỏn đến duyên y li một con người khát
vng sng cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc đ nhân bn thì tt c hành
động, c ch trơ trẽn, vô duyên ca th li là biu hin ca khát vng sng mãnh
lit. Bên cạnh đó, thị còn hin lên vi v đẹp n tính, trên đường v nhà, th rón
rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách t tơi
nghiêng nghiêng che khuất đi na mặt”. Khi về đến nhà chng, thy quang cnh
nhà chng th nén tiếng th dài, ngi mn mép giưng và vô cùng l phép khi
gp m chng. Sáng hôm sau dy sm ng m dn dp, vun vén nhà ca.
Nhân vt th hiện tư tưởng nhân đạo sâu sc ca tác gi.
Cui cùng là nhân vt bà c T, dù ch thp thoáng trong tác phẩm, nhưng cũng
vai trò, ý nghĩa quan trọng. người ph n nghèo khổ, cực: dân ng
tha phương cầu thc; chng con gái mt sm. C đời lận đận, ch tâm
nguyn ln nht ly v cho con nhưng mãi kng dành dụm được tin, trong
lúc nghèo đói đến cùng cực người con trai li nhặt được v. Nhìn thấy con đưa
v v, nín lặng cúi đầu, băn khoăn, nhưng vn rt vui mừng cho đôi trẻ.
dn dò hai v chng mi, nói nhng chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến nim tin,
s lc quan cho chúng. Bà là một người m nhân hu và hết sức yêu thương con.
V nht ca Kim Lân mt trong nhng tác phm xut sc nht của văn học
hin thc. Tác phm va cho thy hin thc cuc sng nghèo kh ca nhân dân,
đồng thi ánh lên giá tr nhân đạo sâu sc. Tác phm th hin s trân trng,
nâng niu những ước đổi đời của con người. Không ch vy, tác phẩm cũng
cho thy ngh thut phân tích tâm lí và miêu t bc thy của nhà văn Kim Lân.
Phân tích truyn V nht - Bài s 5
Kim Lân đưc mệnh danh nhà văn của người nông dân, ca làng quê Vit
Nam bi trong các tác phm của ông luôn ng ti hình ảnh người nông dân.
Với văn phong giản d, mc mạc nhưng sâu sc thấm đẫm tinh thần nhân văn,
tác gi Kim Lân đã gửi tới người đọc mt tác phẩm kinh điển th hin tình cm
đậm đà của ông dành cho nhng s phận người nông dân nghèo kh trong
hội cũ.
Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong nhng tác phẩm đc sắc đại diện cho văn
phong, cũng như nhân sinh quan của tác gi Kim Lân. V nhặt ra đời khi nước
ta đang trong giai đoạn mt c hai tròng va b thực dân Pháp đô h, va b
phát xít Nht cai tr, kèm theo chế độ phong kiến trong thi k suy tàn, thi nát
làm cho người dân vô cùng khn kh. Câu chuyn xoay quanh bi cnh nạn đói
kinh đin năm 1945 làm chết hai triệu đồng bào ta. Ti mt xóm ng nghèo
nơi tập trung những gia đình đi di tn t khắp nơi kéo tới đây, tạo thành mt
khu ng cư mới.
Ngay cái nhan đ ca tác phẩm “Vợ nhặt” đã gợi lên cho người đọc nhiu suy
nghĩ về ni dung câu chuyn, th hin mt vic trọng đại của đời người chính là
vic dng v g chồng nhưng lại được làm rất qua loa, như việc nht mt món
đồ, mt viên gạch ngoài đường mang v nhà.
M đầu tác phm tác gi Kim Lân đã phác ha lên hình nh nhân vt anh cu
Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tm tỉm cười, hai bên quai hàm
bạnh ra…”
Ch bng vài chi tiết nho nh tác gi Kim Lân đã khiến cho người đọc hình
dung ra được hình nh nhân vt
Nhân vật Tràng là người có ngoi hình thô kch, xu xí, gia cnh thì m góa con
côi, bn hàn. Hn chẳng điểm nào thu hút ph n. Công vic ca Tràng làm
ngh kéo xe thuê ch hàng cho người ta, mt công việc lao đng tay chân,
bán m hôi sức lao động để kiếm vào đồng xu lẻ. “Hắn bước đi từng bước mt
mi, cái áo nâu tàng vt sang một bên cánh tay. Hình như nhng lo lng, cc
nhọc đè nặng lên cái lưng gấu ca hắn”.
S đói nghèo bn hàn, vây quanh ly hn, nhưng trong đu hn luôn hin lên
những suy nghĩ lạ lùng thnh thong li thy hn nga mặt cười cười mt cái gì
đó. Tràng thật s là một con người k quái.
Gia khung cảnh nghèo đói, cùng cực y. Một con người xu xí, thô kch nghèo
kh như Tràng những tưởng vĩnh viễn phi sng kiếp cô độc vì ch có gì thu hút
ngưi khác thì làm sao lấy được vợ. Nhưng không ngờ Tràng vn lấy được
v, con lấy được mt cách d dàng “nhặt” được v như nhặt mt cục đá mà
thôi.
Ch bng những câu nói bông đùa vu vơ, mà Tràng nhặt được v “Muốn ăn cơm
trng với giò, thì ra đây đẩy xe với anh nào” Chỉ như thế thôi nhưng một
cô gái ngoan ngoãn ra đẩy xe vi hn. Ri theo hn v nhà làm v.
Tác gi Kim Lân đã xây dựng tình hung truyn cùng thú vị, độc đáo làm
thay đổi s phn ca nhân vt Tràng. Làm cho câu chuyn sang một hướng r
mi thú v thu hút người đọc. Hành động nhặt được v ca Tràng khiến
ngưi ta phải suy nghĩ, bi vic ly v ly chng vic cùng quan trng
trong đi người, bình thường người ta phi làm tht cn thận suy tính trưc sau.
gái làm v Tràng cũng thật thit thòi biết bao, làm v người ta mà không
mt l ới, không được làm dăm ba mâm ra mắt h hàng, không giấy đăng
ký kết hôn, không có chng nhn ca hai bên h hàng.
S nghèo khó đã đẩy những con người khn kh xích li gần nhau hơn. Họ tìm
đến với nhau đ nương tựa vào nhau trong lúc khó khăn, cho bớt cực. H
cũng hy vọng khi nhau ri cuc sng ca h s thay đổi ít nhiu thêm
niềm vui vào tương lai.
Hình nh v Tràng hiện lên làm người đọc không khỏi xúc động thị cp cái
thúng con, đầu hơi i xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi
na mt. Th có v rón rén, e thẹn”.
Khi đưa thị v nhà khung cnh xóm ng hiện lên đìu hiu, buồn bã, ảm đạm
như những con người sống trong xóm nghèo đó “tng trn gió t cánh đồng thi
vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy ph, úp sp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa.
i gốc đa, gc go bóng những người đói dật d đi lại lng l như
những bóng ma...”
Những người hàng xóm hi Tràng v người ph n đi bên cnh Tràng.
H vì một người nghèo kh xấu như Tng cũng gái theo.
Nhưng người cũng thực tế hơn họ cho rng trong thi k đói khổ miếng ăn
không như hiện nay còn i v vác thêm mt miệng ăn về nhà thì khác
nào vác mt cc n.
C nthế Tràng th đi trong những tiếng xào, bàn tán nhưng h c mc
k c ớc đi bên nhau và hy vọng vào ngày mai tươi sáng hơn.
Cuc gp g gia m chồng nàng dâu cũng khiến nhiu người phi ám nh
c T m Tràng “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến gia sân
sng li vì thy có một người đàn bà ở trong…”
Lúc đầu c lo lng lắm nhưng rồi c T cũng nhận ra vấn đề “bà lão cúi
đầu nín lng, lão hiu rồi. Lòng người m nghèo kh y n hiu ra bao
nhiêu sự, va ai oán, va xót xa cho s kiếp con mình. Chao ôi ngưi ta
dng v g chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…”
Những suy nghĩ đau đớn chua xót ca một người m thương con, được tác gi
Kim Lân tái hin qua nhng trang viết cùng xúc động làm lay động trái tim
người đc.
c T vui mng chp nhận người v ca con trai mình. Hình nh bữa cơm
đầu tiên sau đêm tân hôn hin ra khiến nhiu người không khi nghn ngào
đắng ngt trong c họng. Đó chính “nồi cháo cám” với đĩa muối trng, hoa
chui thái vi. Mt hình ảnh đi din cho cái nghèo, hin lên chân thc, mc
mc
Tuy nhiên, trong ba cơm ấy ba con người trong câu chuyn lại ăn ung rt
ngon. H còn nói chuyn vi nhau v tin đồn Vit Minh phá kho thóc Nht chia
cho dân nghèo. Trong bữa cơm ấy, ba con người khn kh cùng mơ ước có mt
ngày được thy ngn c đỏ sao vàng, được sng mt kiếp sng khác. H cùng
nhau tin tưởng vào tương lai.
Phân tích truyn V nht - Bài s 6
Nạn đói khủng khiếp và d dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - mt
nhà văn hiện thc th xem là con đ ca đồng rung, một con người mt
lòng đi về với “thuần hu phong thuy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bt tay
ngay vào viết tác phm Xóm ng cư khi hoà bình lặp li (1954), nỗi trăn trở tiếp
tc thôi thúc ông viết tiếp thiên truyn y. Và cui cùng, truyn ngắn “Vợ Nhặt”
ra đời.
Lần này, Kim Lân đã tht s đem vào thiên truyện ca mình mt khám phá mi,
một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó vẻ đẹp của tình người nim hi
vng vào cuc sng ca những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng,
ngưi v Nht và bà c T. Thiên truyn th hin rt thành công kh năng dng
truyn, dn truyện và đặc sc nhất là Kim Lân đã có công khám phá ra diễn biến
tâm lý tht bt ng.
Trong mt ln phát biểu, Kim Lân đã từng nói “Khi viết v nạn đói người ta
thưng viết v s khn cùng và bi thm. Khi viết v con người năm đói người ta
hay nghĩ đến những con người ch nghĩ đến cái chết. Tôi mun viết mt truyn
ngắn nhưng những con ngưi ấy không nghĩ đến cái chết vẫn hướng ti
cuc sng, vn hi vng, vẫn tin tưởng vào tương lại. H vn mun sống, “sống
cho ra con người”. Đó chính tình người và nim hi vng v cuc sng v
tương lai của nhng con người đang kề cn vi cái chết.
Bng cách dn truyn, xây dng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hp vi
kh năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vt tht tinh tếs dng thành công
ngôn ng nông dân, ngôn ng dung dị, đời thường nhưng s chn lọc
ỡng, nhà văn đã tái hin lại trước mt chúng ta một không gian đói thật thm
hải, thê lương.
Trong đó ngổn ngang nhng k sống người chết, nhng bón ma vt v, lng l
gia tiếng khóc h và tiếng gào thét gi gm trong không gian tối đen như mc
y nhng mm sống đang cố vươn đến tương lai, nhng tình cm chân thành,
yêu tơng bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy nhà văn đã đ nhng s phn
như anh Tràng, người v nht và c T được thăng hoa trưc ngn c đỏ
php phới cùng đám người đói phá kho thóc của Nht cui thiên truyn.
Có th nói rằng Kim Lân đã thc s xut sc khi dng lên tình huống “nhặt v
ca anh cu Tràng. Tình hung y cánh ca khép m để nhân vt bc l nét
đẹp trong tâm hn mình. Dường như trong đói kh người ta d đi x tàn nhn
vi nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có th đèo bồng thêm
người này người kia. Trong tình hung ấy, người d cu nhau, d ích k hơn
v tha người ra rt d đối x tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà
văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược li các nhân vt anh cu Tràng,
ngưi v nht và bà c T.
Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người ln
xanh xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi
mùi gây của xác người”, từng n lạnh trước “tiếng qu kêu gào thm thiết”
ấy nhưng lạ thay chúng ta tht không th cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao
đẹp mà bình thường, dung d y ca Tràng, bà c T và của người v Tràng na.
Mt thanh niên ca cái xóm ng ấy như Tràng, một con người thân xác
vm v, lực lưỡng ấy dường nngờ nghch thô kch xu y li cha
đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp.
“Cái đói đã tràn vào xóm t lúc nào”, vậy Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô
v trong khi anh không biết cuc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liu
lĩnh. ngay v Tràng cũng thế. Hai cái liu y gp nhau kết t li thành
một gia đình. Điều y thật éo le xót thương cùng. Và ờng như lúc y
trong con người của Tràng kia đã bt lên nim sng, mt khát vọng yêu thương
chân thành. Và ờng nhn đang ngầm cha một ao ước thiết thc v s
đầm m ca tình cm v chng, ca hnh phúc lứa đôi. Hành động ca Tràng
tình, không ch đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điu y
không h m cho ta thy tình cm ca mt con ngưi biết yêu thương, cưu
mang, đùm bọc những người đồng cnh ng.
Như một l đương nhiên, Tràng đã rt ng ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”,
“ngỡ ngàng” như không phải nhưng chính tình cảm v chng y li cng c
nhen nhóm ngn lửa yêu thương và sng có trách nhim với gia đình trong hắn.
Tình nghĩa vợ chng m áp ấy dường như làm cho Tràng thay đi hn tâm tình.
T mt anh chàng ng nghch, thô l, cc cằn, Tràng đã sớm thay đổi tr thành
một người chng tht s khi đón nhận hạnh phúc gia đình. Hnh phúc ấy dường
như một cái đó “ôm ấp, mơn man khắp da tht Tràng ta h nmột bàn
tay vut nh sống lưng”. Tình yêu, hnh phúc y khiến “trong mt lúc Tràng
ờng như quên hết tt c, quên c đói rét đang đeo đuổi, quên c nhng tháng
ngày qua”. Tràng đã tr dy. Hn những thay đi rt bt ng nhưng rất
hp logíc. Những thay đổi y không khác ngoài tâm hn đôn hâu, chất
phác và giàu tình yêu thương hay sao?
Trong con người ca Tràng khi tr dậy sau khi chào đón hnh phúc y tht khác
lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trưc na mà gi đây đã là một người con có
hiếu, một người chồng đầy trách nhim ch trong ý nghĩ. Thy m chng
nàng dâu quét tước nhà ca, hắn đã bng bng thèm mun mt cảnh gia đình
hạnh phúc. “Hắn thấy yêu thương căn nhà ca hắn đến l lùng”, “hắn thy mình
trách nhiệm hơn với v con sau này”. Hắn cũng xăm xn ra sân dn dp nhà
ca.
Hành động c ch y của Tràng đâu chỉ câu chuyện bình thường đó s
chuyn biến ln. Chính tình yêu của người v, tình m con hoà thun ấy đã
nhen nhóm trong hắn ước vng v hnh phúc, nim tin vào cuc sng s thay
đổi khi hắn nghĩ đến đám người đói c đỏ bay php phi. Ri s phn,
cuộc đời hn, ca v hn và c người m ca hn na s thay đổi. Hn tin thế.
Nạn đói y không th ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tố y ri s
qua đi để đón chờ ánh sáng cuc sng t dong đang phía trước sc mn ca
thời đại. Mt ln na, Kim Lân không ngn ngi hnh phúc, nim tin y trong
các nhân vt của mình. Người v nhặt làm thay đổi cuc sng ca xóm ng
nghèo, tăm tối ấy, đã làm cho nhng khuôn mt hc hác, u ti ca mọi người
rng r hn lên. T con người chao chát chng lọn đến v hin thục, đảm
đang là một quá trình biến đổi. Điều gì làm th biến đổi như thế?
Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng v ch qua
bốn bát bánh đúc hai câu nói tầm phơ tm phào ca Tràng nhưng chúng ta
không khinh mit th. Nếu trách thì ch th ng vào hi thc dân
phong kiến đã bóp nghẹt quyn sng của con người. Th xut hin không tên
tuổi, không quê quán, trong tư thế “vân vê tà áo rách bt bạt”, điệu b trông tht
thm hại nhưng chính con người y li gieo mm sng cho Tràng, làm biến đổi
tt c, t không khí xóm ng đến không khí gia đình. Th đã đem đến mt
lung sinh khí mi, sinh khí y ch được trong con người th dung cha mt
nim tin, một ước vng cao co s sống vào tương lai.
Th đưc miêu t khá ít song đó li nhân vt không th thiếu cho tác phm.
Thiếu th, Tràng vn ch anh cu Tràng ngày xưa, c T vn lng thm
trong đau kh, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dng nhân vt
này để góp thêm tiếng lòng ca ngi sc sng ca v đẹp tình ngưi, nim tin
vào cuộc đời phía trước trong những ngày con người đói khổ y. tht ngc
nhiên, khi nói v ước vng tương lại, nim tin vào hnh phúc, vào cuộc đi
ngưi ta d nghĩ đến tui tr nTràng ngưi v nhưng Kim Lân li khám
phá ra một nét đẹp độc đáo vô cùng: tình cảm, ước vng cuộc đời lại được tp
trung miêu t khá kĩ ở nhân vt bà c T.
Đến nhân vt này, Kim Lân t bút pháp miêu t tâm nhân vt. c T
đến gia câu chuyn mi xut hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vt này, tác phm
s không chiu sâu nhân bản. Đt nhân vt c T vào trong tác phm,
Kim Lân đã cho chúng ta thấy hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói.
Bao gi cũng thế, các nhà văn muốn nhân vt ni bt tính ca mình thường
đặt nhân vt y vào tình thế căng thẳng. đó nhiên phải s đấu tranh
không ngng không nhng gia các nhân vật độc đáo hơn ngay trong
chính ni tâm ca mi nhân vt y. Bà c T là một điển hình.
Vic Tràng ly v đã gây một chấn động ln trong tâm thức người m nghèo
vốn thương con y. ngc nhiên ng ngàng trước s xut hin ca một người
đàn trong nhà mình lâu nay l chưa bao gi nghĩ đến. Hết ng
ngàng, ngc nhiên c đã “cúi đầu nín lặng”. Cử ch, hành động y cht cha
bao tâm trạng. Đó sự đan xen lẫn ln gia ni ti cc, ni lo nim vui ni
bun c hoà ln vào nhau khiến thật căng thẳng. Sau khi thu hiu mọi điều
bà nhìn cô con dâu đang “vân vê tà áo rách bt bạt” mà lòng đầy xót thương. Bà
thiết nghĩ “người ta gặp bước khó khăn này, người ta mi lấy đến con mình,
con mình mi vợ”. thật xúc động, c đã nói, chỉ mt câu thôi
nhưng sâu xa ý nghĩa cùng “Thôi, chúng mày đã phi duyên phi kiếp
với nhau thì u cũng mừng lòng”.
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sng ca bà s ra sao khi mình đang
ngấp nghé trước vc thm ca cái chết. Nhưng trong tâm thức ngưi m nghèo
ấy, đói khổ kng phi mt vt cn lớn. Đói rét thật nhưng trong lòng c
vn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. thương con, thương dâu và
thương cho chính bản thân mình. c T t nhng ni lo, ni ti cc v gia
cnh vn không ngng bùng cháy lên ngn la của tình người. đang dang
tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vn ngm
cha mt sc sng tht mãnh lit. Chính ngưi m nghèo kh y, ngn la
của tình người, tình thương yêu nhân loi bùng cháy mnh m nht. Trong bóng
ti của đói nghèo đang hùng h vây quanh, bà lão vn gieo vào lòng nhng con
mình nim tin v cuc sng. Bà nhắc đến vic Tràng nên chun b mt cái phên
nuôi gà, ri việc sinh con đ cái, bà lão nói toàn chuyn vui trong bữa cơm ngày
đói thật thm hại. đã đón nhn hnh phúc của các con để t i m lòng
mình.
Đặc bit chi tiết ni cám cui thiên truyn th hin khá ánh sáng ca tình
ngưi. Ni chè cám nghn b c đắng chát y li là món quà ca mt tm
lòng đôn hu cht chứa yêu thương. Bà lão “lễ mễ” bưng nồi ch và vui v gii
thiệu “Chè khoán đấy. Ngon đáo để cơ”. đây nụ ời đan xen lẫn ngước mt.
Bữa cơm gia đình ngày đói cui thiên truyn không khi làm chnh lòng
chúng ta, mt nỗi xót thương cay đắng cho s phn ca h song cũng dung chứa
mt s cm phc ln lao những con người bình thường mà đáng quý.
Kim Lân bng ngh thut viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến mt ch đề
mới trong đề tài v nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người tht
thành công ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trng nht chính là v đẹp ca
tình người và nim hi vng vào cuc sng mt cách mnh m nht nhưng thân
phận đói nghèo, thảm hi kia. Ba nhân vt: Tràng, v Tràng c T cùng
nhng tình cm, l sống cao đẹp ca h chính những điếm áng Kim Lân
từng trăn trở trong thời gian dài đ th hiện sao cho độc đáo một đ tài tâm
nhân vt, kh năng dựng truyn và dn truyn ca Kim Lân - một nhà văn được
đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì l đó.
“Cái đẹp cu vớt con người” (Đôxtôiepki). Vâng Vợ nht của nhà văn Kim Lân
th hin rõ sc mnh kì diu y. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuc
sng con ngun mch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã đóng
góp cho văn học Vit Nam nói chung, v đề tài nạn đói nói riêng một quan nim
mi v lòng người tình người. Đọc xong thiên truyn, du nhn mnh m
nht trong tâm hồn người đọc chính là điểm sáng tuyt vi nht.
Phân tích truyn ngn V nht - Bài s 7
Văn học chính là lăng kính chủ quan, phn ánh hin thc mt cách khách quan,
chính xác nht. Bi vậy nhà văn Kim Lân đã dùng ngòi bút của mình để
phác ha thành công bc tranh cuc sng, sinh hot ca người nông dân trong
nạn đói năm t Du qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Nhà văn đã đem vào thiên truyn
ca mình một điểm sáng mới, đó là nim tin, nim hi vng vào một tương lai tốt
đẹp dù hin tại có khó khăn đến nhường nào.
Kim Lân là nhà văn s trường v truyn ngn, ngòi bút ca ông tht sc so
khi tp trung miêu t nhng phong tc tập quán và đời sng làng quê vi nhng
“thú vui đồng quê hay phong lưu đồng ruộng”. “Vợ nhặt” tác phẩm xut sc
đưc in trong tập “Con chó xấu xí” của nhà văn, viết v người nông dân trong
tình cnh thê thm ca nạn đói với bn cht tốt đẹp, lương thiện. Bng kh năng
sáng to của mình, nhà văn đã thành công ngh thut miêu t tâm nhân vt
hàng lot các bin pháp ngh thuật đặc sc khác khi xây dng nhân vt ca
mình.
Ngay t nhan đề ca tác phẩm, nhà văn đã đ li chúng ta những điu
mi m v cuc sng ca những con người bần hàn trong cái đói tưởng chng
như thảm ha. Với Kim Lân, “nhặt” một hành động thu lượm nhng th rơi
vãi ới đất, nhng vt giá tr không cao. Thế nhưng đây, hành đng y
lại được gn lin vi hình nh của người vợ”. Đó chính là sự trân trng ca tác
gi đối vi nhân vt ca mình bi người v luôn mt v trí quan trng trong
gia đình. Thế nhưng trong hoàn cnh này, thân phn của con người li r rúng
hơn bao giờ hết, ch cần vài câu nói bông đùa của anh cu Tràng người ph
n đó đã theo không Tràng v ntr thành người “vợ nhặt”. Tt c nhng
điều đó đã làm nên một nhan đề độc đáo, gây ấn tượng mnh, th hin thm
cnh của người dân trong nạn đói năm 1945, bộc l s cưu mang, khát vọng
sng, và nim tin của con người trong cnh khn cùng.
Ch đề ca tác phm không ch đưc th hin nhan đề còn được th
hin thông qua tình hung truyện. nhà văn đã từng nói: “Tình huống truyn
chính th c ra ảnh để thông qua đó nhân vật ni hình ni mảng”. Tình
hung truyn là ngh thut sp xếp, t chc các chi tiết, s kin trong tác phm,
qua đó bộc l tính cách, s phn nhân vt góp phn th hiện tưởng, ch đề
ca tác phm. Truyn ngắn “Vợ nhặt” đã đem đến cho chúng ta mt tình hung
truyn va éo le, li vừa bi hài. “Vợ nhặt” được bắt đầu thời điểm cái đói
tác gi gi him họa tràn đến. Trong không gian thê thm ca nạn đói, tình
hung Tràng ly v đã tạo nên khung cnh va bi va hài, ch my câu nói bông
đùa nào ng lấy được v tht. Tràng xu trai li ng nghch, nay li
ngưi theo v cho ta thy nghch cnh không biết nên cười hay nên khóc. Tình
hung truyện éo le trên đã cho ta thy tính nhân bn tình cảm nhân đạo ca
tác phm. Hoàn cảnh đã làm thay đổi con người, t cáo chế độ thc dân phong
kiến đã đẩy con người vào bước đường cùng.
M đầu tác phẩm, nvăn đã phác họa nhân vật anh cu Tràng cũng nhân vật
chính ca phẩm được xut hin gia một không gian đầy u ám, t khí vì “người
chết như ngả rạ”, “không khí vn lên mùi m thi của rác rưởi mùi gây ca
xác người chết”. Tràng một người nông dân cuc sng nghèo kh nhưng
lại tính thương người, luôn khao khát mt mái ấm gia đình luôn hi
vng vào một tương lai tươi sáng.
Anh cu Tràng một người nông dân cuc sng nghèo kh đưc th hin
ngay cái tên gi mà tác gi đặt cho. Tràng không ti nghiệp đến mc không có
mt cái tên thế nhưng cái tên Tràng li gợi lên bao điều lam lũ, khó nhc bởi đó
cũng tên của mt dng c lao động. Tràng không đến mc quá tiu ty thế
nhưng lại được hóa công gt đẽo rất sài: “Hai con mắt đắm vào bóng
chiều”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, “bộ mt thô kệch”, “cái đầu trc nhẵn”, “cái
lưng to rộng”. Qua cách miêu t ca Kim Lân, ta thy Tràng kết tinh được cái
phn t nhiên, hoang di của con người. Tràng hay “ngửa mt lên trời cười hnh
hệch”, “vừa đi va nói nhảm”, trở thành đối tượng bông đùa của những đứa tr
xóm ng cư”, tính tình thì “ngộc nghệch”. Hoàn cảnh sng của Tràng cũng
chẳng dư dả gì. Nơi ở là “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mc ln
nhn nhng búi c dại”, “những niêu bát, xng áo vt ba bn c trên giường,
ới đất”. Những chi tiết ấy đã cho thy cuc sng thiếu thn, nghèo kh ca
hai m con Tràng.
Ông cha ta đã dạy ta đừng nên “nhìn mt bắt hình dong” thật đúng như vậy.
Tuy Tràng v b ngoài thô kch, tính tình ngc nghch thế nng n sâu
trong tâm hn Tràng vn chứa đựng biết bao ht ngc ca tâm hn. Tràng
ngưi nhân hậu giàu tình thương người. Thấy người đàn bà đói, Tràng đã
cho ăn “một chp bốn bát bánh đúc” bi anh không nhn tâm t chối khi ngưi
ta quá đói. Đó một vic làm thật đáng quý, thể hin truyn thống “thương
người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách” của dân tộc ta. Khi ngưi v
nht quyết theo Tràng, đây không phải ch tâm ca Tng tìm v thc tế,
Tràng ly v lòng thương ngưi, vì một con người còn đói khát hơn c mình.
Bên cnh tm lòng nhân hậu, Tràng còn người luôn khát khao hnh phúc gia
đình, hnh phúc lứa đôi. Tràng ý thức chăm sóc người ph n ca mình:
“Hôm y hắn đưa thị xe v ri mua hai hào dầu để thp sáng ngôi nhà lnh
lẽo”. Nhng việc làm đó đã chng t Tràng rt trân trng v mình. Tràng tht
s sung sướng và hạnh phúc khi có ngưi v nht.
Đi bên cạnh người v “rách như t đỉa”, Tràng không thấy xu h còn rt
“phớn phở”. V mt y chính s xúc động ca nhân vật trước tình hung éo
le nhặt được vợ. Không gian trên đường rước dâu ảm đạm thê lương nhưng
nim vui của Tràng đã lấn át đi tất c. Anh mun làm cho v mình đưc vui,
“có lúc muốn thân mật nhưng không dám xuồng xã, mun bày t tình cm vi
v nhưng lại lúng ta ng túng, tay n xoa vào tay kia”. Tràng nâng niu, trân
trng hnh phúc mình được: “Trong một lúc, Tràng ng như quên hết
cnh sng ê chề, tăm tối hàng ngày, quên c cái đói khát ghê gm đang đe dọa”.
“Tràng cảm nhn thy cái mi mẻ, mơn man khắp da thịt Tràng”. Đó chính
hin din ca tình yêu, nim hạnh phúc Tràng đang khao khát. Đêm buông
xung, hnh phúc ca v chồng Tràng đưc bao bc bi bóng ti, bi âm thanh
tiếng hn khóc t tê t nhng gia đình có ngưi chết đói. Tràng vn cm thy s
kin mình v quan trng cần nâng niu hơn cái đói đang hoành hành.
Nhà thêm người mới, Tràng đã thắp đèn lên cho sáng sủa, để xua tan đi cái
ti, cái thê thm ca ca nhng kiếp người leo lét. Ngọn đèn dầu sáng lên chính
hin thân cho khát vng sống, ánh sáng để đấu tranh vi bóng ti, gi gìn
s sống để đấu tranh vi cái chết. Phải chăng, tình yêu là vũ khí lợi hại để có th
khiến Tràng thay đổi hoàn toàn vào buổi sáng ngày hôm sau. Trước đây, Tràng
sống dường như không quan tâm đến mình, sng tm b cho qua ngày, không
ý thc chun b cho ngày mai. K t khi v, tâm anh khác hẳn: “Cnh
ng thật đơn giản nhưng đối vi hn tht thm thía và cm động”. Tất c đưc
Tràng nhìn bng ánh sáng mi, bng con mt mi, bng trái tim ca mt con
người đang hạnh phúc, đang yêu và đang được yêu. Hạnh phúc đã đem đến cho
Tràng ý thức làm người, “Tràng thấy mình nên người t khi có v”.
Trước đây, anh tâm tính, gi ý thc v bn phn của mình hơn, mình
cn trách nhim với gia đình này. Hình nh của Tràng trong ngôi nhà đm
m, a hp khiến cho ai cũng thay đi. c T tr nên tươi tnh khác hn
ngày thường, người v nhặt đúng mực người v hin, dâu thảo, Tràng đã nên
ngưi và làm ni bt v đẹp ca hnh phúc. Dù hin tại có đói khổ nhưng Tràng
vn luôn gi mt nim lạc quan, yêu đời, luôn tin vào tương lai tươi sáng. Trong
bữa ăn, chỉ mi nồi cháo cám chát đắng, Kim Lân đã đ cho nhân vt bàn tán
v vic Vit minh phá kho thóc ca Nhật chia cho người đói. Trong tâm t
Tràng lúc by gi hin lên hình ảnh đám người đói lá cờ c sao vàng đang
php phi tung bay trên nn tri xanh thẳm. Tràng nghĩ đến ánh sáng, nghĩ đến
nim vui, niềm tin đổi đời vào cách mng. Tràng có cm giác nui tiếc khi mình
tránh đi con đưng khác, ý thc hi hận khi không hòa mình vào đám người đói
theo Việt minh, điều đó cho thấy ước vươn lên đ đổi đời gn lin vi khát
vng sng của người nông dân Việt Nam đương thời.
Trong ba nhân vật, người v nht là nhân vật được nói đến ít nht. Thc ra, nếu
không nhân vật người “vợ nhặt” thì nội dung ngh thut ca tác phm b
ảnh hưởng rt nhiu bi đây nhân vt làm nên giá tr nội dung tưởng
ca tác phm, vai trò quyết định đến s nh thành các hình thc ngh thut
khác. Người v nht mt nhân vt không tên gi, lai lch, gc gác, ngoi
hình tiu tụy nhưng là một người v đúng mực, một người con dâu hiếu tho và
là người đem đến nim vui, nim lc quan cho mọi người.
Ngưi v nht là mt nhân vật đặc bit, nhân vật này không có tên, được gi
“thị”, “người đàn bà”, “người con dâu”. Đây cách gi khiến cho tính khái
quát ngày càng rng. Ta hiu thi by gi không ch mt muôn vàn
người đàn cùng rơi vào cnh ng đáng thương như thế. V lai lch, gc gác,
người đàn cũng chẳng được gii thiu c thể, cũng chng ai biết th đến t
đâu, chỉ biết rng ch “ngồi vêu ra ca kho, nht hạt rơi, hạt vãi hay ai có vic
gọi đến tlàm”. Người v nhặt không quê hương, không quá kh,
hin thân cho mt kiếp người lênh đênh, trôi dạt trong thm họa đói khát, không
lưu giữ đưc mt chút gì v s tn ti ca bn thân mình.
Ngoi hình ca th đưc tác gi miêu t rt t mỉ: “Cái nón rách tàng nghiêng
nghiêng che mất đi nửa mặt”. Khi tác giả quay ngược tr li thi gian ln gp
th hai ca th vi Tràng, ta thy th giống như bao kẻ đói khát khác: “Hôm nay
trông th rách quá, áo qun t tơi như tổ đa, th gy sp hẳn đi, trên cái gương
mặt lưỡi cày xám xt ch còn thy hai con mắt”. Ngoại hình ca th trông rt tiu
ty, th là hin thân ca những con người bần cùng đói phát phải “tha hương cầu
thực”, “tối đâu nhà, ngã đâu giường” (Nguyễn Khi). Vi nhng chi tiết
miêu t ngoại hình trên, nhà văn Kim Lân đã cho người đọc thấy người ph này
đã phải chịu đói nhiều ngày, s đói khát cùng đường làm cho ch mt hết đi nét
n tính vốn có. Điệu b th “chao chát, chỏng lỏn”, lần đầu giữa lúc đang nhàn
ri nghe câu hò buông ra ca Tràng và nhng li trêu gho ca bạn bè nhưng
đói chị đã “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng- một người đàn ông mà chị không
h quen biết. Th đùa giỡn vi anh, liếc mắt cười tít đ to thin cm vi Tràng,
như vậy th nói duyên, trơ trẽn nhưng chị vẫn đy xe cho Tràng
chưa được ăn “cơm trắng với giò” như lời Tràng đã hứa.
Ln khác gp li Tràng, ch xưng xỉa trách móc “điêu, người thế điêu” làm
cho Tràng không hiu gì c. Nhng li thoi ấy đã chứng t ngưi ph n đã cố
ý lái câu chuyện đ th hin mục đích được ăn cơm. Phải chăng s đói khát
đường cùng đã khiến ch thành k táo tợn, trơ trẽn, không cn gi danh d, ch
biết biến lời nói đùa thành s thật đ được ăn “cơm trắng với giò”. Khi được
Tràng mời ăn, “hai con mắt trũng hoáy của th tức thì sáng lên”, “th ngi
xuống ăn thật, th cắm đầu ăn một chp bốn bát bánh đúc liền chng chuyn trò
gì, ăn xong th cm dọc đôi đũa qut ngang miệng”. Chính cái đói, cái khát đã
th thách nhân cách của người ph n tht ghê gm. Nạn đói năm t Dậu như
một cơn lũ khủng khiếp cuốn phăng đi tất cả. Vì đói, người ph n ấy đã đẩy lùi
diện, không lo danh dự, nhà văn không sa vào chủ nghĩa t nhiên, không chê
bai giu ct nhân vật mà nhà văn muốn ta hiu mt thc tế rng miếng ăn trong
cái đói que quắt nhiu khi thúc bách khiến h quên đi cả ý tứ, không còn sĩ din
na, bản năng sinh tồn đã vượt lên trên tt c. Liều lĩnh hơn khi chị chp nhn
theo không Tng v làm v. Vì một câu nói đùa, người v nht biến li r
thành li cu hôn chính thc, biến tt c đùa thành thật, th theo không Tràng v
nhà không h biết gia cnh, tính tình của người đàn ông y. Th đã t h
thp giá tr của mình đến r rúng như nhng vt không giá tr b vt ngoài
đưng.
Tác phẩm đã thể hiện được v đẹp tâm hn của người ph n b cái đói đe dọa,
th tiêu, tha hóa nhưng trong th vn ánh lên nhng phm cht tốt đẹp ca lòng
ham sng mãnh lit, khát khao hạnh phúc gia đình, ý t, hin hậu đúng mc và
luôn lạc quan tin tưởng. Người v nht mang mt v đẹp n tính dịu dàng đúng
mc k t khi theo không Tràng v nhà. Trên đường về, có lúc người v nhặt đã
trách chng b ra hai hào đ mua du thắp “hoang va chứ”. Lời trách móc
y th hin ý thức gia đình, vun vén cuộc sng hôn nhân, bi vy, th đúng
một người v thc sự. Cùng Tràng trên đường v nhà, th cp cái thúng e thn,
bn tính n tính đã trở li. Qua mt vài chi tiết miêu t, ta thy tâm tình ca
ngưi ph n này đang dn tr li. Th lng lng nén tiếng th dài khi nhìn thy
căn nhà lụp xp của Tng, đó thái đ chp nhận dường như ch nghĩ rằng
mình không nên hỏi điều nữa. Khi vào đến nhà, th “ngồi mm mép
giường”, đây là tư thế e thn, ngi ngùng, có chút rt rè, lo âu của người con i
lần đầu tiên bước v nhà chng trong tình hung bt lợi. Nhà văn thật tinh tế khi
miêu t đưc c ch ngưi ph n “tay ôm khư khư cái thúng, mặt bn thn”.
Nét mt chứa đựng biết bao ngổn ngang, suy nghĩ e ngại, xót xa, ti cc cho s
phn ca mình. Thế nhưng, người “vợ nhặt” ấy đã vượt lên trên hoàn cảnh để
th hin khát vng sng, th hin bn phn làm v, làm con dâu ca mình.
Trong đêm tân hôn, thị có nhng c ch rt dí dỏm “ủng vào trán Tràng”, cử ch
đó thể hin tình cảm yêu thương ca th dành cho Tràng. Sáng hôm sau, ch
dy sớm làm đủ mi việc như một người v hin tn tảo, đảm đang. Chị cùng
vi c T “dn dp nhà cửa, quét tước sân vườn sch sẽ”, người ph n
“chao chát chỏng lỏn” ấy đã thay đổi đến mức chính Tràng cũng phi ngc
nhiên “Tràng nom thị hôm nay khác lm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng
mc không còn v chao chát chng lỏn như mấy ln Tràng gp ngoài tỉnh”.
Ngưi v nhặt là người lc quan luôn đem đến nim vui cho mọi người. Đối vi
ngưi dân xóm ng cư, người v nhặt đem đến cho h nim tin vào s đổi thay.
Đối vi c Tứ, người “vợ nhặt” đã đem đến cho nim an i, nim hnh
phúc ln lao cái tui gần đất xa tri. c T vui mng khi thy con cái
trưởng thành, con trai mình đã v lại nghĩ đến tương lai con cháu mình
sau này. Đối với Tràng, người “vợ nhặt” đem đến nim hnh phúc thc s cho
Tràng.
Khi mái ấm gia đình, Tràng thc s thay đổi t một người đàn ông thô kệch
vng v tr thành người ý thc, trách nhim với gia đình. Chính thị
người đầu tiên k cho c nhà nghe truyn trên mn Thái Nguyên, Bc Giang.
Ch làm ny sinh trong Tràng hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc, lá c đỏ
tung bay php phi, gi lên trong Tràng nhng khao khát v s đổi đời.
Người “vợ nhặt” đã được nhà văn khc họa độc đáo vic chú trng khc ha
hành động, c ch, nét mt ca nhân vật để người đọc hiểu được tâm ngưi
ph n. Thân phận người ph n y có r rúng, nhưng thị vn rt mc lc quan,
yêu đời.
Để nói v đức hi sinh, yêu thương con b bến, nhà văn đã phác họa thành
công chân dung hình nh c T hiu biết rt mực thương con. Người ph
n nghèo kh ấy đã nhng thay đổi tâm trng phc tp khi thy con mình
“nhặt” được v. Tâm trạng thay đi t ngạc nhiên đến vui mng ri lo lng,
ti h nhưng cũng vẫn rt lạc quan trước s phn.
Bà c T là một người ph n nghèo kh. Bà xut hin vi dáng v lng khng,
gy gò, m yếu. Cnh ng nom thật đáng thương, lão nghèo kh, già nua li
đơn chồng con gái đã ra đi mãi mãi. Đa con trai ln tuổi nhưng
nghèo kh, thô kch lại người dân xóm ng nên chẳng ly được v. Cuc
đời c T thật đáng thương, gia cảnh li bn thuc hạng cùng đinh trong
xóm ng cư. Ở cái độ tui gần đất xa trời này, bà cũng chẳng mong gì nhiu, ch
mong cho con mình nên người và có mt cuc sng hnh phúc.
S xut hin của người v nhặt đã khiến cho din biến tâm trng ca c T
din ra phc tp. ngc nhiên khi thấy Tràng reo lên như một đa tr vn
chào mời khác thường “bà lão phấp phỏm bước theo con đến gia sân lão
sng li càng ngạc nhiên hơn”. Trong bối cảnh đói khát, bà cụ đã không tin rằng
con mình lấy được v. ngạc nhiên trước cnh mt gái l xut hin trong
nhà mình. Kim Lân đã s dng ngh thuật độc thoi nội tâm đ chng t lão
rt ngc nhiên. t hỏi “quái sao lại người đàn nào trong y nh?
Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thng con trai mình thế kia? Sao li
chào mình bng u? Ai thế nhỉ?”. Sự ngạc nhiên đến ni không tin vào mt
mình khi thấy người l trong n“bà lão hp háy cp mắt cho đ nhoèn t
dưng thấy mt mình nhoèn ra thì phải”. Trái tim của người m luôn nhy
cm v chuyện riêng ca con cái c chuyn dng v g chồng nhưng
đây, bà cụ T lại ngơ ngác quá lâu vì không tin vào mt mình.
Tâm trng ngc nhiên ca c T đã thể hin tình hung truyn l, éo le,
cảm động gia lúc nạn đói đang hoành hành, những người nghèo kh như mẹ
con c T đến nuôi thân còn kng xong Tràng còn dám nuôi thêm mt
miệng ăn. Tâm trng ngc nhiên y còn l thân phận con người trong cuc
sống nghèo đói, phi sng trong mc cm, không làm tròn bn phn ca
ngưi mẹ, không lo được cho con, cũng nghèo nên con không lấy được v.
Có chút ngạc nhiên nhưng bà cũng rất vui mng khi con mình lấy được v. Vi
gia cảnh nghèo đói thuộc hạng cùng đinh, con trai mình lại người thô kch,
tính tình thì ngc nghch nay bỗng dưng người theo không con mình v làm
v nên cũng thấy ấm lòng hơn. Người m nghèo y rt mực thương con, do
vy li cm thy ti lo lng khi nghĩ về tương lai. Khi Tràng v
cũng rất vui nhưng trong lòng li trào lên nỗi xót thương cho s kiếp đa con
mình. hiu ra tình cnh khn kh của con gia đình mình. Con ly v
giữa lúc cái đói tràn đến xóm ng như một him ha. Cuc sng bp bênh,
khốn khó hơn bao gi hết, thương con lại thương mình, cụ “trong kẽ mt
kèm nhèm ca bà r xuống hai dòng nước mắt”.
t qua mi nghi l thông thường, c đã chấp nhận người đàn bà xa lạ làm
con dâu trước nỗi lo cho tương lai, gia đình các con. lo cho các con
nhng ngày hin tại chênh vênh. Lòng lão đy nhng ám nh ca quá kh
vn nặng trĩu đắng cay. ngi thấy “mùi đốt đống rm những nhà người
chết theo gió thong vào khét kẹt”. Rồi bà nghĩ đến ông lão, đến đa con gái út
đã mất, nghĩ đến cuộc đi cc kh ca mình. lo cho v chng Tràng ly
nhau không biết có qua khi nạn đói này không. Tâm trng ca bà c T din ra
cùng phc tp, vừa ai oán xót thương, lo lng bun tủi đan xen với nhng
xáo trộn trong lòng. Cũng như nhân vật anh cu Tng, ngườivợ nhặt” bà cụ T
cũng luôn vững tin vào một tương lai tốt đẹp hơn. Trong ý ngbà cùng vui vi
triết gin d sâu sắc: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, niềm vui gin d thc tế
ấy được xut phát t kinh nghim của người dân lao động, được đúc rút từ bao
đời nay. Suy nghĩ đó được bc l t ý chí vươn lên, vượt qua hoàn cnh khó
khăn ca c Tứ. nghĩ như vy nên nói v tương lai, trong buổi sáng
ngày hôm sau, toàn nói chuyn vui, chuyện sung sướng sau này. nói v
tương lai thiết thc của nhân dân lao động, t vic nuôi gà và mt cuc sng
yên bình, m no.
Sáng ngày hôm sau, người m nghèo ấy đã thắp lên đốm la của tình người, ca
nim tin hi vọng qua các hành đng c thể: “Bà cùng con dâu thu xếp nhà
ca, quét dọn sân vườn cho sch sẽ”, việc làm ấy được xut phát t nim tin,
nim hi vng mang tâm lí của người lao động: “Nhà cửa gn gàng, ngay ngn
thì may mn s tới”. một sáng kiến bt ng đó bổ sung mt nồi “cháo
cám” vào bữa ăn ngày đói như một bữa ăn mừng nhân ngày con trai lấy được v.
Ngưi m tươi cười đon đả lng l khen ngon, dù miếng cháo cám có chát đắng
trong khóe miệng nhưng vn thốt lên răng “ngon đáo để”. Điều đó toát lên
tinh thn của người m chp nhn s phn vi nim vui nim hnh phúc
đong đầy. Hình ảnh “nồi cháo cám” ấy còn là hin thân của tình thương yêu mà
ngưi m dành cho các con. Nhà văn đã chọn “nồi cháo cám” để làm sáng lên
chất người khi nim vui, nim hnh phúc ca h đang dần b ngui tắt trước thế
lc của cái đói. Chi tiết y tái hiện cái đói năm 1945 mt cách chân thc nht,
con người phải ăn c thức ăn của động vật để cm cự, đấu tranh vi cái chết gn
k. Tuy c T ch xut hin trong mt khonh khc ca chiều hôm trưc
sáng hôm sau khi con mình dắt người “vợ nhặt” về trình din với bà nhưng nhà
văn đã đem đến cho người đọc mt nhân vt có chiu dài cuộc đi chiu sâu
tâm vi nhng am hiu sâu sc. c T chính điển hình cho hình nh
ngưi m nông dân nghèo kh, tng tri, hiu biết, nhân hu, bao dung rt
mực thương con.
Bằng tài năng của mình vi mt phong cách ngh thut riêng biệt, nhà văn Kim
Lân đã đem đến cho chúng ta mt thiên truyện “Vợ nhặt”. Ngay từ nhan đ độc
đáo của tác phẩm đã lộ cho chúng ta biết mt tình hung truyện đầy đặc sc
nhưng lại hết sc éo le. Ngh thut miêu t tâm nhân vt tinh tế sâu sc,
Tràng được miêu t rt thc tế v tâm lí, người “vợ nhặt” tâm lí hiện lên rt sinh
động còn c T thì tâm lí din ra phc tp. Ngh thut trn thut mi m,
ngôi k theo cách truyn thng ngôi k th ba, đim nhìn trn thut luôn luôn
di chuyển, nhà văn đã đ cho nhân vt t dn dt tiến trình ca truyn. Ging
điu hóm hỉnh, đôn hậu. Ngôn ng mc mc, gin d, nôm na. Xut hin nhiu
chi tiết đặc sc: Chi tiết “bát bánh đúc” cho thy s đói khổ th làm thay đổi
nhân cách con ngưi. Chi tiết “nồi cháo cám” cho thấy tình thương bao la của
ngưi m và tái hin s thật đói khát đến mc chng còn gì để ăn. Chi tiết “lá cờ
đỏ sao vàng” tung bay php phi cho thy nim tin của con ngưi vào cuc
sng, khát vng mt cuc sng m no nim tin vào cách mng của người
nông dân lúc by gi. Tt c những đặc sc ngh thuật trên đã to nên mt
phong cách ngh thut riêng bit ca Kim Lân vi s trường truyn ngn này.
Qua tác phm, ta thấy được giá tr nhân đạo giá tr hin thực được th hin
mt cách sâu sc. giá tr nhân đạo, nhà văn đã dng lại được bc tranh hin
thực đương thời con người trong nạn đói năm t Dậu. Nhà văn trân trọng
cảm thông trước nhng s phn b thảm, trước những ước mơ, những khao khát
v hạnh phúc gia đình của người nông dân. Bên cạnh đó, nhà văn đã phát hiện
khẳng định được v đẹp của con người, v đẹp của tình người trong cơn lốc
ca s đói nghèo. cuối cùng, nhà văn đã ch ra con đường cách mng cho
ngưi nông dân, chtheo cách mạng thì con ngưi mi th giành lại được
cuc sng ấm no yên bình. Đi vi giá tr hin thực, nhà văn đã tái hiện được
mt thc trng bi thm ca chế độ Việt Nam trưc cách mạng. Kim lân đã chn
mt s kin lch s thật để làm ch đề cho tác phm ca mình. M đầu tác
phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc ti bi cnh ca mt min quê trong nhng
ngày đói, bóng dáng con người toàn chết chóc, thê lương, những bóng người
“đi chiếu, dt díu nhau lên xanh xám như nhng bóng ma, nm ngn ngang
khp lu chợ”, “người chết như ng rạ”, “không khí vẩn lên mùi m thi ca c
i mùi gây của xác người”. Hiện thc cho thy miền quê đó trong nhng
ngày đói vô cùng xơ xác, heo hút. Nhng chi tiết đó đã cho thấy cái đói tràn lan
như một nn dịch. Nhà văn đã phn ánh chân thc s phn cùng qun ca con
ngưi trong nn đói. Kim Lân đã ng ngòi bút vào vic khc ha s phn
cùng qun của con người trong nạn đói qua hình tượng người v nht. Nhân vt
Tràng, c T những con người nghèo khổ, đáng thương. Truyện đã phản
ánh thm cnh của con người trong nạn đói số phn cùng qun ca h
trước thm cảnh. Nhà văn đã phn ánh hin thực bản đó lòng người dân
ng ti cách mng. hin thc này ch nói thoáng qua đon cui ca tác
phẩm nhưng khiến cho ta nghĩ ti s thay đi hin thc cuc sống, đó cuộc
sng m no hnh phúc.
Bng tt c tình yêu thương, sự đồng cảm, nhà văn Kim Lân đã tạo nên s thành
công trong s nghiệp làm văn của mình qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Nhà văn đã để
li cho chúng ta nhng bài hc v tình yêu thương, đùm bc gia nhng con
ngưi cùng chung dòng máu Vit mt tinh thn lạc quan, yêu đời, hướng ti
cách mạng. Nhà văn đã ngi ca truyn thống “tương thân tương ái” quý báu ca
dân tc Việt Nam ta. đc bit trong bi cnh hi nhp của đất nước ta hin
nay, thế h tr chúng ta cn gi vng quan điểm “hòa nhập nhưng không hòa
tan” và phát huy những truyn thng tốt đẹp ca dân tc.
Qua tác phẩm “Vợ nhặt” nhà văn Kim Lân đã đ li du ấn đc bit trong lòng
người đọc. Nhà văn đã tái hiện thành công bi cnh nạn đói năm 1945 qua các
nhân vật Tràng, người v nht, bà c T vi mt nim tin yêu, luôn hi vng vào
một ngày mai tươi sáng.
Phân tích tác phm V nht - Bài s 8
Cùng vi Ngô Tt Tố, Trng Phng, Nam Cao, Nguyn Công Hoan,... Kim
Lân cũng là một trong s nhng cái tên ni tiếng ca nền văn học hin thc Vit
Nam khi viết v đề tài người nông dân trước cách mng tháng Tám, vi ngòi
bút sâu sc và cái nhìn thu hiu. Tuy nhiên khác vi ngòi bút phê phán và tiếng
i sâu cay của Trọng Phng hay Nguyn Công Hoan, khác vi s lnh
lùng, đau đớn tng câu văn của Nam Cao. Các tác phm ca Kim Lân không
ch tp trung vào vic phn ánh hin thc xã hội đương thời hay nhng nỗi đau
thân phn, tác gi dựa vào đó để làm ni bt nhng giá tr nhân văn, v đẹp
tâm hn nhân vt, bc l sc mạnh, ý nghĩa của nhng tình cảm cao quý như
tình thân, tình yêu, th làm thay đổi con người cuc sng ca h du trong
nhng hoàn cnh khn cùng nhất. Đời sáng tác ca Kim Lân ngn, ông
không để li nhiu tác phẩm, trong đó nổi tiếng nht phi k đến V nht, mt
tác phm tiêu biểu, đặc trưng cho khuynh hướng sáng tác ca tác gi.
Truyn ngn V nht din ra trong bi cảnh khá đc bit - nạn đói cuối năm
1944 - đầu năm 1945, chỉ trong vòng vài tháng khiến hơn hai triệu đng ta t
Bc K đến Qung Tr chu chết đói, cái ám nh kinh hoàng ấy được Nam Cao
viết trong Đôi mt rằng “có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vn còn k li
cho nhau nghe để rùng mình”. Trong tác phm Kim Lân không dùng nhng t
ng quá nng n, gay gt, không tiếng chi bi, hay nhng s kin nào kch tính
để t li vin cnh khng khiếp ca nạn đói. Tuy nhiên ông vn lt t đưc
cái tiêu điều, thê thm ca mt xóm ng trong giai đoạn đau thương nhất ca
lch s dân tc, bng những câu văn nhẹ nhàng, nhưng rất thấm thía. Đó cái
cnh những người dân tản cư, dìu dắt, bng bế nhau la lit khắp nơi, bộ dng thê
thm, tàn tạ, người ngợm “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khp lu chợ”,
không gian bao trùm bi s chết chóc vi cảnh “người chết như ngả rạ”, “không
khí vn lên mùi m thi của rác rưởi i gây ca xác người”. n lnh, ám
nh vi cảnh “bóng người đói dt d lng l đi lại như bóng ma”, ng với
“tiếng qu trên my cây go ngoài bãi ch c gào lên tng hi khng khiếp”
như tiếng gi ca t thần, còn con người thì đang bước dn từng bước chm rãi
đến nghĩa địa, tuyt vng bt lc, những con ngưi ấy dường như đã nhìn
thấy trước cái chết ca mình, thậm chí “khó ai thể tin mình sng nổi”. Đó
mt khung cảnh đầy bi thương ám ảnh, được Kim Lân tái hin li trong các
dòng văn xen k, ông không tp trung làm ni bt nó, ch chm phá trong
một vài câu văn khiến người ta cm giác cái chết hin din khắp nơi
dn tr thành l thường trong giai đon y. Không ai l cảnh người chết đói,
thnh thong li có một người ngã xuống, lúc đầu người ta còn có sức để đi chôn,
sau nhiu quá ch cun chiếu lại để đó, cuối cùng là không c chiếu để cun,
thê thm ghê s cùng. th thy rằng nhà văn Kim Lân không h
tránh hin thực, nhưng quan trọng hơn giá trị ca tác phm không nm ch
phơi bày giá trị hin thc mà là vic t trong bóng ti ca hin thc tác gi đã
tìm ra ánh sáng ca s sng, ánh sáng ca hy vng, ánh sáng của tình người, ca
nim tim toát lên t nhng con ngưi trong nạn đói y. Những con người đang
bám víu ly cái s sng mỏng manh, đang n lc sng sót, dù rng h cũng như
những người dân ng cư khác “khó ai có thể tin mình sng nổi” đó là Tràng, thị,
và bà c T.
Nhân vt Tràng mt nhân vật điển hình đi din cho những con người trong
nạn đói năm 44-45, lai lch ca anh chàng có th gói gn trong ba ch “dân ngụ
cư”, từ ba ch này đã nói lên rất nhiều điều. Tràng người mang s phn
tha hương cu thc, không th sng ni quê hương mình nên đành phi tìm
đến nơi khác kiếm kế sinh nhai, điều đó đem đến cho anh nhiu ni kh, s k
th, phân biệt đối x ca dân bản địa, dẫn đến việc anh không đưc chia rung
đất (vn là tài sn ln nht của người nông dân lúc by gi), vô cùng nghèo kh.
Không ch vy, dân ng cũng không được sng trong không gian làng xóm,
phi sng riêng bit rìa làng hoặc ngoài đê, đồng thời cũng không được
tham gia bt c mt sinh hot cộng đồng nào ca làng xã. Có th nói là vô cùng
đáng thương, thảm hại. Gia đình Tràng nghèo khó, m góa con côi da dm vào
nhau, làm ngh kéo xe thuê, công vic bp bênh không ổn định. Thêm na
Tràng li mt ngoi hình xu xí, vi những đường nét thô kệch được tác gi
như s gọt đẽo sài của tạo hóa “hai mắt nh gà đắm vào bóng chiu,
hai bên quai hàm bnh ra, thân hình to ln vp vạp” lại thêm cái tật “vừa đi vừa
lm nhm những điu mình nghĩ”, khi cười tthường nga mt lên tri
i hy hy. Chính ngoi hình xu l y Tràng ch sc hp dn vi
những đứa tr trong xóm, ch không lọt được vào mt xanh ca bt c cô gái tr
nào, điều đó dẫn ti vic Tràng chng th ly ni mt v. Sau nhng nét v
lai lch, ngoại hình để bc l tính cách nhân vt Tràng Kim Lân đã đt anh vào
mt s kiện mang tính bước ngoặt, cũng chính tình hung truyn - Tràng
“nhặt” được vợ. Đó khi Tràng đang đẩy xe bò, để cho đỡ mệt anh đã mấy
câu cho vui ming, ch cũng không chủ đích chòng ghẹo ai “Muốn ăn cơm
trng my giò, lại đây mà đẩy xe bò cùng anh”. Ai ngờ sau câu nói y, thì th li
ra đy xe cùng Tràng tht, rồi còn cưi tít mt vi anh, khiến anh vô cùng khoái
chí, nhưng tất c cũng chỉ dng li đó. Trong lần gp th hai, Tràng và th vn
chưa cái gi tình yêu ch s chia s, cm thông gia nhng
người đồng cnh ng, khi th sưng sỉa, cong cn vì miếng ăn thì Tràng sn sàng
giúp đỡ, đãi thị hẳn 4 bát bánh đúc th cũng chẳng ngi ngần ăn một
t không chuyn trò. Rồi cũng từ dăm ba câu chuyn trò và mt câu bông đùa
na của Tràng “Này theo t v thì ra khuân hàng lên xe ri cùng về” thị
theo Tràng, tr thành v ca Tràng tht, không cn mi lái, l hi, ch vi 4 bát
bánh đúc một câu đùa, hai con ngưi ấy đã trở thành v chng với nhau. Đó
là mt tình hung rt bt ng, bt ng vi c độc gi ln nhân vật Tràng, anh đã
v bng một phương thc rt k quái, n th thì tr thành một người v
“nhặt”. T s kiện Tràng “nhặt” vợ, nhân vt này nhiu din biến tâm trng
khác nhau. Trong bui chiều hôm trưc, trước khi dn v v nhà, Tràng vốn
xưa nay một người thô kch, cc mch thế li tr nên tinh tế, biết chăm
sóc người khác l kỳ. Thương vợ tàn t, rách nát quá, v nhà chng mà chng có
ngoài b đồ như tổ đỉa cái nón rách, Tràng đã dẫn th vào ch tnh mua
một cái thúng con đựng vài th đồ lt vặt để cho th đỡ tủi thân, đng thi dn
th di ăn một ba no nê thay cho tic mng cưới. Không ch vy Tràng còn mua
thêm hai hào du (vic làm vốn được gi hoang phí trong thi bui nạn đói
hoành hành), để v thp sáng nhà cửa, đón thị v làm dâu mới. Đó một cách
làm rt cảm động và đ tinh tế ca một người chng biết lo nghĩ, nhân hu.
Trên đường v Tràng t ra rất sung ng, phn khi cái nim vui trào ra
hin rõ lên khuôn mặt anh “Mặt hn có mt cái v gì đó phớn ph khác thường.
Hn tm tỉm cười n mt mình hai mt thì sáng lên lấp lánh”. Kim Lân còn
dùng một câu văn rất cảm động để din t tâm trng của anh lúc này “trong một
lúc Tràng như quên hết nhng cnh sng ê ch tăm tối hàng ngày, quên c cái
đói khát đang đe dọa, quên c những tháng ngày trưc mặt”. thể thy rng
trong thâm tâm Tràng lúc này Tràng s vui mng, nim hạnh phúc đã xóa m
hết tt c những gì khó khăn, khốn kh đang diễn ra và đang chờ đợi phía trước,
k c cái chết. Khi v đến nhà, đứng trong mt không gian hẹp hơn, bng Tràng
cm thấy ngượng, ri thy s s, bi l s quen biết gia thTràng chẳng đủ
để hai người có th đối đãi hn với nhau như những người thân, ch đừng nói là
mt cp v chng, h chưa có tình yêu, sợi dây duy nht ni gia h chính là s
đồng cảm, thương xót của Tràng, th thì cn miếng ăn. Cuối cùng khi
Tràng gii thiu vi m v nàng dâu mi, ch đợi s đồng ý vi m, thì anh li
chuyn sang trng thái nôn nóng, st ruột, đi đi lại li, ra sân ngóng trông m v,
rồi đón mẹ mt cách ri rít, mng rỡ. Lúc thưa chuyện, Tràng cũng bộc ls
chng chc, nghiêm túc, th hin s trân trng trìu mến với u già, cũng là s
trân trng hnh phúc bt ng này.
Sau đêm tân hôn, sáng hôm sau thc dy trong lòng Tràng nhiều điều thay
đổi, hạnh phúc đã khơi dậy trong Tràng ý thc, tch nhim bn phn của người
đàn ông trong gia đình. Anh dy mun, cm thấy trong thể hin din s êm
ái, lửng như t mt giấc đi ra, cảm thy ng ngàng trước hnh phúc
mình đang nắm gi, nhn thy cảnh tượng xung quanh thay đổi mi m, khác l.
Nhà cửa được dn dp sch s ng quần áo rách như t đỉa thường vt góc
nhà, thì gi được đem ra sân hong khô, hai ang ớc dưới gc ổi bình thường
khô cong thì bây gi đầy ắp nước, đống rác mùn được dn sch,...), th hai na
không khí trong nhà bng tr nên m áp, vui v l k. Việc đó đã thức dy
trong Tràng nhiu cảm xúc “cảnh tượng thật đơn giản bình thường, nhưng đối
vi hn tht thm thía cảm động. Bng nhiên hn thấy thương yêu gn bó vi
cái nhà ca hn l lùng”, rồi “một nguồn vui sướng đột ngt tràn ngp trong
lòng”. Từ nhng cm xúc ấy Tràng đã nhn thức được trách nhim ca bn thân
vi cuc sng, với gia đình “Bây giờ hn mi thy hắn nên người. Hn thy hn
bn phn phi lo lng cho v con sau này” và biến nó thành hành động “hắn
chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm mt việc để d phn tu sa
căn nhà”, muốn cùng chung tay đ nghênh đón một tương lai tốt đẹp hơn. T
chuyn có v, s chuyn biến trong nhn thức đã dẫn ti kết qu là s khao khát,
ước muốn đổi đời nhen nhóm lên trong tâm hn Tràng khi anh bắt đầu quan tâm
đến chuyn ngoài hi (chuyn Thái Nguyên, Bc Giang nhân dân ni lên
p kho thóc ca Nhật). Anh nghĩ về ln gp Việt Minh mình đã tránh né,
ri t nhiên thy tiếc r, vẩn vơ khó hiểu, điều y chng minh rng nếu được
cho quay li thi gian khi y, có l Tràng đã không ngại ngn gia nhp Vit
Minh cùng đi phá kho thóc của Nhật, trong tương lai, nếu gp li cnh y có
l Tràng cũng s tham gia. Tác phm khép li vi hình ảnh “đám người đói
lá c đỏ bay php phới” lẩn khut n hiện trong trí óc Tràng, đã mở ra nhng hy
vng mi, nhng nim tin, gii pháp mi cho Tràng c những người dân
trong nạn đói năm 44-45.
Nhân vật người v nhặt cũng một nhân vt quan trng ca tác phm. Th
ngưi có lai lch không rõ ràng, không tên không tui, không quê quán h hàng,
thân phn ca th chính là mt s không tròn tra, phn ánh s phn r rúng như
rơm như rác của con người trước nạn đói năm 1944-1945. Th không phi
ngưi ph n ngoi hình hp dẫn, Kim Lân đã dùng nhng nét v rt thm
hại đ tái hin li dáng v tàn t ca th như “áo quần t tơi như tổ đỉa”, “gầy
xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xt ch còn thy hai con mắt”, rồi “cái ngực
gầy lép nhô lên” “hai con mắt trũng hoáy”. Không một ngoi hình hp
dẫn, nhưng cách nói năng của th cũng chẳng ly làm hay ho, ngôn ng chua
ngoa, đanh đá, chỏng lỏn, sưng sỉa ch mt miếng ăn. Cử chỉ, hành động
duyên, táo bạo đến mức trơ trẽn. Nhưng bấy nhiêu đó có phải là bn cht ca th
hay không? Câu tr li không, bi thc tế trong nhng biu hin khi v làm
v Tràng th đã bộc l nhiu v đẹp đáng quý. Trước hết v đp ca khát
vng sng mãnh liệt, như đã phân tích tất c nhng c ch, ngôn ng hành động
ca th đều v phn cảm đáng ghét. Thế nhưng nếu ta xoay góc nhìn mt
chút sang khuynh hướng nhân văn nhân bản, thì th thy ràng rng th
những hành đng, ngôn ng như vy tt c ch vì khao khát được sống, được có
miếng ăn cứu đói, thị không mun chết, đồng thời cũng bộc l khao khát đưc
hnh phúc, th cũng muốn có mt tm chồng để da dm lúc buổi khó khăn, đói
kém. V đẹp th hai na ca th chính v đẹp n tính được bc l sau khi v
làm v Tràng. Trên đường v nhà chng, th tr nên thn thùng, bn lẽn như bất
k dâu mới nào ngày cưới, rón rén, e thn, ly nón che mt, bi ngi ngùng
trước nhng ánh mắt xăm soi của dân làng. Khi bước v nhà chng, nhìn thy
căn nhà lụp xp ca Tràng th đã không giấu ni tht vng qua tiếng th dài, thế
nhưng khác hẳn vi cái tính chng lỏn, đanh đá đưc mt trên ch tnh, th li
im lng, quyết tâm cùng vi chồng vun vén cho gia đình, chứ không h buông
li chê trách, th hin v đẹp ca s chịu thương chịu khó, hy sinh vn ca
ngưi ph n Vit Nam. Khi gp g tiếp xúc vi m chng, th tr nên rt l
phép, thưa hỏi đàng hoàng, nghiêm túc lng nghe li bà c T ch dạy. Sau đêm
tân hôn thì th tr thành một người ph n đm đang tháo vát, dậy sớm đem
quần áo ra phơi, gánh đầy hai ang nước, quét sân, trang hoàng nhà cửa, … quyết
tâm làm một người v hin dâu tho, xây dựng gia đình cùng vi Tràng. Trong
ng x th cũng trở nên rt tế nh, thông minh, khi c mang nồi “chè khoán”
ra vi nim vui mng, thì bn thân th cũng rất trông mong vào món chè ngon
ngt, thế nhưng khi ăn một miếng “mắt th ti lại” - th tht vng, tuy nhiên th
c giu s tht vng ấy đi, điềm nhiên ăn tiếp, không nhìn ai, cũng không nói
câu gì để tránh làm c T ti thân và làm mt không khí vui v của gia đình.
Mt v đẹp na ca th đó chính là niềm tin vào tương lai tươi sáng, chính thị đã
đem đến cho c gia đình một thông tin mi, m ra mt li thoát cho Tràng,
c T và đó cũng là lối thoát chung của nhân dân ta dưới nạn đói năm Ất Du.
Nhân vt th 3 ca tác phẩm đó chính nhân vt c Tứ. Đây một người
ph n nghèo khổ, cực, c đời long đong lận đận, mong ước ln nht vi
cuộc đời ly v cho con mãi vẫn chưa được. Thế nhưng giữa cái lúc thóc
đau gạo kém, gia lúc nạn đói người chết như ngả r thì anh con trai lại “nhặt”
đưc một người v theo không, khiến va mng vừa lo. Trước cnh Tràng
ly v, trong bui chiều hôm trước v đầu tiên hết sc ngc nhiên bi
rối, trước li chào ca th, c T ch im lng thy không th tin ni con
mình lại được v không cần cưới hi. Sau s ngc nhiên y chính
nhng cm xúc ln ln sau khi hiu ra ngn ngun c s, khi nghe Tràng gii
thích thì bà “cúi đu nín lặng”. Bà thấy bun, thy ti cho mình cho con trai,
bởi lúc người ta cưới v cho con lúc nhà ăn nên làm ra, tin ca, làm
được dăm ba mâm đãi làng, đãi xóm, còn nhà mình thì không có gì, lại còn ngay
gia nạn đói sống nay chết mai. Không ch bun còn lo lng cho tương
lai ca Tràng th, không biết chúng liu nuôi ni nhau sng qua cơn đói
khát này không. Cui cùng bà c li thy mng vì thy rng may mn th có gp
phải bước đường đói khát nên mới lấy đến Tng, ch không thì Tràng l
phi chu ế c đời. Sau tt c nhng tâm trng cm xúc đan xen, cụ T cui
cùng cũng lấy li tinh thn, bc l tình yêu thương con cái, tm lòng nhân hu
thông qua cách hành x với người con dâu. Đó là câu nói “ thôi thì các con đã
phi duyên phi kiếp với nhau u cũng mừng lắm” để chính thc nhn th làm
dâu con trong nhà. Đng thời cũng nhng li dn dò, động viên hướng
các con vào một tương lai tươi sáng, giu trn ni bun nỗi lo trong lòng đ
truyn nim tin, s hng khởi cho các con. Sau đêm tân hôn ca các con,
thay đổi hn không còn ni lo lng, bun rầu thay vào đó nim hy vng
tràn trề, “cái mặt bng beo u ám ca rng r hẳn lên”, xăm xắn thu dn quét
c nhà ca. Trong bữa cơm đón dâu mới, người nói nhiu nht, li nói
toàn nhng chuyn vui, suy tính chuyện làm ăn, nuôi gà,... Sau đó li c gng
ni dài nim vui cho các con bng cách lật đật chạy đi lấy ni cháo cám gi
bằng “chè khoán”, c xua đi bóng tối của cái đói cái chết. Thế nhưng chúng
li càng tr nên rõ ràng hơn, khi cái v đắng nghét của cháo cám lan đây khoang
ming, nghn b trong c ca c ba người.
Truyn ngn V nht ca Kim Lân mt truyn ngắn hay đc sc, t vic
phn ánh hin thc hi thông qua nạn đói khủng khiếp năm 1944-1945, tác
gi đã bộc l những tưởng, giá tr nhân đo sâu sc. Ca ngợi, đ cao v đẹp,
khát vng sng còn của con người, cùng nhng nim tin, hy vng ca h vào
mt cuc sng tốt đẹp hơn. Đồng thời cũng bc l nim trân trng, quý mến
nhng th tình cm giữa con người với con người như tình thân, tình yêu, tình
đồng loi,... th không bao gi b dp tt bi s khc nghit ca cuộc đời, th
đã tiếp thêm cho con người sc mạnh để tiến v phía trước.
Phân tích tác phm V nht - Bài s 9
Nhà văn Pháp Napoluye từng nhận định: “Khi một tác phm nâng cao tinh thn
ta lên, gi cho ta nhng tình cảm cao quý và can đảm không cn tìm nguyên tc
nào đ đánh gnữa, cuốn sách hay do ngưi ngh thực tài viết
ra”. Vâng, một tác phm hay luôn biết cách đưa tâm hồn con người tới địa ht
mi địa ht ca những yêu thương, những s chia nhng khát khao. Viết
“V nhặt”, Kim Lân đã th hin nim cảm thương trước s phn của con người
cùng khát vng sng, khát vng hnh phúc ca h khi b đẩy đến mức đường
cùng của cái đói.
Ly bi cnh nạn đói năm 1945, truyện ngắn: “Vợ nhặt” đã khắc ha cuc
sng ngt ngt, bc bi cùng cái nghèo khó, bn cùng của nn dân ta. Cái đói
đã hiện hu thành hình, thành màu, thành mùi, thành v khiến con người b dn
ti mức đường cùng, đy h đến bên b vc ca cái chết. Chng kiến thm
cnh khng khiếp ấy, ngòi bút nhà văn ct lên tiếng đau của nim cảm thương
trước nhng s phn bt hạnh. Đồng thời qua đó, ông tố cáo ti ác ca thc dân
Pháp và phát xít Nht, phn ánh khát vng sng, khát vng hnh phúc nim
tin vào tương lai tươi sáng của con người.
Ngay t nhan đ bài thơ, nhà văn đã gây cho người đọc mt s bởi “Vợ
nhặt” tức là người v t theo v nhà mà không cần cưới xin. Nhưng nhan đề y
cũng chính “thắt nútcủa câu chuyn, khc ha một cách đầy đủ v s phn
ca các nhân vật. Qua đó phn ánh s phn thê thm ti nhc của con người
trong nạn đói khủng khiếp xảy ra vào năm 1945.
Truyn xoay quanh cuộc đời ca nhân vt Tràng mt thanh niên nghèo kh,
xấu xí nhưng chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà nhặt được cô v
đang sống d chết d đói. Họ kết mi nhân duyên giữa bóng đêm bao trùm
ca nạn đói. Đêm tân hôn din ra âm thm trong bóng ti lnh lo vi tiếng
khóc t ca những nhà ngưi chết theo gió vng li. Bữa cơm giản d, thô
với rau chui, cháo loãng mui. M chồng đãi con dâu con trai bng
ni chè nu bng cám. Ba m con xoay sang câu chuyn Vit Minh phá kho
thóc Nht chia cho dân nghèo kết thúc truyn bng hình ảnh “Trong óc
Tràng vn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay pht phới”.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm: “Tình huống truyn mt lát ct ca
s sng, mt s kin din ra phn bt ng nhưng cái quan trọng s chi
phi nhiều điều trong cuc sống con người”. Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân đã to ra
mt tình hung hết sức độc đáo: anh chàng ngụ nghèo khổ, xu xí, ế v như
Tràng li nhặt được v ch bằng vài câu nói đùa mấy bát bánh đúc. Điều
đó không chỉ gây ngc nhiên cho những người dân làng, cho m Tràng còn
cho chính bản thân anh ta. Đây một tình hung éo le, cảm động nhưng hợp
bi chính nạn đói làm cho những mảnh đời cơ cực trôi dt vào nhau h mi nên
v nên chồng. Qua đó tình huống truyện đã làm nổi bt giá tr hin thực cũng
như giá trị nhân đạo: nạn đói đẩy con người ti ranh gii ca s sng và cái chết
khiến giá tr con người tr nên r rúng đồng thi làm ni bt hình nh các nhân
vt.
Trước hết, truyện đã tái hiện hoàn cảnh cực, nghèo đói đến xác của con
ngưi qua hình nh ca những người dân làng đặc bit ba m con Tràng. Cái
đói ập đến ngôi làng như một con qu d nut chng tính mng ca biết bao
nhiêu người, nó biến không khí vốn trong lành, tươi mát của mt làng quê thanh
bình thành không khí m thi của mùi rác rưởi xác chết: “Không buổi sáng
nào người trong làng đi chợ, đi làm đng không gp ba bn cái thây nm cong
queo bên đường. Không khí vn lên mùi m thi của rác rưởi mùi gây ca
xác người”. Cái đói ấy cướp đi tiếng cười hn nhiên ca những đứa tr trong
làng. Cách đó không lâu mỗi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con li bu li theo
anh, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đa kéo khiến cho cái xóm
y mi lúc chiu li xôn xao lên mt lúc. Nhưng nim vui nh nhoi y gi
không còn na, n i tt hn trên môi chúng. Chúng ngi dưới nhng
đưng, không nhúc nhích. Còn Tràng nhân vt chính ca truyn mt thanh
niên ng nghèo, xấu sng hiu qunh vi m trong túp lu dng trên mnh
ờn đầy c di. Sng vi kiếp dân ng cư, họ b dân làng coi thường, khinh b,
làm công vic hèn h như đy t. giống như một định mnh ca kiếp nghèo
khổ, chàng đã “nhặt” đưc mt người v một người ph n không tên, không
tui, không quê quán, nhà ca. Th ng nghch b cái đói đẩy ra ngoài đưng,
nhập vào dòng người tha hương cầu thc, ngi vêu ra kho thóc nht nhng ht
rơi hạt vãi. Bng ngòi bút t thực, nhà văn đã khắc ha thành công bc tranh
của “ngôi làng đói” trong năm 1945.
Nhưng chính trong cái “hiểm nghèo” ấy, con người đã bc l nhng phm cht
tốt đẹp: Đó là tình yêu thương con ngưi, nim khao khát sng, khao khát hnh
phúc và nim tin mãnh liệt vào tương lai.
Nhà thơ Tố Hu tng nói: “Có đp trên đời hơn thế/ Người với người sng
để yêu nhau”. Vâng, tình yêu chính là th còn xót lại khi con người ta đã mất tt
cả, đã rơi vào hoàn cnh ngt nghèo. Trong nạn đói khủng khiếp, nhân vt
Tràng hin lên vi lòng tt ca mt chàng trai sn sàng chia s miếng ăn cho
ngưi ph n xa l. Đc bit nhân vt bà c T hin lên với tình yêu thương con
sâu sc. Cuộc đời s lng l trôi qua nếu không gp s kiện Tràng đưa ngưi
ph n xa l v làm vợ. Kim Lân đã thể hin sâu sc tâm lí của người m nghèo
kh trước s kin con trai v: c hết sc ngạc nhiên. Khi nghe người ph
n chào là “u” mà vn không hiu, mt nhìn nhoèn mà vẫn không tin, trong đu
xut hin mt lot nhng câu hỏi: “Ai thế nh? Sao li chào mình bằng u?” .
Đó là bởi vì bà chưa bao gi nghĩ một người nghèo khó như con mình lại có v.
ngc nhiên không phi s hong ht, lo lng nim ng ngàng trưc
hnh phúc quá ln lao của con trai. Khi đã hiểu ra vấn đề, lòng người m cht
chứa bao cơ s, vừa thương con, vừa xót xa cho chính mình: “Người ta dng v
g chồng cho con lúc trong nhà ăn nên làm ni, những mong sinh con đ cái
m mặt sau này. Còn mình thì…”. Dấu ba chấm ngưng đọng ni nghn ngào vì
ti thân, giọt nước mắt thương con lăn tn gò má. Kng nhng thế, bà c cm
thấy lo khi nghĩ v hin thực: “Biết rng chúng nuôi ni nhau sng qua
được cơn đói khát này không”. lo lắng nhưng khi nhìn người đàn tội
nghiệp đng vân ve tà áo thì lòng bà c xót thương cùng cho người con dâu.
Những suy nghĩ đầy tình thương đầy nhân ái cảm giác yên tâm đã thay thế
ni lo trong lòng cụ: “Người ta gặp bước khó khăn, đói kh này, người ta
mi lấy đến con mình. Mà con mình mi có v được”. Tình yêu thương con còn
đưc bc l trong từng suy nghĩ, hành động c th: gọi người ph n “con”.
Ch bng mt t “con” bà đã dang rộng vòng tay đón nhận con dâu giúp con dâu
bớt ngượng ngùng. Bà còn tâm sự: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phi kiếp
với nhau, u cũng mừng lòng”. Chỉ vi hai ch “mừng lòng” c đã coi người
con dâu đến với gia đình như mt nim vui. k v gia cảnh “Kể ra làm
được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng mình nghèo, cũng ch ai người ta
chp nht chi cái lúc này. Ct làm sao chúng mày hòa thun là u mng rồi. Năm
nay thì đói to đấy. Chúng mày ly nhau lúc này, u thương quá”. Lời nói ng
v lm cẩm nhưng lại rt nhân hu chan hòa phá tan s ngượng ngùng ban
đầu.
Cùng với tình yêu thương, nhà văn th hin nim khao khát hnh phúc ca con
ngưi qua nhân vật Tràng và ngưi v nhặt. Trước hết khao khát hnh phúc ca
Tràng th hin qua din biến tâm hành động nhân vt. Tràng quyết định
nhanh khi đưa người ph n xa l v làm vợ: “Mới đầu anh chàng cũng chn,
nghĩ: thóc gạo sau này đến cái thân mình ng ch biết nuôi ni không, li
còn đèo bòng” sau đó anh ta “chặc kệ”. Bên ngoài anh ta v hơi thiếu trách
nhim, liều lĩnh nhưng bên trong li chứa đựng khát khao hạnh phúc thường
trc lớn đến mức giúp Tràng vượt lên trên cái đói và cái chết. Khi Tràng đưa vợ
v xóm ng cư, nghèo nhưng vẫn hào phóng khi đãi thị mt ba mua cho
mt cái thúng. Nim hnh phúc hin lên trong con mt n i tm tm.
Trong chốc lát Tràng đã quên đi đói khát tình t đi bên người đàn của mình,
h nói chuyn vi nhau v chưa hết ngượng ngùng nhưng nhen nhóm hạnh
phúc. Khi đưa người v nht v nhà ra mt m, Tng thanh minh cho s tunh
toàng của nhà mình do không bàn tay chăm sóc của người ph n. Tràng
mun mi s tốt đẹp hơn khi vợ, muốn người ph n đó li vi mình.
Tràng lo lng st rut khi m chưa về để đưc công khai hnh phúc ca mình.
Anh ta nhìn lén lút người ph n kia, s th đến ri lại đi, s hnh phúc tut
khi tm tay. Khi m v, Tràng ch động gii thiu vi m bng hai ch “nhà
tôi”, “chúng tôi”, nhà tôi v làm bn với tôi”. Tâm của Tràng đã xóa
tan s căng thng trong buổi đầu gp mặt, anh coi đây một vic nghiêm túc:
mun sng lâu dài với người ph n. Bui sáng hôm sau thc dy thời điểm
thích hợp để bc l cm xúc ca Tràng. Mt ngày mới đến vi ca s tâm hn
m ra mt trang mi hạnh phúc hân hoan: “cảm thấy êm ái lửng như đi từ
giấc ra”. So vi s tâm mi khi, hôm nay Tràng nhn thy s khác l
xung quanh mình. Anh ta tht hạnh phúc khi được sng trong không khí gin d,
yên bình của gia đình: v quét sân, m dn c ngoài vườn. Cảnh tượng bình d
ấy khơi gợi trong lòng Tràng cm giác hnh phúc gn cùng vi mình.
Không nhng thế Tràng nhn thy mình trách nhim với gia đình hơn, hắn
cũng muốn bắt tay làm gì đó góp phần xây dng hạnh phúc gia đình.
Bên cnh khao khát hnh phúc của Tng, gia đình nhỏ ấy còn được đắp xây
nên bi khao khát của người v nht. Th đã vượt lên trên s phận để sng trn
vn vi hnh phúc nh nhoi ca mình. Cô liu lĩnh theo Tràng về làm vkhi
ớc vào gia đình Tràng, hiểu được gia cnh ca anh, th ngán ngm th dài
nhưng muốn một gia đình. Thành vợ, thành dâu trong gia đình, th bt tay
gây dựng gia đình, cuộc sng vi m con Tràng: sáng hôm sau th dy sớm để
thu vén nhà ca. Nh đôi bàn tay của người v, mi th hoang hóa bn thu
đã bị đẩy lùi, căn nhà tr nên đầm ấm hơn, thậm chí bản thân Tng cũng thay
đổi hn: tr thành người con có hiếu và người chng có trách nhim. Có th nói
càng trong hoàn cảnh khó khăn, con người càng trân trng tìm kiếm hnh
phúc.
Cùng viết v những người nông dân trong nghèo đói nhưng khác với nhà văn
khác, Kim Lân đã gieo vào trong tác phm ca mình tưởng mi: Khi con
ngưi ta b đẩy tới bước đường cùng của cái đói, người ta mun sống hơn muốn
chết. Điều đó được th hin nét qua nhân vật người v nht c T.
“Người v nhặt” muốn thoát khỏi cái đói, cái chết, muốn tìm đến vi s
sống mà đã liều lĩnh theo Tràng v làm v. Nim khao khát sống được nâng lên
thành nim khát khao hạnh phúc làm thay đổi người đàn này t một người
chan chát thành người biết vun vén cho hạnh phúc gia đình. Ở th, s sng mnh
hơn cả cái chết th làm mọi cách để đưc sng sống như một con người.
Cùng với đó niềm khao khát sng ca c T. lo lng cho các con,
xót xa cho cái kh nhưng cụ vn nén lòng nh lại động viên an i các con
cũng động viên chính mình “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. cũng chủ
động gây dng cuc sng cho mình và các con. Bn thân bà c đã thay đổi hoàn
toàn: khác với dáng đi lòm khòm khuôn mt u ám hàng ngày c ra vào
nhamh nhn rng r hn lên, bà nói chuyn vui, bt tay dn nhà ca. Tt c thay
đổi ca bà c đều xut phát t tình yêu thương và khát vọng sng.
Qua vic tái hin bức tranh nghèo đói của con người ng thế gii ni tâm nhân
vật, nhà văn tố cáo xã hi thc dân chèn ép, vùi dập con người đồng thời hướng
con người tới hướng đi đúng đắn: đến vi cách mạng. Điều đó thể hin qua suy
nghĩ nhy bén của người v nhặt hướng v ánh sáng: “Trên mạn Thái Nguyên,
Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá c kho
thóc ca Nhật, chia cho người đói nữa”. Hình nh kết thúc tác phẩm: “Trong óc
Tràng vn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay php phới” như lời cnh tnh ca
nhà văn về con đường mà người nông dân cần đi: con đường cách mng.
Truyn ngắn “Vợ nhặt” để li nhng rung cm trong lòng bạn đọc không ch bi
nim cảm thương, khao khát bình dị của con người còn bi ngh thuật độc
đáo. Nhà văn s dng ngôn ng mc mc, gin d mang đậm màu sc của đồng
bng trung du bc b cùng cách xưng thân mật “u tôi”, gọi v “nhà tôi”
gi lên không khí min trung du vi cuc sng nghèo khó dân dã. Bên cạnh đó
ngh thut xây dng ct truyn, tình hung hp dn lôi cun bạn đọc ngay t
nhan đề. Qua đó tác phẩm đã th hin khát vng sng, khát vng hnh phúc
cùng niềm tin vào tương lai tươi sáng của con người trong nạn đói.
Phân tích tác phm V nht - Bài s 10
Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyn ngn, vi bit tài viết v ngưi nông dân.
Ngưi nông dân trong trang viết ca Kim Lân nghèo kh nhưng luôn sáng
ngi nhng phm chất: yêu đời, tht thà, cht phác, hóm hnh, tài hoa. V nht
là mt trong nhng tác phm tiêu biu nht ca ông khi viết v người nông dân.
Tác phm là mt trong nhng truyn ngn xut sc nht nm trong tp truyn
“Con chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vn là tiu thuyết “Xóm ngụ cư”
đưc viết ngay sau khi cách mng tháng Tám thành công. Tuy nhiên ch đưc
viết d dang và sau đó mất bn thảo. Đến năm 1954, khi hòa bình lp li, nhân
mt s báo văn nghệ k nim cách mạng tháng Tám thành công, Kim Lân đã
nh li tiu thuyết “Xóm ngụ cư”, da trên ct truyện viết li thành truyn
ngn. Ngay t khi ra đi, tác phẩm đã gây được tiếng vang ln trong gii sáng
tác.
Tác phm ly bi cnh là nạn đói năm t Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng
khiếp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tn lan, khủng khiếp
din ra khắp nơi khiến con người không th nào chng c đưc, tt c nhng
yếu t đó đã được Kim Lân tái hin thành công trong tác phm của ông. Trước
hết màu sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt ca
đàn quạ bay trên tri. Nhng màu sc gi lên s chết chóc, ảm đạm, tàn li
héo úa. Bao quanh không gian đó mùi m thi của rác rưởi mùi gây ca
xác người, mùi đốt đống dm khét lt. Kết hp vi tiếng qu kêu tng hi, hòa
ln vi tiếng khóc h t những gia đình có ngưi chết.
Để làm rõ nét hơn, Kim Lân còn cho người đọc thy hình ảnh sáng nào cũng có
ba bốn thây người nm chết còng queo bên đưng. Tình cnh vô cùng thm
thương, bất hnh. Kim Lân nhìn nhn hin thc bng cái nhìn chân thc, sc nét,
không tránh, phơi bày tt c trên trang văn của mình, để người đc thy
cái khng khiếp ca nạn đói năm 1945. Nhưng giá tr tht s ca tác phm
ch: t trong bóng ti ca cái đói, cái chết, tác gi tìm thy ánh sáng ca v đẹp
tâm hồn con người.
Sau khi v nên khung hình chung ca nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên
truyn xut hiện, đng thời cũng nhân vt trung tâm ca tác phm anh cu
Tràng. Tràng vn dân ng cư, sống tha phương cầu thc, những người dân
ng thường b phân bit, th, sng rìa làng, ch không được sng trong
trung tâm của làng như những người khác. Không ch vy, h còn không được
chia ruộng đất, không được tham gia bt c hoạt động sinh hot cộng đồng nào
ca làng xã. Anh cu Tràng b đt ra ngoài l hi. Không dng li đó, gia
đình Tràng còn rt nghèo, cha mt, ch con hai m con nương tựa vào nhau,
không được chia rung nên Tràng phi làm công vic bấp bênh để kiếm sng:
kéo xe bò thuê.
ờng như s phn càng tr nên tr trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, người
ng c, anh Tràng còn ngoi hình hết sc xu xí. Hai mt nh gà đm
vào bóng chiu, còn hai bên quai hàm bnh ra, khiến khuôn mt càng to lớn hơn.
Thân hình to ln vp vp, như một người khng l. Tràng còn vừa đi va lm
nhm những điều mình nghĩ và cứ th nga mt lên trời cười hnh hch. Anh cu
Tràng hi t đầy đủ v đẹp hp dẫn lũ trẻ con, còn vi các cô gái anh hoàn toàn
không chút hp dn nào, c v ngoi hình ln gia cnh, anh cu Tràng không
có kh năng để lấy được v.
Nhưng trong một ln hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã ly
đưc v một cách đầy bt ng và ng ngàng. Trong lúc làm vic mt nhc, dân
ta thường những câu đ xua tan cái mệt, tăng động lc làm vic. anh
cu Tràng cũng vậy, anh cũng hát, li hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng
vi giò. Lại đây đy xe với anh”. Li nói ấy đã khiến th theo anh cu
Tràng v làm v tht.
Trước khi đưa v v nhà, Tràng rt chu đáo, mua cho v mt chiếc thúng
con mi, dn th đi ăn một ba tht no, mua nhng hai hào du để v thp sáng
trong nhà. Anh cu Tràng t mt k thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện mt mình
cười hnh hch, hôm nay bng tr nên tâm tinh tế l thường. Trên
đường đi v Tràng vui sưng, hn h, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn
mt va hnh phúc, rng r va vênh vênh t đc vi chính mình. Cnh sng
cc kh ê ch hàng ngày, Tràng đã quên hẳn, ch sng trong nim vui, nim
hnh phúc khi lấy được v.
ớc chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghu, xu hổ, đng tây ngây gia nhà,
cht thy s s nhưng lại va hạnh phúc sung sướng khi vic mình ly v đã trở
thành hin thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi m mình v nhà, để ra mt
nàng dâu mi. Li gii thiu th vi m cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi
phần ngượng ngùng, xu hổ. Tràng đã thay đổi một con người khác hn, tâm
lí, nhy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã
đem đến s thay đổi lớn trong tâm lí, suy nghĩ của anh cu Tràng.
Hạnh phúc đã khơi dy ý thc bn phn của người đàn ông trong gia đình. Sáng
hôm sau, Tràng tnh dy mun, cm thấy trong người d chịu, êm ái, như người
đi ra t trong giấc mơ, anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nm gi.
Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mt mình, nhn thy cảnh tượng
thay đi mi m, khác l, nhà ca không ba bộn được dn dp sch s,
không khí gia đình trở nên m áp, vui v, m v chung tay dn dp, vun vén
nhà ca. Trành thy thm thía, cảm động và bng thấy yêu thương những người
xung quanh, đồng thi nhn thy trách nhim ca bn thân, phi biết lo lng cho
gia đình, vợ con. s ý thức đó đã được hin thc hóa bằng hành động xăm
xăm chạy ra sân, mun chung tay tu sửa căn nhà.
Tràng muốn chung tay đ nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình.
Đồng thời trong Tràng cũng bừng lên khát vọng đổi đời mãnh lit, anh biết quan
tâm đến nhng chuyn ngoài hi: mn Thái Nguyên Bắc Giang không đóng
thuế còn phá kho thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh đám người đói
c đỏ bay php phi ln khut, n hin trong trí óc Tràng. Hình nh c
chính là tín hiệu cho tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng s đi theo
Vit Minh, theo cách mng.
Xây dng nhân vật Tràng, Kim Lân trước hết phơi bày cuc sng kh cc ca
nhân dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó còn sự cảm thương cho
s phn h. Trân trng, phát hin ngi ca v đẹp của người dân Vit Nam
trong tình cnh khn cùng: tm lòng nhân hu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng
vào tương lai. Bên cnh nhân vt Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến
nhân vật người v nhặt. Người v nht không lai lch ràng, không tên
tui, qquán, ngh nghiệp cũng không hề tài sn khi lần đầu gp
Tràng. th thy rng, trong nạn đói khng khiếp, thân phận con người tr
nên hết sức vô nghĩa.
Ln th hai gp Tràng, qun áo th rác rưới, t tơi như tổ đỉa, người gy sọp đi
vì đói, mặt lưỡi cày xám ngoét, ngc gy và lép, hai con mắt sâu trũng hoáy lại.
Ngoi hình th cùng thm hại, do i đói đã gây ra cho con ngưi. Ngôn ng
ca th cũng hết sc chao chát, chng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật
nhá”, “Hà, ngon. V ch y thy ht tin thì b bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”,
“liếc mắt cười tít”, “sầm sp chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu
ăn”, “ăn xong lấy đũa quẹt một cái”. Thị t ra con người hết sc duyên,
ờng như cái đói, cái chết th mài mòn nhân cách con người ta ghê gm
đến như vậy.
Nhưng đng sau s chng lỏn đến duyên y li một con người khát
vng sng cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc đ nhân bn thì tt c hành
động, c ch trơ trẽn, vô duyên ca th li là biu hin ca khát vng sng mãnh
lit. Bên cạnh đó, thị còn hin lên vi v đẹp n tính, trên đường v nhà, th rón
rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách t tơi
nghiêng nghiêng che khuất đi na mặt”. Khi về đến nhà chng, thy quang cnh
nhà chng th nén tiếng th dài, ngi mn mép giưng và vô cùng l phép khi
gp m chng. Sáng hôm sau dy sm ng m dn dp, vun vén nhà ca.
Nhân vt th hiện tư tưởng nhân đạo sâu sc ca tác gi.
Cui cùng là nhân vt bà c T, dù ch thp thoáng trong tác phẩm, nhưng cũng
vai trò, ý nghĩa quan trọng. người ph n nghèo khổ, cực: dân ng
tha phương cầu thc; chng con gái mt sm. C đời lận đận, ch tâm
nguyn ln nht ly v cho con nhưng mãi kng dành dụm được tin, trong
lúc nghèo đói đến cùng cực người con trai li nhặt được v. Nhìn thấy con đưa
v v, nín lặng cúi đầu, băn khoăn, nhưng vn rt vui mừng cho đôi trẻ.
dn dò hai v chng mi, nói nhng chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến nim tin,
s lc quan cho chúng. Bà là một người m nhân hu và hết sức yêu thương con.
V nht ca Kim Lân mt trong nhng tác phm xut sc nht của văn học
hin thc. Tác phm va cho thy hin thc cuc sng nghèo kh ca nhân dân,
đồng thi ánh lên giá tr nhân đạo sâu sc. Tác phm th hin s trân trng,
nâng niu những ước đổi đời của con người. Không ch vy, tác phẩm cũng
cho thy ngh thut phân tích tâm lí và miêu t bc thy của nhà văn Kim Lân.
Phân tích tác phm V nht - Bài s 11
Ngưi ta vẫn thường nói rng tác phm ngh thuật là đứa con tinh thn ca mi
nhà văn. cùng một đề tài nhng mỗi nhà văn nhng cách khai thác hin
thực khác nhau. Đó chính đim làm nên phong cách ca mi tác gi. mt
nhà văn hin thc xut sắc, Kim Lân được biết đến không ch là tác phm Làng,
còn rt nhiu tác phm khác, ni bt nht chính V nht. Tác phm th
hin tinh thần nhân đạo sâu sc ca Kim Lân vi những con người nghèo kh.
Đọc V nhặt ta được tiếp cn vi biết bao thân phận tăm tối, cuộc đời h đã bị
đẩy đến bước đường cùng. Nhân hình của Tràng, ngưi v nht, bà m đều méo
mó trước sc hy dit khng khiếp của cái đói. Là sự thiếu thn v vt chất đến
cùng cực. Nhưng chính t nơi tối tăm, thiếu thn nht y, li bng lên tình
người, tình yêu thương con ngưi mãnh lit ca những người cùng cnh ng.
Nhân đạo chính ch đó.
c chân vào tác phẩm, cái đói được tác gi khc ha vô cùng rõ nét. S sng
ca những con người, đặc bit xóm ng dường như ngàn cân treo sợi tóc,
thn chết sẵn sàng đến đưa h đi bất c lúc nào. Cõi dương nhưng lúc nào cũng
ln vn âm khí, cái chết hin hình ngay bên cnh những người đang còn sống.
Nhưng giữa nn đói khủng khiếp đó, anh Tràng li vn rt lc quan, s sống đối
với anh “chẳng bao gi chán nản”. Tràng được tác gi phác ha chàng trai
thô kch, xấu xí “hai con mắt nh tí” “lưng to như lưng gấu” tình tình lại không
đưc khôn ngoan, hay nói nhm, nói một nh, đôi khi tự nga c lên tri
i hnh hch. Không ch vy, xut thân của anh ta cũng rất đáng buồn, là dân
xóm ng cư, cảng được ai chú tâm, coi trng. Qu thực anh cu Tràng đã tn
cùng ca s kh s và đau đớn.
Nhưng điều bt ng nht chính là s kin chàng có v. Mt cô v đưc nht v.
Càng l hơn là trong thi buổi, lo cho mình còn chưa xong, Tràng li sn
sang đèo bòng thêm một người ph n, thêm mt miếng ăn cho chính mình.
Liệu đây phải mt phút bng bt nht thi của người đàn ông này hay
không? Nhưng đó quả thc không phi mt quyết định nht thi, quyết
định đó xuất phát t tình yêu thương, từ khát khao hnh phúc rất đỗi bình
thưng ca mỗi con người. Khi nhìn thấy người v nht, mt k t c thân,
gầy đen như sp chết, một con người thiện lương như Tràng chắc chn s không
th làm ng. Ch bng bốn bát bánh đúc cũng đã đ se nên mối duyên trăm năm
tình nghĩa v chồng. Có gì đó như là chua xót, như là thương cm cho cuc hôn
nhân ca những con người cùng kh này. Dng nên mt tình thế éo le như vật
ờng như nhà văn đã đánh cược vi tt cả, để khẳng định, để tin tưởng vào
tấm long nhân đạo, nhân văn ẩn sâu trong mỗi con người.
Cái đói, cái chết cũng không th hy dit khát khao hnh phúc, khát khao
mt mái ấm gia đình trong lòng Tràng. Không chỉ vy, vi mái ấm này đã khiến
Tràng thay đổi hoàn toàn. Đó là cảm giác sung sướng, hạnh phúc, lâng lâng “ta
h như có ai vuốt nh vào sống lưng”. Hạnh phúc của con người tht bình d
đơn sơ, sc mnh cải hóa con người, giúp con người ta sau một đêm tân
hôn tuyt vi th thay đổi theo hướng tích cực đến như vậy: “Trong phút
chc Tràng quên tt c cnh sng ê ch, ti nhục”. Nhìn thấy ngôi nhà gon gh,
thấy người v quét tước dn dp, li bng li trong Tràng khát vng vun vén
cho gia đình. Cuộc sng, chao ôi sao d thương, yên ấm đến nvy. Mc
ngay sau đó hiện thc li p thng xung h, vi bữa cơm ngày đói vô cùng
thm hại, nhưng ai cũng thy ngon, trong h to dâng nim hnh phúc, khát
vng v tương lai tốt đẹp.
Đọc tác phm này ta không th kng chú ý đến nhân vt c T, mt m
khn khổ, yêu thương con hết mc, chính hình nh phn chiếu tiêu biu
cho nhng bà m Vit Nam. Nhìn thy anh con mang một người đàn bà v nhà,
va lo lng, va s hãi. Nhưng sau khi biết s tình, cm thông chúc
phúc cho hai ngưi, ri còn t trách mình không làm tròn trách nhim ca
một người mẹ. Có người m nào li không mun con mình, yên m, hanh phúc.
Nhưng hoàn cnh chng th ới được v mt cách t tế cho con. Chính
cũng tự hiểu: ôi, ngưi ra dng v g chồng cho con lúc trong nhà ăn nên
làm ni, những mong con đàn cháu đống… con còn mình lúc đói kém mi
được v chúng mày ly nhau u cũng mừng lòng”. không chỉ thương
con trai thương c người con dâu kia. Chúng qu là nhng đứa tr đáng
thương. Nhưng trong cũng không thi dy lên hi vọng “không ai giàu ba h,
không ai khó ba đời”. Rồi ba còn vch ra nhng vin cnh tương lai đẹp đẽ cho
đôi vợ chng tr.
Nhân đo trong tác phẩm Kim Lân cũng thật đặc biệt. Ông đẩy mi nhân vt
đến tn cùng ca kh sở, đ rồi sau đó mở ra con đường, tương lai cho họ. Hình
nh lá c đỏ sao vàng xut hin cui tác phẩm, đã mở ra một tương lai tươi sáng,
gii thoát cuc đời ca những con người dưới đáy hội. Giá tr nhân đạo ca
tác phẩm được th hin rõ nét nht chia tiết này.
Những dòng văn cuối cùng đã kết đọng tinh thần nhân đo sâu sc của nhà văn
Kim Lân. Ông trân trọng, yêu thương tng nhân, tng s phận. Đồng thi ta
cũng thấy được ngh thut miêu t, to dng tình hung bc thy ca nhà
văn này.
Phân tích tác phm V nht - Bài làm 12
Kim Lân là nhà văn của làng quê Vit Nam có bí quyết viết chân cht, mc mc
các hình nh nhân vt tiêu biểu cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào
lòng người đọc bi tình cm bình d, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình.
Tác phẩm “Vợ nhặt” 1 “kiệt tác” của văn học hin thc Vit Nam, tái to
thành công hi nghèo kh, khn cùng, bế tc của người nông dân. Bằng văn
pháp t thực Kim Lân đã xây dng thành công tuyến nhân vật đi din cho cuc
sng bn cộng giai đoạn đấy.
Truyn ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân xây dựng thương hiệu trong quá trình
quốc gia đang rơi vào nạn đói năm 1945, đi sng dân chúng bn cùng, k sng
ngưi chết nham nhảm, ”người chết như nga ra, không buổi sáng nào người
trong làng đi chợ, đi làm ruộng không gp ba bn mu thây nm còng queo bên
tuyến ph. Không khí vn lên mùi m thi của rác rưởi mùi gây ca xác
người”. Quang cảnh xóm ng cư ấy đã diễn đạt được chiếc đói đang hoành hành,
đời sng qun chúng thê thm.
Ngay t nhan đề ca tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đc khám phá cuc sng
ca những điều khn kh, bn hàn nhất. “v nhặt”, chi tiết tình
hung truyn tht nút khiến cho nên cuc thế ca tng nhân vt.
M đầu tác phm, tác gi đã phác họa hình nh nhân vật anh cu Tràng “hắn
ớc đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa mm mỉm cười, hai bên quai hàm bnh ra…”
Ch s hu vài chi tiết ấy, người đọc cũng đã tưởng tượng được din mo xu xí
ca mt anh nông dân nghèo rách mồng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám
con tr không bun trêu tràng nữa, chúng đã không còn sc lc. Quang cnh
buồn thiu, đy s hãi bao ph lên xóm nghèo. Trong khung cnh chiều tà, nghĩ
suy của Tràng được tái tạo “hn bước đi từng bước mi mt, chiếc ao nâu tàng
vt sang 1 bên cánh tay. Tuồng như các lo lắng, cc nhọc đè nặng lên dòng lưng
gu ca hắn”.
Vi vài chi tiết điển hình, Kim Lân đã lên trưc mặt người đọc hình nh
người dân cày nghèo đói, t tơi, bộn b lo lâu đến cực. Tác gi đã thật khéo
để xây dng nên tình hung truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đi thế cc ca
một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. “nhặt” được ch chng
h lấy được. Người đọc trông thy s thê thảm, bước trục đường cộng và đầy éo
léo của con người trong xã hi by gi.
Hình anh v anh cu Tràng dn dn hiện ra dưới ngòi bút miêu t của nhà văn
đầy khiếp s thị cp loại thúng con, đầu hơi cúi xuống, chiếc nón rách tàng
nghiêng nghiêng che mệnh chung đi na mt. Th vi v rén,e thẹn”. Một người
đàn nghèo kh, không còn th giá tr đi cạnh một người đàn ông nghèo
khổ, cơ cực đúng là một đôi trời sinh.
Giữa cái đưa vợ “nhặt” được v nhà, Kim Lân đã vun đắp nên khung cnh
qunh hiu, ảm đảm của xóm nghèo “từng trn gió trong khoảng cánh đồng thi
vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy ph, úp sp, ti mịt, không nhà nào mang ánh đèn,
lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xì bóng các ngưi đói dật d di chuyn lng thm
như những bóng ma. Tiếng qu kêu trên my cây go ngoài bãi ch c gào lên
tng hi thê thiết”. Không còn gì thê thm hiu hắt hơn khung cnh chiu tàn
nơi xóm nghèo như vậy. Mi th tuồng như bị mẫu đói, cài nghèo đè nén đếm
chìm nghm. Bng ngòi bút t chân sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng ngưi
đọc đa dạng đau xót, đắng cay cho các phn nghèo lận đận.
Điều đáng chú ý chính là cách thức các ngưi láng ging hỏi thăm Tràng về
người đàn bà đi bên cnh tràng. Thc ra thy l nên người ta mi hỏi, thì cũng
hiu ra, nh v Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người n gii
bt không còn ngoa ngoắt, đanh đá nữa phát trin thành thn hu s lúc
quyết định theo Tràng v làm v. Làm v mt cách bt thn, gia cảnh đói như
ng r. l cái đói nghèo đã đẩy hai con ngưi đến nhau, chng h ái tình
nhưng là tình thương. Hẳn người đọc s thông cảm và xót thương cho các mảnh
đời dt d nơi xóm cư ngụ.
Lúc tr v nhà, hình nh bà c T, m Tng được Kim Lân khc ha din biến
s chuyển đổi trong tâm tinh tht tài gii sâu sắc. Người đọc s hiểu hơn
tấm lòng 1 ngưi m bao dung nhân t. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước
theo con vào nhà, đến gia sân sng li thy một người n gii
trong…” Sự băn khoăn lo âu của c bắt đầu hiển lên. Nhưng rồi cũng
nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín im, bà lão hiu rồi. Lòng người m nghèo
kh đấy còn hiểu ra bao nhiêu s, va ai oán, va xót xa cho s kiếp con
mình. Chao ôi người ta dng v g chng cho con là trong khi khiến ăn nên nổi,
còn mình…” các suy nghĩ chua xót của lão đưc Kim Lân din t qua mt
loạt động t tình thái làm cho loi khổ, cái đói li v vp hin hin ràng
hơn bao giờ hết.
đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Cnh huống làm người đọc nh
mãi, hình nh khiến người đọc khi nhc ti tác phẩm này đu không quên
hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu du tiên. Hình ảnh “nồi
cháo cám” hiện thân ca mẫu nghèo đói đến cực trong mt gia đình
“không còn trị giá nữa”. cụ T hôm nay thay đổi tâm trng, toàn k các
chuyn vui trong nhà, mun mang lại không khí vui tươi hơn gia mu
nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mt ca
ngưi m nghèo. Người nào cũng muốn s hu mt bữa cơm đón dâu với mâm
cao, c đầy trong ngày ớc dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám”
th duy nhất đong đầy yêu thương bà sở hu th đem đến cho con.
Đây một chi tiết hết sức đắt gtrong truyn ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
làm cho người đọc nh mãi. Ngoài ra hình nh c đỏ sao vàng xut hin ca
cui truyn ngắn đã đem đến chút nim tin hi vng v một tương lai tươi
sáng hơn. Bằng ngòi bút mô t trung thực, sinh động, cách thc khc ha tâm lý
nhân vt sc sảo, độc đáo và cốt truyện đầy bt ng Kim Lân đã vẽ lại trước mt
người đc khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hi Vit Nam những năm 1945.
Qua y tác gi cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người người luôn bt
mng.
Phân tích tác phm V nht - Bài làm 13
“V nhặt” là tác phẩm ưu tú của nhà văn Kim Lân, viết v cuc sống nghèo đói,
kh cc và khát vng v hạnh phúc tương lai tươi sáng của người nông dân Vit
Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Qua đây tác gi ng bày tỏ s cm
thông vi nhng s phn bt hnh ca những con người đói khổ trong thi
chiến yêu thương, quý trọng đối vi những ao ước gin d ca h, t đó tạo
nên s đồng cảm và suy nghĩ trong lòng người đọc.
Ngay t nhan đề “V nhặt”, tác phm đã gợi lên s t đó dn dt
người đọc khám phá v cuc sng ca những con người đói khổ, bn hàn nht.
Chuyn dng v g chng vn mt chuyn h trng ca c mt đời người,
chính thế vic này cần được xem xét lưỡng vy đây lại “vợ nhặt”.
i v li gi nht v đưc sao? Một con người được “nhặt” về ri tr
thành v gợi cho người ta liên tưởng đến vic nht một món đồ, như thể mt th
đó được lượm lt mt cách tình và ngu nhiên t ngoài đưng. Ch riêng
nhan đ tác phm tác gi cũng đã để li s ám ảnh đối với người đọc. Điều
đã khiến cho con người ta tr nên r rúm như vậy? Kim Lân chính là đã
n chuyn nht v để nói lên mt vấn đề khác. Đó chính là cái đói, cái nghèo
của người nông dân trước Cách mạng. Khi đó, chính cái đói nghèo đã khiến cho
con người lâm vào tình cảnh đáng thương đến như vậy.
Nhan đề cũng đã một phn l tình hung truyện độc đáo. “V nhặt” chứ
không phải cưới xin đình đám gì. Hẳn là một con người mà chng khác nào mt
món đồ vt chỏng chơ ngoài đưng và vô tình có người “nhặt” về. Mà đúng thế
tht. Anh cu Tràng ch với vài câu “tầm phơ tầm phào” người ph
theo v làm v. Khn ni anh ta bnh bao, hp dn gì: va xu trai, va d
hơi, lại va là dân ng cư nghèo kiết xơ kiết xác. Vy mà Tràng li có v. Tràng
i vợ, đúng hơn nhặt được v gia cái cảnh đói khát khốn cùng này. Tình
hung truyn thật đầy bt ng cười ra nước mt. Qua tình hung này, các
nhân vật đều bc l nhng tâm trng, tính cách ni bật, giúp người đc hiu
hơn về nhân vt, v hoàn cảnh cũng như số phn của con người.
Nhà văn Kim Lân đã thật tài tình khi đi sâu phân tích tâm đan xen, phc tp
ca tng nhân vật trước tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Người trong xóm “xì
xào bàn tán”, người thì “cười lên rung rúc”, người lại lo giùm cho anh ta: “Ôi
chao! Giời đất này còn lôi cái ca n đời v. Biết nuôi ni nhau qua cái thì
này không?”.
M Tng, c Tứ, người hiu tình cnh ca nhà mình, con mình nht
cho nên ng khó tin Tràng có v. Thấy người đàn bà lạ đứng đầu giường con
mình, c c ngơ ngác tự hỏi: “Quái sao người đàn nào trong y nh?
Sao li chào mình bng u? Ai thế nhỉ?” Cái ngạc nhiên, nghi vn ca bà c cũng
d hiu bi lẽ, nghèo như con trai thì ai thèm ly. V lại trong cơn đói khát
thế này, nuôi thân còn ch ni, ly gì nuôi v nuôi con?
Khi đã hiểu đã ra vấn đề thì “trong k mt kèm nhèm ca c r xung hai
dòng nước mắt”. Trong lòng người m nghèo hiu ra biết bao nhiêu là cơ s. Bà
mừng con trai sao cũng đã vợ, nhưng buồn tủi “người ta gp
ớc khó khăn đói kh này, người ta mi lấy đến con mình. Mà con mình cũng
mi có v được..”.
Đối vi Tràng, bn thân anh cũng rt ly làm l. Nhìn v ngi ngay gia nhà,
anh “vẫn còn ng ng nkhông phải thế”. Lòng người m lo nghĩ bao nhiêu
thì anh cu Tràng lại by nhiêu. Mới đầu cũng “chợn” nghĩ nhưng rồi anh
chặc lưỡi “mặc kệ”. Tn đường đưa vợ v nhà, thấy người ta nhìn ngó,
“hn li ly làm thích ý lm, cái mt c vênh lên t đắc với mình’. Việc v
đối với Tràng đột ngt và hnh phúc ti mức đến sáng hôm sau anh vn còn
thấy “trong người êm ái lơ lửng như người trong giấc mơ đi ra”.
Trái ngược vi tâm trng hân hoan ca Tràng, lo lng ca bà m thì có l người
ph n làm v Tràng li cm thy bun ti nht. Ly chng chuyn thiêng
liêng, trao gi c cuộc đời ca mình cho một người đàn ông mình tin
ng. Vy đây thị nào biết Tràng tt xu ra sao. Ch mt câu bâng
quơ bốn bát bánh đúc “đ tin tưởng” để theo v nhà người ta. Cái đói đã
đẩy con người ta đến ch chng còn biết xu h gì, mt hết ý thc t trng,
nhận ra mình không hơn gì rơm rác cọng c mà người ta có th m nhặt vu vơ
nơi đầu đường ch. Thế nhưng buổi sáng hôm sau, khi Tràng nhìn thy thì
ch ta đã trở thành một người v hin, mt cô dâu tho, khác hn vi cái v chao
chát hôm đầu tiên Tràng gp.
Đi sâu vào tâm của tng nhân vật, Kim Lân đã cho người đọc thy mt bc
tranh hin thc sống đng trong nạn đói 1945. đó, con người ta ch toàn
nghèo kh, tối tăm nhưng li ngi sáng lên phm cht tốt đẹp. Hành động cưu
mang người ph n nghèo đói hơn mình đã cho thy Tràng một người hào
phóng và nhân hu. M Tràng ng vừa mng va ti chp nhn nàng dâu mi,
không nhng thế còn góp thêm câu chuyn bng nhng nim hy vng v
tương lai tươi sáng để xua đi nỗi tăm tối của đói nghèo đang vây bủa.
“V nhặt” đã làm sáng lên trên cái nền đen ti ảm đm y sc sng, khát vng
v mái ấm gia đình và sự nương ta, che ch cho nhau ca nhng người lao
động nghèo kh, sáng lên nim hy vng ca h v một tương lai tốt đẹp hơn.
Tràng đã nhn thy nh gn với căn nhà, thấy mình “có bổn phn phi lo
cho v con sau này” và nghĩ đến một tương lai “cùng v sinh con đ cái” rồi ăn
nên làm ra. c T cũng “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mt
bng beo, u ám ca bà rng r hẳn lên”. Bà còn tính “khi nào có tin ta mua ly
đôi gà. […] ngoảnh đi ngonh li ch mấy ngay đàn cho xem”. Ánh
sáng của hơi ấm hạnh phúc gia đình giữa lúc nạn đói hoành hành, giữa ni cháo
cám đắng chát nhưng vn làm cho th cm thy vui v hin dịu hơn. Từ
đây, thị s cùng chồng chăm lo, vun vén cho gia đình nhng mong mt ngày s
phn s mỉm cưi rộng lượng hơn.
Viết v nạn đói năm 1945, khc ha thc tế cảnh người chết đói như ngả r, thế
nhưng Kim Lân không đi vào nhng cảnh thương tâm như thế qua s vic
anh cu Tràng nht được v để làm ni bt tinh thần nhân đạo, nhân văn cao cả.
t lên trên tt c nhng lo lng, ti hn nim hnh phúc tình yêu
thương của con người bng sáng. Vi truyn ngắn này, Kim Lân đã bày tỏ s
yêu quý sâu sắc đối vi những người nghèo kh nhưng giàu lòng nhân ái. Tác
phẩm đã khẳng định rằng: cái đói khát, chết chóc không th giết chết được nim
tin vào cuc sng. nơi tối tăm nht, nghèo đói nhất thì con người ta vn biết
cách nương tựa vào nhau mà vượt qua để ng ti một tương lai tốt đẹp hơn.
Phân tích tác phm V nht - Bài làm 14
Kim Lân là mt trong s những nhà văn xuất sc viết v nông thôn và nông dân
Vit Nam trong nền văn học hiện đại vi nhng tác phẩm độc đáo tỏng cách xây
dng tình hung truyn, cách xây dng miêu t nhân vt. Và th nói,
truyn ngn V nht rút t tp Con chó xu mt truyn ngn tiêu biu
cho phong cách sáng tác ca ông.
Truyn ngn V nht ca Kim Lân hp dn bạn đọc ngay t nhan đề tác phm
cách nhà văn xây dng tình hung truyn. Chc hn, mỗi người trong chúng
ta ai cũng sẽ tò mò khi nghe thấy nhan đề “V nhặt” nhưng chính nhan đ ấy đã
gi lên tht nhiều điều đáng suy ngẫm. Chính nhan đ ấy đã phn nào gi lên
thân phn r rúng, đáng thương của những con người trong nạn đói năm 1945.
Đồng thời, nhan đ ấy cũng đã phần nào m tình hung truyện độc đáo của
tác phm góp phn to ln vào vic th hin giá tr hin thc sâu sc thiên
truyn. Không ch độc đáo nhan đề, V nht còn xây dng thành công mt
tình hung truyn mi lạ, độc đáo giàu ý nghĩa. Kim Lân đã tht s thành
công khi xây dng tình hung truyn Tràng một người dân xóm ng cư, với
ngoi hình xu xí lại “nhặt được vợ” ngay trong chính nạn đói khng khiếp năm
1945. Đó một tình hung truyn mi l, bt ng nng cũng đy éo le gây
nên s ngc nhiên cho biết bao người nhưng cũng chính tình hung ấy đã góp
phn không nh vào vic th hin giá tr hin thc ca tác phm s r rúng,
bèo bt ca thân phận con người ngay trong nạn đói.
Không ch thành công trong vic la chọn nhan đề và to dng tình hung, V
nht ca Kim Lân còn hp dn bạn đọc trong cách xây dng nhân vt và chc
hn, những ai đã đc tác phm này s không th nào quên ni nhân vt Tng.
Không đi sâu miêu t ngoi hình ca nhân vật nng Kim Lân đã nhng nét
v đủ để chúng ta nhn thy Tràng mt chàng trai ng xấu với“dáng
ngưi thô kệch, cái cười khnh khệch”, “lưng Tràng như con gấu”, “quai hàm
bạnh ra”. lẽ Tràng hi t đầy đ nhng yếu t để ế v, y vy ai ng
đâu chính trong cái nạn đói khủng khiếp năm 1945 Tràng lại được một người
ph n theo không v nhà làm vợ. cũng chính s kiến y đã làm cho nhng
dòng cm xúc ca Tràng s thay đổi theo thi gian. Tràng th quen nhau
tht tình c, ch vài ba câu vui y vy th theo Tràng v nhà thật “Làm
đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ đằng y có v vi t thì ra khuân hàng lên xe ri
cùng về”. Thị theo v nhà, trong lòng Tràng chc hn nim hạnh phúc đang
len lỏi nhưng rồi cũng lúc Tràng lo sợ, hắn “chợn nghĩ” nng rồi Tràng li
“tặc lưỡi: chc kệ”. Cái tặc lưỡi y ca Tràng không phi cái tặc lưỡi ca k
bt lc, mun buông xuôi tt c Tràng chậc lưỡi bi vi Tràng trong gi
phút này đây mọi nim vui khát vng hạnh phúc đã ln át lớn hơn tất c.
để rồi, trên đường đưa vợ v nhà, nim hạnh phúc, vui sướng y ca Tràng
như càng nhân lên gấp bi phát l rt ra dáng v bên ngoài ca hắn ““vẻ
mặt cái đó phớn phở”, “hắn vừa đi vừa tm tỉm cười n mt mình”, “mắt
sáng lên lấp lánh”, “cái mt vênh lên t đặc với mình”. Nếu như, trên đường
đưa vợ v nhà trong Tràng ánh lên nim hạnh phúc khôn nguôi, Tràng như đang
đắm chìm trong men say ca hnh phúc tlúc v ti nhà Tràng lại ngượng
nghịu, “đứng tây ngây ra giữa nhà” rồi cái đó lo lng, l Tràng s m
mình s không đồng ý “nàng dâu mới”. Nhưng rồi, li gii thiu ca Tràng vi
m mình v s xut hin ca th “kìa nhà tôi chào u” mt li gii thiu
chan chứa bao nghĩa tình. Đc bit, tâm trng của Tràng đã thực s thay đi
trong bui sáng ngày hôm sau. Tràng thấy “êm ái lửng như người trong cõi
đi ra”, “cảm động, thấy yêu thương, gn thy mình phi trách
nhim với cái gia đình này” sau một đêm đm mình trong tình yêu, hnh phúc.
l chính sc mnh ca tình yêu, ca hạnh phúc đã khiến Tràng thay đi
thêm yêu, thêm tin tưởng vào hạnh phúc gia đình và một tương lai tươi sáng
hơn.
Cùng vi nhân vt Tràng, tác gi Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vt th.
Nếu như khi xây dựng nhân vt Tràng, tác gi Kim Lân tập trung đi sâu khám
phá thế gii tâm trng thì khi khc ha nhân vt th nhà văn lại làm bt ni nhân
vt qua vic miêu t ngoi hình và tâm trạng để t đó làm bật ni tính cách, tâm
trng ca th. Chc hn, những ai đã tng mt lần đọc V nht s không th nào
th quên được nhng chi tiết nhà văn Kim Lân miêu t ngoi hình ca th
“khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, “áo quần rách như tổ đỉa”, “cái nóm tàng che
na khuôn mặt”, “cái ngc gy tẹp lép nhô lên”. Ngoại hình y ca th l là
minh chng rõ ràng nhất cho cái đói đang hoành hành. lẽ cũng chính nn
đói khủng khiếp ấy đã khiến th những hành động “chao chát”, “chỏng lỏn”
nhưng xét đến cùng đấy chng tích của cái đói. Đó cái hành đng th đon
đả “ăn thật nhá…”, “sà xuống ăn một chp bốn bát bánh đúc”, “ăn xong cm
dọc đũa quệt ngang miệng “Hà! Ngon!”. Thế nhưng, khác với dáng v bên
ngoài ấy, người đọc s d dàng cm nhận được s tinh tế, ý t, e ca th
trong lúc theo Tràng v nhà làm vợ. Trên đường theo Tràng v nhà, thcái gì
đó ngượng nghịu đến nỗi “chân nọ c díu c chân kia”. Thêm vào đó, khi v
đến nhà, th “nén tiếng th dài, nhếch mép cười nht nhẽo”, “ngồi mm mép
giường”,… Những hành động y ca th đã làm toát lên s e dè, ý t người
ph n v ngoài chao chát, chng lỏn tưởng chừng như cái đy
duyên. Đặc biệt, nét đp tâm hn, s ý t ca th đưc th hin rõ nét trong bui
sáng hôm sau, th “dy sm quét dn nhà cửa, sân vườn, phơi quần áo, “trong
ba sáng: nói nh nhẹ, đúng mc, l phép”,… Nvy, th chính s hin
thân cho cái đói, cái nghèo khổ trong nhng ngày khng khiếp ca nạn đói
những năm 1945. Nếu như cái đói làm cho ngưi ph n mất đi những nét đặc
trưng của h thì chính tình yêu, hạnh phúc đã đem đến cho h sc sng mới, để
đưc sng với con người tht ca mình.
Thêm vào đó, trong tác phẩm, nhà văn Kim Lân còn xây dựng thành ng nhân
vt bà c T điển hình cho người mẹ, người ph n Vit Nam. Nhng chi tiết
nhà văn Kim Lân miêu tả ngoi hình ca bà c T đã gợi nên s cực, lam
nơi người ph n này. Đó “dáng ngưi lng khọng”, “vừa đi vừa húng hng
ho va lm bẩm tính toán”. Nhưng người m ấy chúng ta cũng cm nhn thy
bao phm chất, bao nét đẹp tâm hn qua nhng dòng xúc cm ca bà. Lúc va
v đến nhà, thy s xut hin ca th trong nhà của mình, cái đy ngc
nhiên, “tỏ ý không hiểu”. Nhưng rồi, v l, nhn ra bao điu lão cúi
đầu nín lặng, “bà hiểu ra bao nhiêu s, va ai oán vừa xót thương” và rồi
lòng người m y cm thấy thương con thương cho chính mình, khóc
giọt nước mt ca s ti thân, ca s t trách. Nhưng lòng thương con, lòng
thương người đã khiến bài m rộng vòng tay đón nhn nàng dâu mi. l
chính s xut hin ca th đã đem đến cho bà mt nim vui, nim hnh phúc
khôn nguôi vào bui sáng hôm sau. Sáng hôm sau, dy sm cùng nàng dâu
mới chăm bẵm vườn tược, chăm lo cho ngôi nhà của mình, “gương mt bm
beo, u ám ngày thường rng r hẳn lên”, trong bữa ăn sáng cả gia đình cùng
nhau nói toàn nhng chuyn vui, chuyện sung sướng v sau. Như vy, bà c T
đại diện điển hình cho người ph n Việt Nam cực, lam lũ, nghèo khổ
nhưng vẫn luôn tràn đầy tình yêu thương và tinh thần lc quan.
Tóm li, truyn ngn V nht vi vic xây dng tình hung truyện độc đáo,
ngh thut trn thut linh hot cách xây dng, miêu t nhân vật đã vẽ nên
bc tranh hin thc v cuc sng s phn của người lao động trong nạn đói
khng khiếp năm 1945. Đng thi, tác phẩm cũng thể hin rõ nét tm lòng nhân
đạo của nhà văn Kim Lân bài ca ngợi ca tình người khẳng định nhng giá
tr, phm cht tốt đẹp của con người.
-----------------------
| 1/64

Preview text:


Phân tích truyện Vợ nhặt - Ngữ văn 12
Khái quát về tác giả, tác phẩm I. Tác giả Kim Lân
Kim Lân (1920 - 2007) tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu,
xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh khó khăn, ông chỉ
được học hết tiểu học, rồi vừa làm thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong vừa viết
văn. Năm 1944, Kim Lân tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, sau đó liên tục hoạt
động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim).
Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn và
người nông dân. Ông có những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng
quê - những thú chơi và sinh hoạt văn hóa cổ truyền của người nông dân vùng
đồng bằng Bắc Bộ, được gọi là “những thú đồng quê”, “phong lưu đồng ruộng
như: chơi núi non bộ, thả chim, đánh vật, chọi gà,… Ông viết chân thật, xúc
động về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của
họ - những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Dù viết về
phong tục hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng
cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn
yêu đời; thật hà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa. Năm 2001, Kim
Lân được Nhà nước tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn năm 1955), Con chó xấu
xí (tập truyện ngắn năm 1962).
Truyện ngắn Vợ nhặt được rút từ tập truyện Con chó xấu xí.
II. Hoàn cảnh sáng tác truyện ngắn Vợ nhặt
Truyện "Vợ nhặt" có tiền thân từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư". Tác phẩm được viết
ngay sau cách mạng tháng Tám nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Sau hoà
bình lập lại (1954) Kim Lân dựa vào phần cốt truyện cũ và viết lại thành truyện
"Vợ nhặt". Tác phẩm được in trong tập truyện "Con chó xấu xí". Truyện tái hiện
lại bức tranh nạn đói năm 1945. Qua đó, thể hiện tấm lòng cảm thông sâu sắc
của nhà văn đối với con người trong nạn đói.
Dàn ý Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài mẫu 1 1. Mở bài
Giới thiệu nhà văn Kim Lân và Vợ nhặt. (Kim Lân là nhà văn vô cùng thành
công khi viết về đề tài người nông dân nghèo. Một trong những tác phẩm nổi
bật của ông chính là truyện ngắn Vợ nhặt). 2. Thân bài
a. Nhân vật anh Tràng
• Lai lịch, ngoại hình
Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già.
Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.
Ngoại hình xấu xí, thô kệch, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai
bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào
cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn… Đầu cạo trọc nhẵn, cái
lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cười cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch. • Tính cách
Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của
mình. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy.
Tràng là người đàn ông nhân hậu, phóng khoáng: ban đầu không chủ tâm tìm vợ.
Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui
vẻ chấp nhận. Hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con
đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê… Anh còn mua 2 hào
dầu thắp sáng trong đêm đầu có vợ.
Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm: Anh ngoan
ngoãn với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Từ một anh phu xe cục
mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến
những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế
ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ đến cảnh những
người nghèo đói ầm ầm keo nhau đi trên đê Sốp để cướp kho thóc của Nhật và
đằng trước là lá cờ đỏ to lắm. • Tổng kết
Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám.
Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng là anh phu xe cục mịch nhưng có một đời
sống tâm lý sống động với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động bằng ngòi bút sắc sảo.
Qua nhận vật Tràng, nhà văn phản ánh mặt đen tối trong hiện thực xã hội trước
năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo với vẻ đẹp tâm hồn của họ.
b. Nhân vật cô thị
• Hoàn cảnh, ngoại hình:
Một người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán, gốc gác, không gia đình.
Không có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan
sắc xấu xí ấy thêm phần thảm hại: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy
xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, “cái ngực
gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”.
• Tính cách thị khi mới gặp Tràng:
- Cách nói năng, hành động đanh đá chua ngoa:
Cong cớn, sưng sỉa, chỏng lỏn vì miếng ăn.
Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu
dáng đon đả, đổi hẳn thái độ.
Cúi đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì lấy
đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà”. → Vô duyên, hành động táo bạo và bất chấp vì miếng ăn.
→ Mọi hành động của Thị đều chỉ vì muốn được sống, khao khát được hạnh
phúc, được có một mái ấm, một tấm chồng để nương tựa những lúc khó khăn
như này dẫn đến hành động theo không Tràng về làm vợ.
→ Một hiện thực đau xót của xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người dường như đã
xuống đến mức âm, thậm chí còn không bằng cọng rơm cọng rác, để đến nỗi
những người làng trông thấy Tràng dẫn vợ về họ còn cho đó là “của nợ”.
• Sau khi trở thành vợ Tràng:
- Trên đường trở về nhà với Tràng:
Thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng
che nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về nhà chồng.
Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người
làng, thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không.
- Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm, khiến
thị thất vọng, nhưng thị không hề phàn nàn với Tràng.
Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, dáng điệu khép
nép, ngại ngùng, thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn
với dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.
Sau đêm tân hôn, thị trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo
vát, gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân
hong, gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,...
Khi đối diện với nồi cháo cám “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và
vào miệng” → Cách cư xử tinh tế, bộc lộ sự thấu hiểu và cảm thông.
Kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá
kho thóc của Nhật. → Bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người
đàn bà bà này không cam chịu cuộc đời đói kém và tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.
c. Nhân vật bà cụ Tứ
• Sự ngạc nhiên của cụ khi a Tràng dắt vợ về
Khi làm về, thấy một người phụ nữ ngồi trong nhà mà còn thưa u. Bà cụ ngạc
nhiên vì con mình xấu xí, nghèo mà vẫn có vợ trong thời khó khăn.
Bà cụ vẫn không tin vào những gì con trai mình nói “Kìa nhà tôi nó chào u”…
“Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”
Bà vẫn không hiểu chuyện gì đang xảy ra
• Tâm trạng vừa mừng vừa tủi của bà cụ
Khi biết rằng con bà “ nhặt” được vợ: bà vui vì con đã an bề gia thất, buồn phận
làm mẹ mà không cưới nổi vợ cho con và bà nghĩ đến chồng, đến con gái lại càng trở nên buồn hơn.
Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn: Bà không biết
lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng con đã có vợ. Bà khóc vì thương con không
biết làm sao vượt qua nổi khó khăn này.
• Nỗi lo của bà cụ Tứ
Bà lo cho con trai, con dâu, cái gia đình nhỏ của mình không biết phải qua
những ngày khó khăn này như thế nào. → Khuyên con, khuyên dâu thương
nhau, cố gắng vươn lên.
→ Nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời.
• Niềm tin vào tương lai, vào cuộc sống của cụ Tứ
Bà suy nghĩ vui trong những điều tốt đẹp tương lai “Rồi ra may mà ông giời cho khá…”
Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa.
Vui trong bữa cơm đạm bạc đầu tiên có con dâu.
Bà vẫn luôn tạo một không khí ấm cúng cho bữa ăn để con dâu đỡ tủi.
→ Người mẹ nghèo từng trải đời, hết mực yêu thương con, luôn lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn.
→ Là đại diện cho người mẹ Việt Nam cần mẫn, mộc mạc, giản dị, giàu tình
yêu thương và đức hi sinh
d. Tình huống truyện
Bối cảnh xây dựng tình huống truyện: Nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết
quả là hơn hai triệu người chết. Cái chết hiện hình trong tác phẩm tạo nên một
không khí ảm đạm, thê lương. Những người sống luôn bị cái chết đe dọa.
Ngoại hình và gia cảnh của Tràng khiến anh khó lấy vợ: xấu xí, thô kệch, ăn nói
cọc cằn, thô lỗ. Nhà nghèo, đi làm thuê nuôi mình và mẹ già. →Tràng lấy vợ là
lấy cho mình thêm một tai họa.
- Tràng lấy vợ theo kiểu "nhặt" được: vài câu nói đùa, 4 bát bánh đúc là nên
duyên vợ chồng mà không cần tìm hiểu, yêu đương và cưới hỏi. Việc Tràng lấy
vợ là một tình huống bất ngờ khiến cả xóm ngụ cư và bà cụ Tứ hết sức ngạc
nhiên. Bản thân Tràng có vợ rồi vẫn còn " ngờ ngợ".
→ Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lí vì nếu không phải năm đói
khủng khiếp thì người ta không thèm lấy một người như Tràng.
• Giá trị hiện thực: tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói
+ Cái đói dồn đuổi con người: người chết như ngả rạ…
+ Cái đói bóp méo cả nhân cách: theo không người ta về làm vợ.
+ Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.
→ Vợ nhặt có sức tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân, phát xít.
• Giá trị nhân đạo:
Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật: anh
Tràng đối với cô thị, bà cụ Tứ với người con dâu và giữa 3 người họ với nhau.
Tràng rất trân trọng người "vợ nhặt" của mình.
Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người "vợ nhặt":
không còn đanh đá, chỏng lỏn mà thay vào đó là cô vợ đảm đang, biết lo toan, vun vén việc nhà.
Tình yêu thương con của bà cụ Tứ: Bà luôn miệng nói về ngày mai với những
dự định thiết thực tạo niềm tin cho dâu con vào một cuộc sống tốt đẹp.
→ Dù cho cuộc sống có nghèo khổ, khắc nghiệt thế nào thì ở họ vẫn tràn ngập
tình yêu thương và hi vọng về một tương lai tốt đẹp, tươi sáng hơn. Cái đói có
thể làm họ nghèo nàn, xơ xác về thể chất nhưng tình cảm và tấm lòng nhân hậu,
tình yêu thương dành cho nhau thì không cái đói nào có thể làm lu mờ. 3. Kết bài
Vợ nhặt là một trong những tác phẩm vô cùng thành công của Kim Lân. Với
những giá trị, ý nghĩa, thông điệp sâu sắc của mình, tác phẩm đã gây nhiều dấu
ấn quan trọng trong lòng bạn đọc.
Dàn ý Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài mẫu 2 I. Mở bài
- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh
nông thôn, hình tượng người nông dân lao động.
- Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông
dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng
ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ. II. Thân bài
1. Ý nghĩa nhan đề
“Vợ nhặt”: nhặt được vợ, thể hiện sự rẻ rúng của thân phận con người và phản
ánh tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói.
2. Tình huống truyện
- Tình huống: Tràng - một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại
là nhặt được, theo về không.
- Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hoàn cảnh của
Tràng khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo không về, tự ngờ
ngờ mình đã có vợ ư), với những người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.
- Tình huống éo le: hoàn cảnh gia đình và xã hội (khung cảnh nạn đói) không
cho phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, khó có
thể trở thành chỗ dựa cho nhau. 3. Nhân vật Tràng
- Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn,
cuộc sống bấp bênh, ..., bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai
bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, ...
a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ
- Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không
có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình. - Lần gặp 2:
+ Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư
dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
+ Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng
thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của
kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc,
thương yêu người cùng cảnh ngộ.
+ Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của
Tràng trước quyết định lấy vợ. b. Trên đường về
+ Vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm
thấy vênh vênh tự đắc”, ... Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.
+ Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa. c. Khi về đến nhà
+ Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn
tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
+ Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi
vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
+ Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải
nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
+ Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là
“phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng
Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy
+ Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần
áo, ...), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng
thấy mình trưởng thành hơn.
+ Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay
phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
- Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt
đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.
4. Nhân vật người vợ nhặt a. Lai lịch
- Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao
con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
- Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của
con người trong cảnh đói. b. Chân dung
- Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
- Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính
là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo. - Lần thứ hai:
+ Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn,
khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
+ Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ ... cùng về”, thị đã theo về thật
bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.
- Nhận xét: Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách
con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản
chất mà do cái đói xô đẩy. c. Phẩm chất
- Có khát vọng sống mãnh liệt:
+ Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo
không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
+ Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”,
thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
- Thị là người ý tứ và nết na:
+ Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị
ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
+ Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở
mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập
được vị trí trong gia đình.
+ Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã
rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
+ Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát,
chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
+ Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào
miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không làm bà buồn.
- Nhận xét: Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ
không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
- Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái
Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
- Nêu cả nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.
5. Nhân vật bà cụ Tứ
- Giới thiệu nhân vật: dáng đi lọm khọm, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho
húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.
- Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước
sự xuất hiện của người đàn bà lạ.
- Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoà đi”: thương cho con trai phải
lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà
khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.
- Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây ... đỡ mỏi chân”, nói về tương
lai với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn, ...
- Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu. III. Kết bài
- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo
le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật,
ngôn ngữ bình dị, gần gũi.
- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh
người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức
sống mãnh liệt của họ.
Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 1
Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê ở làng Phù
Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó
khăn, ông chỉ được học hết bậc Tiểu học rồi phải đi làm. Yêu thích văn chương,
ông bắt đầu sáng tác từ năm 1941. Một số truyện ngắn của ông lấy đề tài ở cuộc
sống lam lũ của người nông dân hoặc các sinh hoạt văn hóa truyền thống ở thôn quê.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông chuyên viết truyện ngắn về làng quê, mảng
hiện thực mà ông hiểu biết sâu sắc. Theo Nguyên Hồng thì Kim Lân là nhà văn
một lòng đi về với đất, với người, với những gì thuần hậu nguyên thủy của cuộc
sống nông thôn. Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955),
Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962). Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất
của Kim Lân, được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 bùng nổ
nhưng đến sau hòa bình lập lại 1954 mới cho ra mắt bạn đọc trong tập Con chó xấu xí.
Truyện Vợ nhặt kể về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của nhân dân ta trong thời
gian xảy ra nạn đói khủng khiếp đã làm chết hơn hai triệu người. Đấy là hậu quả
chính sách cai trị dã man của thực dân Pháp trong mấy mươi năm và chủ trương
tàn bạo “nhổ lúa trồng đay” của phát xít Nhật. Cũng như một số tác phẩm khác
viết về nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước những số phận
bất hạnh. Thông qua truyện, tác giả tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp,
phát xít Nhật; đồng thời phản ánh khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm
tin vào tương lai tươi sáng của người dân lao động.
Tóm tắt nội dung như sau: Anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, chỉ với vài câu bông
đùa và mấy bát bánh đúc mà nhặt được cô vợ đang sống dỡ chết dở vì đói. Họ
thành vợ thành chồng giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn diễn ra
âm thầm trong bóng tối lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà
có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới
chỉ có rau chuối, cháo loãng và muối Mẹ chồng đãi nàng dâu và con trai món
chè nấu bằng cám. Câu chuyện của ba mẹ con xoay sang việc Việt Minh tổ chức
phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Trong óc Tràng hiện lên hình ảnh
của đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…
Nhan đề Vợ nhặt đã thu hút sự chú ý của người đọc ngay từ đầu. Vợ nhặt là vợ
theo không, chẳng cưới xin gì. Tựa đề khá lạ của truyện đã nói lên đầy đủ về
cảnh ngộ, số phận của nhân vật. Chuyện anh Tràng bỗng dưng nhặt được vợ
phản ánh tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo
trong nạn đói khủng khiếp xảy ra vào mùa xuân năm 1945.
Thành công trước tiên của truyện Vợ nhặt là ở chỗ tác giả đã tạo ra một tình
huống độc đáo: Một anh chàng ngụ cư xấu xí, nghèo khổ, ế vợ, vậy mà đã nhặt
được vợ chỉ bằng vài bát bánh đúc. Giá trị của con người rẻ rúng đến thế là
cùng! Tác giả diễn tả tình huống đặc biệt này qua thái độ ngạc nhiên của dân
xóm ngụ cư khi thấy Tràng dẫn về nhà một người đàn bà lạ. Họ ngạc nhiên bởi
thời buổi đói khát này, đến nuôi thân còn chẳng nổi vậy mà Tràng còn dám lấy
vợ. Bà mẹ của Tràng cũng sửng sốt vì không ngờ con trai mình đã có vợ. Thậm
chí chính Tràng cũng chẳng hiểu tại sao mình lại có vợ dễ dàng đến thế.
Nguyên nhân sâu xa là do nạn đói khủng khiếp đang xô đẩy còn người vào chỗ
chết nên người đàn bà kia mới phải chấp nhận làm vợ Tràng. Ý nghĩa tố cáo của
tác phẩm tuy kín đáo nhưng sâu sắc. Tác giả không trực tiếp nói đến tội ác của
bọn đế quốc, phong kiến, vậy mà tội ác của chúng cứ phơi bày ra một cách đáng
ghê tởm và tình cảnh cớ cực, đói khát của dân nghèo quả là thê thảm.
Tình huống lạ lùng nói trên là đầu mối cho sự phát triển của nội dung truyện,
tác động đến diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật. Bối cảnh lớn
của truyện là nạn đói năm 1945, bối cảnh nhỏ là cái xóm ngụ cư tồi tàn ven chợ.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên bức tranh hiện thực với màu sắc ảm đạm và hình ảnh thê lương.
Cách đây không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con lại bu theo anh,
đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho
đi… Cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một lúc. Nhưng
bây giờ thì niềm vui nhỏ nhoi ấy không còn nữa: trẻ con không đứa nào buồn ra
đón Tràng… Chúng nó ngồi ủ rũ dưới những xó đường, không buồn nhúc
nhích… Nụ cười dễ dãi mọi ngày của Tràng cũng tắt: Trong bóng chiều nhá
nhem, Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay,
cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước. Hình như những lo lắng chật vật trong một
ngày đè xuống cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn… Đâu đâu cũng thấy
cảnh: Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt
bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp
lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ,
đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí
vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Quả là một cảnh tượng khủng khiếp! Thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra
nạn đói chưa từng thấy từ trước đến nay, khiến hàng triệu người chết đói. Khắp
nơi, đâu đâu cũng bao phủ bởi một màu địa ngục.
Tràng, nhân vật chính của câu chuyện là một thanh niên ngụ cư nghèo khổ, xấu
xí, sống hiu quạnh với mẹ già trong túp lều tồi tàn ở mé sông. Ngày xưa, kiếp
ngụ cư tủi nhục trăm bề. Họ bị dân làng khinh rẻ và phải làm những công việc
bị coi là hèn hạ như đầy tớ, thằng mõ… Dân địa phương dù nghèo đến mấy
cũng không chịu gả con gái cho đám ngụ cư vì cho rằng như thế là vô phúc. Đã
thế Tràng lại còn xấu xí: …hai con mắt nhỏ tí… quai hàm bạnh ra… bộ mặt thô
kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lí thú vừa dữ tợn… cái
đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước… cái lưng to rộng như lưng gấu… Vì thế nên
anh đã đứng tuổi mà vẫn không sao lấy được vợ.
Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào những dịp chở thóc lên tỉnh.
Lần thứ nhất, hai bên chỉ đùa bỡn dông dài vài câu rồi thôi. Lần sau gặp tại,
Tràng không nhận ra vì chị ta thay đổi nhiều quá. Chị ta nhắc mãi anh mới nhớ
ra và toét miệng cười xin lỗi rồi mời ăn trầu. Chị ta sỗ sàng gợi ý: Có ăn gì thì
ăn, chả ăn giầu. Anh vui vẻ đãi chị một bữa bánh đúc (thứ quà của người nghèo)
no nê. Thấy chị cắm cúi ăn như chưa bao giờ được ăn, Tràng động lòng thương,
liền bảo: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Câu nói của Tràng nửa đùa nửa thật. Đùa ở chỗ bỡn cợt cho vui, nhưng thật ở
chỗ trong thâm tâm, Tràng cũng đang muốn có vợ. Khốn nỗi vì anh nghèo quá
nên không ai chịu lấy. Thời ấy, đứng tuổi như Tràng mà chưa có vợ là không
bình thường, là bất hạnh. Câu nói của anh vừa tếu táo vừa đượm vẻ chua chát: Làm đếch gì có vợ…
Đã từ lâu, anh ao ước có được một người vợ, nhưng chí ít cũng phải là người
bình thường, khỏe mạnh chứ đâu phải là loại chết đói chết khát, dở người dở ma kia?
Tràng nói đùa không ngờ chị ta theo về thật khiến anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này
đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Nghĩ rồi
lo, nhưng anh tặc lưỡi: Chậc, kệ! Có lẽ anh cho rằng mình đang mạnh chân
khỏe tay, lại có công ăn việc làm, nên dẫu đèo bòng thì cũng chưa đến nỗi chết
đói ngay đâu mà sợ. Vả lại, anh nỡ lòng nào bỏ người đàn bà kia chết đói cho đành?
Chẳng còn là chuyện đùa bỡn nữa. Không chỉ đơn giản là cứu người mà còn
may mắn tự nhiên có được vợ nên Tràng phải nghiêm túc và có trách nhiệm.
Anh đưa chị ta vào chợ tỉnh, đãi thêm một bữa thật no, sắm cho cái thúng đựng
mấy thứ lặt vặt rồi dẫn về nhà. Trong lòng Tràng giờ đây không chỉ có tình
thương mà còn có niềm vui sướng, háo hức.
Mấy lần Tràng định nói với thị một vài câu cho tình tứ mà chẳng biết nói thế
nào. Cái phút ban đầu bao giờ chả thế. Đùa thì tự nhiên. Nửa đùa nửa thật đã
khó. Nay đã là thật rồi, khó biết mấy! Mà mọi chuyện có bình thường, êm đẹp
cả đâu? Tràng lúng túng là phải.
Tuy vậy, từ trong sâu thẳm lòng anh, niềm vui bất ngờ cứ dâng lên mãi: Trong
một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả
cái đói khát ghê gớm đang đe dọa… Trong lòng hắn bấy giờ chỉ còn tình nghĩa
với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn
ông nghèo khổ ấy… Đúng là thế. Đó là niềm vui to lớn nhất đời: anh đã có vợ.
Tình cảm của anh đối với người đàn bà xa lạ kia không chỉ là thương hại, cưu
mang mà còn là lòng biết ơn bởi chị ta đã chịu làm vợ anh mà không đòi hỏi
một điều kiện nào. Nhờ thế anh mới có được vợ và cuộc đời anh mới đổi khác.
Từ nay, anh không còn phải sống thui thủi một mình một bóng nữa.
Tràng dẫn người đàn bà về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Họ đi vào cái ngã tư
xóm chợ… xác xơ, heo bút., Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có
ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ
đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ
gào lên từng hồi thê thiết…
Bức tranh ngập tràn tử khí. Ảm đạm cảnh, ảm đạm người, nhà cửa, xác xơ, heo
hút, úp súp, tối om… chẳng khác chi những nấm mồ hoang lạnh. Sự sống chỉ
còn thoi thóp. Cái chết đã đến, đang đến. Lại thêm tiếng quạ cứ gào lên từng hồi
bởi chúng đã đánh hơi thấy mùi xác chết. Tất cả cảnh vật đểu đang lâm vào thế
lụi tàn, tan rữa. Giọng văn của Kim Lân ở đoạn này rất tỉnh táo, khách quan
nhưng dồn nén cảm xúc đau thương nên gây ấn tượng mạnh.
Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng
thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ,
để xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái
chết, họ tìm đến sự sống. Giọng kể của tác giả chợt trở nên hóm hỉnh: Mặt hắn
có một vẻ gì phởn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt
thì sáng lên lấp lánh. Tràng vui sướng trước sự kiện to lớn bất ngờ của đời mình:
anh đã kiếm được vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan, mình cũng đói,
mẹ già cũng đói, thế mà lại tự nhiên có vợ. Chuyện lạ lùng mà thú vị!
Lạ lùng với Tràng và lạ lùng cả với cái xóm ngụ cư tồi tàn, nhỏ bé này. Cái
cảnh Tràng đi trước, người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng rón rén,
e thẹn, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa
mặt… làm cho mọi người tò mò đổ ra xem. Lũ trẻ con thấy lạ trước. Cải lạ lùng
đã thắng cái đói, trả lại tính vui đùa hồn nhiên vốn có của chúng. Một đứa đột
ngột gào lên: Anh Tràng ơi! Chông vợ hài! khiến Tràng phải bật cười chửi yêu:
Bố ranh! mà trong bụng thì khoái lắm. Tiếp theo trẻ là bà con xóm chợ ai cũng
thấy lạ. Họ bàn tán… Họ hiểu đôi phần, khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rõ hẳn
lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui.
Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Họ muốn chia vui cùng anh. Cái xóm
ngụ cư đang hấp hối này bỗng bừng lên một thoáng sống.
Vui đấy nhưng lo ngay đấy. Người ta lo thay cho Tràng: ôi chao! Giời đất này
còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này
không? Ấy là họ lo cho cái sự sống đang phải đối mặt từng ngày với cái chết và
cứ hi vọng vượt lên cái chết.
Hai người về đến nhà Tràng. Cái tổ ấm của họ ra sao trong đêm tân hôn? Sự
sống được tiếp nối như thế nào?
Cái gọi là nhà đúng ra chỉ là túp lều vắng teo… rúm rớ. Trong lều, niêu bát,
xống áo… bừa bộn trên giường, dưới đất… Khung cảnh hoang tàn, vắng lạnh.
Tràng chợt có cảm giác sờ sợ người đàn bà ngồi bất động ở đầu giường như một
bóng ma… Có cái gì đó kì dị như trong truyện ma quỷ thời xưa.
Đến đêm, cảnh tượng lại càng lạ lùng hơn nữa. Tràng chỉ dám thắp đèn có một
lúc. Hai vợ chồng nằm bên nhau, đành giấu những gì yên và vui vào bóng tối.
Nhưng bóng tối cũng không yên mà hãi hùng, đáng sợ bởi đầy tiếng hờ khóc tỉ
tê… vẳng ra từ những nhà có người chết đói.
Lấy vợ lấy chồng là việc lớn một đời, là hạnh phúc trăm năm. Ấy thế mà ở đây,
chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của hai người lại bị bủa vây bởi cái đói và
cái chết. Buổi chiều là tiếng quạ kêu, là bóng người dật dờ như bóng ma, ban
đêm là tiếng hờ khóc người chết… Nhưng sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết,
sự sống vẫn sinh sôi nảy nở. Bi thương cùng cực thành dữ dội. Có cái gì đó
giống như một cảnh trong bi kịch của sếch-xpia hay trong tiểu thuyết Đô-xtôi-
ép-xki: dữ dội, kinh khủng nhưng thật sâu sắc, lớn lao.. Sự sống cứ tồn tại, bất
chấp cái chết. Rõ ràng, ý chí con người và quy luật cuộc đời mạnh mẽ biết là chừng nào!
Sau một đêm, Tràng thấy mình hoàn toàn đổi khác: Sáng hôm sau, mặt trời lên
bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở
trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như
không phải… Mình đã có vợ thật rồi sao? Ai vậy? Cưới bao giờ nhỉ? Không lẽ
mong ước bao lâu mà nay đã thành sự thật một cách dễ dàng, chóng vánh đến
thế ư? Chuyện xảy ra cứ như trong mơ, thật khó tin, nhưng cái cảm giác êm ái
lửng lơ lạ lùng chưa từng thấy vẫn đang tồn tại trong người và rõ ràng trước mắt,
người đàn bà bằng xương bằng thịt kia là vợ anh.
Vậy là chuyện anh Tràng tự dưng nhặt được cô vợ (không nghiêm túc về mặt
hình thức) giờ đã trở thành chuyện hoàn toàn nghiêm túc theo đúng đạo nghĩa
vợ chồng. Cái bên ngoài không đẹp ấy lại chứa đựng một nội dung thật đẹp, thật cảm động.
Nhu cầu được yêu thương và khao khát xây dựng cho mình một tổ ấm gia đình
là bản năng của con người. Buổi sáng sau đêm đầu tiên Tràng có vợ, không khí
gia đình anh trở nên khác hẳn. Nhờ sự có mặt của người đàn bà mà cái nhà của
anh mới thật sự là một tổ ấm. Trước kia, mẹ con Tràng chỉ sống tạm bợ cho qua
ngày. Nay ai cũng có trách nhiệm hơn với nhà cửa, vườn tược của mình. Nhìn
vợ và mẹ đang dọn dẹp, Tràng bỗng thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn
lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà
như cái tổ ẩm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn
ngập trong lòng. Tâm trạng này diễn ra ở một người như Tràng mới thật cảm
động. Người ta lấy vợ lấy chồng, điều ấy có gì đặc biệt lắm đâu; nhưng với
Tràng thì đó là cả một ước mơ lớn tưởng chừng không bao giờ thực hiện được.
Giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm chính là ở chỗ tác giả đã phát hiện, đồng
cảm và chia sẻ niềm vui sướng rất con người này ở những thân phận nghèo khổ
trong xã hội cũ. Niềm khao khát hạnh phúc gia đình và niềm tin le lói của người
dân lao động vào tương lai là rất đáng trân trọng.
Bên cạnh Tràng, người vợ nhặt cũng là một nhân vật trung tâm của truyện.
Người đàn bà ấy không có đến một cái tên để gọi. Không tên, không tuổi, cả
đến đặc điểm nhận dạng công không nốt. Chẳng ai biết gốc tích của chị ở đâu?
Cha mẹ là ai? Nhà cửa, anh em thế nào? Tất cả đều không. Chỉ biết là ngày
ngày, chị ngồi lẫn trong đám con gái trước cửa kho thóc để nhặt nhạnh hạt rơi
hạt vãi hay chờ ai có việc gì thuê mướn thì làm.
Hình thức của chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác: Áo quần tả tơi như tổ
đỉa… trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt… Chị ta là
một trong hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực, lang
thang vất vưởng kiếm ăn và sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ bất cứ lúc nào.
Việc chị ta trở thành vợ Tràng giống như một trò đùa, là chuyện tầm phơ tầm
phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng.
Xưa nay, hôn nhân là đại sự. Con gái lấy chồng, giàu nghèo gì cũng phải cố
cưới xin tử tế. Giàu thì làm lớn, mời họ mời làng. Nghèo đến mấy cũng phải có
mâm cơm trình tổ tiên, ông bà rồi mới nhận vợ, nhận chồng.
Vợ thì cung năm bảy loại. Có loại quý hóa như cô tiểu thư con quan trong Lí
ngựa ô, đem lại danh giá, sang trọng cho chồng. Có loại vợ phải tốn bao công
sức, tiền của mới cưới được… Tủi nhục thay cho những ai mang tiếng là vợ
theo (theo không, chẳng cưới hỏi gì). Xã hội, gia đình không chấp nhận những
cuộc hôn nhân như vậy. Tủi hơn nữa, người đàn bà trong truyện lại là vợ nhặt –
Tràng tình cờ nhặt được chị như nhặt được một vật gì đó rơi trên đường.
Lần đầu, chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời trêu
ghẹo của bạn bè. Chị lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc
mắt, cười tít. Chuyện đùa giỡn chì có vậy nên người đàn bà này không để lại
dấu ấn gì trong trí nhớ của Tràng. Vì thế, gặp lần thứ hai, anh không nhận ra chị
ta bởi: Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi… gầy sọp hẳn đi…
Chị ta đói. Đói lắm! Cái đói cào cấu ruột gan. Chị ta sỗ sàng gợi ý để Tràng mời
ăn và ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc. Cắm đầu mà ăn, chẳng chuyện trò gì
mải mê như chưa từng được ăn bao giờ. Quên cả giữ kẽ, quên cả thẹn thùng.
Quả là cái đói đã đẩy lùi sĩ diện, đẩy lùi nhân cách.
Ăn như thế là đói lâu rồi, nay chỉ cần có chút gì cho vào bụng để sống. Cảnh ấy
khiến Tràng động lòng thương. Anh buột miệng nói: Này nói đùa chứ có về với
tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Tràng chỉ đùa, ai ngờ chị ta theo về thật.
Người đàn bà ấy đi theo Tràng trước hết chì vì miếng ăn chứ chẳng có tình cảm
gì. Nghĩ cũng xấu hổ nên trên đường về nhà “chồng”, chị ta chả biết nói gì và tỏ
ra ngượng ngùng khi thấy mọi người trong xóm ngụ cư nhìn mình bằng ánh mắt tò mò.
Chị ta chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí chỉ là để có một nơi
nương tựa cho khỏi chết đói. Lâm vào tình cành éo le ấy, chị ta vừa ngượng
ngùng vừa tủi phận. Lúc gặp bà cụ Tứ, chị e sợ, khép nép, chẳng biết nói năng,
chào hòi thế nào cho phải.
Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng cho ăn một bữa no, ngoài
ra không biết tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có vợ (biết
là thật hay giả), vậy mà đi theo một cách dễ dàng, không đắn đo, sợ hãi. Có liều
lĩnh chăng? Nhẹ dạ chăng? Mặc kệ! Theo anh ta để được ăn, được sống cái đã,
vợ chồng là chuyện lâu dài, biết đâu mà tính trước. Khỏi đói, Khỏi chết lúc này
là quan trọng nhất. Mọi cái khác thứ yếu tất. Thế mới biết cái đói ghê gớm, kinh khủng biết chừng nào!
Vào nhà Tràng, chị cứ ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng,
mặt bần thần. Anh Tràng mời chị ngồi cơ mà? Sao chị không dám ngồi cho
ngay ngắn, đàng hoàng? Mẹ anh chưa về, có ai đâu mà giữ lễ? Hóa ra cái dáng
ngồi rụt rè, chông chênh ấy kì thực cũng là cái thế của lòng chị, đời chị. Liệu
chỗ ngồi này có phải là chỗ của chị không? Mái nhà này có phải là nơi để chị
dung thân không? Chị bần thần vì ngỡ như mọi chuyện vừa xảy ra không phải là
thực. Làm vợ, làm dâu mà đến thế này ư? Lấy chồng, cái hạnh phúc lớn nhất
của đời con gái ấy, chị có được hưởng chút nào đâu? Buồn lắm! Tủi lắm! Trăm
mối ngổn ngang. Chị không nói được nên lời, bởi cất tiếng, chắc chị sẽ khóc.
Nỗi đau không trào ra theo nước mắt mà lặn vào trong nên càng đau, càng tủi.
Ấy thế nhưng chỉ sau một đêm làm vợ Tràng, chị hóa ra khác hẳn: Tràng nom
thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ
gì chạo chát như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh… Hoàn cảnh sống nghiệt ngã
biến chị ta có lúc thành kẻ trâng tráo, nhưng bản chất thì không phải như vậy.
Nếu hôm qua, cái đói làm mất đi những gì tốt đẹp ở chị thì hôm nay, chị bắt đầu
có ý thức vun vén cho tổ ấm của mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước
đổ đầy ang… Có bàn tay săn sóc của chị, túp lều rách nát, tăm tối của mẹ con
Tràng bỗng trở nên sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Sự sống đã trở về với người, với
cảnh. Cho đến lúc này, chị mới có cảm giác chuyện làm vợ của mình là thật. Cái
hạnh phúc đơn sơ mà đầm ấm ấy đã đem đến một sự đổi thay thật sự trong hình
dáng và tính cách của người đàn bà, khiến cho Tràng phải ngạc nhiên, bỡ ngỡ.
Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng là nhân vật gây được nhiều thiện cảm đối với người đọc.
Tấm lòng nhân hậu của bà mới đáng quý làm sao! Lúc đầu, thấy người con gái
xa lạ ngồi ở giường con trai mình, bà ngạc nhiên lắm. Được chào bằng u, bà
càng chẳng hiểu gì và cố nhìn cho kĩ mà vẫn không nhận ra chị ta là ai. Bà phân
vân, đoán định… Mãi đến lúc Tràng bảo: Kìa nhà tôi nó chào u… thì bà mới vỡ
lẽ. Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn
hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình…
Ra thế! Thằng con mình nó đã kiếm được vợ, nhưng…
Bà tủi thân tủi phận là cha mẹ mà không làm tròn bổn phận đối với con cái.
Trăm sự cũng tại cái nghèo mà ra: Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con
là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này.
Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…
Bà lọ lắng thực sự: Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói
khát này không. Nhưng rồi ngẫm đến thân phận nghèo khó của hai mẹ con, bà
lại tự an ủi: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến
con mình. Mà con mình mới có vợ được… Nghĩ thế nên bà vui lòng chấp nhận
nàng dâu mới. Bà cư xử vói chị dịu dàng, âu yếm gọi chị là con, xưng u và bà
lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi…
Với tâm lí của một người mẹ, bà ao ước có được dăm ba mâm trước cúng tổ tiên
ông bà, sau mời làng mời xóm. Nhưng ao ước ấy không thể thực hiện được vì
bà nghèo quá. Bà rất biết trước biết sau, song cái khó bó cái khôn, bà đành chịu.
Bà chỉ biết nói với các con những lời khuyên nhủ chân tình cốt làm sao cho
chúng mày hòa thuận là u mừng rồi… Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá.
Con trai tự dưng có được vợ, bà lão mừng lắm: Bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác
ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu
dọn, quét tước nhà cửa… Bà không vui sao được khi con trai bà đã thành gia
thất?! Bà cũng vơi đi một mối lo âu bấy lâu nay cứ canh cánh bên lòng. Trong
bữa ăn đầu tiên của ba mẹ con, dẫu chỉ có cháo loãng với muối hột nhưng bà
toàn nói chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này :
– Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia
làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…
Ở người đàn bà già nua, nghèo khổ này chứa đựng những nét đạo lí cổ truyền
của dân tộc. Bà cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại, nhen
nhúm niềm tin, niềm vui sống cho các con. Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn
tạ vì đói khát ấy vẫn nung nấu một ý chí mãnh liệt: Bà lão lật đật chạy xuống
bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống
bên cạnh mọt cơm, cầm cái muôi vừa khuấy khuấy vừa cười:
- Chè đây… Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Rồi bà múc trao cho con dâu, con trai, miệng vẫn tươi cười, đon đả: - Cám đấy
mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy…
Bà lão “đãi” nàng dâu mới món ăn đặc biệt mà bà gọi là chè, nấu bằng cám. Bà
khen ngon đáo để và so sánh: Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy. (Vậy
có cám mà ăn như thế này là còn may lắm!) Chao ôi là khổ! Phải đói đến mức
nào thì mới ăn cám thấy ngon? Cuộc sống khắc nghiệt đày đọa con người, bắt
họ phải sống cuộc sống của loài vật, song nó không dập tắt được phần người, rất
người trong lòng bà mẹ khốn khổ kia. Bà cố đổi buồn thành vui. Bà cố tươi cười,
đon đả cho bữa cơm đỡ phần thê thảm, còn tác giả và chúng ta thì khóc. Khóc vì
thương, vì quý tấm chân tình của bà.
Sống giữa cái chết ngày càng che phủ bóng đen gớm ghiếc của nó vào mọi gia
đình, vậy mà những người nghèo khổ như mẹ con Tràng vẫn tin vào cuộc sống,
vào tương lai: Ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Bà cụ Tứ cứ tin vu vơ như thế. Vì
miếng cơm manh áo, họ buộc phải vượt lên mọi gian nan, khổ ải để sống nên
mới có được niềm tin dai dẳng và kì diệu ấy.
Ba mẹ con Tràng đã tìm thấy niềm vui trong sự nương tựa, cưu mang lẫn nhau
mà sống. Tình vợ chồng, mẹ con sẽ là động lực giúp họ tăng sức mạnh vượt qua
giai đoạn ngặt nghèo trước mắt. Tình cảm ấy rất cần nhưng chưa đủ để đảm bảo
cho ba người một tương lai tốt đẹp hơn. Hiện tại, cuộc sống vẫn một màu xám
xịt, đầy đe dọa và chết chóc: Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập,
vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù
lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen…
Cái tài của tác giả là cứ nhẹ nhàng như không mà luồn lách ngòi bút động đến
tận nơi sâu thẳm của tâm hồn, bắt người ta phải cười, phải khóc, phải sống với nhân vật của mình.
Trong suốt truyện, tác giả không một lần trực tiếp nhắc đến thực dân Pháp, phát
xít Nhật và bè lũ phong kiến tay sai nhưng tội ác của chúng vẫn hiển hiện, phơi
bày trên từng trang viết và được gói gọn trong câu nói đầy phẫn uất của bà mẹ
già: Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế.
Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ… Người con dâu nhắc
chuyện trên mạn ngược, Việt Minh phát động dân chúng không đóng thuế, lại
còn tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo… Điều ấy gợi cho
Tràng nhớ tới cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đô Sộp.
Đằng trước có lá cờ đỏ… và tâm trí anh bị cuốn hút mãi bởi hình ảnh ấy.
Tràng chưa được giác ngộ cách mạng nên lúc chứng kiến cảnh đó anh thấy sợ.
Giờ hiểu ra, anh lại ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu… Bước đầu, anh thấy rằng
cần phải làm như thế vì không có cách nào khác. Tin rằng lần sau, trong đoàn
người phá kho thóc của Nhật, thế nào cũng có mặt vợ chồng Tràng. Hình ảnh lá
cờ đỏ bay phấp phới đem đến cho Tràng bao hi vọng vào sự đổi đời. Đó là ý
nghĩa dự báo cách mạng của tác phẩm này.
Truyện Vợ nhặt tiêu biểu cho phong cách viết độc đáo của nhà văn Kim Lân.
Cốt truyện đơn giản nhưng chặt chẽ. Trong truyện, người và cảnh đan xen,
tương phản với nhau. Bản chất đẹp đẽ bên trong tương phản với vẻ xấu xí bên
ngoài, sự sống tương phản với cái chết… Tất cả đều nhằm mục đích làm nổi bật chủ đề của truyện.
Tác giả không miêu tả kĩ hiện thực tàn khốc lúc bấy giờ mà chú trọng đến việc
thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái bề ngoài xác xơ vì đói khát của
những người nghèo khổ. Viết truyện này, tác giả bày tỏ thiện cảm sâu sắc đối
với họ. Ông khẳng định sự đói khát, không tiêu diệt được bản tính tốt đẹp của
con người, hiện thực tăm tối không giết chết nổi niềm tin vào cuộc sống. Trong
hoàn cảnh cơ cực, đọa đày, họ vẫn nhen nhóm niềm tin, vẫn hi vọng vào sự đổi
đời và một tương lai tốt đẹp. Truyện gây ấn tượng mạnh với người đọc bởi tính
chất nhân văn cao cả, bởi ngôn ngữ mộc mạc, sinh động và giàu sức gợi tả. Tấm
lòng của tác giả gửi gắm trong truyện đáng quý biết chừng nào!
Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 2
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và
những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào
lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình.
Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện
thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút
pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc
sống bần cùng giai đoạn đó.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào
nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm,
“người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm
đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên
mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư
ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống
của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình
huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn
bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ
với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một
anh nông dân nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con
không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Khung cảnh buồn
thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ
của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái ao nâu tàng vắt
sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.
Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh
người nông dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực.
Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm
thay đổi cuộc đời của một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là
“nhặt” được chứ không phải lấy được. Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước
đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hội bấy giờ.
Hình anh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn
đầy ám ảnh “ thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người
đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo
khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.
Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu
hiu, ảm đảm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt.
Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa,
gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma.
Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”.
Không còn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như
vậy. Mọi thứ dường như bị cái đói, cài nghèo đè nén đếm chìm nghỉm. Bằng
ngòi bút tả thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót,
đắng cay cho những phận nghèo long đong.
Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người
đàn bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra,
có lẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt không
còn chua ngoa, đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ.
Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy
hai con người đến với nhau, không phải tình yêu nhưng là tình thương. Hẳn
người đọc sẽ cảm thông và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.
Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến
và sự chuyển đổi trong tâm tinh thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn
tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước
theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở
trong…” Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiển lên. Nhưng rồi bà cũng
nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ
nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp
con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên
nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả
qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện
rõ ràng hơn bao giờ hết.
Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ
mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là
hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu dầu tiên. Hình ảnh “nồi
cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình
“không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói
những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa
cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt
của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ
đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy
nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con.
Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
khiến người đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của
cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn.
Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nhân vật sắc
sảo, độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc
khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó
tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người với người luôn bất diệt.
Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 3
Kim Lân một trong những nhà văn viết truyện ngắn từ năm 1941. Sáng tác của
ông tập trung phản ánh bức tranh của nông thôn Việt Nam và hình tượng người
nông dân. Dưới nòi bút tài hoa của Kim Lân, bức tranh hiện thực của nông thôn
Việt Nam cũng như nỗi niềm, cuộc sống, cảnh ngộ và khát vọng của người
nông dân được thể hiện chân thực và sinh động. “Vợ Nhặt” là một trong những
tác phẩm thành công của Kim Lân với cốt truyện độc đáo cùng với lối dẫn
chuyện hóm hỉnh hấp dẫn người đọc.
Lấy cảm hứng từ nạn đói năm 1945, nhà văn Kim Lân đã tái hiện lại hiện thực
bức tranh ngày đói ám ảnh trong từng câu chữ, từng trang văn của ông. Bằng
ngòi bút tả thực kết hợp Kim Lân đã tái hiện cảnh vật với xã xơ heo hút của ngã
tư xóm chợ về chiều, rồi “hai bên dãy phố, úp súp, tối om”,”cái nhà vắng teo
đứng rúm ró một mảnh vườn mọc lổn nhổn”…Từng ấy thôi ngòi bút của ông đã
tô đậm lên bức tranh u tối, với cảnh sống đói nghèo của nông thôn Bắc Bộ
những năm 1945. Tất cả hiện lên đều còm cõi, xác xơ, rách rưới. Ở đó không
chỉ có cảnh vật mà con người cũng hiện lên lụi tàn cùng cái đói, cái nghèo. Cái
chết cũng được ghi lại trong âm thanh thê thiết, tạo nên sự ghê sợ, rợn người. ở
đó như đang dồn đuổi sự sống của con người đến đường cùng. Âm thanh của
tiếng quạ trên mấy cây gạo, của tiếng hờn khóc tỉ tê và cả tiếng trống thúc thuế
mỗi lúc một dồn dập hơn. Chỉ vậy thôi mà nhà văn như tô lại hiện thực tố cáo
sự tàn ác của bọn phát xít, đế quốc thực dân với những chính sách vô cùng hà
khắc, rẻ rúng mạng sống của con người.
Trong cái không gian ấy, hình ảnh con người được khắc họa lại khiến người đọc
không khỏi bàng hoàng về cái đói năm 1945 ấy. Sử dụng những câu văn dài
nhiều vế, kết hợp với biện pháp liệt kê Kim Lân đặc tả hình ảnh người đó “bồng
bế, dắt díu nhau như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ…”. Những
người sống đang lay lắt, dật dờ, sống một cuộc sống không phải cuộc sống của
con người. Người chết thì “như ngả rạ” và cái chết trở thành nỗi ám ảnh, đau
đớn và nhức nhối của biết bao con người. Có lẽ, chính vì thế mà nó thôi thúc
Kim Lân phản ánh lại bằng những trang văn đầy ám ảnh như vậy.
Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 4
Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân.
Người nông dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng
ngời những phẩm chất: yêu đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt
là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông khi viết về người nông dân.
Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện
“Con chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”
– được viết ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công. Tuy nhiên chỉ được
viết dở dang và sau đó mất bản thảo. Đến năm 1954, khi hòa bình lập lại, nhân
một số báo văn nghệ kỉ niệm cách mạng tháng Tám thành công, Kim Lân đã
nhớ lại tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, dựa trên cốt truyện cũ viết lại thành truyện
ngắn. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn trong giới sáng tác.
Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng
khiếp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn lan, khủng khiếp
diễn ra ở khắp nơi khiến con người không thể nào chống cự được, tất cả những
yếu tố đó đã được Kim Lân tái hiện thành công trong tác phẩm của ông.
Trước hết là màu sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt
của đàn quạ bay trên trời. Những màu sắc gợi lên sự chết chóc, ảm đạm, tàn lụi
và héo úa. Bao quanh không gian đó là mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của
xác người, mùi đốt đống dấm khét lẹt. Kết hợp với tiếng quạ kêu từng hồi, hòa
lẫn với tiếng khóc hờ từ những gia đình có người chết. Để làm rõ nét hơn, Kim
Lân còn cho người đọc thấy hình ảnh sáng nào cũng có ba bốn thây người nằm
chết còng queo bên đường. Tình cảnh vô cùng thảm thương, bất hạnh. Kim Lân
nhìn nhận hiện thực bằng cái nhìn chân thực, sắc nét, không né tránh, phơi bày
tất cả trên trang văn của mình, để người đọc thấy rõ cái khủng khiếp của nạn đói
năm 1945. Nhưng giá trị thật sự của tác phẩm là ở chỗ: từ trong bóng tối của cái
đói, cái chết, tác giả tìm thấy ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn con người.
Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên
truyện xuất hiện, đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu
Tràng. Tràng vốn là dân ngụ cư, sống tha phương cầu thực, những người dân
ngụ cư thường bị phân biệt, kì thị, sống ở rìa làng, chứ không được sống trong
trung tâm của làng như những người khác. Không chỉ vậy, họ còn không được
chia ruộng đất, không được tham gia bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng đồng nào
của làng xã. Anh cu Tràng bị đặt ra ngoài lề xã hội. Không dừng lại ở đó, gia
đình Tràng còn rất nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ con nương tựa vào nhau, vì
không được chia ruộng nên Tràng phải làm công việc bấp bênh để kiếm sống: kéo xe bò thuê.
Dường như số phận càng trở nên trớ trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, là người
ngụ cự, anh Tràng còn có ngoại hình hết sức xấu xí. Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm
vào bóng chiều, còn hai bên quai hàm bạnh ra, khiến khuôn mặt càng to lớn hơn.
Thân hình to lớn vập vạp, như một người khổng lồ. Tràng còn vừa đi vừa lảm
nhảm những điều mình nghĩ và cứ thể ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Anh cu
Tràng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp dẫn lũ trẻ con, còn với các cô gái anh hoàn toàn
không có chút hấp dẫn nào, cả về ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng không
có khả năng để lấy được vợ.
Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy
được vợ một cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân
ta thường có những câu hò để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh
cu Tràng cũng vậy, anh cũng hát, lời hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng
với giò. Lại đây mà đẩy xe bò với anh”. Lời nói ấy đã khiến thị theo anh cu Tràng về làm vợ thật.
Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng
con mới, dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng
trong nhà. Anh cu Tràng từ một kẻ thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình
và cười hềnh hệch, hôm nay bỗng trở nên tâm lí và tinh tế lạ thường. Trên
đường đi về Tràng vui sướng, hớn hở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn
mặt vừa hạnh phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống
cực khổ ê chề hàng ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm
hạnh phúc khi lấy được vợ. Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu, xấu
hổ, đứng tây ngây giữa nhà, chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung
sướng khi việc mình lấy vợ đã trở thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng
nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ
cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã
thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lí, nhạy bén và rất khéo léo trong cách
ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lí,
suy nghĩ của anh cu Tràng.
Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ông trong gia đình. Sáng
hôm sau, Tràng tỉnh dậy muộn, cảm thấy trong người dễ chịu, êm ái, như người
đi ra từ trong giấc mơ, anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ.
Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng
thay đổi mới mẻ, khác lạ, nhà cửa không bừa bộn mà được dọn dẹp sạch sẽ,
không khí gia đình trở nên ấm áp, vui vẻ, mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén
nhà cửa. Trành thấy thấm thía, cảm động và bỗng thấy yêu thương những người
xung quanh, đồng thời nhận thấy trách nhiệm của bản thân, phải biết lo lắng cho
gia đình, vợ con. Và sự ý thức đó đã được hiện thực hóa bằng hành động xăm
xăm chạy ra sân, muốn chung tay tu sửa căn nhà. Tràng muốn chung tay để
nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình. Đồng thời trong Tràng cũng
bừng lên khát vọng đổi đời mãnh liệt, anh biết quan tâm đến những chuyện
ngoài xã hội: mạn Thái Nguyên Bắc Giang không đóng thuế mà còn phá kho
thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp
phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng. Hình ảnh lá cờ chính là tín hiệu cho
tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt Minh, theo cách mạng.
Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của
nhân dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó còn là sự cảm thương cho
số phận họ. Trân trọng, phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam
trong tình cảnh khốn cùng: tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương lai.
Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật người vợ
nhặt. Người vợ nhặt không có lai lịch rõ ràng, không rõ tên tuổi, quê quán, nghề
nghiệp và cũng không hề có tài sản gì khi lần đầu gặp Tràng. Có thể thấy rằng,
trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa. Lần
thứ hai gặp Tràng, quần áo thị rác rưới, tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp đi vì đói,
mặt lưỡi cày xám ngoét, ngực gầy và lép, hai con mắt sâu trũng hoáy lại. Ngoại
hình thị vô cùng thảm hại, do cái đói đã gây ra cho con người. Ngôn ngữ của thị
cũng hết sức chao chát, chỏng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”,
“Hà, ngon. Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”, “liếc
mắt cười tít”, “sầm sập chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu ăn”,
“ăn xong lấy đũa quẹt một cái”. Thị tỏ ra là con người hết sức vô duyên, dường
như cái đói, cái chết có thể mài mòn nhân cách con người ta ghê gớm đến như vậy.
Nhưng đằng sau sự chỏng lỏn đến vô duyên ấy lại là một con người có khát
vọng sống vô cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành
động, cử chỉ trơ trẽn, vô duyên của thị lại là biểu hiện của khát vọng sống mãnh
liệt. Bên cạnh đó, thị còn hiện lên với vẻ đẹp nữ tính, trên đường về nhà, thị rón
rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách tả tơi
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi về đến nhà chồng, thấy quang cảnh
nhà chồng thị nén tiếng thở dài, ngồi mớn ở mép giường và vô cùng lễ phép khi
gặp mẹ chồng. Sáng hôm sau cô dậy sớm cùng mẹ dọn dẹp, vun vén nhà cửa.
Nhân vật thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Cuối cùng là nhân vật bà cụ Tứ, dù chỉ thấp thoáng trong tác phẩm, nhưng cũng
có vai trò, ý nghĩa quan trọng. Bà là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực: dân ngụ
cư tha phương cầu thực; chồng và con gái mất sớm. Cả đời lận đận, chỉ có tâm
nguyện lớn nhất là lấy vợ cho con nhưng mãi không dành dụm được tiền, trong
lúc nghèo đói đến cùng cực người con trai lại nhặt được vợ. Nhìn thấy con đưa
vợ về, bà nín lặng cúi đầu, băn khoăn, nhưng vẫn rất vui mừng cho đôi trẻ. Bà
dặn dò hai vợ chồng mới, nói những chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến niềm tin,
sự lạc quan cho chúng. Bà là một người mẹ nhân hậu và hết sức yêu thương con.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học
hiện thực. Tác phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo khổ của nhân dân,
đồng thời ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng,
nâng niu những ước mơ đổi đời của con người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng
cho thấy nghệ thuật phân tích tâm lí và miêu tả bậc thầy của nhà văn Kim Lân.
Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 5
Kim Lân được mệnh danh là nhà văn của người nông dân, của làng quê Việt
Nam bởi trong các tác phẩm của ông luôn hướng tới hình ảnh người nông dân.
Với văn phong giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc thấm đẫm tinh thần nhân văn,
tác giả Kim Lân đã gửi tới người đọc một tác phẩm kinh điển thể hiện tình cảm
đậm đà của ông dành cho những số phận người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ.
Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm đặc sắc đại diện cho văn
phong, cũng như nhân sinh quan của tác giả Kim Lân. Vợ nhặt ra đời khi nước
ta đang trong giai đoạn một cổ hai tròng vừa bị thực dân Pháp đô hộ, vừa bị
phát xít Nhật cai trị, kèm theo chế độ phong kiến trong thời kỳ suy tàn, thối nát
làm cho người dân vô cùng khốn khổ. Câu chuyện xoay quanh bối cảnh nạn đói
kinh điển năm 1945 làm chết hai triệu đồng bào ta. Tại một xóm ngụ cư nghèo
nơi tập trung những gia đình đi di tản từ khắp nơi kéo tới đây, tạo thành một khu ngụ cư mới.
Ngay cái nhan đề của tác phẩm “Vợ nhặt” đã gợi lên cho người đọc nhiều suy
nghĩ về nội dung câu chuyện, thể hiện một việc trọng đại của đời người chính là
việc dựng vợ gả chồng nhưng lại được làm rất qua loa, như việc nhặt một món
đồ, một viên gạch ngoài đường mang về nhà.
Mở đầu tác phẩm tác giả Kim Lân đã phác họa lên hình ảnh nhân vật anh cu
Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…”
Chỉ bằng vài chi tiết nho nhỏ tác giả Kim Lân đã khiến cho người đọc hình
dung ra được hình ảnh nhân vật
Nhân vật Tràng là người có ngoại hình thô kệch, xấu xí, gia cảnh thì mẹ góa con
côi, bần hàn. Hắn chẳng có điểm nào thu hút phụ nữ. Công việc của Tràng làm
nghề kéo xe bò thuê chở hàng cho người ta, một công việc lao động tay chân,
bán mồ hôi sức lao động để kiếm vào đồng xu lẻ. “Hắn bước đi từng bước mệt
mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực
nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.
Sự đói nghèo bần hàn, vây quanh lấy hắn, nhưng trong đầu hắn luôn hiện lên
những suy nghĩ lạ lùng thỉnh thoảng lại thấy hắn ngửa mặt cười cười một cái gì
đó. Tràng thật sự là một con người kỳ quái.
Giữa khung cảnh nghèo đói, cùng cực ấy. Một con người xấu xí, thô kệch nghèo
khổ như Tràng những tưởng vĩnh viễn phải sống kiếp cô độc vì chả có gì thu hút
người khác thì làm sao mà lấy được vợ. Nhưng không ngờ Tràng vẫn lấy được
vợ, mà con lấy được một cách dễ dàng “nhặt” được vợ như nhặt một cục đá mà thôi.
Chỉ bằng những câu nói bông đùa vu vơ, mà Tràng nhặt được vợ “Muốn ăn cơm
trắng với giò, thì ra đây đẩy xe bò với anh nào” Chỉ có như thế thôi nhưng một
cô gái ngoan ngoãn ra đẩy xe với hắn. Rồi theo hắn về nhà làm vợ.
Tác giả Kim Lân đã xây dựng tình huống truyện vô cùng thú vị, độc đáo làm
thay đổi số phận của nhân vật Tràng. Làm cho câu chuyển sang một hướng rẽ
mới thú vị và thu hút người đọc. Hành động nhặt được vợ của Tràng khiến
người ta phải suy nghĩ, bởi việc lấy vợ lấy chồng là việc vô cùng quan trọng
trong đời người, bình thường người ta phải làm thật cẩn thận suy tính trước sau.
Cô gái làm vợ Tràng cũng thật thiệt thòi biết bao, làm vợ người ta mà không có
một lễ cưới, không được làm dăm ba mâm ra mắt họ hàng, không có giấy đăng
ký kết hôn, không có chứng nhận của hai bên họ hàng.
Sự nghèo khó đã đẩy những con người khốn khổ xích lại gần nhau hơn. Họ tìm
đến với nhau để nương tựa vào nhau trong lúc khó khăn, cho bớt cơ cực. Họ
cũng hy vọng khi có nhau rồi cuộc sống của họ sẽ thay đổi ít nhiều có thêm niềm vui vào tương lai.
Hình ảnh vợ Tràng hiện lên làm người đọc không khỏi xúc động “ thị cắp cái
thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi
nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”.
Khi đưa thị về nhà khung cảnh xóm ngụ cư hiện lên đìu hiu, buồn bã, ảm đạm
như những con người sống trong xóm nghèo đó “từng trận gió từ cánh đồng thổi
vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa.
Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma...”
Những người hàng xóm tò mò hỏi Tràng về người phụ nữ đi bên cạnh Tràng.
Họ tò mò vì một người nghèo khổ xấu xí như Tràng mà cũng có gái theo.
Nhưng có người cũng thực tế hơn họ cho rằng trong thời kỳ đói khổ miếng ăn
không có như hiện nay mà còn cưới vợ vác thêm một miệng ăn về nhà thì khác nào vác một cục nợ.
Cứ như thế Tràng và thị đi trong những tiếng xì xào, bàn tán nhưng họ cứ mặc
kệ cứ bước đi bên nhau và hy vọng vào ngày mai tươi sáng hơn.
Cuộc gặp gỡ giữa mẹ chồng nàng dâu cũng khiến nhiều người phải ám ảnh bà
cụ Tứ mẹ Tràng “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà
sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…”
Lúc đầu bà cụ lo lắng lắm nhưng rồi bà cụ Tứ cũng nhận ra vấn đề “bà lão cúi
đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao
nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta
dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…”
Những suy nghĩ đau đớn chua xót của một người mẹ thương con, được tác giả
Kim Lân tái hiện qua những trang viết vô cùng xúc động làm lay động trái tim người đọc.
Bà cụ Tứ vui mừng chấp nhận người vợ của con trai mình. Hình ảnh bữa cơm
đầu tiên sau đêm tân hôn hiện ra khiến nhiều người không khỏi nghẹn ngào
đắng ngắt trong cổ họng. Đó chính là “nồi cháo cám” với đĩa muối trắng, hoa
chuối thái vội. Một hình ảnh đại diện cho cái nghèo, hiện lên chân thực, mộc mạc
Tuy nhiên, trong bữa cơm ấy ba con người trong câu chuyện lại ăn uống rất
ngon. Họ còn nói chuyện với nhau về tin đồn Việt Minh phá kho thóc Nhật chia
cho dân nghèo. Trong bữa cơm ấy, ba con người khốn khổ cùng mơ ước có một
ngày được thấy ngọn cờ đỏ sao vàng, được sống một kiếp sống khác. Họ cùng
nhau tin tưởng vào tương lai.
Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 6
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một
nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một
lòng đi về với “thuần hậu phong thuỷ” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay
ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư khi hoà bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp
tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ Nhặt” ra đời.
Lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới,
một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi
vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng,
người vợ Nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng
truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có công khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân đã từng nói “Khi viết về nạn đói người ta
thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta
hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện
ngắn nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới
cuộc sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào tương lại. Họ vẫn muốn sống, “sống
cho ra con người”. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống về
tương lai của những con người đang kề cận với cái chết.
Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp với
khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công
ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ
lưỡng, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt chúng ta một không gian đói thật thảm hải, thê lương.
Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bón ma vật vờ, lặng lẽ
giữa tiếng khóc hờ và tiếng gào thét gửi gắm trong không gian tối đen như mực
ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành,
yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận
như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ
phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc của Nhật ở cuối thiên truyện.
Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ”
của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh của khép mở để nhân vật bộc lộ nét
đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn
với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm
người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỉ hơn
là vị tha và người ra rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà
văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân vật anh cu Tràng,
người vợ nhặt và bà cụ Tứ.
Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn
xanh xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi
và mùi gây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết”
ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao
đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và của người vợ Tràng nữa.
Một thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người – thân xác
vạm vỡ, lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại chứa
đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp.
“Cái đói đã tràn vào xóm tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô
vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều
lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành
một gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy
trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương
chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa một ao ước thiết thực về sự
đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng
dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy
không hề mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu
mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ.
Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”,
“ngỡ ngàng” như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và
nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn.
Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tình.
Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cọc cằn, Tràng đã sớm thay đổi trở thành
một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc ấy dường
như một cái gì đó “ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn
tay vuốt nhẹ sống lưng”. Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến “trong một lúc Tràng
dường như quên hết tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng
ngày qua”. Và Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất
hợp logíc. Những thay đổi ấy không có gì khác ngoài tâm hồn đôn hâu, chất
phác và giàu tình yêu thương hay sao?
Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác
lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có
hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng
nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình
hạnh phúc. “Hắn thấy yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”, “hắn thấy mình
có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa.
Hành động cử chỉ ấy của Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự
chuyển biến lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hoà thuận ấy đã
nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ thay
đổi khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận,
cuộc đời hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tố ấy rồi sẽ
qua đi để đón chờ ánh sáng cuộc sống tự dong đang ở phía trước sức mạn của
thời đại. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại hạnh phúc, niềm tin ấy trong
các nhân vật của mình. Người vợ nhặt làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư
nghèo, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người
rạng rỡ hẳn lên. Từ con người chao chát chỏng lọn đến cô vợ hiền thục, đảm
đang là một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế?
Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua
bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta
không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân
phong kiến đã bóp nghẹt quyền sống của con người. Thị xuất hiện không tên
tuổi, không quê quán, trong tư thế “vân vê tà áo rách bợt bạt”, điệu bộ trông thật
thảm hại nhưng chính con người ấy lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi
tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình. Thị đã đem đến một
luồng sinh khí mới, sinh khí ấy chỉ có được trong con người thị dung chứa một
niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống vào tương lai.
Thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu cho tác phẩm.
Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh cu Tràng ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm
trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật
này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin
vào cuộc đời phía trước trong những ngày con người đói khổ ấy. Và thật ngạc
nhiên, khi nói về ước vọng ở tương lại, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời
người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám
phá ra một nét đẹp độc đáo vô cùng: tình cảm, ước vọng ở cuộc đời lại được tập
trung miêu tả khá kĩ ở nhân vật bà cụ Tứ.
Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật. Bà cụ Tứ
đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm
sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm,
Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói.
Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường
đặt nhân vật ấy vào tình thế căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh
không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay trong
chính nội tâm của mỗi nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình.
Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo
vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người
đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ
ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín lặng”. Cử chỉ, hành động ấy chất chứa
bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi
buồn cứ hoà lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều
bà nhìn cô con dâu đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lòng đầy xót thương. Bà
thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình,
mà con mình mới có vợ”. Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi
nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng “Thôi, chúng mày đã phải duyên phải kiếp
với nhau thì u cũng mừng lòng”.
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang
ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo
ấy, đói khổ không phải là một vật cản lớn. Đói rét thật nhưng trong lòng bà cụ
vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và
thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia
cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đang dang
tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm
chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa
của tình người, tình thương yêu nhân loại bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng
tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con
mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên
nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày
đói thật thảm hại. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình.
Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình
người. Nồi chè cám nghẹn bứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm
lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão “lễ mễ” bưng nồi chề và vui vẻ giới
thiệu “Chè khoán đấy. Ngon đáo để cơ”. Ở đây nụ cười đan xen lẫn ngước mắt.
Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng
chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa
một sự cảm phục lớn lao ở những con người bình thường mà đáng quý.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề
mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật
thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của
tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở nhưng thân
phận đói nghèo, thảm hại kia. Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng
những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điếm áng mà Kim Lân
từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài tâm lý
nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân - một nhà văn được
đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
“Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôxtôiepki). Vâng Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân
thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc
sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã có đóng
góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm
mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ
nhất trong tâm hồn người đọc chính là điểm sáng tuyệt vời nhất.
Phân tích truyện ngắn Vợ nhặt - Bài số 7
Văn học chính là lăng kính chủ quan, phản ánh hiện thực một cách khách quan,
chính xác nhất. Bởi vậy mà nhà văn Kim Lân đã dùng ngòi bút của mình để
phác họa thành công bức tranh cuộc sống, sinh hoạt của người nông dân trong
nạn đói năm Ất Dậu qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Nhà văn đã đem vào thiên truyện
của mình một điểm sáng mới, đó là niềm tin, niềm hi vọng vào một tương lai tốt
đẹp dù hiện tại có khó khăn đến nhường nào.
Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, ngòi bút của ông thật sắc sảo
khi tập trung miêu tả những phong tục tập quán và đời sống làng quê với những
“thú vui đồng quê hay phong lưu đồng ruộng”. “Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc
được in trong tập “Con chó xấu xí” của nhà văn, viết về người nông dân trong
tình cảnh thê thảm của nạn đói với bản chất tốt đẹp, lương thiện. Bằng khả năng
sáng tạo của mình, nhà văn đã thành công ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
và hàng loạt các biện pháp nghệ thuật đặc sắc khác khi xây dựng nhân vật của mình.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, nhà văn đã để lại chúng ta những điều tò mò
mới mẻ về cuộc sống của những con người bần hàn trong cái đói tưởng chừng
như thảm họa. Với Kim Lân, “nhặt” là một hành động thu lượm những thứ rơi
vãi ở dưới đất, những vật có giá trị không cao. Thế nhưng ở đây, hành động ấy
lại được gắn liền với hình ảnh của người “vợ”. Đó chính là sự trân trọng của tác
giả đối với nhân vật của mình bởi người vợ luôn có một vị trí quan trọng trong
gia đình. Thế nhưng trong hoàn cảnh này, thân phận của con người lại rẻ rúng
hơn bao giờ hết, chỉ cần vài câu nói bông đùa của anh cu Tràng mà người phụ
nữ đó đã theo không Tràng về nhà và trở thành người “vợ nhặt”. Tất cả những
điều đó đã làm nên một nhan đề độc đáo, gây ấn tượng mạnh, thể hiện thảm
cảnh của người dân trong nạn đói năm 1945, bộc lộ sự cưu mang, khát vọng
sống, và niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.
Chủ đề của tác phẩm không chỉ được thể hiện ở nhan đề mà nó còn được thể
hiện thông qua tình huống truyện. Có nhà văn đã từng nói: “Tình huống truyện
chính là thứ nước rửa ảnh để thông qua đó nhân vật nổi hình nổi mảng”. Tình
huống truyện là nghệ thuật sắp xếp, tổ chức các chi tiết, sự kiện trong tác phẩm,
qua đó bộc lộ tính cách, số phận nhân vật góp phần thể hiện tư tưởng, chủ đề
của tác phẩm. Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã đem đến cho chúng ta một tình huống
truyện vừa éo le, lại vừa bi hài. “Vợ nhặt” được bắt đầu ở thời điểm cái đói mà
tác giả gọi là hiểm họa tràn đến. Trong không gian thê thảm của nạn đói, tình
huống Tràng lấy vợ đã tạo nên khung cảnh vừa bi vừa hài, chỉ mấy câu nói bông
đùa mà nào ngờ lấy được vợ thật. Tràng xấu trai lại ngờ nghệch, nay lại có
người theo về cho ta thấy nghịch cảnh không biết nên cười hay nên khóc. Tình
huống truyện éo le trên đã cho ta thấy tính nhân bản và tình cảm nhân đạo của
tác phẩm. Hoàn cảnh đã làm thay đổi con người, tố cáo chế độ thực dân phong
kiến đã đẩy con người vào bước đường cùng.
Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã phác họa nhân vật anh cu Tràng cũng là nhân vật
chính của phẩm được xuất hiện giữa một không gian đầy u ám, tử khí vì “người
chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của
xác người chết”. Tràng là một người nông dân có cuộc sống nghèo khổ nhưng
lại có tính thương người, luôn khao khát một mái ấm gia đình và luôn có hi
vọng vào một tương lai tươi sáng.
Anh cu Tràng là một người nông dân có cuộc sống nghèo khổ được thể hiện
ngay ở cái tên gọi mà tác giả đặt cho. Tràng không tội nghiệp đến mức không có
một cái tên thế nhưng cái tên Tràng lại gợi lên bao điều lam lũ, khó nhọc bởi đó
cũng là tên của một dụng cụ lao động. Tràng không đến mức quá tiều tụy thế
nhưng lại được hóa công gọt đẽo rất sơ sài: “Hai con mắt gà gà đắm vào bóng
chiều”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, “bộ mặt thô kệch”, “cái đầu trọc nhẵn”, “cái
lưng to rộng”. Qua cách miêu tả của Kim Lân, ta thấy Tràng kết tinh được cái
phần tự nhiên, hoang dại của con người. Tràng hay “ngửa mặt lên trời cười hềnh
hệch”, “vừa đi vừa nói nhảm”, trở thành “đối tượng bông đùa của những đứa trẻ
xóm ngụ cư”, tính tình thì “ngộc nghệch”. Hoàn cảnh sống của Tràng cũng
chẳng dư dả gì. Nơi ở là “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại”, “những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường,
dưới đất”. Những chi tiết ấy đã cho thấy cuộc sống thiếu thốn, nghèo khổ của hai mẹ con Tràng.
Ông cha ta đã dạy ta đừng nên “nhìn mặt mà bắt hình dong” thật đúng như vậy.
Tuy Tràng có vẻ bề ngoài thô kệch, tính tình ngộc nghệch thế nhưng ẩn sâu
trong tâm hồn Tràng vẫn chứa đựng biết bao hạt ngọc của tâm hồn. Tràng là
người nhân hậu và giàu tình thương người. Thấy người đàn bà đói, Tràng đã
cho ăn “một chặp bốn bát bánh đúc” bởi anh không nhẫn tâm từ chối khi người
ta quá đói. Đó là một việc làm thật đáng quý, thể hiện truyền thống “thương
người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách” của dân tộc ta. Khi người vợ
nhặt quyết theo Tràng, đây không phải là chủ tâm của Tràng tìm vợ mà thực tế,
Tràng lấy vợ vì lòng thương người, vì một con người còn đói khát hơn cả mình.
Bên cạnh tấm lòng nhân hậu, Tràng còn là người luôn khát khao hạnh phúc gia
đình, hạnh phúc lứa đôi. Tràng có ý thức chăm sóc người phụ nữ của mình:
“Hôm ấy hắn đưa thị xe bò về rồi mua hai hào dầu để thắp sáng ngôi nhà lạnh
lẽo”. Những việc làm đó đã chứng tỏ Tràng rất trân trọng vợ mình. Tràng thật
sự sung sướng và hạnh phúc khi có người vợ nhặt.
Đi bên cạnh người vợ “rách như tổ đỉa”, Tràng không thấy xấu hổ mà còn rất
“phớn phở”. Vẻ mặt ấy chính là sự xúc động của nhân vật trước tình huống éo
le nhặt được vợ. Không gian trên đường rước dâu ảm đạm thê lương nhưng
niềm vui của Tràng đã lấn át đi tất cả. Anh muốn làm cho vợ mình được vui,
“có lúc muốn thân mật nhưng không dám xuồng xã, muốn bày tỏ tình cảm với
vợ nhưng lại lúng ta lúng túng, tay nọ xoa vào tay kia”. Tràng nâng niu, trân
trọng hạnh phúc mình có được: “Trong một lúc, Tràng dường như quên hết
cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa”.
“Tràng cảm nhận thấy cái mới mẻ, mơn man khắp da thịt Tràng”. Đó chính là
hiện diện của tình yêu, niềm hạnh phúc mà Tràng đang khao khát. Đêm buông
xuống, hạnh phúc của vợ chồng Tràng được bao bọc bởi bóng tối, bởi âm thanh
tiếng hờn khóc tỉ tê từ những gia đình có người chết đói. Tràng vẫn cảm thấy sự
kiện mình có vợ là quan trọng và cần nâng niu hơn cái đói đang hoành hành.
Nhà có thêm người mới, Tràng đã thắp đèn lên cho sáng sủa, để xua tan đi cái
tối, cái thê thảm của của những kiếp người leo lét. Ngọn đèn dầu sáng lên chính
là hiện thân cho khát vọng sống, là ánh sáng để đấu tranh với bóng tối, giữ gìn
sự sống để đấu tranh với cái chết. Phải chăng, tình yêu là vũ khí lợi hại để có thể
khiến Tràng thay đổi hoàn toàn vào buổi sáng ngày hôm sau. Trước đây, Tràng
sống dường như không quan tâm đến mình, sống tạm bợ cho qua ngày, không
có ý thức chuẩn bị cho ngày mai. Kể từ khi có vợ, tâm lí anh khác hẳn: “Cảnh
tượng thật đơn giản nhưng đối với hắn thật thấm thía và cảm động”. Tất cả được
Tràng nhìn bằng ánh sáng mới, bằng con mắt mới, bằng trái tim của một con
người đang hạnh phúc, đang yêu và đang được yêu. Hạnh phúc đã đem đến cho
Tràng ý thức làm người, “Tràng thấy mình nên người từ khi có vợ”.
Trước đây, anh vô tâm vô tính, giờ có ý thức về bổn phận của mình hơn, mình
cần có trách nhiệm với gia đình này. Hình ảnh của Tràng trong ngôi nhà đầm
ấm, hòa hợp khiến cho ai cũng thay đổi. Bà cụ Tứ trở nên tươi tỉnh khác hẳn
ngày thường, người vợ nhặt đúng mực người vợ hiền, dâu thảo, Tràng đã nên
người và làm nổi bật vẻ đẹp của hạnh phúc. Dù hiện tại có đói khổ nhưng Tràng
vẫn luôn giữ một niềm lạc quan, yêu đời, luôn tin vào tương lai tươi sáng. Trong
bữa ăn, chỉ có mỗi nồi cháo cám chát đắng, Kim Lân đã để cho nhân vật bàn tán
về việc Việt minh phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Trong tâm trí
Tràng lúc bấy giờ hiện lên hình ảnh đám người đói và lá cờ cỏ sao vàng đang
phấp phới tung bay trên nền trời xanh thẳm. Tràng nghĩ đến ánh sáng, nghĩ đến
niềm vui, niềm tin đổi đời vào cách mạng. Tràng có cảm giác nuối tiếc khi mình
tránh đi con đường khác, ý thức hối hận khi không hòa mình vào đám người đói
theo Việt minh, điều đó cho thấy ước mơ vươn lên để đổi đời gắn liền với khát
vọng sống của người nông dân Việt Nam đương thời.
Trong ba nhân vật, người vợ nhặt là nhân vật được nói đến ít nhất. Thực ra, nếu
không có nhân vật người “vợ nhặt” thì nội dung và nghệ thuật của tác phẩm bị
ảnh hưởng rất nhiều bởi đây là nhân vật làm nên giá trị nội dung và tư tưởng
của tác phẩm, có vai trò quyết định đến sự hình thành các hình thức nghệ thuật
khác. Người vợ nhặt là một nhân vật không có tên gọi, lai lịch, gốc gác, ngoại
hình tiều tụy nhưng là một người vợ đúng mực, một người con dâu hiếu thảo và
là người đem đến niềm vui, niềm lạc quan cho mọi người.
Người vợ nhặt là một nhân vật đặc biệt, nhân vật này không có tên, được gọi là
“thị”, “người đàn bà”, “người con dâu”. Đây là cách gọi khiến cho tính khái
quát ngày càng rộng. Ta hiểu thời bấy giờ không chỉ có một mà có muôn vàn
người đàn bà cùng rơi vào cảnh ngộ đáng thương như thế. Về lai lịch, gốc gác,
người đàn bà cũng chẳng được giới thiệu cụ thể, cũng chẳng ai biết thị đến từ
đâu, chỉ biết rằng chị “ngồi vêu ra ở cửa kho, nhặt hạt rơi, hạt vãi hay ai có việc
gì gọi đến thì làm”. Người vợ nhặt không có quê hương, không có quá khứ, là
hiện thân cho một kiếp người lênh đênh, trôi dạt trong thảm họa đói khát, không
lưu giữ được một chút gì về sự tồn tại của bản thân mình.
Ngoại hình của thị được tác giả miêu tả rất tỉ mỉ: “Cái nón rách tàng nghiêng
nghiêng che mất đi nửa mặt”. Khi tác giả quay ngược trở lại thời gian ở lần gặp
thứ hai của thị với Tràng, ta thấy thị giống như bao kẻ đói khát khác: “Hôm nay
trông thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái gương
mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Ngoại hình của thị trông rất tiều
tụy, thị là hiện thân của những con người bần cùng đói phát phải “tha hương cầu
thực”, “tối đâu là nhà, ngã đâu là giường” (Nguyễn Khải). Với những chi tiết
miêu tả ngoại hình trên, nhà văn Kim Lân đã cho người đọc thấy người phụ này
đã phải chịu đói nhiều ngày, sự đói khát cùng đường làm cho chị mất hết đi nét
nữ tính vốn có. Điệu bộ thị “chao chát, chỏng lỏn”, lần đầu giữa lúc đang nhàn
rỗi nghe câu hò buông ra của Tràng và những lời trêu ghẹo của bạn bè nhưng vì
đói chị đã “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng- một người đàn ông mà chị không
hề quen biết. Thị đùa giỡn với anh, liếc mắt cười tít để tạo thiện cảm với Tràng,
như vậy có thể nói là vô duyên, trơ trẽn nhưng chị vẫn đẩy xe cho Tràng và
chưa được ăn “cơm trắng với giò” như lời Tràng đã hứa.
Lần khác gặp lại Tràng, chị xưng xỉa trách móc “điêu, người thế mà điêu” làm
cho Tràng không hiểu gì cả. Những lời thoại ấy đã chứng tỏ người phụ nữ đã cố
ý lái câu chuyện để thể hiện mục đích được ăn cơm. Phải chăng sự đói khát
đường cùng đã khiến chị thành kẻ táo tợn, trơ trẽn, không cần giữ danh dự, chỉ
biết biến lời nói đùa thành sự thật để được ăn “cơm trắng với giò”. Khi được
Tràng mời ăn, “hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên”, “thị ngồi sà
xuống ăn thật, thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò
gì, ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Chính cái đói, cái khát đã
thử thách nhân cách của người phụ nữ thật ghê gớm. Nạn đói năm Ất Dậu như
một cơn lũ khủng khiếp cuốn phăng đi tất cả. Vì đói, người phụ nữ ấy đã đẩy lùi
sĩ diện, không lo danh dự, nhà văn không sa vào chủ nghĩa tự nhiên, không chê
bai giễu cợt nhân vật mà nhà văn muốn ta hiểu một thực tế rằng miếng ăn trong
cái đói que quắt nhiều khi thúc bách khiến họ quên đi cả ý tứ, không còn sĩ diện
nữa, bản năng sinh tồn đã vượt lên trên tất cả. Liều lĩnh hơn khi chị chấp nhận
theo không Tràng về làm vợ. Vì một câu nói đùa, người vợ nhặt biến lời rủ rê
thành lời cầu hôn chính thức, biến tất cả đùa thành thật, thị theo không Tràng về
nhà mà không hề biết gia cảnh, tính tình của người đàn ông ấy. Thị đã tự hạ
thấp giá trị của mình đến rẻ rúng như những vật không giá trị bị vứt ngoài đường.
Tác phẩm đã thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ bị cái đói đe dọa,
thủ tiêu, tha hóa nhưng trong thị vẫn ánh lên những phẩm chất tốt đẹp của lòng
ham sống mãnh liệt, khát khao hạnh phúc gia đình, ý tứ, hiền hậu đúng mực và
luôn lạc quan tin tưởng. Người vợ nhặt mang một vẻ đẹp nữ tính dịu dàng đúng
mực kể từ khi theo không Tràng về nhà. Trên đường về, có lúc người vợ nhặt đã
trách chồng bỏ ra hai hào để mua dầu thắp “hoang nó vừa chứ”. Lời trách móc
ấy thể hiện ý thức gia đình, vun vén cuộc sống hôn nhân, bởi vậy, thị đúng là
một người vợ thực sự. Cùng Tràng trên đường về nhà, thị cắp cái thúng e thẹn,
bản tính nữ tính đã trở lại. Qua một vài chi tiết miêu tả, ta thấy tâm tình của
người phụ nữ này đang dần trở lại. Thị lẳng lặng nén tiếng thở dài khi nhìn thấy
căn nhà lụp xụp của Tràng, đó là thái độ chấp nhận dường như chị nghĩ rằng
mình không nên hỏi điều gì nữa. Khi vào đến nhà, thị “ngồi mớm ở mép
giường”, đây là tư thế e thẹn, ngại ngùng, có chút rụt rè, lo âu của người con gái
lần đầu tiên bước về nhà chồng trong tình huống bất lợi. Nhà văn thật tinh tế khi
miêu tả được cử chỉ người phụ nữ “tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”.
Nét mặt chứa đựng biết bao ngổn ngang, suy nghĩ e ngại, xót xa, tủi cực cho số
phận của mình. Thế nhưng, người “vợ nhặt” ấy đã vượt lên trên hoàn cảnh để
thể hiện khát vọng sống, thể hiện bổn phận làm vợ, làm con dâu của mình.
Trong đêm tân hôn, thị có những cử chỉ rất dí dỏm “ủng vào trán Tràng”, cử chỉ
đó thể hiện rõ tình cảm yêu thương của thị dành cho Tràng. Sáng hôm sau, chị
dậy sớm làm đủ mọi việc như một người vợ hiền tần tảo, đảm đang. Chị cùng
với bà cụ Tứ “dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ”, người phụ nữ
“chao chát chỏng lỏn” ấy đã thay đổi đến mức chính Tràng cũng phải ngạc
nhiên “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng
mực không còn vẻ chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
Người vợ nhặt là người lạc quan luôn đem đến niềm vui cho mọi người. Đối với
người dân xóm ngụ cư, người vợ nhặt đem đến cho họ niềm tin vào sự đổi thay.
Đối với bà cụ Tứ, người “vợ nhặt” đã đem đến cho bà niềm an ủi, niềm hạnh
phúc lớn lao ở cái tuổi gần đất xa trời. Bà cụ Tứ vui mừng khi thấy con cái
trưởng thành, con trai mình đã có vợ bà lại nghĩ đến tương lai con cháu mình
sau này. Đối với Tràng, người “vợ nhặt” đem đến niềm hạnh phúc thực sự cho Tràng.
Khi có mái ấm gia đình, Tràng thực sự thay đổi từ một người đàn ông thô kệch
vụng về trở thành người có ý thức, có trách nhiệm với gia đình. Chính thị là
người đầu tiên kể cho cả nhà nghe truyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang.
Chị làm nảy sinh trong Tràng hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc, lá cờ đỏ
tung bay phấp phới, nó gợi lên trong Tràng những khao khát về sự đổi đời.
Người “vợ nhặt” đã được nhà văn khắc họa độc đáo ở việc chú trọng khắc họa
hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí người
phụ nữ. Thân phận người phụ nữ ấy có rẻ rúng, nhưng thị vẫn rất mực lạc quan, yêu đời.
Để nói về đức hi sinh, yêu thương con vô bờ bến, nhà văn đã phác họa thành
công chân dung hình ảnh bà cụ Tứ hiểu biết và rất mực thương con. Người phụ
nữ nghèo khổ ấy đã những thay đổi tâm trạng phức tạp khi thấy con mình
“nhặt” được vợ. Tâm trạng bà thay đổi từ ngạc nhiên đến vui mừng rồi lo lắng,
tủi hổ nhưng cũng vẫn rất lạc quan trước số phận.
Bà cụ Tứ là một người phụ nữ nghèo khổ. Bà xuất hiện với dáng vẻ lọng khọng,
gầy gò, ốm yếu. Cảnh ngộ nom thật đáng thương, bà lão nghèo khổ, già nua lại
cô đơn vì chồng và con gái đã ra đi mãi mãi. Đứa con trai lớn tuổi nhưng vì
nghèo khổ, thô kệch lại là người dân xóm ngụ cư nên chẳng lấy được vợ. Cuộc
đời bà cụ Tứ thật đáng thương, gia cảnh lại bần hà thuộc hạng cùng đinh trong
xóm ngụ cư. Ở cái độ tuổi gần đất xa trời này, bà cũng chẳng mong gì nhiều, chỉ
mong cho con mình nên người và có một cuộc sống hạnh phúc.
Sự xuất hiện của người vợ nhặt đã khiến cho diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ
diễn ra phức tạp. Bà ngạc nhiên khi thấy Tràng reo lên như một đứa trẻ vồn vã
chào mời khác thường “bà lão phấp phỏm bước theo con đến giữa sân bà lão
sững lại càng ngạc nhiên hơn”. Trong bối cảnh đói khát, bà cụ đã không tin rằng
con mình lấy được vợ. Bà ngạc nhiên trước cảnh một cô gái lạ xuất hiện trong
nhà mình. Kim Lân đã sử dụng nghệ thuật độc thoại nội tâm để chứng tỏ bà lão
rất ngạc nhiên. Bà tự hỏi “quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?
Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình thế kia? Sao lại
chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?”. Sự ngạc nhiên đến nỗi bà không tin vào mắt
mình khi thấy người lạ trong nhà “bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự
dưng bà thấy mắt mình nhoèn ra thì phải”. Trái tim của người mẹ luôn nhạy
cảm về chuyện riêng tư của con cái và cả chuyện dựng vợ gả chồng nhưng ở
đây, bà cụ Tứ lại ngơ ngác quá lâu vì không tin vào mắt mình.
Tâm trạng ngạc nhiên của bà cụ Tứ đã thể hiện rõ tình huống truyện lạ, éo le,
cảm động giữa lúc nạn đói đang hoành hành, những người nghèo khổ như mẹ
con bà cụ Tứ đến nuôi thân còn không xong mà Tràng còn dám nuôi thêm một
miệng ăn. Tâm trạng ngạc nhiên ấy còn hé lộ thân phận con người trong cuộc
sống nghèo đói, bà phải sống trong mặc cảm, không làm tròn bổn phận của
người mẹ, không lo được cho con, cũng vì nghèo nên con không lấy được vợ.
Có chút ngạc nhiên nhưng bà cũng rất vui mừng khi con mình lấy được vợ. Với
gia cảnh nghèo đói thuộc hạng cùng đinh, con trai mình lại là người thô kệch,
tính tình thì ngộc nghệch nay bỗng dưng có người theo không con mình về làm
vợ nên bà cũng thấy ấm lòng hơn. Người mẹ nghèo ấy rất mực thương con, do
vậy bà lại cảm thấy tủi và lo lắng khi nghĩ về tương lai. Khi Tràng có vợ bà
cũng rất vui nhưng trong lòng lại trào lên nỗi xót thương cho số kiếp đứa con
mình. Bà hiểu ra tình cảnh khốn khổ của con và gia đình mình. Con bà lấy vợ
giữa lúc cái đói tràn đến xóm ngụ cư như một hiểm họa. Cuộc sống bấp bênh,
khốn khó hơn bao giờ hết, thương con lại thương mình, bà cụ “trong kẽ mắt
kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”.
Vượt qua mọi nghi lễ thông thường, bà cụ đã chấp nhận người đàn bà xa lạ làm
con dâu trước nỗi lo cho tương lai, gia đình và các con. Bà lo cho các con ở
những ngày hiện tại chênh vênh. Lòng bà lão đầy những ám ảnh của quá khứ
vẫn nặng trĩu đắng cay. Bà ngửi thấy “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người
chết theo gió thoảng vào khét kẹt”. Rồi bà nghĩ đến ông lão, đến đứa con gái út
đã mất, nghĩ đến cuộc đời cực khổ của mình. Bà lo cho vợ chồng Tràng lấy
nhau không biết có qua khỏi nạn đói này không. Tâm trạng của bà cụ Tứ diễn ra
vô cùng phức tạp, vừa ai oán xót thương, lo lắng buồn tủi đan xen với những
xáo trộn trong lòng. Cũng như nhân vật anh cu Tràng, người “vợ nhặt” bà cụ Tứ
cũng luôn vững tin vào một tương lai tốt đẹp hơn. Trong ý nghĩ bà cùng vui với
triết lí giản dị sâu sắc: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, niềm vui giản dị thực tế
ấy được xuất phát từ kinh nghiệm của người dân lao động, được đúc rút từ bao
đời nay. Suy nghĩ đó được bộc lộ từ ý chí vươn lên, vượt qua hoàn cảnh khó
khăn của bà cụ Tứ. Vì nghĩ như vậy nên bà nói về tương lai, trong buổi sáng
ngày hôm sau, bà toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bà nói về
tương lai thiết thực của nhân dân lao động, từ việc nuôi gà và có một cuộc sống yên bình, ấm no.
Sáng ngày hôm sau, người mẹ nghèo ấy đã thắp lên đốm lửa của tình người, của
niềm tin và hi vọng qua các hành động cụ thể: “Bà cùng con dâu thu xếp nhà
cửa, quét dọn sân vườn cho sạch sẽ”, việc làm ấy được xuất phát từ niềm tin,
niềm hi vọng mang tâm lí của người lao động: “Nhà cửa gọn gàng, ngay ngắn
thì may mắn sẽ tới”. Bà có một sáng kiến bất ngờ đó là bổ sung một nồi “cháo
cám” vào bữa ăn ngày đói như một bữa ăn mừng nhân ngày con trai lấy được vợ.
Người mẹ tươi cười đon đả lặng lẽ khen ngon, dù miếng cháo cám có chát đắng
trong khóe miệng nhưng bà vẫn thốt lên răng “ngon đáo để”. Điều đó toát lên
tinh thần của người mẹ chấp nhận số phận với niềm vui và niềm hạnh phúc
đong đầy. Hình ảnh “nồi cháo cám” ấy còn là hiện thân của tình thương yêu mà
người mẹ dành cho các con. Nhà văn đã chọn “nồi cháo cám” để làm sáng lên
chất người khi niềm vui, niềm hạnh phúc của họ đang dần bị nguội tắt trước thế
lực của cái đói. Chi tiết ấy tái hiện cái đói năm 1945 một cách chân thực nhất,
con người phải ăn cả thức ăn của động vật để cầm cự, đấu tranh với cái chết gần
kề. Tuy bà cụ Tứ chỉ xuất hiện trong một khoảnh khắc của chiều hôm trước và
sáng hôm sau khi con mình dắt người “vợ nhặt” về trình diện với bà nhưng nhà
văn đã đem đến cho người đọc một nhân vật có chiều dài cuộc đời và chiều sâu
tâm lí với những am hiểu sâu sắc. Bà cụ Tứ chính là điển hình cho hình ảnh
người mẹ nông dân nghèo khổ, từng trải, hiểu biết, nhân hậu, bao dung và rất mực thương con.
Bằng tài năng của mình với một phong cách nghệ thuật riêng biệt, nhà văn Kim
Lân đã đem đến cho chúng ta một thiên truyện “Vợ nhặt”. Ngay từ nhan đề độc
đáo của tác phẩm đã hé lộ cho chúng ta biết một tình huống truyện đầy đặc sắc
nhưng lại hết sức éo le. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc,
Tràng được miêu tả rất thực tế về tâm lí, người “vợ nhặt” tâm lí hiện lên rất sinh
động còn bà cụ Tứ thì tâm lí diễn ra phức tạp. Nghệ thuật trần thuật mới mẻ,
ngôi kể theo cách truyền thống ở ngôi kể thứ ba, điểm nhìn trần thuật luôn luôn
di chuyển, nhà văn đã để cho nhân vật tự dẫn dắt tiến trình của truyện. Giọng
điệu hóm hỉnh, đôn hậu. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, nôm na. Xuất hiện nhiều
chi tiết đặc sắc: Chi tiết “bát bánh đúc” cho thấy sự đói khổ có thể làm thay đổi
nhân cách con người. Chi tiết “nồi cháo cám” cho thấy tình thương bao la của
người mẹ và tái hiện sự thật đói khát đến mức chẳng còn gì để ăn. Chi tiết “lá cờ
đỏ sao vàng” tung bay phấp phới cho thấy niềm tin của con người vào cuộc
sống, khát vọng có một cuộc sống ấm no và niềm tin vào cách mạng của người
nông dân lúc bấy giờ. Tất cả những đặc sắc nghệ thuật trên đã tạo nên một
phong cách nghệ thuật riêng biệt của Kim Lân với sở trường truyện ngắn này.
Qua tác phẩm, ta thấy được giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực được thể hiện
một cách sâu sắc. Ở giá trị nhân đạo, nhà văn đã dựng lại được bức tranh hiện
thực đương thời là con người trong nạn đói năm Ất Dậu. Nhà văn trân trọng và
cảm thông trước những số phận bị thảm, trước những ước mơ, những khao khát
về hạnh phúc gia đình của người nông dân. Bên cạnh đó, nhà văn đã phát hiện
và khẳng định được vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp của tình người trong cơn lốc
của sự đói nghèo. Và cuối cùng, nhà văn đã chỉ ra con đường cách mạng cho
người nông dân, chỉ có theo cách mạng thì con người mới có thể giành lại được
cuộc sống ấm no yên bình. Đối với giá trị hiện thực, nhà văn đã tái hiện được
một thực trạng bi thảm của chế độ Việt Nam trước cách mạng. Kim lân đã chọn
một sự kiện lịch sử có thật để làm chủ đề cho tác phẩm của mình. Mở đầu tác
phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc tới bối cảnh của một miền quê trong những
ngày đói, bóng dáng con người toàn là chết chóc, thê lương, những bóng người
“đội chiếu, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang
khắp lều chợ”, “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác
rưởi và mùi gây của xác người”. Hiện thực cho thấy miền quê đó trong những
ngày đói vô cùng xơ xác, heo hút. Những chi tiết đó đã cho thấy cái đói tràn lan
như một nạn dịch. Nhà văn đã phản ánh chân thực số phận cùng quẫn của con
người trong nạn đói. Kim Lân đã hướng ngòi bút vào việc khắc họa số phận
cùng quẫn của con người trong nạn đói qua hình tượng người vợ nhặt. Nhân vật
Tràng, bà cụ Tứ là những con người nghèo khổ, đáng thương. Truyện đã phản
ánh rõ thảm cảnh của con người trong nạn đói và số phận cùng quẫn của họ
trước thảm cảnh. Nhà văn đã phản ánh hiện thực cơ bản đó là lòng người dân
hướng tới cách mạng. Dù hiện thực này chỉ nói thoáng qua ở đoạn cuối của tác
phẩm nhưng khiến cho ta nghĩ tới sự thay đổi hiện thực cuộc sống, đó là cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Bằng tất cả tình yêu thương, sự đồng cảm, nhà văn Kim Lân đã tạo nên sự thành
công trong sự nghiệp làm văn của mình qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Nhà văn đã để
lại cho chúng ta những bài học về tình yêu thương, đùm bọc giữa những con
người cùng chung dòng máu Việt và một tinh thần lạc quan, yêu đời, hướng tới
cách mạng. Nhà văn đã ngợi ca truyền thống “tương thân tương ái” quý báu của
dân tộc Việt Nam ta. Và đặc biệt trong bối cảnh hội nhập của đất nước ta hiện
nay, thế hệ trẻ chúng ta cần giữ vững quan điểm “hòa nhập nhưng không hòa
tan” và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Qua tác phẩm “Vợ nhặt” nhà văn Kim Lân đã để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng
người đọc. Nhà văn đã tái hiện thành công bối cảnh nạn đói năm 1945 qua các
nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ với một niềm tin yêu, luôn hi vọng vào một ngày mai tươi sáng.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài số 8
Cùng với Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan,... Kim
Lân cũng là một trong số những cái tên nổi tiếng của nền văn học hiện thực Việt
Nam khi viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng Tám, với ngòi
bút sâu sắc và cái nhìn thấu hiểu. Tuy nhiên khác với ngòi bút phê phán và tiếng
cười sâu cay của Vũ Trọng Phụng hay Nguyễn Công Hoan, khác với sự lạnh
lùng, đau đớn từng câu văn của Nam Cao. Các tác phẩm của Kim Lân không
chủ tập trung vào việc phản ánh hiện thực xã hội đương thời hay những nỗi đau
thân phận, mà tác giả dựa vào đó để làm nổi bật những giá trị nhân văn, vẻ đẹp
tâm hồn nhân vật, bộc lộ sức mạnh, ý nghĩa của những tình cảm cao quý như
tình thân, tình yêu, thứ làm thay đổi con người và cuộc sống của họ dẫu trong
những hoàn cảnh khốn cùng nhất. Đời sáng tác của Kim Lân ngắn, và ông
không để lại nhiều tác phẩm, trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến Vợ nhặt, một
tác phẩm tiêu biểu, đặc trưng cho khuynh hướng sáng tác của tác giả.
Truyện ngắn Vợ nhặt diễn ra trong bối cảnh khá đặc biệt - nạn đói cuối năm
1944 - đầu năm 1945, chỉ trong vòng vài tháng khiến hơn hai triệu đồng ta từ
Bắc Kỳ đến Quảng Trị chịu chết đói, cái ám ảnh kinh hoàng ấy được Nam Cao
viết trong Đôi mắt rằng “có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại
cho nhau nghe để rùng mình”. Trong tác phẩm Kim Lân không dùng những từ
ngữ quá nặng nề, gay gắt, không tiếng chửi bới, hay những sự kiện nào kịch tính
để mô tả lại viễn cảnh khủng khiếp của nạn đói. Tuy nhiên ông vẫn lột tả được
cái tiêu điều, thê thảm của một xóm ngụ cư trong giai đoạn đau thương nhất của
lịch sử dân tộc, bằng những câu văn nhẹ nhàng, nhưng rất thấm thía. Đó là cái
cảnh những người dân tản cư, dìu dắt, bồng bế nhau la liệt khắp nơi, bộ dạng thê
thảm, tàn tạ, người ngợm “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”,
không gian bao trùm bởi sự chết chóc với cảnh “người chết như ngả rạ”, “không
khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Ớn lạnh, ám
ảnh với cảnh “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma”, cùng với
“tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp”
như tiếng gọi của tử thần, còn con người thì đang bước dần từng bước chậm rãi
đến nghĩa địa, tuyệt vọng và bất lực, những con người ấy dường như đã nhìn
thấy trước cái chết của mình, thậm chí “khó ai có thể tin mình sống nổi”. Đó là
một khung cảnh đầy bi thương và ám ảnh, được Kim Lân tái hiện lại trong các
dòng văn xen kẽ, ông không tập trung làm nổi bật nó, mà chỉ chấm phá trong
một vài câu văn khiến người ta có cảm giác cái chết hiện diện khắp nơi và nó
dần trở thành lẽ thường trong giai đoạn ấy. Không ai lạ gì cảnh người chết đói,
thỉnh thoảng lại có một người ngã xuống, lúc đầu người ta còn có sức để đi chôn,
sau nhiều quá chỉ cuốn chiếu lại để đó, cuối cùng là không có cả chiếu để cuốn,
thê thảm và ghê sợ vô cùng. Có thể thấy rằng nhà văn Kim Lân không hề né
tránh hiện thực, nhưng quan trọng hơn giá trị của tác phẩm không nằm ở chỗ
phơi bày giá trị hiện thực mà là ở việc từ trong bóng tối của hiện thực tác giả đã
tìm ra ánh sáng của sự sống, ánh sáng của hy vọng, ánh sáng của tình người, của
niềm tim toát lên từ những con người trong nạn đói ấy. Những con người đang
bám víu lấy cái sự sống mỏng manh, đang nỗ lực sống sót, dù rằng họ cũng như
những người dân ngụ cư khác “khó ai có thể tin mình sống nổi” đó là Tràng, thị, và bà cụ Tứ.
Nhân vật Tràng là một nhân vật điển hình đại diện cho những con người trong
nạn đói năm 44-45, lai lịch của anh chàng có thể gói gọn trong ba chữ “dân ngụ
cư”, và từ ba chữ này đã nói lên rất nhiều điều. Tràng là người mang số phận
tha hương cầu thực, không thể sống nổi ở quê hương mình nên đành phải tìm
đến nơi khác kiếm kế sinh nhai, điều đó đem đến cho anh nhiều nỗi khổ, sự kỳ
thị, phân biệt đối xử của dân bản địa, dẫn đến việc anh không được chia ruộng
đất (vốn là tài sản lớn nhất của người nông dân lúc bấy giờ), vô cùng nghèo khổ.
Không chỉ vậy, dân ngụ cư cũng không được sống trong không gian làng xóm,
mà phải sống riêng biệt ở rìa làng hoặc ngoài đê, đồng thời cũng không được
tham gia bất cứ một sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã. Có thể nói là vô cùng
đáng thương, thảm hại. Gia đình Tràng nghèo khó, mẹ góa con côi dựa dẫm vào
nhau, làm nghề kéo xe bò thuê, công việc bấp bênh không ổn định. Thêm nữa
Tràng lại có một ngoại hình xấu xí, với những đường nét thô kệch được tác giả
ví như sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa “hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều,
hai bên quai hàm bạnh ra, thân hình to lớn vập vạp” lại thêm cái tật “vừa đi vừa
lảm nhảm những điều mà mình nghĩ”, khi cười thì thường ngửa mặt lên trời
cười hầy hầy. Chính vì ngoại hình xấu lạ ấy mà Tràng chỉ có sức hấp dẫn với
những đứa trẻ trong xóm, chứ không lọt được vào mắt xanh của bất cứ cô gái trẻ
nào, điều đó dẫn tới việc Tràng chẳng thể lấy nổi một cô vợ. Sau những nét về
lai lịch, ngoại hình để bộc lộ tính cách nhân vật Tràng Kim Lân đã đặt anh vào
một sự kiện mang tính bước ngoặt, cũng chính là tình huống truyện - Tràng
“nhặt” được vợ. Đó là khi Tràng đang đẩy xe bò, để cho đỡ mệt anh đã hò mấy
câu cho vui miệng, chứ cũng không chủ đích chòng ghẹo ai “Muốn ăn cơm
trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò cùng anh”. Ai ngờ sau câu nói ấy, thì thị lại
ra đẩy xe cùng Tràng thật, rồi còn cười tít mắt với anh, khiến anh vô cùng khoái
chí, nhưng tất cả cũng chỉ dừng lại ở đó. Trong lần gặp thứ hai, Tràng và thị vẫn
chưa có cái gì gọi là tình yêu mà nó chỉ là sự chia sẻ, cảm thông giữa những
người đồng cảnh ngộ, khi thị sưng sỉa, cong cớn vì miếng ăn thì Tràng sẵn sàng
giúp đỡ, đãi thị hẳn 4 bát bánh đúc và thị cũng chẳng ngại ngần gì mà ăn một
lượt không chuyện trò. Rồi cũng từ dăm ba câu chuyện trò và một câu bông đùa
nữa của Tràng “Này có theo tớ về thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” mà thị
theo Tràng, trở thành vợ của Tràng thật, không cần mối lái, lễ hỏi, chỉ với 4 bát
bánh đúc và một câu đùa, hai con người ấy đã trở thành vợ chồng với nhau. Đó
là một tình huống rất bất ngờ, bất ngờ với cả độc giả lẫn nhân vật Tràng, anh đã
có vợ bằng một phương thức rất kỳ quái, còn thị thì trở thành một người vợ
“nhặt”. Từ sự kiện Tràng “nhặt” vợ, nhân vật này có nhiều diễn biến tâm trạng
khác nhau. Trong buổi chiều hôm trước, trước khi dẫn vợ về nhà, Tràng vốn dĩ
xưa nay là một người thô kệch, cục mịch thế mà lại trở nên tinh tế, biết chăm
sóc người khác lạ kỳ. Thương vợ tàn tạ, rách nát quá, về nhà chồng mà chẳng có
gì ngoài bộ đồ như tổ đỉa và cái nón rách, Tràng đã dẫn thị vào chợ tỉnh mua
một cái thúng con đựng vài thứ đồ lặt vặt để cho thị đỡ tủi thân, đồng thời dẫn
thị di ăn một bữa no nê thay cho tiệc mừng cưới. Không chỉ vậy Tràng còn mua
thêm hai hào dầu (việc làm vốn được gọi là hoang phí trong thời buổi nạn đói
hoành hành), để về thắp sáng nhà cửa, đón thị về làm dâu mới. Đó là một cách
làm rất cảm động và đủ tinh tế của một người chồng biết lo nghĩ, nhân hậu.
Trên đường về Tràng tỏ ra rất sung sướng, phấn khởi cái niềm vui nó trào ra
hiện rõ lên khuôn mặt anh “Mặt hắn có một cái vẻ gì đó phớn phở khác thường.
Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Kim Lân còn
dùng một câu văn rất cảm động để diễn tả tâm trạng của anh lúc này “trong một
lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái
đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Có thể thấy rằng
trong thâm tâm Tràng lúc này Tràng sự vui mừng, niềm hạnh phúc đã xóa mờ
hết tất cả những gì khó khăn, khốn khổ đang diễn ra và đang chờ đợi phía trước,
kể cả cái chết. Khi về đến nhà, đứng trong một không gian hẹp hơn, bỗng Tràng
cảm thấy ngượng, rồi thấy sờ sợ, bởi lẽ sự quen biết giữa thị và Tràng chẳng đủ
để hai người có thể đối đãi hẳn với nhau như những người thân, chứ đừng nói là
một cặp vợ chồng, họ chưa có tình yêu, sợi dây duy nhất nối giữa họ chính là sự
đồng cảm, thương xót của Tràng, và thị thì cần miếng ăn. Cuối cùng là khi
Tràng giới thiệu với mẹ về nàng dâu mới, chờ đợi sự đồng ý với mẹ, thì anh lại
chuyển sang trạng thái nôn nóng, sốt ruột, đi đi lại lại, ra sân ngóng trông mẹ về,
rồi đón mẹ một cách rối rít, mừng rỡ. Lúc thưa chuyện, Tràng cũng bộc lộ rõ sự
chững chạc, nghiêm túc, thể hiện sự trân trọng trìu mến với u già, và cũng là sự
trân trọng hạnh phúc bất ngờ này.
Sau đêm tân hôn, sáng hôm sau thức dậy trong lòng Tràng có nhiều điều thay
đổi, hạnh phúc đã khơi dậy trong Tràng ý thức, trách nhiệm bổn phận của người
đàn ông trong gia đình. Anh dậy muộn, cảm thấy trong cơ thể hiện diện sự êm
ái, lửng lơ như từ một giấc mơ đi ra, cảm thấy ngỡ ngàng trước hạnh phúc mà
mình đang nắm giữ, nhận thấy cảnh tượng xung quanh thay đổi mới mẻ, khác lạ.
Nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ (đống quần áo rách như tổ đỉa thường vắt ở góc
nhà, thì giờ được đem ra sân hong khô, hai ang nước dưới gốc ổi bình thường
khô cong thì bây giờ đầy ắp nước, đống rác mùn được dọn sạch,...), thứ hai nữa
là không khí trong nhà bỗng trở nên ấm áp, vui vẻ lạ kỳ. Việc đó đã thức dậy
trong Tràng nhiều cảm xúc “cảnh tượng thật đơn giản bình thường, nhưng đối
với hắn thật thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với
cái nhà của hắn lạ lùng”, rồi “một nguồn vui sướng đột ngột tràn ngập trong
lòng”. Từ những cảm xúc ấy Tràng đã nhận thức được trách nhiệm của bản thân
với cuộc sống, với gia đình “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn
có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này” và biến nó thành hành động “hắn
chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa
căn nhà”, muốn cùng chung tay để nghênh đón một tương lai tốt đẹp hơn. Từ
chuyện có vợ, sự chuyển biến trong nhận thức đã dẫn tới kết quả là sự khao khát,
ước muốn đổi đời nhen nhóm lên trong tâm hồn Tràng khi anh bắt đầu quan tâm
đến chuyện ngoài xã hội (chuyện Thái Nguyên, Bắc Giang nhân dân nổi lên
cướp kho thóc của Nhật). Anh nghĩ về lần gặp Việt Minh mà mình đã tránh né,
rồi tự nhiên thấy tiếc rẻ, vẩn vơ khó hiểu, điều ấy chứng minh rằng nếu được
cho quay lại thời gian khi ấy, có lẽ Tràng đã không ngại ngần mà gia nhập Việt
Minh cùng đi phá kho thóc của Nhật, và trong tương lai, nếu gặp lại cảnh ấy có
lẽ Tràng cũng sẽ tham gia. Tác phẩm khép lại với hình ảnh “đám người đói và
lá cờ đỏ bay phấp phới” lẩn khuất ẩn hiện trong trí óc Tràng, đã mở ra những hy
vọng mới, những niềm tin, và giải pháp mới cho Tràng và cả những người dân trong nạn đói năm 44-45.
Nhân vật người vợ nhặt cũng là một nhân vật quan trọng của tác phẩm. Thị là
người có lai lịch không rõ ràng, không tên không tuổi, không quê quán họ hàng,
thân phận của thị chính là một số không tròn trịa, phản ánh số phận rẻ rúng như
rơm như rác của con người trước nạn đói năm 1944-1945. Thị không phải là
người phụ nữ có ngoại hình hấp dẫn, Kim Lân đã dùng những nét vẽ rất thảm
hại để tái hiện lại dáng vẻ tàn tạ của thị như “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “gầy
xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, rồi “cái ngực
gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”. Không có một ngoại hình hấp
dẫn, nhưng cách nói năng của thị cũng chẳng lấy gì làm hay ho, ngôn ngữ chua
ngoa, đanh đá, chỏng lỏn, sưng sỉa chỉ vì một miếng ăn. Cử chỉ, hành động vô
duyên, táo bạo đến mức trơ trẽn. Nhưng bấy nhiêu đó có phải là bản chất của thị
hay không? Câu trả lời là không, bởi thực tế trong những biểu hiện khi về làm
vợ Tràng thị đã bộc lộ nhiều vẻ đẹp đáng quý. Trước hết là vẻ đẹp của khát
vọng sống mãnh liệt, như đã phân tích tất cả những cử chỉ, ngôn ngữ hành động
của thị đều có vẻ phản cảm và đáng ghét. Thế nhưng nếu ta xoay góc nhìn một
chút sang khuynh hướng nhân văn nhân bản, thì có thể thấy rõ ràng rằng thị có
những hành động, ngôn ngữ như vậy tất cả chỉ vì khao khát được sống, được có
miếng ăn cứu đói, thị không muốn chết, đồng thời cũng bộc lộ khao khát được
hạnh phúc, thị cũng muốn có một tấm chồng để dựa dẫm lúc buổi khó khăn, đói
kém. Vẻ đẹp thứ hai nữa của thị chính là vẻ đẹp nữ tính được bộc lộ sau khi về
làm vợ Tràng. Trên đường về nhà chồng, thị trở nên thẹn thùng, bẽn lẽn như bất
kỳ cô dâu mới nào ngày cưới, rón rén, e thẹn, lấy nón che mặt, bởi ngại ngùng
trước những ánh mắt xăm soi của dân làng. Khi bước về nhà chồng, nhìn thấy
căn nhà lụp xụp của Tràng thị đã không giấu nổi thất vọng qua tiếng thở dài, thế
nhưng khác hẳn với cái tính chỏng lỏn, đanh đá được mắt trên chợ tỉnh, thị lại
im lặng, quyết tâm cùng với chồng vun vén cho gia đình, chứ không hề buông
lời chê trách, thể hiện vẻ đẹp của sự chịu thương chịu khó, hy sinh vốn có của
người phụ nữ Việt Nam. Khi gặp gỡ tiếp xúc với mẹ chồng, thị trở nên rất lễ
phép, thưa hỏi đàng hoàng, nghiêm túc lắng nghe lời bà cụ Tứ chỉ dạy. Sau đêm
tân hôn thì thị trở thành một người phụ nữ đảm đang tháo vát, dậy sớm đem
quần áo ra phơi, gánh đầy hai ang nước, quét sân, trang hoàng nhà cửa, … quyết
tâm làm một người vợ hiền dâu thảo, xây dựng gia đình cùng với Tràng. Trong
ứng xử thị cũng trở nên rất tế nhị, thông minh, khi bà cụ mang nồi “chè khoán”
ra với niềm vui mừng, thì bản thân thị cũng rất trông mong vào món chè ngon
ngọt, thế nhưng khi ăn một miếng “mắt thị tối lại” - thị thất vọng, tuy nhiên thị
cố giấu sự thất vọng ấy đi, điềm nhiên ăn tiếp, không nhìn ai, cũng không nói
câu gì để tránh làm bà cụ Tứ tủi thân và làm mất không khí vui vẻ của gia đình.
Một vẻ đẹp nữa của thị đó chính là niềm tin vào tương lai tươi sáng, chính thị đã
đem đến cho cả gia đình một thông tin mới, mở ra một lối thoát cho Tràng, bà
cụ Tứ và đó cũng là lối thoát chung của nhân dân ta dưới nạn đói năm Ất Dậu.
Nhân vật thứ 3 của tác phẩm đó chính là nhân vật bà cụ Tứ. Đây là một người
phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, cả đời long đong lận đận, mong ước lớn nhất với
cuộc đời là lấy vợ cho con mà mãi vẫn chưa được. Thế nhưng giữa cái lúc thóc
đau gạo kém, giữa lúc nạn đói người chết như ngả rạ thì anh con trai lại “nhặt”
được một người vợ theo không, khiến bà vừa mừng vừa lo. Trước cảnh Tràng
lấy vợ, trong buổi chiều hôm trước bà vợ đầu tiên là hết sức ngạc nhiên và bối
rối, trước lời chào của thị, bà cụ Tứ chỉ im lặng vì thấy không thể tin nổi là con
mình lại có được vợ mà không cần cưới hỏi. Sau sự ngạc nhiên ấy chính là
những cảm xúc lẫn lộn sau khi hiểu ra ngọn nguồn cớ sự, khi nghe Tràng giải
thích thì bà “cúi đầu nín lặng”. Bà thấy buồn, thấy tủi cho mình và cho con trai,
bởi lúc người ta cưới vợ cho con là lúc nhà ăn nên làm ra, có tiền có của, làm
được dăm ba mâm đãi làng, đãi xóm, còn nhà mình thì không có gì, lại còn ngay
giữa nạn đói sống nay chết mai. Không chỉ buồn mà bà còn lo lắng cho tương
lai của Tràng và thị, không biết chúng liệu có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói
khát này không. Cuối cùng bà cụ lại thấy mừng vì thấy rằng may mắn thị có gặp
phải bước đường đói khát nên mới lấy đến Tràng, chứ không thì Tràng có lẽ
phải chịu ế cả đời. Sau tất cả những tâm trạng cảm xúc đan xen, bà cụ Tứ cuối
cùng cũng lấy lại tinh thần, bộc lộ tình yêu thương con cái, tấm lòng nhân hậu
thông qua cách hành xử với người con dâu. Đó là câu nói “Ừ thôi thì các con đã
phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lắm” để chính thức nhận thị làm
dâu con trong nhà. Đồng thời bà cũng có những lời dặn dò, động viên hướng
các con vào một tương lai tươi sáng, giấu trọn nỗi buồn nỗi lo trong lòng để
truyền niềm tin, sự hứng khởi cho các con. Sau đêm tân hôn của các con, bà
thay đổi hẳn không còn nỗi lo lắng, buồn rầu mà thay vào đó là niềm hy vọng
tràn trề, “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”, xăm xắn thu dọn quét
tước nhà cửa. Trong bữa cơm đón dâu mới, bà là người nói nhiều nhất, lại nói
toàn những chuyện vui, suy tính chuyện làm ăn, nuôi gà,... Sau đó lại cố gắng
nối dài niềm vui cho các con bằng cách lật đật chạy đi lấy nồi cháo cám gọi
bằng “chè khoán”, cố xua đi bóng tối của cái đói và cái chết. Thế nhưng chúng
lại càng trở nên rõ ràng hơn, khi cái vị đắng nghét của cháo cám lan đây khoang
miệng, nghẹn bứ trong cổ của cả ba người.
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân là một truyện ngắn hay và đặc sắc, từ việc
phản ánh hiện thực xã hội thông qua nạn đói khủng khiếp năm 1944-1945, tác
giả đã bộc lộ những tư tưởng, giá trị nhân đạo sâu sắc. Ca ngợi, đề cao vẻ đẹp,
khát vọng sống còn của con người, cùng những niềm tin, hy vọng của họ vào
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đồng thời cũng bộc lộ niềm trân trọng, quý mến
những thứ tình cảm giữa con người với con người như tình thân, tình yêu, tình
đồng loại,... thứ không bao giờ bị dập tắt bởi sự khắc nghiệt của cuộc đời, thứ
đã tiếp thêm cho con người sức mạnh để tiến về phía trước.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài số 9
Nhà văn Pháp Napoluye từng nhận định: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần
ta lên, gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm không cần tìm nguyên tắc
nào để đánh giá nó nữa, nó là cuốn sách hay do người nghệ sĩ có thực tài viết
ra”. Vâng, một tác phẩm hay luôn biết cách đưa tâm hồn con người tới địa hạt
mới – địa hạt của những yêu thương, những sẻ chia và những khát khao. Viết
“Vợ nhặt”, Kim Lân đã thể hiện niềm cảm thương trước số phận của con người
cùng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của họ khi bị đẩy đến mức đường cùng của cái đói.
Lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945, truyện ngắn: “Vợ nhặt” đã khắc họa cuộc
sống ngột ngạt, bức bối cùng cái nghèo khó, bần cùng của nhân dân ta. Cái đói
đã hiện hữu thành hình, thành màu, thành mùi, thành vị khiến con người bị dồn
tới mức đường cùng, đẩy họ đến bên bờ vực của cái chết. Chứng kiến thảm
cảnh khủng khiếp ấy, ngòi bút nhà văn cất lên tiếng đau của niềm cảm thương
trước những số phận bất hạnh. Đồng thời qua đó, ông tố cáo tội ác của thực dân
Pháp và phát xít Nhật, phản ánh khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm
tin vào tương lai tươi sáng của con người.
Ngay từ nhan đề bài thơ, nhà văn đã gây cho người đọc một sự tò mò bởi “Vợ
nhặt” tức là người vợ tự theo về nhà mà không cần cưới xin. Nhưng nhan đề ấy
cũng chính là “thắt nút” của câu chuyện, khắc họa một cách đầy đủ về số phận
của các nhân vật. Qua đó phản ánh số phận thê thảm và tủi nhục của con người
trong nạn đói khủng khiếp xảy ra vào năm 1945.
Truyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật Tràng – một thanh niên nghèo khổ,
xấu xí nhưng chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà nhặt được cô vợ
đang sống dở chết dở vì đói. Họ kết mối nhân duyên giữa bóng đêm bao trùm
của nạn đói. Đêm tân hôn diễn ra âm thầm trong bóng tối lạnh lẽo với tiếng
khóc tỉ tê của những nhà có người chết theo gió vọng lại. Bữa cơm giản dị, thô
sơ với rau chuối, cháo loãng và muối. Mẹ chồng đãi con dâu và con trai bằng
nồi chè nấu bằng cám. Ba mẹ con xoay sang câu chuyện Việt Minh phá kho
thóc Nhật chia cho dân nghèo và kết thúc truyện bằng hình ảnh “Trong óc
Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới”.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm: “Tình huống truyện là một lát cắt của
sự sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi
phối nhiều điều trong cuộc sống con người”. Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân đã tạo ra
một tình huống hết sức độc đáo: anh chàng ngụ cư nghèo khổ, xấu xí, ế vợ như
Tràng mà lại nhặt được vợ chỉ bằng vài câu nói đùa và mấy bát bánh đúc. Điều
đó không chỉ gây ngạc nhiên cho những người dân làng, cho mẹ Tràng mà còn
cho chính bản thân anh ta. Đây là một tình huống éo le, cảm động nhưng hợp lí
bởi chính nạn đói làm cho những mảnh đời cơ cực trôi dạt vào nhau họ mới nên
vợ nên chồng. Qua đó tình huống truyện đã làm nổi bật giá trị hiện thực cũng
như giá trị nhân đạo: nạn đói đẩy con người tới ranh giới của sự sống và cái chết
khiến giá trị con người trở nên rẻ rúng đồng thời làm nổi bật hình ảnh các nhân vật.
Trước hết, truyện đã tái hiện hoàn cảnh cơ cực, nghèo đói đến xác xơ của con
người qua hình ảnh của những người dân làng đặc biệt là ba mẹ con Tràng. Cái
đói ập đến ngôi làng như một con quỷ dữ nuốt chửng tính mạng của biết bao
nhiêu người, nó biến không khí vốn trong lành, tươi mát của một làng quê thanh
bình thành không khí ẩm thối của mùi rác rưởi và xác chết: “Không buổi sáng
nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm cong
queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của
xác người”. Cái đói ấy cướp đi tiếng cười hồn nhiên của những đứa trẻ trong
làng. Cách đó không lâu mỗi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con lại bu lại theo
anh, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo khiến cho cái xóm
ấy mỗi lúc chiều lại xôn xao lên một lúc. Nhưng niềm vui nhỏ nhoi ấy giờ
không còn nữa, nụ cười tắt hẳn trên môi chúng. Chúng ngồi ủ rũ dưới những xó
đường, không nhúc nhích. Còn Tràng – nhân vật chính của truyện là một thanh
niên ngụ cư nghèo, xấu xí sống hiu quạnh với mẹ trong túp lều dựng trên mảnh
vườn đầy cỏ dại. Sống với kiếp dân ngụ cư, họ bị dân làng coi thường, khinh bỉ,
làm công việc hèn hạ như đầy tớ. Và giống như một định mệnh của kiếp nghèo
khổ, chàng đã “nhặt” được một người vợ – một người phụ nữ không tên, không
tuổi, không quê quán, nhà cửa. Thị ngờ nghệch bị cái đói đẩy ra ngoài đường,
nhập vào dòng người tha hương cầu thực, ngồi vêu ra ở kho thóc nhặt những hạt
rơi hạt vãi. Bằng ngòi bút tả thực, nhà văn đã khắc họa thành công bức tranh
của “ngôi làng đói” trong năm 1945.
Nhưng chính trong cái “hiểm nghèo” ấy, con người đã bộc lộ những phẩm chất
tốt đẹp: Đó là tình yêu thương con người, niềm khao khát sống, khao khát hạnh
phúc và niềm tin mãnh liệt vào tương lai.
Nhà thơ Tố Hữu từng nói: “Có gì đẹp trên đời hơn thế/ Người với người sống
để yêu nhau”. Vâng, tình yêu chính là thứ còn xót lại khi con người ta đã mất tất
cả, đã rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo. Trong nạn đói khủng khiếp, nhân vật
Tràng hiện lên với lòng tốt của một chàng trai sẵn sàng chia sẻ miếng ăn cho
người phụ nữ xa lạ. Đặc biệt nhân vật bà cụ Tứ hiện lên với tình yêu thương con
sâu sắc. Cuộc đời sẽ lặng lẽ trôi qua nếu không gặp sự kiện Tràng đưa người
phụ nữ xa lạ về làm vợ. Kim Lân đã thể hiện sâu sắc tâm lí của người mẹ nghèo
khổ trước sự kiện con trai có vợ: bà cụ hết sức ngạc nhiên. Khi nghe người phụ
nữ chào là “u” mà vẫn không hiểu, mắt nhìn nhoèn mà vẫn không tin, trong đầu
bà xuất hiện một loạt những câu hỏi: “Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?” .
Đó là bởi vì bà chưa bao giờ nghĩ một người nghèo khó như con mình lại có vợ.
Bà ngạc nhiên không phải sự hoảng hốt, lo lắng mà là niềm ngỡ ngàng trước
hạnh phúc quá lớn lao của con trai. Khi đã hiểu ra vấn đề, lòng người mẹ chất
chứa bao cơ sự, vừa thương con, vừa xót xa cho chính mình: “Người ta dựng vợ
gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái
mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Dấu ba chấm ngưng đọng nỗi nghẹn ngào vì
tủi thân, giọt nước mắt thương con lăn trên gò má. Không những thế, bà cụ cảm
thấy lo khi nghĩ về hiện thực: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua
được cơn đói khát này không”. Dù lo lắng nhưng khi nhìn người đàn bà tội
nghiệp đứng vân ve tà áo thì lòng bà cụ xót thương vô cùng cho người con dâu.
Những suy nghĩ đầy tình thương đầy nhân ái và cảm giác yên tâm đã thay thế
nỗi lo trong lòng bà cụ: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta
mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Tình yêu thương con còn
được bộc lộ trong từng suy nghĩ, hành động cụ thể: gọi người phụ nữ là “con”.
Chỉ bằng một từ “con” bà đã dang rộng vòng tay đón nhận con dâu giúp con dâu
bớt ngượng ngùng. Bà còn tâm sự: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp
với nhau, u cũng mừng lòng”. Chỉ với hai chữ “mừng lòng” bà cụ đã coi người
con dâu đến với gia đình như một niềm vui. Bà kể về gia cảnh “Kể có ra làm
được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng mà mình nghèo, cũng chả ai người ta
chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm
nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Lời nói tưởng
có vẻ lẩm cẩm nhưng lại rất nhân hậu chan hòa phá tan sự ngượng ngùng ban đầu.
Cùng với tình yêu thương, nhà văn thể hiện niềm khao khát hạnh phúc của con
người qua nhân vật Tràng và người vợ nhặt. Trước hết khao khát hạnh phúc của
Tràng thể hiện qua diễn biến tâm lí và hành động nhân vật. Tràng quyết định
nhanh khi đưa người phụ nữ xa lạ về làm vợ: “Mới đầu anh chàng cũng chợn,
nghĩ: thóc gạo sau này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại
còn đèo bòng” sau đó anh ta “chặc kệ”. Bên ngoài anh ta có vẻ hơi thiếu trách
nhiệm, liều lĩnh nhưng ở bên trong lại chứa đựng khát khao hạnh phúc thường
trực lớn đến mức giúp Tràng vượt lên trên cái đói và cái chết. Khi Tràng đưa vợ
về xóm ngụ cư, dù nghèo nhưng vẫn hào phóng khi đãi thị một bữa và mua cho
một cái thúng. Niềm hạnh phúc hiện lên trong con mắt và nụ cười tủm tỉm.
Trong chốc lát Tràng đã quên đi đói khát tình tứ đi bên người đàn bà của mình,
họ nói chuyện với nhau có vẻ chưa hết ngượng ngùng nhưng nhen nhóm hạnh
phúc. Khi đưa người vợ nhặt về nhà ra mắt mẹ, Tràng thanh minh cho sự tuềnh
toàng của nhà mình do không có bàn tay chăm sóc của người phụ nữ. Tràng
muốn mọi sự tốt đẹp hơn khi có vợ, muốn người phụ nữ đó ở lại với mình.
Tràng lo lắng sốt ruột khi mẹ chưa về để được công khai hạnh phúc của mình.
Anh ta nhìn lén lút người phụ nữ kia, sợ thị đến rồi lại đi, sợ hạnh phúc tuột
khỏi tầm tay. Khi mẹ về, Tràng chủ động giới thiệu với mẹ bắng hai chữ “nhà
tôi”, “chúng tôi”, “ nhà tôi nó về nó làm bạn với tôi”. Tâm lí của Tràng đã xóa
tan sự căng thẳng trong buổi đầu gặp mặt, anh coi đây là một việc nghiêm túc:
muốn sống lâu dài với người phụ nữ. Buổi sáng hôm sau thức dậy là thời điểm
thích hợp để bộc lộ cảm xúc của Tràng. Một ngày mới đến với cửa sổ tâm hồn
mở ra một trang mới hạnh phúc hân hoan: “cảm thấy êm ái lơ lửng như đi từ
giấc mơ ra”. So với sự vô tâm mọi khi, hôm nay Tràng nhận thấy sự khác lạ
xung quanh mình. Anh ta thật hạnh phúc khi được sống trong không khí giản dị,
yên bình của gia đình: vợ quét sân, mẹ dọn cỏ ngoài vườn. Cảnh tượng bình dị
ấy khơi gợi trong lòng Tràng cảm giác hạnh phúc gắn bó vô cùng với mình.
Không những thế Tràng nhận thấy mình có trách nhiệm với gia đình hơn, hắn
cũng muốn bắt tay làm gì đó góp phần xây dựng hạnh phúc gia đình.
Bên cạnh khao khát hạnh phúc của Tràng, gia đình nhỏ ấy còn được đắp xây
nên bởi khao khát của người vợ nhặt. Thị đã vượt lên trên số phận để sống trọn
vẹn với hạnh phúc nhỏ nhoi của mình. Cô liều lĩnh theo Tràng về làm vợ và khi
bước vào gia đình Tràng, hiểu được gia cảnh của anh, thị ngán ngẩm thở dài
nhưng muốn có một gia đình. Thành vợ, thành dâu trong gia đình, thị bắt tay
gây dựng gia đình, cuộc sống với mẹ con Tràng: sáng hôm sau thị dậy sớm để
thu vén nhà cửa. Nhờ có đôi bàn tay của người vợ, mọi thứ hoang hóa bẩn thỉu
đã bị đẩy lùi, căn nhà trở nên đầm ấm hơn, thậm chí bản thân Tràng cũng thay
đổi hẳn: trở thành người con có hiếu và người chồng có trách nhiệm. Có thể nói
càng trong hoàn cảnh khó khăn, con người càng trân trọng và tìm kiếm hạnh phúc.
Cùng viết về những người nông dân trong nghèo đói nhưng khác với nhà văn
khác, Kim Lân đã gieo vào trong tác phẩm của mình tư tưởng mới: Khi con
người ta bị đẩy tới bước đường cùng của cái đói, người ta muốn sống hơn muốn
chết. Điều đó được thể hiện rõ nét qua nhân vật người vợ nhặt và bà cụ Tứ.
“Người vợ nhặt” vì muốn thoát khỏi cái đói, cái chết, vì muốn tìm đến với sự
sống mà đã liều lĩnh theo Tràng về làm vợ. Niềm khao khát sống được nâng lên
thành niềm khát khao hạnh phúc làm thay đổi người đàn bà này từ một người
chan chát thành người biết vun vén cho hạnh phúc gia đình. Ở thị, sự sống mạnh
hơn cả cái chết và thị làm mọi cách để được sống và sống như một con người.
Cùng với đó là niềm khao khát sống của bà cụ Tứ. Dù lo lắng cho các con, dù
xót xa cho cái khổ nhưng bà cụ vẫn nén lòng mình lại động viên an ủi các con
và cũng là động viên chính mình “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà cũng chủ
động gây dựng cuộc sống cho mình và các con. Bản thân bà cụ đã thay đổi hoàn
toàn: khác với dáng đi lòm khòm và khuôn mặt u ám hàng ngày bà cụ ra vào
nhamh nhẹn rạng rỡ hẳn lên, bà nói chuyện vui, bắt tay dọn nhà cửa. Tất cả thay
đổi của bà cụ đều xuất phát từ tình yêu thương và khát vọng sống.
Qua việc tái hiện bức tranh nghèo đói của con người cùng thế giới nội tâm nhân
vật, nhà văn tố cáo xã hội thực dân chèn ép, vùi dập con người đồng thời hướng
con người tới hướng đi đúng đắn: đến với cách mạng. Điều đó thể hiện qua suy
nghĩ nhạy bén của người vợ nhặt hướng về ánh sáng: “Trên mạn Thái Nguyên,
Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho
thóc của Nhật, chia cho người đói nữa”. Hình ảnh kết thúc tác phẩm: “Trong óc
Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” như lời cảnh tỉnh của
nhà văn về con đường mà người nông dân cần đi: con đường cách mạng.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” để lại những rung cảm trong lòng bạn đọc không chỉ bởi
niềm cảm thương, khao khát bình dị của con người mà còn bởi nghệ thuật độc
đáo. Nhà văn sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị mang đậm màu sắc của đồng
bằng trung du bắc bộ cùng cách xưng hô thân mật “u – tôi”, gọi vợ là “nhà tôi”
gợi lên không khí miền trung du với cuộc sống nghèo khó dân dã. Bên cạnh đó
là nghệ thuật xây dựng cốt truyện, tình huống hấp dẫn lôi cuốn bạn đọc ngay từ
nhan đề. Qua đó tác phẩm đã thể hiện khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc
cùng niềm tin vào tương lai tươi sáng của con người trong nạn đói.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài số 10
Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân.
Người nông dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng
ngời những phẩm chất: yêu đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt
là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông khi viết về người nông dân.
Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện
“Con chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”
– được viết ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công. Tuy nhiên chỉ được
viết dở dang và sau đó mất bản thảo. Đến năm 1954, khi hòa bình lập lại, nhân
một số báo văn nghệ kỉ niệm cách mạng tháng Tám thành công, Kim Lân đã
nhớ lại tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, dựa trên cốt truyện cũ viết lại thành truyện
ngắn. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn trong giới sáng tác.
Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng
khiếp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn lan, khủng khiếp
diễn ra ở khắp nơi khiến con người không thể nào chống cự được, tất cả những
yếu tố đó đã được Kim Lân tái hiện thành công trong tác phẩm của ông. Trước
hết là màu sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt của
đàn quạ bay trên trời. Những màu sắc gợi lên sự chết chóc, ảm đạm, tàn lụi và
héo úa. Bao quanh không gian đó là mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của
xác người, mùi đốt đống dấm khét lẹt. Kết hợp với tiếng quạ kêu từng hồi, hòa
lẫn với tiếng khóc hờ từ những gia đình có người chết.
Để làm rõ nét hơn, Kim Lân còn cho người đọc thấy hình ảnh sáng nào cũng có
ba bốn thây người nằm chết còng queo bên đường. Tình cảnh vô cùng thảm
thương, bất hạnh. Kim Lân nhìn nhận hiện thực bằng cái nhìn chân thực, sắc nét,
không né tránh, phơi bày tất cả trên trang văn của mình, để người đọc thấy rõ
cái khủng khiếp của nạn đói năm 1945. Nhưng giá trị thật sự của tác phẩm là ở
chỗ: từ trong bóng tối của cái đói, cái chết, tác giả tìm thấy ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn con người.
Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên
truyện xuất hiện, đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu
Tràng. Tràng vốn là dân ngụ cư, sống tha phương cầu thực, những người dân
ngụ cư thường bị phân biệt, kì thị, sống ở rìa làng, chứ không được sống trong
trung tâm của làng như những người khác. Không chỉ vậy, họ còn không được
chia ruộng đất, không được tham gia bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng đồng nào
của làng xã. Anh cu Tràng bị đặt ra ngoài lề xã hội. Không dừng lại ở đó, gia
đình Tràng còn rất nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ con nương tựa vào nhau, vì
không được chia ruộng nên Tràng phải làm công việc bấp bênh để kiếm sống: kéo xe bò thuê.
Dường như số phận càng trở nên trớ trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, là người
ngụ cự, anh Tràng còn có ngoại hình hết sức xấu xí. Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm
vào bóng chiều, còn hai bên quai hàm bạnh ra, khiến khuôn mặt càng to lớn hơn.
Thân hình to lớn vập vạp, như một người khổng lồ. Tràng còn vừa đi vừa lảm
nhảm những điều mình nghĩ và cứ thể ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Anh cu
Tràng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp dẫn lũ trẻ con, còn với các cô gái anh hoàn toàn
không có chút hấp dẫn nào, cả về ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng không
có khả năng để lấy được vợ.
Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy
được vợ một cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân
ta thường có những câu hò để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh
cu Tràng cũng vậy, anh cũng hát, lời hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng
với giò. Lại đây mà đẩy xe bò với anh”. Lời nói ấy đã khiến thị theo anh cu Tràng về làm vợ thật.
Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng
con mới, dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng
trong nhà. Anh cu Tràng từ một kẻ thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình
và cười hềnh hệch, hôm nay bỗng trở nên tâm lí và tinh tế lạ thường. Trên
đường đi về Tràng vui sướng, hớn hở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn
mặt vừa hạnh phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống
cực khổ ê chề hàng ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm
hạnh phúc khi lấy được vợ.
Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu, xấu hổ, đứng tây ngây giữa nhà,
chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã trở
thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt
nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi
phần ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm
lí, nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã
đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lí, suy nghĩ của anh cu Tràng.
Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ông trong gia đình. Sáng
hôm sau, Tràng tỉnh dậy muộn, cảm thấy trong người dễ chịu, êm ái, như người
đi ra từ trong giấc mơ, anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ.
Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng
thay đổi mới mẻ, khác lạ, nhà cửa không bừa bộn mà được dọn dẹp sạch sẽ,
không khí gia đình trở nên ấm áp, vui vẻ, mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén
nhà cửa. Trành thấy thấm thía, cảm động và bỗng thấy yêu thương những người
xung quanh, đồng thời nhận thấy trách nhiệm của bản thân, phải biết lo lắng cho
gia đình, vợ con. Và sự ý thức đó đã được hiện thực hóa bằng hành động xăm
xăm chạy ra sân, muốn chung tay tu sửa căn nhà.
Tràng muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình.
Đồng thời trong Tràng cũng bừng lên khát vọng đổi đời mãnh liệt, anh biết quan
tâm đến những chuyện ngoài xã hội: mạn Thái Nguyên Bắc Giang không đóng
thuế mà còn phá kho thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh đám người đói và
lá cờ đỏ bay phấp phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng. Hình ảnh lá cờ
chính là tín hiệu cho tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo
Việt Minh, theo cách mạng.
Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của
nhân dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó còn là sự cảm thương cho
số phận họ. Trân trọng, phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam
trong tình cảnh khốn cùng: tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng
vào tương lai. Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến
nhân vật người vợ nhặt. Người vợ nhặt không có lai lịch rõ ràng, không rõ tên
tuổi, quê quán, nghề nghiệp và cũng không hề có tài sản gì khi lần đầu gặp
Tràng. Có thể thấy rằng, trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa.
Lần thứ hai gặp Tràng, quần áo thị rác rưới, tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp đi
vì đói, mặt lưỡi cày xám ngoét, ngực gầy và lép, hai con mắt sâu trũng hoáy lại.
Ngoại hình thị vô cùng thảm hại, do cái đói đã gây ra cho con người. Ngôn ngữ
của thị cũng hết sức chao chát, chỏng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật
nhá”, “Hà, ngon. Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”,
“liếc mắt cười tít”, “sầm sập chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu
ăn”, “ăn xong lấy đũa quẹt một cái”. Thị tỏ ra là con người hết sức vô duyên,
dường như cái đói, cái chết có thể mài mòn nhân cách con người ta ghê gớm đến như vậy.
Nhưng đằng sau sự chỏng lỏn đến vô duyên ấy lại là một con người có khát
vọng sống vô cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành
động, cử chỉ trơ trẽn, vô duyên của thị lại là biểu hiện của khát vọng sống mãnh
liệt. Bên cạnh đó, thị còn hiện lên với vẻ đẹp nữ tính, trên đường về nhà, thị rón
rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách tả tơi
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi về đến nhà chồng, thấy quang cảnh
nhà chồng thị nén tiếng thở dài, ngồi mớn ở mép giường và vô cùng lễ phép khi
gặp mẹ chồng. Sáng hôm sau cô dậy sớm cùng mẹ dọn dẹp, vun vén nhà cửa.
Nhân vật thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Cuối cùng là nhân vật bà cụ Tứ, dù chỉ thấp thoáng trong tác phẩm, nhưng cũng
có vai trò, ý nghĩa quan trọng. Bà là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực: dân ngụ
cư tha phương cầu thực; chồng và con gái mất sớm. Cả đời lận đận, chỉ có tâm
nguyện lớn nhất là lấy vợ cho con nhưng mãi không dành dụm được tiền, trong
lúc nghèo đói đến cùng cực người con trai lại nhặt được vợ. Nhìn thấy con đưa
vợ về, bà nín lặng cúi đầu, băn khoăn, nhưng vẫn rất vui mừng cho đôi trẻ. Bà
dặn dò hai vợ chồng mới, nói những chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến niềm tin,
sự lạc quan cho chúng. Bà là một người mẹ nhân hậu và hết sức yêu thương con.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học
hiện thực. Tác phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo khổ của nhân dân,
đồng thời ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng,
nâng niu những ước mơ đổi đời của con người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng
cho thấy nghệ thuật phân tích tâm lí và miêu tả bậc thầy của nhà văn Kim Lân.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài số 11
Người ta vẫn thường nói rằng tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần của mỗi
nhà văn. Dù cùng một đề tài những mỗi nhà văn có những cách khai thác hiện
thực khác nhau. Đó chính là điểm làm nên phong cách của mỗi tác giả. Là một
nhà văn hiện thực xuất sắc, Kim Lân được biết đến không chỉ là tác phẩm Làng,
mà còn rất nhiều tác phẩm khác, nổi bật nhất chính là Vợ nhặt. Tác phẩm thể
hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của Kim Lân với những con người nghèo khổ.
Đọc Vợ nhặt ta được tiếp cận với biết bao thân phận tăm tối, cuộc đời họ đã bị
đẩy đến bước đường cùng. Nhân hình của Tràng, người vợ nhặt, bà mẹ đều méo
mó trước sức hủy diệt khủng khiếp của cái đói. Là sự thiếu thốn về vật chất đến
cùng cực. Nhưng chính từ nơi tối tăm, thiếu thốn nhất ấy, lại bừng lên tình
người, tình yêu thương con người mãnh liệt của những người cùng cảnh ngộ.
Nhân đạo chính là ở chỗ đó.
Bước chân vào tác phẩm, cái đói được tác giả khắc họa vô cùng rõ nét. Sự sống
của những con người, đặc biệt là xóm ngụ cư dường như ngàn cân treo sợi tóc,
thần chết sẵn sàng đến đưa họ đi bất cứ lúc nào. Cõi dương nhưng lúc nào cũng
lởn vởn âm khí, cái chết hiện hình ngay bên cạnh những người đang còn sống.
Nhưng giữa nạn đói khủng khiếp đó, anh Tràng lại vẫn rất lạc quan, sự sống đối
với anh “chẳng bao giờ là chán nản”. Tràng được tác giả phác họa là chàng trai
thô kệch, xấu xí “hai con mắt nhỏ tí” “lưng to như lưng gấu” tình tình lại không
được khôn ngoan, hay nói nhảm, nói một mình, đôi khi tự ngửa cổ lên trời mà
cười hềnh hệch. Không chỉ vậy, xuất thân của anh ta cũng rất đáng buồn, là dân
xóm ngụ cư, cảng được ai chú tâm, coi trọng. Quả thực anh cu Tràng đã là tận
cùng của sự khổ sở và đau đớn.
Nhưng điều bất ngờ nhất chính là sự kiện chàng có vợ. Một cô vợ được nhặt về.
Càng lạ hơn là trong thời buổi, lo cho mình còn chưa xong, mà Tràng lại sẵn
sang đèo bòng thêm một người phụ nữ, thêm một miếng ăn cho chính mình.
Liệu đây có phải là một phút bồng bột nhất thời của người đàn ông này hay
không? Nhưng đó quả thực không phải là một quyết định nhất thời, mà quyết
định đó xuất phát từ tình yêu thương, từ khát khao hạnh phúc rất đỗi bình
thường của mỗi con người. Khi nhìn thấy người vợ nhặt, một kẻ tứ cố vô thân,
gầy đen như sắp chết, một con người thiện lương như Tràng chắc chắn sẽ không
thẻ làm ngờ. Chỉ bằng bốn bát bánh đúc cũng đã đủ se nên mối duyên trăm năm
tình nghĩa vợ chồng. Có gì đó như là chua xót, như là thương cảm cho cuộc hôn
nhân của những con người cùng khổ này. Dựng nên một tình thế éo le như vật
dường như nhà văn đã đánh cược với tất cả, để khẳng định, để tin tưởng vào
tấm long nhân đạo, nhân văn ẩn sâu trong mỗi con người.
Cái đói, cái chết cũng không thể hủy diệt khát khao hạnh phúc, khát khao có
một mái ấm gia đình trong lòng Tràng. Không chỉ vậy, với mái ấm này đã khiến
Tràng thay đổi hoàn toàn. Đó là cảm giác sung sướng, hạnh phúc, lâng lâng “tựa
hồ như có ai vuốt nhẹ vào sống lưng”. Hạnh phúc của con người thật bình dị và
đơn sơ, nó có sức mạnh cải hóa con người, giúp con người ta sau một đêm tân
hôn tuyệt vời có thể thay đổi theo hướng tích cực đến như vậy: “Trong phút
chốc Tràng quên tất cả cảnh sống ê chề, tủi nhục”. Nhìn thấy ngôi nhà gon ghẽ,
thấy người vợ quét tước dọn dẹp, lại bừng lại trong Tràng khát vọng vun vén
cho gia đình. Cuộc sống, chao ôi sao mà dễ thương, yên ấm đến như vậy. Mặc
dù ngay sau đó hiện thực lại ấp thẳng xuống họ, với bữa cơm ngày đói vô cùng
thảm hại, nhưng ai cũng thấy ngon, vì trong họ trào dâng niềm hạnh phúc, khát
vọng về tương lai tốt đẹp.
Đọc tác phẩm này ta không thể không chú ý đến nhân vật bà cụ Tứ, một bà mẹ
khốn khổ, yêu thương con hết mực, bà chính là hình ảnh phản chiếu tiêu biểu
cho những bà mẹ Việt Nam. Nhìn thấy anh con mang một người đàn bà về nhà,
bà vừa lo lắng, vừa sợ hãi. Nhưng sau khi biết sự tình, bà cảm thông và chúc
phúc cho hai người, rồi bà còn tự trách mình không làm tròn trách nhiệm của
một người mẹ. Có người mẹ nào lại không muốn con mình, yên ấm, hanh phúc.
Nhưng vì hoàn cảnh mà chẳng thể cưới được vợ một cách tử tế cho con. Chính
bà cũng tự hiểu: ôi, người ra dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên
làm nổi, những mong có con đàn cháu đống… con còn mình lúc đói kém mới
có được vợ … chúng mày lấy nhau u cũng mừng lòng”. Bà không chỉ thương
con trai mà thương cả người con dâu kia. Chúng quả là những đứa trẻ đáng
thương. Nhưng trong bà cũng không thối dấy lên hi vọng “không ai giàu ba họ,
không ai khó ba đời”. Rồi ba còn vạch ra những viễn cảnh tương lai đẹp đẽ cho đôi vợ chồng trẻ.
Nhân đạo trong tác phẩm Kim Lân cũng thật đặc biệt. Ông đẩy mỗi nhân vật
đến tận cùng của khổ sở, để rồi sau đó mở ra con đường, tương lai cho họ. Hình
ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện cuối tác phẩm, đã mở ra một tương lai tươi sáng,
giải thoát cuộc đời của những con người dưới đáy xã hội. Giá trị nhân đạo của
tác phẩm được thể hiện rõ nét nhất ở chia tiết này.
Những dòng văn cuối cùng đã kết đọng tinh thần nhân đạo sâu sắc của nhà văn
Kim Lân. Ông trân trọng, yêu thương từng cá nhân, từng số phận. Đồng thời ta
cũng thấy được nghệ thuật miêu tả, và tạo dựng tình huống bậc thầy của nhà văn này.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài làm 12
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam có bí quyết viết chân chất, mộc mạc
và các hình ảnh nhân vật tiêu biểu cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào
lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình.
Tác phẩm “Vợ nhặt” là 1 “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái tạo
thành công xã hội nghèo khổ, khốn cùng, bế tắc của người nông dân. Bằng văn
pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc
sống bần cộng giai đoạn đấy.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân xây dựng thương hiệu trong quá trình
quốc gia đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống dân chúng bần cùng, kẻ sống
người chết nham nhảm, ”người chết như nga ra, không buổi sáng nào người
trong làng đi chợ, đi làm ruộng không gặp ba bốn mẫu thây nằm còng queo bên
tuyến phố. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác
người”. Quang cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn đạt được chiếc đói đang hoành hành,
đời sống quần chúng thê thảm.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống
của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình
huống truyện thắt nút khiến cho nên cuộc thế của từng nhân vật.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn
bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa mủm mỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…”
Chỉ sở hữu vài chi tiết ấy, người đọc cũng đã tưởng tượng được diện mạo xấu xí
của một anh nông dân nghèo rách mồng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám
con trẻ không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Quang cảnh
buồn thiu, đầy sợ hãi bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, nghĩ
suy của Tràng được tái tạo “hắn bước đi từng bước mỏi mệt, chiếc ao nâu tàng
vắt sang 1 bên cánh tay. Tuồng như các lo lắng, cực nhọc đè nặng lên dòng lưng gấu của hắn”.
Với vài chi tiết điển hình, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh
người dân cày nghèo đói, tả tơi, bộn bề lo lâu đến cơ cực. Tác giả đã thật khéo
để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi thế cục của
một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ chẳng
hề lấy được. Người đọc trông thấy sự thê thảm, bước trục đường cộng và đầy éo
léo của con người trong xã hội bấy giờ.
Hình anh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn
đầy khiếp sợ “ thị cắp loại thúng con, đầu hơi cúi xuống, chiếc nón rách tàng
nghiêng nghiêng che mệnh chung đi nửa mặt. Thị với vẻ rén,e thẹn”. Một người
đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo
khổ, cơ cực đúng là một đôi trời sinh.
Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã vun đắp nên khung cảnh
quạnh hiu, ảm đảm của xóm nghèo “từng trận gió trong khoảng cánh đồng thổi
vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối mịt, không nhà nào mang ánh đèn,
lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng các người đói dật dờ di chuyển lặng thầm
như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên
từng hồi thê thiết”. Không còn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn
nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ tuồng như bị mẫu đói, cài nghèo đè nén đếm
chìm nghỉm. Bằng ngòi bút tả chân sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người
đọc đa dạng đau xót, đắng cay cho các phận nghèo lận đận.
Điều đáng chú ý chính là cách thức các người láng giềng hỏi thăm Tràng về
người đàn bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng
hiểu ra, có nhẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người nữ giới
bắt không còn ngoa ngoắt, đanh đá nữa mà phát triển thành thẹn hậu sự lúc
quyết định theo Tràng về làm vợ. Làm vợ một cách bất thần, giữa cảnh đói như
ngả rạ. Có lẽ cái đói nghèo đã đẩy hai con người đến có nhau, chẳng hề ái tình
nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ thông cảm và xót thương cho các mảnh
đời dật dờ nơi xóm cư ngụ.
Lúc trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến
và sự chuyển đổi trong tâm tinh thật tài giỏi và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn
tấm lòng 1 người mẹ bao dung và nhân từ. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước
theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người nữ giới ở
trong…” Sự băn khoăn lo âu của bà cụ bắt đầu hiển lên. Nhưng rồi bà cũng
nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín im, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo
khổ đấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con
mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong khi khiến ăn nên nổi,
còn mình…” các suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một
loạt động từ tình thái làm cho loại khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.
Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Cảnh huống làm người đọc nhớ
mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc tới tác phẩm này đều không quên là
hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu dầu tiên. Hình ảnh “nồi
cháo cám” là hiện thân của mẫu nghèo đói đến cơ cực trong một gia đình
“không còn gì trị giá nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn kể các
chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa mẫu
nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của
người mẹ nghèo. Người nào cũng muốn sở hữu một bữa cơm đón dâu với mâm
cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là
thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà sở hữu thể đem đến cho con.
Đây là một chi tiết hết sức đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
làm cho người đọc nhớ mãi. Ngoài ra hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của
cuối truyện ngắn đã đem đến chút niềm tin và hi vẳng về một tương lai tươi
sáng hơn. Bằng ngòi bút mô tả trung thực, sinh động, cách thức khắc họa tâm lý
nhân vật sắc sảo, độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt
người đọc khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945.
Qua ấy tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người có người luôn bạt mạng.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài làm 13
“Vợ nhặt” là tác phẩm ưu tú của nhà văn Kim Lân, viết về cuộc sống nghèo đói,
khổ cực và khát vọng về hạnh phúc tương lai tươi sáng của người nông dân Việt
Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Qua đây tác giả cũng bày tỏ sự cảm
thông với những số phận bất hạnh của những con người đói khổ trong thời
chiến và yêu thương, quý trọng đối với những ao ước giản dị của họ, từ đó tạo
nên sự đồng cảm và suy nghĩ trong lòng người đọc.
Ngay từ nhan đề “Vợ nhặt”, tác phẩm đã gợi lên sự tò mò và từ đó dẫn dắt
người đọc khám phá về cuộc sống của những con người đói khổ, bần hàn nhất.
Chuyện dựng vợ gả chồng vốn là một chuyện hệ trọng của cả một đời người,
chính vì thế việc này cần được xem xét kĩ lưỡng vậy mà ở đây lại là “vợ nhặt”.
Cưới vợ mà lại gọi là nhặt vợ được sao? Một con người được “nhặt” về rồi trở
thành vợ gợi cho người ta liên tưởng đến việc nhặt một món đồ, như thể một thứ
gì đó được lượm lặt một cách vô tình và ngẫu nhiên từ ngoài đường. Chỉ riêng
nhan đề tác phẩm mà tác giả cũng đã để lại sự ám ảnh đối với người đọc. Điều
gì đã khiến cho con người ta trở nên rẻ rúm như vậy? Kim Lân chính là đã
mượn chuyện nhặt vợ để nói lên một vấn đề khác. Đó chính là cái đói, cái nghèo
của người nông dân trước Cách mạng. Khi đó, chính cái đói nghèo đã khiến cho
con người lâm vào tình cảnh đáng thương đến như vậy.
Nhan đề cũng đã một phần hé lộ tình huống truyện độc đáo. “Vợ nhặt” chứ
không phải cưới xin đình đám gì. Hẳn là một con người mà chẳng khác nào một
món đồ vứt chỏng chơ ngoài đường và vô tình có người “nhặt” về. Mà đúng thế
thật. Anh cu Tràng chỉ với vài câu “tầm phơ tầm phào” mà có người phụ nũ
theo về làm vợ. Khốn nỗi anh ta có bảnh bao, hấp dẫn gì: vừa xấu trai, vừa dở
hơi, lại vừa là dân ngụ cư nghèo kiết xơ kiết xác. Vậy mà Tràng lại có vợ. Tràng
cưới vợ, đúng hơn là nhặt được vợ giữa cái cảnh đói khát khốn cùng này. Tình
huống truyện thật đầy bất ngờ mà cười ra nước mắt. Qua tình huống này, các
nhân vật đều bộc lộ những tâm trạng, tính cách nổi bật, giúp người đọc hiểu rõ
hơn về nhân vật, về hoàn cảnh cũng như số phận của con người.
Nhà văn Kim Lân đã thật tài tình khi đi sâu phân tích tâm lý đan xen, phức tạp
của từng nhân vật trước tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Người trong xóm “xì
xào bàn tán”, người thì “cười lên rung rúc”, người lại lo giùm cho anh ta: “Ôi
chao! Giời đất này còn lôi cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau qua cái thì này không?”.
Mẹ Tràng, bà cụ Tứ, là người hiểu rõ tình cảnh của nhà mình, con mình nhất
cho nên càng khó tin Tràng có vợ. Thấy người đàn bà lạ đứng ở đầu giường con
mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: “Quái sao có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?
Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?” Cái ngạc nhiên, nghi vấn của bà cụ cũng
dễ hiểu bởi lẽ, nghèo như con trai bà thì ai thèm lấy. Vả lại trong cơn đói khát
thế này, nuôi thân còn chả nổi, lấy gì nuôi vợ nuôi con?
Khi đã hiểu đã ra vấn đề thì “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ rỉ xuống hai
dòng nước mắt”. Trong lòng người mẹ nghèo hiểu ra biết bao nhiêu là cơ sự. Bà
mừng vì con trai bà dù sao cũng đã có vợ, nhưng buồn tủi vì “người ta có gặp
bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình cũng mới có vợ được..”.
Đối với Tràng, bản thân anh cũng rất lấy làm lạ. Nhìn vợ ngồi ngay giữa nhà,
anh “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế”. Lòng người mẹ lo nghĩ bao nhiêu
thì anh cu Tràng lại vô tư bấy nhiêu. Mới đầu cũng “chợn” nghĩ nhưng rồi anh
chặc lưỡi “mặc kệ”. Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó,
“hắn lại lầy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình’. Việc có vợ
đối với Tràng đột ngột và hạnh phúc tới mức đến sáng hôm sau anh vẫn còn
thấy “trong người êm ái lơ lửng như người ở trong giấc mơ đi ra”.
Trái ngược với tâm trạng hân hoan của Tràng, lo lắng của bà mẹ thì có lẽ người
phụ nữ làm vợ Tràng lại cảm thấy buồn tủi nhất. Lấy chồng là chuyện thiêng
liêng, là trao gửi cả cuộc đời của mình cho một người đàn ông mà mình tin
tưởng. Vậy mà ở đây thị nào có biết Tràng tốt xấu ra sao. Chỉ một câu hò bâng
quơ và bốn bát bánh đúc là “đủ tin tưởng” để theo về nhà người ta. Cái đói đã
đẩy con người ta đến chỗ chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự trọng,
nhận ra mình không hơn gì rơm rác cọng cỏ mà người ta có thể lượm nhặt vu vơ
nơi đầu đường xó chợ. Thế nhưng buổi sáng hôm sau, khi Tràng nhìn thấy thì
chị ta đã trở thành một người vợ hiền, một cô dâu thảo, khác hẳn với cái vẻ chao
chát hôm đầu tiên Tràng gặp.
Đi sâu vào tâm lý của từng nhân vật, Kim Lân đã cho người đọc thấy một bức
tranh hiện thực sống động trong nạn đói 1945. Ở đó, con người ta chỉ toàn là
nghèo khổ, tối tăm nhưng lại ngời sáng lên phẩm chất tốt đẹp. Hành động cưu
mang người phụ nữ nghèo đói hơn mình đã cho thấy Tràng là một người hào
phóng và nhân hậu. Mẹ Tràng cũng vừa mừng vừa tủi chấp nhận nàng dâu mới,
không những thế bà còn góp thêm câu chuyện bằng những niềm hy vọng về
tương lai tươi sáng để xua đi nỗi tăm tối của đói nghèo đang vây bủa.
“Vợ nhặt” đã làm sáng lên trên cái nền đen tối ảm đạm ấy sức sống, khát vọng
về mái ấm gia đình và sự nương tựa, che chở cho nhau của những người lao
động nghèo khổ, sáng lên niềm hy vọng của họ về một tương lai tốt đẹp hơn.
Tràng đã nhận thấy mình gắn bó với căn nhà, thấy mình “có bổn phận phải lo
cho vợ con sau này” và nghĩ đến một tương lai “cùng vợ sinh con đẻ cái” rồi ăn
nên làm ra. Bà cụ Tứ cũng “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt
bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà còn tính “khi nào có tiền ta mua lấy
đôi gà. […] ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho xem”. Ánh
sáng của hơi ấm hạnh phúc gia đình giữa lúc nạn đói hoành hành, giữa nồi cháo
cám đắng chát nhưng nó vẫn làm cho thị cảm thấy vui vẻ và hiền dịu hơn. Từ
đây, thị sẽ cùng chồng chăm lo, vun vén cho gia đình những mong một ngày số
phận sẽ mỉm cười rộng lượng hơn.
Viết về nạn đói năm 1945, khắc họa thực tế cảnh người chết đói như ngả rạ, thế
nhưng Kim Lân không đi vào những cảnh thương tâm như thế mà qua sự việc
anh cu Tràng nhặt được vợ để làm nổi bật tinh thần nhân đạo, nhân văn cao cả.
Vượt lên trên tất cả những lo lắng, tủi hờn là niềm hạnh phúc và tình yêu
thương của con người bừng sáng. Với truyện ngắn này, Kim Lân đã bày tỏ sự
yêu quý sâu sắc đối với những người nghèo khổ nhưng giàu lòng nhân ái. Tác
phẩm đã khẳng định rằng: cái đói khát, chết chóc không thể giết chết được niềm
tin vào cuộc sống. Ở nơi tối tăm nhất, nghèo đói nhất thì con người ta vẫn biết
cách nương tựa vào nhau mà vượt qua để hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài làm 14
Kim Lân là một trong số những nhà văn xuất sắc viết về nông thôn và nông dân
Việt Nam trong nền văn học hiện đại với những tác phẩm độc đáo tỏng cách xây
dựng tình huống truyện, cách xây dựng và miêu tả nhân vật. Và có thể nói,
truyện ngắn Vợ nhặt – rút từ tập Con chó xấu xí là một truyện ngắn tiêu biểu
cho phong cách sáng tác của ông.
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân hấp dẫn bạn đọc ngay từ nhan đề tác phẩm
và cách nhà văn xây dựng tình huống truyện. Chắc hẳn, mỗi người trong chúng
ta ai cũng sẽ tò mò khi nghe thấy nhan đề “Vợ nhặt” nhưng chính nhan đề ấy đã
gợi lên thật nhiều điều đáng suy ngẫm. Chính nhan đề ấy đã phần nào gợi lên
thân phận rẻ rúng, đáng thương của những con người trong nạn đói năm 1945.
Đồng thời, nhan đề ấy cũng đã phần nào hé mở tình huống truyện độc đáo của
tác phẩm và góp phần to lớn vào việc thể hiện giá trị hiện thực sâu sắc ở thiên
truyện. Không chỉ độc đáo ở nhan đề, Vợ nhặt còn xây dựng thành công một
tình huống truyện mới lạ, độc đáo và giàu ý nghĩa. Kim Lân đã thật sự thành
công khi xây dựng tình huống truyện – Tràng – một người dân xóm ngụ cư, với
ngoại hình xấu xí lại “nhặt được vợ” ngay trong chính nạn đói khủng khiếp năm
1945. Đó là một tình huống truyện mới lạ, bất ngờ nhưng cũng đầy éo le gây
nên sự ngạc nhiên cho biết bao người nhưng cũng chính tình huống ấy đã góp
phần không nhỏ vào việc thể hiện giá trị hiện thực của tác phẩm – sự rẻ rúng,
bèo bọt của thân phận con người ngay trong nạn đói.
Không chỉ thành công trong việc lựa chọn nhan đề và tạo dựng tình huống, Vợ
nhặt của Kim Lân còn hấp dẫn bạn đọc trong cách xây dựng nhân vật và chắc
hẳn, những ai đã đọc tác phẩm này sẽ không thể nào quên nổi nhân vật Tràng.
Không đi sâu miêu tả ngoại hình của nhân vật nhưng Kim Lân đã có những nét
vẽ đủ để chúng ta nhận thấy Tràng là một chàng trai ngụ cư xấu xí với“dáng
người thô kệch, cái cười khềnh khệch”, “lưng Tràng như con gấu”, “quai hàm
bạnh ra”. Có lẽ ở Tràng hội tụ đầy đủ những yếu tố để ế vợ, ấy vậy mà ai ngờ
đâu chính trong cái nạn đói khủng khiếp năm 1945 Tràng lại được một người
phụ nữ theo không về nhà làm vợ. Và cũng chính sự kiến ấy đã làm cho những
dòng cảm xúc của Tràng có sự thay đổi theo thời gian. Tràng và thị quen nhau
thật tình cờ, chỉ vài ba câu hò vui ấy vậy mà thị theo Tràng về nhà thật “Làm
đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ đằng ấy có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi
cùng về”. Thị theo về nhà, trong lòng Tràng chắc hẳn có niềm hạnh phúc đang
len lỏi nhưng rồi cũng có lúc Tràng lo sợ, hắn “chợn nghĩ” nhưng rồi Tràng lại
“tặc lưỡi: chậc kệ”. Cái tặc lưỡi ấy của Tràng không phải là cái tặc lưỡi của kẻ
bất lực, muốn buông xuôi tất cả mà Tràng chậc lưỡi bởi với Tràng trong giờ
phút này đây mọi niềm vui và khát vọng hạnh phúc đã lấn át và lớn hơn tất cả.
Và để rồi, trên đường đưa vợ về nhà, niềm hạnh phúc, vui sướng ấy của Tràng
như càng nhân lên gấp bội và phát lộ rõ rệt ra dáng vẻ bên ngoài của hắn ““vẻ
mặt có cái gì đó phớn phở”, “hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười nụ một mình”, “mắt
sáng lên lấp lánh”, “cái mặt vênh lên tự đặc với mình”. Nếu như, trên đường
đưa vợ về nhà trong Tràng ánh lên niềm hạnh phúc khôn nguôi, Tràng như đang
đắm chìm trong men say của hạnh phúc thì lúc về tới nhà Tràng lại ngượng
nghịu, “đứng tây ngây ra giữa nhà” rồi có cái gì đó lo lắng, có lẽ Tràng sợ mẹ
mình sẽ không đồng ý “nàng dâu mới”. Nhưng rồi, lời giới thiệu của Tràng với
mẹ mình về sự xuất hiện của thị “kìa nhà tôi nó chào u” – một lời giới thiệu
chan chứa bao nghĩa tình. Đặc biệt, tâm trạng của Tràng đã thực sự thay đổi
trong buổi sáng ngày hôm sau. Tràng thấy “êm ái lửng lơ như người trong cõi
mơ đi ra”, “cảm động, thấy yêu thương, gắn bó và thấy mình phải có trách
nhiệm với cái gia đình này” sau một đêm đắm mình trong tình yêu, hạnh phúc.
Và có lẽ chính sức mạnh của tình yêu, của hạnh phúc đã khiến Tràng thay đổi
và thêm yêu, thêm tin tưởng vào hạnh phúc gia đình và một tương lai tươi sáng hơn.
Cùng với nhân vật Tràng, tác giả Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật thị.
Nếu như khi xây dựng nhân vật Tràng, tác giả Kim Lân tập trung đi sâu khám
phá thế giới tâm trạng thì khi khắc họa nhân vật thị nhà văn lại làm bật nổi nhân
vật qua việc miêu tả ngoại hình và tâm trạng để từ đó làm bật nổi tính cách, tâm
trạng của thị. Chắc hẳn, những ai đã từng một lần đọc Vợ nhặt sẽ không thể nào
có thể quên được những chi tiết nhà văn Kim Lân miêu tả ngoại hình của thị
“khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, “áo quần rách như tổ đỉa”, “cái nóm cà tàng che
nửa khuôn mặt”, “cái ngực gầy tẹp lép nhô lên”. Ngoại hình ấy của thị có lẽ là
minh chứng rõ ràng nhất cho cái đói đang hoành hành. Và có lẽ cũng chính nạn
đói khủng khiếp ấy đã khiến thị có những hành động “chao chát”, “chỏng lỏn”
nhưng xét đến cùng đấy là chứng tích của cái đói. Đó là cái hành động thị đon
đả “ăn thật nhá…”, “sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc”, “ăn xong cầm
dọc đũa quệt ngang miệng “Hà! Ngon!”. Thế nhưng, khác với dáng vẻ bên
ngoài ấy, người đọc sẽ dễ dàng cảm nhận được sự tinh tế, ý tứ, e dè của thị
trong lúc theo Tràng về nhà làm vợ. Trên đường theo Tràng về nhà, thị có cái gì
đó ngượng nghịu đến nỗi “chân nọ bước díu cả chân kia”. Thêm vào đó, khi về
đến nhà, thị “nén tiếng thở dài, nhếch mép cười nhạt nhẽo”, “ngồi mớm ở mép
giường”,… Những hành động ấy của thị đã làm toát lên sự e dè, ý tứ ở người
phụ nữ có vẻ ngoài chao chát, chỏng lỏn tưởng chừng như có cái gì đấy vô
duyên. Đặc biệt, nét đẹp tâm hồn, sự ý tứ của thị được thể hiện rõ nét trong buổi
sáng hôm sau, thị “dậy sớm quét dọn nhà cửa, sân vườn, phơi quần áo, “trong
bữa sáng: nói nhỏ nhẹ, đúng mực, lễ phép”,… Như vậy, thị chính là sự hiện
thân cho cái đói, cái nghèo khổ trong những ngày khủng khiếp của nạn đói
những năm 1945. Nếu như cái đói làm cho người phụ nữ mất đi những nét đặc
trưng của họ thì chính tình yêu, hạnh phúc đã đem đến cho họ sức sống mới, để
được sống với con người thật của mình.
Thêm vào đó, trong tác phẩm, nhà văn Kim Lân còn xây dựng thành công nhân
vật bà cụ Tứ – điển hình cho người mẹ, người phụ nữ Việt Nam. Những chi tiết
nhà văn Kim Lân miêu tả ngoại hình của bà cụ Tứ đã gợi nên sự cơ cực, lam lũ
nơi người phụ nữ này. Đó là “dáng người lọng khọng”, “vừa đi vừa húng hắng
ho vừa lẩm bẩm tính toán”. Nhưng ở người mẹ ấy chúng ta cũng cảm nhận thấy
bao phẩm chất, bao nét đẹp tâm hồn qua những dòng xúc cảm của bà. Lúc vừa
về đến nhà, thấy sự xuất hiện của thị trong nhà của mình, bà có cái gì đấy ngạc
nhiên, “tỏ ý không hiểu”. Nhưng rồi, bà vỡ lẽ, bà nhận ra bao điều Bà lão cúi
đầu nín lặng, “bà hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương” và rồi
lòng người mẹ ấy cảm thấy thương con và thương cho chính mình, bà khóc –
giọt nước mắt của sự tủi thân, của sự tự trách. Nhưng lòng thương con, lòng
thương người đã khiến bài mở rộng vòng tay đón nhận nàng dâu mới. Và có lẽ
chính sự xuất hiện của thị đã đem đến cho bà một niềm vui, niềm hạnh phúc
khôn nguôi vào buổi sáng hôm sau. Sáng hôm sau, bà dậy sớm cùng nàng dâu
mới chăm bẵm vườn tược, chăm lo cho ngôi nhà của mình, “gương mặt bủm
beo, u ám ngày thường rạng rỡ hẳn lên”, trong bữa ăn sáng cả gia đình cùng
nhau nói toàn những chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Như vậy, bà cụ Tứ
là đại diện điển hình cho người phụ nữ Việt Nam dù cơ cực, lam lũ, nghèo khổ
nhưng vẫn luôn tràn đầy tình yêu thương và tinh thần lạc quan.
Tóm lại, truyện ngắn Vợ nhặt với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo,
nghệ thuật trần thuật linh hoạt và cách xây dựng, miêu tả nhân vật đã vẽ nên
bức tranh hiện thực về cuộc sống và số phận của người lao động trong nạn đói
khủng khiếp năm 1945. Đồng thời, tác phẩm cũng thể hiện rõ nét tấm lòng nhân
đạo của nhà văn Kim Lân – bài ca ngợi ca tình người và khẳng định những giá
trị, phẩm chất tốt đẹp của con người. -----------------------